Sơ đồ tư duy bài Đồng chí (năm 2023) dễ nhớ - Ngữ văn lớp 9

Tải xuống 10 10.3 K 15

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Đồng chí hay nhất, gồm 10 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Đồng chí Ngữ văn lớp 9.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Đồng chí dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 9:

ĐỒNG CHÍ

Bài giảng: Đồng chí

A. Sơ đồ tư duy bài thơ Đồng chí

Sơ đồ tư duy bài thơ Đồng chí dễ nhớ, ngắn gọn mới nhất

Sơ đồ tư duy bài thơ Đồng chí dễ nhớ, ngắn gọn mới nhất

B. Tìm hiểu bài thơ Đồng chí

I. Tác giả

- Chính Hữu tên khai sinh là Trần Đình Đắc, quê ở Hà Tĩnh.

- Từng tham gia kháng chiến chống Pháp và Mĩ.

- Làm thơ từ năm 1947. Thơ chuyên viết về người lính và chiến tranh, cô động, giàu cảm xúc. Ngôn ngữ, hình ảnh thơ được chắt lọc.

II. Tìm hiểu chung về tác phẩm

1. Thể loại, phương thức biểu đạt chính

Thể loại: Thơ tự do

Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm

2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác

Xuất xứ: Bài thơ , in trong “Đầu súng trăng treo” (1966).

Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được sáng tác năm 1948, sau khi tác giả cùng đơn vị tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc – Thu Đông năm 1947, tại nơi Chính Hữu phải nằm điều trị bệnh.

3. Chủ đề

- Người lính trong cuộc kháng chiếng chống Pháp

4. Bố cục: 3 phần

   + 7 câu đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí.

   + 10 dòng tiếp: Biểu hiện tình đồng chí

   + 3 dòng cuối: Biểu tượng giàu chất thơ về tình đồng chí.

5. Giá trị nội dung

- Bài thơ ngợi ca tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn giữa lửa đạn chiến tranh, đồng thời khắc họa những khó khăn thiếu thốn của cuộc kháng chiến trường kì, gian khổ.

6. Giá trị nghệ thuật

- Bài thơ thành công về nghệ thuật bởi thể thơ tự do linh hoạt, các chi tiết, hình ảnh được sử dụng mang tính tiêu biểu, chân thực, ngôn ngữ cô đọng, giản dị và giàu sức biểu cảm.

III. Dàn ý phân tích tác phẩm

1. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về đề tài chiến tranh, người lính trong thơ ca: Đây là đề tài quen thuộc đã đi vào thơ ca của rất nhiều các tác giả tiêu biểu.

- Khái lược nét riêng độc đáo của Chính Hữu và Đồng chí - một bài thơ viết theo đề tài người lính: Chính Hữu xuất hiện trên thi đàn với phong cách thơ bình dị. Bài thơ Đồng chí tuy vẫn đi vào đề tài người lính nhưng đã vượt qua tất cả những xáo mòn để mang đến những cảm xúc rất chân thực về tình đồng chí nơi trái tim.

2. Thân bài

a. 7 câu thơ đầu: Cơ sở hình thành tình đồng chí

- Cùng chung hoàn cảnh xuất thân, chung nghèo khó (2 câu đầu)

   + Xuất thân từ ngư dân miền biển (nước mặn đồng chua) và nông dân (đất cày lên sỏi đá)

   + Hoàn cảnh khó khăn, vất vả, nghèo khó

⇒ Sự tương đồng về cảnh ngộ xuất thân nghèo khó là cơ sở cho sự đồng cảm giai cấp của những người lính cách mạng.

- Cùng chung lí tưởng, mục đích chiến đấu

   + “Súng bên súng, đầu sát bên đầu” : Tình đồng chí nảy nở và bền chặt khi họ chia sẻ với nhau những khó khăn khi thực hiện nhiệm vụ.

   + “đêm rét chung chăn” -> chia sẻ những gian khó, thiếu thốn nơi chiến trường,

   + “tri kỉ” : người bạn tâm giao, hiểu rõ về nhau

   + Hai tiếng “Đồng chí!” là kết tinh của một tình cảm cách mạng cao đẹp: tình đồng chí.

b. 10 câu thơ tiếp: Những biểu hiện cụ thể vẻ đẹp và sức mạnh của tình đồng chí đồng đội

- Thấu hiểu tâm tư, nỗi lòng của nhau, biết rõ những tâm sự thầm kín.

   + Họ hiểu về hoàn cảnh ra đi của nhau: bỏ lại sau lưng những gì bình dị, thân thuộc nhất, những gì đã gắn bó với họ từ lúc chào đời: “ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa”.

   + Họ cùng nhau xác định lí tưởng: ra đi để bảo vệ những gì thân thương nhất, thái độ dứt khoát ra đi thể hiện quyết tâm chiến đấu

⇒ Tình cảm đồng chí thân thiết, họ chia sẻ với nhua những gì riêng tư, thân thuộc nhất của họ

- Cùng nhau chia sẻ những gian lao, thiếu thốn trong đời lính

   + Họ thương nhau khi phải trải qua những cơn sốt rét: “sốt run người”

   + Họ chia sẻ cho nhau, cùng nhau trải qua những thiếu thốn về vật chất trong cuộc sống hằng ngày: “Áo anh rách vai...không giày”:

   + Cùng gắn bó với nhau: “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”: họ nắm tay nhau để sẻ chia, truyền hơi ấm, để hi vọng, để quyết tâm ⇒ Cử chỉ cảm động chan chứa tình cảm chân thành

c. 3 câu cuối: Biểu tượng giàu chất thơ tình đồng chí

- Luôn sắt cánh bên nhau, chủ động thực hiện nhiệm vụ cao cả:

   + Hoàn cảnh: đêm, rừng hoang, sương muối ⇒ hoàn cảnh khắc nghiệt

   + “đứng cạnh bên nhau” : sát chánh chiến đấu, gắn bó không tách rời.

   + Sẵn sàng “chờ giặc tới ” -> chủ động

- Câu cuối “Đầu súng trăng treo” : hình ảnh thực trên chiến trường + biểu tượng đẹp, hình ảnh kết thúc đầy bất ngờ, độc đáo, điểm sáng của toàn bài, gợi liên tưởng thú vị. Biểu tượng:

   + “Súng” : biểu tượng của chiến tranh; chiến sĩ

   + “trăng” : biểu tượng cho thiên nhiên trong mát, cho hòa bình; thi sĩ

⇒ Sự hòa hợp giữa trăng và súng làm toát lên vẻ đẹp tâm hồn người lính, vừa nói lên ý nghĩa của việc họ cầm súng chiến đấu là bảo vệ cho cuộc sống thanh bình nơi quê hương ⇒ Tình đồng chí của họ càng thêm cao cả và ý nghĩa bội phần

3. Kết bài

- Khẳng định lại những nét tiêu biểu, đặc sắc về nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ Đồng chí: thể thơ tự do, ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực

- Bài thơ là lời tuyên bố chân thực nhất, bình dị nhất nhưng lại sâu sắc và thiêng liêng nhất về tình đồng chí đồng đội trong hoàn cảnh khó khăn tột cùng

IV. Bài phân tích

Chính Hữu là một nhà thơ trưởng thành trong cuộc khánh chiến chống Pháp. Ông thường viết về đề tài người lính và chiến tranh. Thơ ông không nhiều, nhưng có những bài đặc sắc, cảm xúc dồn nén, hình ảnh thơ chọn lọc. Tiêu biểu trong số đó là bài thơ “Đồng chí”, viết năm 1948, khi cuộc kháng chiến chống Pháp đang diễn ra ác liệt. Bài thơ đã khắc họa thành công hình tượng người lính cách mạng, đồng thời ca ngợi tình đồng chí gắn bó keo sơn trong những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Với giọng giản dị, nhẹ nhàng, ngay từ đầu bài thơ Chính Hữu nói về cơ sở hình thành tình đồng chí. Họ được gặp nhau ở nơi chiến trường bởi họ có chung hoàn cảnh xuất thân.

Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nha

Tác giả sử dụng cấu trúc thơ song hành và vận dụng thành ngữ để giới thiệu cho chúng ta biết về nguồn gốc xuất thân của những người lính. Đó là vùng đất nghèo khó ven biển: “Nước mặn đồng chua” và miền trung du nghèo khó “đất cày lên sỏi đá”. Giọng thơ thủ thỉ tâm tình, gợi hình ảnh hai người lính đang kể chuyện cho nhau nghe về cái nghèo khó của quê hương mình. Mượn hình ảnh “anh và tôi” tác giả nhấn mạnh dù ở địa giới nào thì họ cũng có cùng chung xuất thân từ mảnh đất nghèo khó vất vả. Chính lý do đó khiến họ dễ đồng cảm sẻ chia với nhau hơn.

Những người lính ấy gặp nhau ở đây còn vì họ có chung mục đích lý tưởng chiến đấu:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu”

Chính vì Tổ quốc đang vẫy gọi nên họ sẵn sàng cầm súng lên để chiến đấu vì nhân dân, vì đất nước. Bằng phép tu từ hoán dụ và điệp ngữ trong câu thơ: “súng bên súng đầu sát bên đầu” nhà thơ đã mang lại cho câu thơ hai ý nghĩa, vừa mang ý nghĩa tả thực lại có tính biểu tượng. Câu thơ như gợi ra cho người đọc hình ảnh hai người lính đang trong tư thế sẵn sàng chờ giặc tới. Họ luôn sát cánh bên nhau trọng mọi khó khăn nguy hiểm. Nhiệm vụ chiến đấu của những người lính là đánh đuổi quân xâm lược, để đất nước độc lập tự do. Những người lính ấy trung thành đi theo con đường cách mạng mà Bác đã chọn.

Không chỉ vậy, họ còn chung cả những khó khăn gian khổ:

“Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ”

Cái rét của núi rừng Việt Bắc là cái rét cắt da, cắt thịt, nhưng do nước ta còn nghèo nên những anh bộ đội cũng không được trang bị đầy đủ quân tư trang. Đó là khó khăn chung của người chiến sĩ cách mạng thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Và chính cái sự khó khăn đó như một cái cớ để những người lính sát lại gần nhau hơn. Chính Hữu thật khéo léo khi sử dụng từ “đôi” để diễn tả sự gắn bó, không thể tách rời của những người đồng chí. Càng khó khăn gian khổ, họ càng gắn bó keo sơn, để rồi trở thành "tri kỉ" của nhau. Họ thấu hiểu nhau, thân thiết như anh em một nhà. Những chiếc chăn kia có thể thô sơ mỏng manh nhưng lại vô cùng ấm áp bởi tình yêu thương, sự sẻ chia giữa những người đồng đội. Để rồi tựu chung lại những tình cảm quý giá đó họ gọi nhau bằng cái tên “Đồng chí!”. Câu thơ được cấu tạo vô cùng độc đáo chỉ có một từ gồm hai tiếng đi liền với dấu chấm cảm. Đó như một lời khẳng định đây là tình cảm thiêng liêng cao đẹp. Câu thơ ấy cũng chính là bản lề của hai đoạn thơ, khép lại cơ sở hình thành tình đồng chí và mở ra những biểu hiện cao đẹp của tình đồng chí.

Là đồng chí, đồng đội của nhau tức là họ cùng nhau chia sẻ thấu hiểu tâm tư nỗi lòng của nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Đối với những người nông dân chắc hẳn ruộng nương, gian nhà là tài sản quý giá nhất, là ước mơ cả đời của họ. Vậy mà những người lính ấy đã bỏ lại những thân thiết, quý giá sau lưng để lên đường cứu nước. Từ “mặc kệ” như một lời khẳng định ý chí quyết tâm của người lính, họ tạm gác lại việc cá nhân để thực hiện lý tưởng cách mạng của mình. Hình ảnh người lính trong câu thơ trên khiến chúng ta liên tưởng tới hình ảnh người lính trong câu thơ của Nguyễn Đình Thi:

“Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng, lá vàng rơi”

Người lính hiểu rằng những người như họ đều phải rời xa quê hương, gia đình nhỏ bé của mình để chiến đấu vì sự nghiệp chung của dân tộc. Câu thơ: “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” sử dụng cùng lúc phép nhân hóa và phép hoán dụ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” chính là biểu tượng của làng quê Việt Nam, nơi người lính sinh ra lớn lên, nơi chứa đựng tiếng cười giòn giã của tuổi thơ, nơi e ấp lời hò hẹn của mối tình đầu. Khi người lính phải rời xa quê hương thì chính nơi ấy mong ngóng người lính trở về. Từ “nhớ” trong câu thơ diễn tả nỗi nhớ hai chiều: Không chỉ có quê hương mong ngóng người lính, mà người lính cũng đang nhung nhớ về quê hương. Đọc đến đây ta chợt nhớ đến câu ca dao:

“Anh đi anh nhớ quê nhà

Nhớ canh dau muống nhớ cà dầm tương

Nhớ ai dãi nắng dầm xương

Nhớ ai tát nước bên đường hôm nao”

Từ nỗi nhớ chung là nỗi nhớ quê hương đã dần trở thành nỗi nhớ riêng về những người mẹ, người vợ, người em.. nơi chốn ấy và qua đó lại càng làm sâu sắc thêm tình đồng chí. Họ đã chia sẻ với nhau những nỗi nhớ sâu thẳm nơi trái tim, những điều tưởng chừng như thầm kín nhất.

Chưa dừng lại ở đó, Chính Hữu tiếp tục khắc họa những biểu hiện cao đẹp khác của tình đồng chí. Là đồng chí, họ còn chia sẻ với nhau những khó khăn, gian khổ, thiếu thốn:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi

Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Miệng cười buốt giá

Chân không giày”

Cơn sốt rét đến khiến những người lính khổ sở, bị hành hạ bởi những cơn nóng toát hết mồ hôi, cơn lạnh phát run mà khi đắp bao nhiêu chăm cũng không đủ. Tác giả đã tái hiện và khai thác đúng những hiện thực đau thương của cuộc chiến. Có lẻ bởi chính ông cũng là một người lính nên mới có sự đồng cảm như vậy. Bằng phép liệt kê nhà thơ đã nói lên sự thiếu thốn ấy không của riêng ai mà là của tất cả mọi người: áo rách, quần vá, không giày… đứng làm nhiệm vụ trong lúc rét mướt. Cụm từ “anh với tôi” luôn đi với nhau như thể hiện sự gắn bó giữa những người đồng đội. Hình ảnh người lính lạc quan trong cảnh giá rét khiến chúng ta thật cảm động: “miệng cười buốt giá”. Người lính cụ Hồ luôn biết vượt lên khó khăn để xóa nhòa gian khổ, dùng cái lạc quan của mình để quên đi hiện thực khốc liệt hiện lên thật giản dị mà đẹp đẽ.

Hơn thế nữa, là đồng chí, những người lính còn biết đoàn kết yêu thương gắn bó với nhau:

“Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”

Từ “thương nhau” được đặt ở đầu câu như nhấn mạnh tình cảm yêu thương gắn bó giữa những người lính. Cái nắm tay ấy như một lời động viên để truyền cho nhau hơi ấm, sức mạnh, niềm tin. Dù chỉ là một hành động nhỏ nhưng đủ để làm ấm lòng nhau.

Khép lại bài thơ chính là sức mạnh và biểu tượng của tình đồng chí

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo.”

Cả đoạn thơ là hình ảnh tả thực về công việc của người lính. Họ phải làm nhiệm vụ trong hoàn cảnh vô khắc nghiệt: Vào ban đêm, nơi rừng núi hoang sơ, có sương muối- thứ sương làm cỏ cây điêu tàn, kiệt quệ sức sống, làm tê tái da thịt con người. Giữa không gian âm u, rộng lớn mà họ vẫn “đứng cạnh bên nhau”, vẫn kề vai sát cánh trong một tư thế chủ động sẵn sàng không hề nao núng. Từ “chờ” được sử dụng rất hay, nó cho thấy tư thể vững vàng, tự tin chủ động của những người lính. Ôi! Câu thơ cuối cùng và có lẽ cũng là hình ảnh biểu tượng đẹp nhất trong bài vang lên “Đầu súng trăng treo”. Theo lời nhà thơ Chính Hữu kể lại, câu thơ trên chính là hình ảnh tả thực ông gặp trên đường hành quân. Những người lính trong lúc làm nhiệm vụ vầng trăng sáng trên bầu trời như treo trên đầu súng. Tuy nhiên, ý thơ trở nên thi vị khi nó được mang ý nghĩa biểu tượng. Súng và trăng đã nối hai sự vật ở khoảng cách xa nhau: mặt đất và bầu trời, tạo nên sự chuyển động lãng mạn. Súng - vật gắn liền với người chiến sĩ, là hình ảnh biểu tượng cho chiến tranh ác liệt, trăng – thường được các thi sĩ ngâm ngợi, là biểu tượng cho hòa bình hạnh phúc. Và hình ảnh “đầu súng trăng treo” còn là vẻ đẹp tâm hồn của người lính. Giữa cái khốc liệt của chiến trường tâm hồn người lính vẫn bay bổng hòa nhịp với thiên nhiên, chất chiến sĩ và thi sĩ như hòa vào làm một. Câu thơ là nhãn tự của bài thơ có sức tỏa sáng cho toàn bài.

Toàn bộ bài thơ được làm bằng ngôn ngữ cô đọng và gợi tả; hình ảnh thơ gần gũi, thân thuộc nhưng có sức khái quát cao; biện pháp sóng đôi được sử dụng thành công… Qua đó Chính Hữu cho chúng ta thấy quá trình phát triển và trưởng thành của một quá trình cách mạng trong quân đội. Ở đây nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực kết hợp với tâm hồn lãng mạn, thi vị của mình. Chính những điều đó đã tạo nên thành công cho bài thơ.

Nói thơ là cảm xúc quả thực không sai. Bằng cảm xúc chân thực của mình, nhà thơ Chính Hữu đã ngợi ca tình đồng chí hết sức thiêng liêng. Tình đồng chí như một ngọn lửa cháy mãi không bao giờ tắt, xua tan nhọc nhằn trong những đêm chiến tranh. Qua bài thơ, chúng ta thêm yêu và tự hào về truyền thống đấu tranh của dân tộc với những người lính kiên cường và quả cảm.

V. Một số lời bình về tác phẩm

* Những dòng thơ cuối cùng như một tượng đài sừng sững cho tình cảm đồng chí thiêng liêng. Trên nền hùng vĩ của thiêng liêng, cánh rừng trải rộng, bầu trời lồng lộng, người chiến sĩ đứng với khẩu súng và vầng trăng. Đây là một hình ảnh thực trong những đêm phục kích giặc của tác giả, những chính tầm cao tư tưởng và lí tưởng chiến đấu của quân độic cách mạng đã tạo cho hình ảnh đó một vẻ đẹp khái quát, tượng trưng.

(Vũ Nho, Để cảm hiểu và thưởng thức những bài thơ ở lớp 8 và lớp 9, 1991)

Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Đồng Chí

Phân tích bài thơ Đồng Chí năm 2021

Dàn ý chi tiết Phân tích bài thơ Đồng Chí

1, Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm

+ Chính Hữu là một tác giả lớn của nền thi ca cách mạng, vừa là nhà thơ, vừa là chiến sĩ tham gia chiến dịch Việt Bắc.

+ Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, viết về người chiến sĩ, về tình đồng đội, về khát vọng hòa bình.

2, Thân bài

a, Sự hình thành tình đồng chí

- Sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân của những người lính: đều là những nông dân, những người con của vùng quê nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”.

- Từ “đôi người xa lạ”, họ cùng đi lính, chung lí tưởng chiến đấu vì Tổ quốc, “súng bên súng đầu sát bên đầu” sát cánh bên nhau trên chiến trường, chia bùi sẻ ngọt “đêm rét chung chăn” mà thành “đôi tri kỷ”.

- Nghệ thuật: sử dụng hình ảnh gợi tả đặc sắc, thủ pháp sóng đôi.

- Từ “Đồng chí”: cách gọi vừa trang nghiêm vừa thân thuộc, đầy tình cảm, mang hơi thở thời đại mới của cách mạng, kháng chiến. Giọng thơ chùng xuống, lắng đọng, tạo cảm giác thiêng liêng.

b, Những kỉ niệm, sóng gió cùng trải qua:

- Cảm thông sâu sắc những tâm tư, nỗi niềm của nhau: vì mục đích chung mà gạt đi niềm riêng tư, để lại sau lưng những gì yêu quý như “ruộng nương”, “gian nhà”, “giếng nước gốc đa” – những hình ảnh đại diện cho quê hương.

⇒ Dù tư thế ra đi dứt khoát, “mặc kệ” nhưng họ vẫn nhớ quê hương da diết.

- Cùng chia sẻ những gian lao, thiếu thốn trên chiến trường:

+ Bệnh sốt rét rừng: “biết từng cơn ớn lạnh”, “run người”, “trán ướt mồ hôi”.

+ Khó khăn thiếu thốn: áo rách vai, quần vá, không giày, chịu đói rét.

- Nghệ thuật:

+ Liệt kê, tả thực: cụ thể hóa những vất vả trong cuộc sống của người lính những năm kháng chiến chống Pháp, làm nổi bật lên sự sẻ chia, đoàn kết “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”.

+ Tiếp tục sử dụng thủ pháp sóng đôi: “anh” – “tôi” tạo sự song hành, gắn bó giữa những người đồng đội.

- Liên hệ mở rộng với tình đồng đội trong truyện “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê.

c) Tình đồng chí và khát vọng hòa bình: Ba câu cuối kết thúc bài thơ bằng hình ảnh hai người đồng đội đứng gác trong đêm:

- Cảnh hoang vắng “rừng hoang sương muối” làm nổi bật hình ảnh “đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”: hiên ngang, chủ động, “chờ” không sợ hãi.

- Hình ảnh đặc biệt: “Đầu súng trăng treo”

+ Gợi tả: hai người lính đứng gác dưới ánh trăng, trăng lặn xuống thấp dần khi trời gần sáng và như treo trên đầu súng.

+ Đặt hai biểu tượng đối lập trong cùng một câu thơ: “súng” tượng trưng cho chiến tranh, hiện thực; “trăng” tượng trưng cho vẻ đẹp hòa bình, lãng mạn.

⇒ Tạo nên một biểu tượng đẹp về cuộc đời người lính: chiến sĩ mà thi sĩ, thấu hiểu hiện thực nhưng vẫn không ngừng hi vọng vào tương lai tươi đẹp.

- Nghệ thuật: sử dụng hình ảnh tả thực, cặp hình ảnh đối lập.

3, Kết bài

- Kết luận về tác phẩm: miêu tả chân thực những gian khổ thời chiến tranh, ca ngợi tình cảm gắn bó, sẻ chia giữa những người lính, thể hiện khát vọng hòa bình.

- Liên hệ thực tiễn: tình đồng chí, tương thân tương ái đến nay vẫn còn nguyên giá trị, những người còn sống luôn trăn trở, nhớ thương đồng đội đã hi sinh, thế hệ trẻ cần luôn tôn trọng, biết ơn những người lính, phát huy tinh thần tương trợ lẫn nhau trong cuộc sống.

Top 24 bài Phân tích bài thơ Đồng Chí hay nhất (ảnh 1)

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đồng Chí – mẫu 1

Lịch sử nước ta đã đi qua biết bao thăng trầm biến cố. Mỗi lần biến động là mỗi lần dân ta sít gần lại nhau hơn, cùng nhau vì mục đích cao cả chung. Đó là những năm tháng hào hùng, khí thế của dân tộc ta trong cuộc chiến đấu tranh chống Pháp, chống Mỹ vĩ đại. Giữa những đau thương chiến đấu, cuộc chiến còn góp phần đắp xây nên mối quan hệ giữa những người lính với nhau. Cho nên không có gì khó hiểu khi vào năm 1948, tác phẩm “ Đồng Chí” của nhà thơ Chính Hữu lại tạo nên một sự bùng nổ, lan truyền rộng khắp trong giới quân đội. Bài thơ “Đồng chí” ca ngợi tình đồng đội gian khổ có nhau, vào sinh ra tử có nhau của các anh bộ đội Cụ Hồ, những người nông dân yêu nước đi bộ đội đánh giặc trong những năm đầu gian khổ thời chín năm kháng chiến chống Pháp. Chính bài thơ đã khơi dậy những xúc động mạnh mẽ trong lòng nhiều thế hệ:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Đầu súng trăng treo”

Trong bài thơ “Đồng Chí”, Chính Hữu đã khắc hoạ thành công cái chất hiền lành, tình nghĩa mộc mạc mà dung dị cũng như tình đồng chí, đồng đội thiêng liêng cao cả của những người lính nông dân. Từ mọi miền quê trên dải đất hình chữ S, những con người xa lạ bỗng đứng lên theo tiếng gọi của Tổ quốc, tụ họp lại với nhau, trở thành những người lính. Họ là những người nông dân từ những vùng quê lam lũ đói nghèo, quanh năm chỉ biết đến con trâu mảnh ruộng, các anh giã từ quê hương lên đường chiến đấu:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Không hẹn mà nên, các anh đã gặp nhau tại một điểm là tình yêu quê hương đất nước. Từ những người “xa lạ” rồi thành “đôi tri kỉ”, về sau thành “đồng chí”. Câu thơ biến hoá 7, 8 từ rồi rút lại, nén xuống còn 2 từ cảm xúc vần thơ như dồn tụ lại, nén chặt lại. Những ngày đầu đứng dưới lá quân kỳ: “Anh với tôi đôi người xa lạ - Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”. Đôi bạn gắn bó với nhau bằng bao kỉ niệm đẹp:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

Ngày cùng chung nhiệm vụ chiến đấu vai kề vai, súng bên súng, chia nhau gian khổ, nguy hiểm, đêm đắp chung một chiếc chăn chịu rét. Đắp chung chăn trở thành biểu tượng của tình thân hữu, ấm cúng ruột thịt. Những cái chung đã biến những con người xa lại thành đôi tri kỷ. Sự đồng cảnh, đồng cảm và hiểu nhau là cơ sở, là cái gốc để làm nên tình bạn, tình đồng chí.Tấm lòng của họ đối với đất nước thật cảm động khi giặc đến các anh đã gửi lại người bạn thân mảnh ruộng chưa cày, mặc kệ những gian nhà bị gió cuốn lung lay để ra đi kháng chiến . Bình thường vậy thôi, nhưng nếu không có một tình yêu đất nước xâu nặng không thể có một thái độ ra đi như vậy:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay"

Họ đứng lên chiến đấu chỉ vì một lẽ giản dị: tình yêu quê hương đất nước, ý thức dân tộc là máu thịt, là cuộc đời họ. Bởi vậy, họ nguyện bỏ lại tất cả: ruộng nương, xóm làng. Nhưng ở chiến khu, những người lính nông dân lại trở mình, lòng lại bận tâm lo lắng về mảnh ruộng chưa cày, với căn nhà bị gió lung lay. Nỗi nhớ của các anh là thế cụ thể nhưng cảm động biết bao. Người lính luôn hiểu rằng nơi quê nhà người mẹ già, người vợ trẻ cùng đám con thơ đang trông ngóng anh trở về:

“Giếng nước gốc đa, nhớ người ra lính”

Trong những tâm hồn ấy, hẳn sự ra đi cũng đơn giản như cuộc đời thường nhật, nhưng thực sự hành động ấy là cả một sự hy sinh cao cả. Cả cuộc đời ông cha gắn với quê hương ruộng vườn, nay lại ra đi cũng như dứt bỏ đi nửa cuộc đời mình.Sống tình nghĩa, nhân hậu, hay lo toan cũng là phẩm chất cao đẹp của người lính nông dân. Với họ vượt qua gian khổ thiếu thốn của cuộc sống là điều giản dị bình thường, không có gì phi thường cả:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

...

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

Chính Hữu đã khắc hoạ hiện thực khó khăn mà người lính gặp phải. Đối mặt với những khó khăn đó, những người lính không hề một chút sợ hãi, những thử thách giữa nơi rừng thiêng nước độc cứ kéo đến liên miên nhưng người lính vẫn đứng vững, vẫn nở “miệng cười buốt giá”. Đó là hình của sự lạc quan, yêu cuộc sống hay cũng là sự động viên giản dị của những người lính với nhau. Những câu thơ hầu như rất giản dị nhưng lại có sức lay động sâu xa trong lòng người đọc chúng ta. Tuy nhiên từ trong sự bình thường, hình ảnh người lính của Chính Hữu vẫn ánh lên vẻ đẹp rực rỡ của lí tưởng, sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, dũng cảm lạc quan trước hiểm nguy kẻ thù rình rập:

Top 24 bài Phân tích bài thơ Đồng Chí hay nhất (ảnh 1)

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Thật là bức tranh đơn sơ, thi vị về người lính trong một đêm chờ giặc tới giữa nơi rừng hoang sương muối. Những người lính kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng vào kẻ thù. Trong cái vắng lặng bát ngát của rừng khuya, trăng bất ngờ xuất hiện chơi vơi lơ lửng nơi đầu súng. Những người lính nông dân giờ đây hiện ra với một tư thế khác hẳn, như những người nghệ sĩ đầy chất thơ, bình dị nhưng vẫn đẹp lạ lùng.Sẽ là một thiếu sót rất lớn khi lại đề cập quá nhiều đến hình tượng người lính mà lại không nói về tình đồng chí, tình đồng đội của người chiến sĩ trong bài thơ. Tìm hiểu nhau, những người lính hiểu ra họ có cùng chung quê hương vất vả khó nghèo, chung tình giai cấp, chung lý tưởng và mục đích chiến đấu. Chính cái chung ấy như một thứ keo sơn bền vững nối cuộc đời những người lính với nhau để làm nên hai tiếng “đồng chí” xúc động và thiêng liêng.

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Vẻ đẹp tâm hồn nơi người lính không chỉ phát ra từ những hiện thực khó khăn hiểm nguy mà còn phát ra từ ánh sáng lung linh, chính là tình đồng đội. Vượt rừng đâu phải chuyện dễ dàng. Những căn bệnh quái ác, những đêm tối lạnh buốt xương, những thiếu thốn vật chất của đoàn quân mới được gây dựng vội vã. Nhưng những người lính đã cùng nhau vượt qua. Họ lo cho nhau từng cơn sốt, từng miếng áo rách, quần vá. Với họ quan tâm tới những người đồng đội giờ đây cũng như là quan tâm chăm sóc cho chính mình. Ôi ấm áp biết mấy là cái siết tay của đồng đội lúc gian khó. Cái siết tay truyền đi hơi ấm, sức mạnh cho ý chí con người. Và cùng nhau, giúp đỡ nhau, những người lính vượt qua với tư thế ngẩng cao đầu trước mọi thử thách, gian nan:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh,

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!”

Cái khốn khó, gian truân hãy còn dài trên bước đường kháng chiến dân tộc. Nhưng dường như trước mắt những con người này, mọi thứ không còn hiểm nguy. Trong đêm trăng vắng lặng, bát ngát giữa rừng hoang sương muối, những người lính vẫn kề vai, sát cánh cùng hướng mũi súng về phía kẻ thù.

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

Sức mạnh của sự tin tưởng lẫn nhau, của sự quan tâm tới nhau giữa những người lính đã làm vững chắc thêm tình đồng đội trong họ. Bởi họ biết rằng khi cùng nhau thắp lên tình đồng chí vững bền, sức mạnh chung nhất sẽ là sức mạnh mạnh nhất. Mục đích chiến đấu vì quê hương, vì Tổ Quốc của họ sẽ càng mau chóng đạt được. Khi ý chí và mục đích hợp chung con đường, thì tình cảm giữa họ càng thắm thiết, sâu đậm. Đó là tình đồng chí giữa những người lính …Không chỉ dừng ở cung bật tình cảm giữa những người lính, bài thơ “Đồng Chí” còn mang ta đến chi tiết lãng mạn cao hơn ở cuối bài:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Người lính không cô đơn lạnh lẽo vì bên anh đã có đồng đội và cây súng, là những người bạn tin cậy nhất, tình đồng chí đã sưởi ấm lòng anh. Người chiến sĩ toàn tâm toàn ý hướng theo mũi súng. Chính lúc ấy, các anh bắt gặp một hiện tượng kỳ lạ:

“Đầu súng trăng treo”

Nét sáng tạo độc đáo thể hiện bản lĩnh nghệ thuật của của Chính Hữu qua bài thơ chính là hình ảnh này. Từ tình đồng chí, trải qua những thử thách khác nhau, Chính Hữu đã tạo nên cái nhìn đầy chất thơ. Nếu hai câu thơ trên không kết hợp với hình ảnh “đầu súng trăng treo” thì nó khó có những giá trị đặc sắc. Ngược lại, nếu không có sự nâng đỡ của của hai câu thơ đó thì hình ảnh sẽ bị coi là thi vị hoá cuộc sống chiến đấu người lính. Sự hòa quyện nhuần nhuyễn giữa hiện thực và chất thơ lãng mạn, bay bổng đã làm cho “đầu súng trăng treo” trở thành một trong những hình ảnh đẹp nhất thơ ca kháng chiến chống Pháp. Câu thơ chỉ vỏn vẹn bốn từ nhưng nó bao hàm cả cái tình, cái ý và đặc biệt là sự cảm nhận tinh tế của Chính Hữu. Nhờ sự liên tưởng thông minh tài tình, tâm hồn giàu cảm xúc, Chính Hữu đã gợi lên một không gian bát ngát giữa vũ trụ bao la, nó có cái gì đó rất bồng bềnh, huyền bí, khó tả. Hình ảnh đó gây được ấn tượng thẩm mỹ sâu sắc với người đọc . đồng thời, nó trở thành hình tượng đa nghĩa độc đáo của thi ca. “Đầu súng trăng treo” được xây dựng bằng bút pháp siêu thực, đầy chất thơ.

 Tại sao vậy? Chúng ta thực sự đánh giá cao không gian nghệ thuật hiện thực của “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” và đặc biệt là không gian “rừng hoang sương muối”; nó đã góp phần tô đẹp thêm hình tượng vầng trăng, cây súng. Hai hình ảnh này đối lập nhau rất rõ. Một bên là vầng trăng muôn thuở hấp dẫn và kì lạ, thanh bình với thi ca. Nó biểu tượng cho cuộc sống tươi đẹp, hòa bình, hạnh phúc của nhân loại, đồng thời cũng là ước mơ cuộc sống tươi đẹp hòa bình hạnh phúc. Nhưng trăng ở đây lại được đặt trong mối quan hệ với súng. Một bên là súng, súng biểu tượng cho chiến tranh và cái chết nhưng súng cũng trở thành lý tưởng cao đẹp, tinh thần chiến đấu vì cuộc sống hòa bình dân tộc của người chiến sĩ. Trăng là vẻ đẹp lãng mạn, súng là hiện thực. Tuy đối lập, nhưng hai hình tượng này đã tôn thêm vẻ đẹp cho nhau, tạo nên vẻ đẹp hoàn mỹ nhất. Không phải ngẫu nhiên khi Chính Hữu đưa hai hình ảnh ngược nhau trong một câu thơ. Qua đó ông muốn khẳng định cái khát vọng về một cuộc sống yên lành đầy chất thơ: để cho vầng trăng kia sáng mãi, trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, mọi người phải cầm súng chiến đấu. Có thể nói, hình ảnh “Đầu súng trăng treo” là một phát hiện thú vị, mới lạ độc đáo của Chính Hữu. Chính hữu đã sử dụng bút pháp hiện thực để tạo nên hình ảnh thơ vừa hiện thực vừa lãng mạn. Trăng và súng kết thành một không gian thơ trữ tình, là biểu tượng cho tình thần dũng cảm, hào hoa muôn thuở của dân tộc nói chung và người lính nói riêng.

Bài thơ đã kết thúc nhưng nó sẽ còn sống mãi chừng nào con người chưa mất đi bản năng của chính mình: sự rung động. Quả thật văn chương đã tạo ra cho mình một thế đứng riêng còn mạnh hơn lịch sử. Cùng tái hiện lại một thời đau thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến sĩ nhưng văn chương đã đến với người đọc theo con đường của trái tim, gây nên những xung động thẩm mĩ trong tâm hồn con người, làm thành sự xúc cảm tận đáy tâm hồn và những ấn tượng không thể nào quên. Đó là những năm đau thương chứng kiến những con người cao cả kiên cường, những người lính dũng cảm bất khuất. Họ không khô khan mà bầu nhiệt huyết nung nấu, tràn đầy lòng hy sinh, với tình đồng đội trong sáng, thân ái. Chính những điều đó làm bài thơ “Đồng Chí” trên những trang giấy vẫn có lúc được lật lại, vẫn nhỏ từng giọt ngân vang, tưởng đến những con người thần kì mà bình dị với niềm tự hào kiêu hãnh, cho nay và mai sau mãi nhớ về.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đồng Chí – mẫu 2

"Đồng chí!" - Ôi tiếng gọi sao mà thân thương tha thiết quá. Nó biểu hiện thật đầy đủ tình đồng đội của anh chiến sĩ cụ Hồ từ những năm 1948 của thời kỳ kháng Pháp. Cảm nhận được những tình cảm vừa thân quen vừa mới lạ trong cuộc sống chiến đấu ấy, Chính Hữu, một nhà thơ - người chiến sĩ cách mạng đã xúc động viết bài thơ Đồng chí. Với những lời thơ dạt dào tình cảm, bài thơ đã để lại bao cảm xúc trong lòng người đọc.Cả bài thơ thể hiện rõ tình đồng đội keo sơn gắn bó giữa những người chiến sĩ quân đội nhân dân trong cuộc sống chiến đấu gian khổ của thời kì kháng chiến chín năm. Họ là những người xuất thân từ nhân dân lao động chỉ quen việc “cuốc cày" ở những vùng quê hẻo lánh khác nhau, vì có chung tấm lòng yêu nước, họ đã gặp nhau, từ xa lạ bỗng trở thành thân quen. Chính Hữu đã kể về những con người ấy bằng những lời thơ thật cảm động:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau”

Ở đây, tác giả đã phát hiện được hiện tượng tình cảm kì lạ ở những người chiến sĩ. Đó là sự phát triển của tình cảm cách mạng trong quân đội ta. Từ những con người rất “xa lạ" trong đời sống lại trở thành những đồng chí rất thân thương trong chiến đấu. Nhà thơ đã chọn lựa những chi tiết, những hình ảnh thơ rất chân thực để gợi tả về cuộc sống của người chiến sĩ. Họ đều xuất thân từ những vùng đất khô cằn, nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá”. Và họ đã gặp nhau từ “xa lạ”. Thật là thú vị, nhà thơ không nói hai người xa lạ mà là “đôi người xa lạ”. “Đôi” là chỉ hai đối tượng cùng đi với nhau. “Đôi người xa lạ” nghĩa là hai người cùng đi với nhau mà lại là xa lạ. Vì thế ý thơ được nhấn mạnh thêm. Hình ảnh những phương trời xa cách, những con người “chẳng hẹn quen nhau” nói lên cả một sự xa lạ trong không gian và tình cảm. Nhưng khi tham gia kháng chiến, những con người xa lạ ấy đã cùng nhau chiến đấu, cùng chịu đựng gian khổ, chung lưng đấu cật bên nhau. Vì thế, họ trở thành thân nhau, hiểu nhau, thương nhau và gọi nhau là “đồng chí”:

“Súng bên súng đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ

Đồng chí!”

Video bài văn mẫu Phân tích bài thơ Đồng Chí

Câu thơ vừa tả thực vừa mang ý nghĩa tượng trưng “súng bên súng, đầu sát bên đầu”. Tác giả đã tả thực những giờ phút bên nhau cùng chiến đấu đồng thời hình ảnh ấy còn tượng trưng cho sự nghiệp chiến đấu chung, lý tưởng cách mạng chung của quân đội ta. Câu thơ giúp ta hiểu thêm “đôi người xa lạ” ấy đã nảy nở một tình cảm mới khi họ cùng chiến đấu cùng một lý tưởng lớn lao. Tình cảm ấy thật thân thương, thật tha thiết. Giọng thơ đang tuôn liền mạch nhẹ nhàng bỗng bị ngắt nhịp đột ngột. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. Câu thơ chỉ có một từ: “Đồng chí” - một tiếng nói thiêng liêng. “Đồng chí”, một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm. Thế là thành “đồng chí!”.Tình cảm ấy lại được biểu hiện cụ thể trong cuộc sống chiến đấu. Những lúc kề cận bên nhau, họ lại kể nhau nghe chuyện quê nhà, chuyện “ruộng nương gửi bạn thân cày”, “gian nhà không mặc kệ gió lung lay”, cả chuyện “giếng nước, gốc đa nhớ người ra lính…”. Từ những lời tâm tình ấy cho ta hiểu rằng các anh chiến sĩ mỗi người đều có một quê hương, có những kỉ niệm thân thiết gắn bó với quê nhà và khi ra đi hình bóng quê hương đều mang theo trong lòng họ. Các anh lại cùng chia ngọt sẻ bùi, cùng chịu gian khổ bên nhau. Trong gian lao vất vả họ lại tìm được niềm vui, niềm hạnh phúc trong mối tình đồng chí. Làm sao các anh có thể quên được những lúc cùng nhau chịu đựng gian khổ “từng cơn ớn lạnh”, những lúc “sốt run người vầng trán ướt mồ hôi”. Cuộc sống bộ đội nghèo, vất vả nhưng không thiếu niềm vui. Dẫu “áo anh” có “rách vai”, “quần tôi” có “vài mảnh vá”, dẫu trời có “buốt giá” thì miệng vẫn cười tươi. Bằng những chi tiết rất thực, nhà thơ đã miêu tả rõ nét cuộc sống chiến đấu gian khổ và sự gắn bó của tình đồng đội keo sơn.

Tình cảm chân thành tha thiết ấy không diễn tả bằng lời mà lại thể hiện bằng cách “nắm lấy bàn tay”, “thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Thật giản dị và cảm động. Không phải là những vật chất của cải, không phải là những lời hoa mỹ phô trương. Những người chiến sĩ biểu hiện tình đồng chí bằng cách “tay nắm lấy bàn tay”. Chính đôi tay nắm chặt ấy đã nói lên tất cả những ý nghĩa thiêng liêng, cao đẹp của mối tình đồng chí. Đoạn thơ với nhiều nét tả thực mà không trần trụi, vẫn gợi cảm nhờ hình ảnh “anh với tôi” gắn bó dọc bài thơ và hình ảnh cảm động “thương nhau” nhưng không biết làm sao, chỉ biết lặng lẽ “tay nắm lấy bàn tay”. Chỉ có những con người cùng chung ý chí và lí tưởng cao cả mới có những biểu hiện tình cảm đáng quý như thế.Mối tình đồng chí lại được lắng đọng bằng hình ảnh đẹp rực sáng ở khổ cuối bài thơ:

“Đêm nay rừng hoang sương muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới

Đầu súng trăng treo”

Câu thơ vừa tả thực vừa mang nét tượng trưng. Tác giả tả cảnh những người lính canh giặc trong đêm trăng đầy sương muối. Súng hướng mũi lên trời, có ánh trăng lơ lửng giữa trời như treo trên đầu ngọn súng. Đồng thời hình ảnh “Đầu súng trăng treo” còn mang ý nghĩa tượng trưng. Đó là sự kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, vừa thực vừa mơ, vừa xa lại vừa gần, vừa mang tính chiến đấu lại vừa mang tính trữ tình. Vừa chiến sĩ vừa thi sĩ. Đây là hình ảnh đẹp tượng trưng cho tình cảm trong sáng của người chiến sĩ. Mối tình đồng chí đang nảy nở, vươn cao, tỏa sáng từ cuộc đời chiến đấu. Hình ảnh thơ thật độc đáo, gây xúc động bất ngờ, thú vị cho người đọc. Nó nói lên đầy đủ ý nghĩa cao đẹp của mục đích lý tưởng chiến đấu và mối tình đồng chí thiêng liêng của anh bộ đội Cụ Hồ.Toàn bộ bài thơ bằng ngôn ngữ cô đọng, hình ảnh chân thực gợi tả có sức khái quát cao, Chính Hữu đã cho ta thấy rõ quá trình phát triển của một tình cảm cách mạng trong quân đội. Ở đây, nhà thơ đã xây dựng hình ảnh thơ từ những chi tiết thực của cuộc sống đời thường ở những người chiến sĩ, không phô trương, không lãng mạn hóa, thi vị hóa. Và chính những nét thực đó tạo nên sự thành công cho tác phẩm. Bài thơ đánh dấu một bước ngoặt mới trong phương pháp sáng tác về cách xây dựng hình tượng người chiến sĩ trong giai đoạn chống Pháp.

“Đồng chí” - Đọc xong bài thơ trong mỗi chúng ta đều lắng lại những cảm xúc dạt dào. Chúng ta đã cảm nhận được mối tình đồng chí đậm đà ấy qua những lời thơ nhẹ nhàng tha thiết như bài hát tâm tình của Chính Hữu. Cuộc kháng chiến chống Pháp đã thắng lợi vẻ vang, trang sử vàng đã sang qua bao nhiêu giai đoạn mới, thế nhưng mỗi lần đọc lại bài thơ Đồng chí ta như thấy rõ hình ảnh của anh bộ đội Cụ Hồ hiện lên sáng rực thật cao đẹp, thật thân thương trong những lời thơ của Chính Hữu.

 

 

Tài liệu có 10 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống