Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất, gồm 11 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Bài thơ về tiểu đội xe không kính Ngữ văn lớp 9.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bà iBài thơ về tiểu đội xe không kính dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 9:
BÀI THƠ VỀ TIỂU ĐỘI XE KHÔNG KÍNH
Bài giảng: Bài thơ về tiểu đội xe không kính
I. Tác giả
- Phạm Tiến Duật (1941 - 2007), quê ở huyện Thanh Ba, tỉnh Phú Thọ.
- Sau khi tốt nghiệp trường Đại học Sư phạm Hà Nội, năm 1964, Phạm Tiến Duật gia nhập quân đội, hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn và trở thành một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước.
- Thơ Phạm Tiến Duật tập trung thể hiện hình ảnh thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mỹ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn.
- Thơ ông có giọng điệu sôi nổi, trẻ trung, hồn nhiên, tinh nghịch mà sâu sắc.
II. Tìm hiểu chung về tác phẩm
1. Thể loại, phương thức biểu đạt chính
- Thể loại: Thơ 7 chữ kết hợp 8 chữ
- Phương thức biểu đạt chính: biểu cảm
2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- Xuất xứ: Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính thuộc chùm thơ được tặng giải nhất cuộc thi thơ báo Văn nghệ năm 1969 - 1970, được đưa vào tập thơ Vầng trăng quầng lửa, NXB Văn học, Hà Nội, 1970
- Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ được viết năm 1969, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước đang diễn ra ác liệt, tác giả khi đó cũng là chiến sĩ ở Trường Sơn, gắn bó với những cung đường và những chiến sĩ lái xe quân sự.
3. Chủ đề
- Người lính trong cuộc kháng chiếng chống Mĩ
4. Bố cục
+ Khổ 1,2: Tư thế ra trận hiên ngang của người lính
+ Khổ 3,4,5,6: sự ngang tàng, dũng cảm, lạc quan của người lính và tình đồng đội thắm thiết.
+ Khổ 7: Lí tưởng, ý chí chiến đấu của những người lính
5. Giá trị nội dung
- Bài thơ khắc họa được nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính và hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ hiên ngang, dũng cảm, sôi nổi, lạc quan, quyết chiến đấu giải phóng miền Nam.
6. Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ chủ yếu kết hợp thể thơ bảy chữ và tám chữ, có chất liệu hiện thực sinh động của cuộc sống ở chiến trường, sáng tạo được những hình ảnh độc đáo, ngôn ngữ và giọng điệu giàu tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn.
III. Dàn ý phân tích tác phẩm
1. Mở bài
- Giới thiệu những nét cơ bản về tác giả (tên, phong cách sáng tác/cuộc đời), tác phẩm (chủ đề/ hoàn cảnh sáng tác/ nội dung/ nghệ thuật).
- Nêu nhận xét, cảm nhận của bản thân
2. Thân bài
a. Nhan đề bài thơ: Bài thơ về tiểu đội xe không kính
- Khá dài, tưởng như bị thừa (bài thơ)
- Làm nổi bật hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính -> hình ảnh thực.
- Cách tác giả khai thạc hiện thực nhẹ nhàng, đầy chất thơ
⇒ Gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc điệu thẩm mĩ riêng của bài thơ và gây ấn tượng cho người đọc.
b. Hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính vẫn băng băng ra chiến trường.
- Hình ảnh thực, thực đến trần trụi, không được “mĩ lệ hóa”.
- Nguyên nhân không kính: “Bom giật, bom rung” Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe bị phá hủy biến dạng đi
- Những chiếc xe không kính vốn không phải hiếm trong chiến tranh, nhưng hiếm trong thơ ca.
- Nghệ thuật: Giọng thơ lạc quan, tinh nghịch; ngôn ngữ thơ trúc trắc.
⇒ Hình ảnh tạo nên cái tứ lạ, độc đáo, vừa nói lên cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu khốc liệt chống đế quốc Mĩ. Hình tượng này góp phần khắc họa một nét tư thế, chân dung của một dân tộc anh hùng.
c. Hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn
* Tư thế của họ thật ung dung, hiên ngang, tự hào ra chiến trường
- Hai câu sáu chữ nhịp 2/2/2 và chữ “ung dung” đảo lên đầu câu -> nổi bật tư thế ấy của người lính.
- “Nhìn thẳng” là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh, không run sợ, né tránh.
- Cấu trúc “Không có kính, ừ thì… chưa cần…” lặp lại và những chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha, “lái trăm cây số nữa”
⇒ Hình ảnh họ vừa mang nét giản dị, phong trần, vừa có nét kiêu hùng, lãng mạn.
* Có tính cách sôi nổi, vui nhộn, lạc quan và rất gắn bó với đồng đội.
- Tiếng cười “ha ha” sảng khoái tự hào
- Chiến tranh khốc liệt đã tạo ra những tiểu đội xe không kính. Sự gắn bó của những con người đã cùng vượt qua bom đạn, thử thách càng bền chặt, sâu xa.
- Trên con đường Trường Sơn, họ càng đi càng gặp nhiều bè bạn: “Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới”. Tình đồng đội đã hóa gia đình: “Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”. Cách định nghĩa về gia đình thật “lính”, thạt tếu táo. Họ đã gắn bó với nhau trong chiến đấu và càng gắn bó với nhau trong đời thường.
- Điệp ngữ “lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Hình ảnh “trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ.
* Có lòng yêu nước, có lí tưởng và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, có niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng.
- Điệp ngữ “không có”, lối nói liệt kê và nhịp thơ dồn dập như diễn tả những khó khăn chồng chất.
- Câu thơ: “Chỉ cần trong xe có một trái tim” : nói về sức mạnh lớn lao của con người, sâu xa hơn là sức mạnh của tình yêu nước.
⇒ Nhận xét chung
3. Kết bài
- Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật.
- Nêu cảm nhận của bản thân
IV. Bài phân tích
Phạm Tiến Duật là một nhà văn trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Ông đã rất thành công khi viết về thế hệ trẻ trong cuộc kháng chiến chống Mĩ qua các hình tượng người lính và cô thanh niên xung phong trên tuyến đường Trường Sơn. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông là bài thơ: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” . Tác phẩm được sáng tác vào năm 1969, lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Bài thơ khắc họa được nét độc đáo của hình tượng những chiếc xe không kính và hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kì kháng chiến chống Mĩ hiên ngang, sôi nổi, lạc quan, có lí tưởng và niềm tin vào cuộc chiến giải phóng miền Nam.
Mỗi một tác phẩm nghệ thuật ra đời đều có tên gọi riêng. Thông qua nhan đề độc giả phần nào nắm được nội dung, tư tưởng của toàn bài. Nhan đề bài thơ: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” khá lạ, khá dài. Đã là một bài thơ mà trong nhan đề lại có chữ “bài thơ”. Mới nghe tưởng như là thừa nhưng thực ra cách tác giả đặt tên như vậy khiến đứa con tinh thần của mình trở thật độc đáo, thu hút sự chú ý. Nhan đề bài thơ làm nổi bật hình ảnh độc đáo: Những chiếc xe không kính. Hình ảnh này là một sự phát hiện thú vị của tác giả, thể hiện sự gắn bó và am hiểu hiện thực đời sống chiến tranh trên tuyến đường Trường Sơn. Ôi! Hai chữ “Bài thơ” cho thấy rõ hơn cách nhìn, cách khai thác hiện thực của tác giả: không phải chỉ viết về những chiếc xe không kính hay là hiện thực khốc liệt của chiến tranh, mà chủ yếu muốn nói về chất thơ của hiện thực ấy, chất thơ của tuổi trẻ hiên ngang, dũng cảm, lạc quan, vượt lên mọi gian khổ, hiểm nguy. Đó cũng là quan niệm nghệ thuật của tác giả, khám phá chất thơ từ chính hiện thực tưởng như thô nhám đó. Cùng với đó, cụm từ: “Tiểu đội xe không kính” cũng là một cái tên tự đặt- rất lính, rất tếu hóm, rất ấn tượng. Đọc nhan đề bài thơ chúng ta cảm nhận được nhan đề này gợi mở chủ đề, tạo được giọng điệu, sắc điệu thẩm mĩ riêng của bài thơ và gây ấn tượng cho người đọc.
Nhà thơ Phạm Tiến Duật đã khắc họa một hình ảnh độc đáo nữa trong bài thơ. Đó là những chiếc xe không kính vẫn băng băng ra chiến trường. Thời ấy, hình ảnh những chiếc xe ô tô đi vào thơ ca còn hiếm. Xưa nay, hình ảnh xe cộ, tàu thuyền khi đi vào thơ ca thường được “mĩ lệ hóa”, “lãng mạn hóa” và thường mang ý nghĩa tượng trưng. Còn những chiếc xe không kính trong thơ Phạm Tiến Duật lại là hình ảnh thực, thực đến trần trụi. Tác giả giải thích nguyên nhân cũng rất thực: “Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi”. Hai câu thơ mở đầu đậm chất văn xuôi, giọng thản nhiên, càng gây sự chú ý về vẻ khác lạ của xe. Đây là những chiếc xe đã đi qua bom đạn thử thách. Bom đạn chiến tranh còn làm cho những chiếc xe bị phá hủy biến dạng đi, trần trụi hơn nữa:
“ Không có kính, rồi xe không có đèn.
Không có mui xe, thùng xe có xước”.
Nhưng bộ não, linh hồn của xe dường như không phải là máy móc, mà là tấm lòng người chiến sĩ, nên:
“ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Những chiếc xe không kính vốn không phải hiếm trong chiến tranh, nhưng phải có hồn thơ nhạy cảm, có nét ngang tàng, tinh nghịch, thích cái lạ như Phạm Tiến Duật mới nhận ra được và đưa nó vào thơ, trở thành biểu tượng độc đáo của thơ thời chiến tranh chống Mĩ. Hình ảnh này tạo nên cái tứ lạ, độc đáo, vừa nói lên cái ác liệt, dữ dội của chiến tranh, vừa bộc lộ được phẩm chất cao đẹp của người chiến sĩ trong cuộc chiến đấu khốc liệt chống đế quốc Mĩ. Hình tượng này góp phần khắc họa một nét tư thế, chân dung của một dân tộc anh hùng.
Đặc biệt, hình ảnh những chiến sĩ lái xe Trường Sơn trong bài được khắc họa thành biểu tượng cho thế hệ trẻ Việt Nam anh hùng trong thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Chủ nhân của những chiếc xe không kính được miêu tả gắn liền với những chiếc xe và nổi bật lên trong bài thơ: can trường, quả cảm, bất chấp mọi gian nguy thiếu thốn. Thiếu đi những điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu lại như phép thử để làm lộ ra phẩm chất cao đẹp, sức mạnh tinh thần lớn lao của người chiến sĩ lái xe Trường Sơn- những người đã góp phần làm nên huyền thoại Trường Sơn một thời. Họ sống, chiến đầu với tinh thần phơi phới:
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
(Phạm Tiến Duật)
Người lính hiện ra với những ấn tượng, cảm giác cụ thể khi ngồi trên xe không kính. Qua khung cửa xe không cón kính chắn gió với tư thế “nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”, người chiến sĩ lái xe tiếp xúc trực tiếp với thế giới bên ngoài:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như xa như ùa vào buồng lái”
Xe lao nhanh trên đường, gió làm mắt đắng, cái nhìn của người lái xe vẫn hút chặt vào con đường- con đường tiến lên phía trước, con đường chạy thẳng vào tim- con đường của trái tim. Cái “nhìn thấy” có cả sự sáng soi của lí tưởng, tình cảm. Không chỉ mặt đất mà cả bầu trời sao, cánh chim cũng như sa, như ùa vào buồng lá. Dường như cả thiên nhiên, sự vật cũng theo người lính ra chiến trường. Hình ảnh ấy thật thi vị, đó là chất thơ của cuộc chiến đấu. Hiện thực thì khốc liệt, mọi thứ có thể va đập, quăng quật vào buồng lái, nhưng người lính cảm nhận nó bằng một tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, nhạy cảm với cái đẹp. Những câu thơ trên miêu tả cảm giác rất thực của người lính nhưng cũng hé lộ diện mạo, tâm hồn thầm kín của họ.
Tuy nhiên, nổi bật lên vẫn là nét phẩm chất, tính cách cao đẹp của người lính. Trước hết, tác giả vẽ những người lính có tư thế thật ung dung, hiên ngang, tự hào ra chiến trường
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng
Hai câu sáu chữ nhịp 2/2/2 và chữ “ung dung” đảo lên đầu câu làm nổi bật tư thế ấy của người lính. Còn “Nhìn thẳng” là cái nhìn đầy tự chủ, trang nghiêm, bất khuất, không thẹn với đất trời, nhìn thẳng vào con đường phía trước, nhìn thẳng vào gian khổ, hi sinh, không run sợ, né tránh. Những người chiến sĩ trẻ ấy có thái độ hiên ngang, bất chấp mọi gian khổ, hiểm nguy với tinh thần quả cảm
“Không có kính ừ thì có bụi”
“Không có kình ừ thì ướt áo”
Cấu trúc “Không có kính, ừ thì… chưa cần…” lặp lại và những chi tiết “phì phèo châm điếu thuốc”, “cười ha ha, “lái trăm cây số nữa” đã bộc lộ rõ cái ngang tàng, bất chấp gian khổ của người lính. Thực tế, gió, bụi, mưa… có thể gây bao khó khăn khi xe không có kính nhưng người lính đã bình thường hóa những cái không bình thường ấy, vượt lên tất cả sự cố gắng với tinh thần trách nhiệm rất cao. Hình ảnh họ vừa mang nét giản dị, phong trần, vừa có nét kiêu hùng, lãng mạn.
Tiếp theo là những nét phác họa của nhà thơ về tính cách của những người chiến sĩ trẻ. Họ có tính cách sôi nổi, vui nhộn, lạc quan và rất gắn bó với đồng đội. Cả bài thơ lấp lánh ánh cười và vang tiếng cười “ha ha” sảng khoái tự hào:
“Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”.
Đó đúng là tiếng thơ, tiếng cười của tuổi trẻ, của tâm hồn lạc quan. Chiến tranh khốc liệt đã tạo ra những tiểu đội xe không kính. Sự gắn bó của những con người đã cùng vượt qua bom đạn, thử thách càng bền chặt, sâu xa. Họ gặp nhau là đã quen thân. Xe không kính họ có thể gặp nhau, bắt tay nhau qua cửa kính vỡ mà không cần mở của xe, thật thoải mái, tự hào, thắm tình đồng đội. Trên con đường Trường Sơn, họ càng đi càng gặp nhiều bè bạn:
“Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới”.
Tình đồng đội đã hóa gia đình:
“Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy”.
Cách định nghĩa về gia đình thật “lính”, thạt tếu táo. Họ đã gắn bó với nhau trong chiến đấu và càng gắn bó với nhau trong đời thường.
“Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi trời xanh thêm”
Điệp ngữ “lại đi” và nhịp 2/2/3 khẳng định đoàn xe không ngừng tiến tới, khẩn trương và kiên cường. Hình ảnh “trời xanh thêm” gợi tâm hồn lạc quan của người chiến sĩ.
Cuối cùng, nhà thơ Phạm Tiến Duật cho độc giả thấy những người lính trẻ đó đều có lòng yêu nước, có lí tưởng và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam, có niềm tin mãnh liệt vào chiến thắng.
“Không có kính, rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước,
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim”.
Khổ thơ cuối kết tinh vẻ đẹp của những chiếc xe không kính và những người lính lái xe. Sự đối lập giữa hai phương tiện vật chất và tinh thần, giữa không và có làm nổi bật cái gan góc, kiên cường, không thể hủy diệt ở những người lính. Điệp ngữ “không có” , lối nói liệt kê và nhịp thơ dồn dập như diễn tả những khó khăn chồng chất. Câu thơ: “Chỉ cần trong xe có một trái tim” : nói về sức mạnh lớn lao của con người, sâu xa hơn là sức mạnh của tình yêu nước. Mọi thứ của xe không còn nguyên vẹn, chỉ cần trái tim còn vẹn nguyên là xe vẫn có thể băng băng ra chiến trường. Đó là sự dũng cảm, ngoan cường, là sức mạnh của lòng yêu nước và ý chí chiến đấu, chiến thắng. Trái tim người lính khiến chiếc xe trở thành một cơ thể thống nhất với người chiến sĩ, không phá, không ngăn cản được.
Với giọng điệu ngang tàng, phóng khoáng pha chút nghịch ngợm kết hợp hình ảnh thơ độc đáo, ngôn ngữ có tính khẩu ngữ, tự nhiên, khỏe khoắn, bài thơ đã khắc họa được bức chân dung độc đáo về những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn thời chống Mĩ – can trường, quả cảm, đầy kiêu hùng trong vẻ giản dị nhất và tràn đầy tình yêu thương. Đó cũng là hình ảnh tiêu biểu của anh bộ đội Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời chống Mĩ cứu nước.
V. Một số lời bình về tác phẩm
* Cả bài thơ là lời nói, cảm xúc của người chiến sĩ lái xe trên con đường xe chạy liên tục. Thử thách ngày càng tăng nhưng tốc độ và hướng đi không thay đổi. Vẫn là khẳng định tinh thần bất khuất, quyết thắng của quân đội ta, nhưng Phạm Tiến Duật đã đem lại nhiều hình ảnh mới và giọng điệu mới: trẻ trung, tinh nghịch, ngang tàng mà kiên định. Bài thơ đâu chỉ nói về tiểu đội xe không kính, nó phản ánh khí thế quyết tâm giải phóng miền Nam của toàn quân và toàn dân ta, khẳng định con người mạnh hơn sắt thép.
(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn , NXB Giáo dục, 2002)
* Mạn phép nói thêm về cái chất thực của bài thơ để chúng ta hiểu rằng, một bài thơ có nhiều khi vượt qua khỏi phạm trù cái đẹp văn chương thuần túy, dâng cho cuộc sống những giá trị thực tiễn lớn lao biết nhường nào. Bài thơ Bài thơ về tiểu đội xe không kính có cái mãnh lực thần kì ấy, nó vừa mang tính chiến đấu nóng bỏng, tính thời sự tức thời vừa mang tầm vóc lịch sử! Tất nhiên một bài thơ như thế phải là tiếng nói của cuộc sống thực hào hùng. Đó là tiếng nói chân thành, độc đáo của người trong cuộc. Nó như một tuyên ngôn về lẽ sống của một thế hệ người Việt Nam.
(Võ Minh, Nói thêm về “Tiểu đội xe không kính”, Tài hoa trẻ , số 347 – 348, 2004)
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả: Phạm Tiến Duật là nhà thơ lớn, có nhiều sáng tác, trưởng thành trong đội ngũ các nhà thơ thời kháng chiến chống Mĩ.
- Giới thiệu tác phẩm: “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được sáng tác năm 1969 và được in trong tập Vầng trăng quầng lửa năm 1970.
2. Thân bài:
a, Biểu tượng chiếc xe không kính
- Đoàn xe là sự tiếp tế của hậu phương cho tiền tuyến
+ Lí do xe không có kính: vì bom đạn của kẻ thù bắn phá làm vỡ hết kính.
- Là biểu tượng cho chiến tranh khốc liệt, cho khó khăn gian khổ: đoàn xe chịu gió lùa, bom rơi, bụi đường, mưa giông; xe không có kính, không đèn, không có mui xe, chiếc xe xây xước như một người lính bị thương nhưng vẫn băng băng chạy.
- Hình ảnh xe không có kính là hiện thực tàn khốc, qua đó làm tôn lên sự anh hùng của con người trong chiến tranh.
b, Hình ảnh người lính lái xe
- Tư thế hiên ngang, bất khuất: ung dung, nhìn thẳng ⇒ coi thường khó khăn, nguy hiểm.
+ Điệp từ “nhìn”: khí phách kiên cường, như thách đố với khó khăn.
- Thái độ, tinh thần lạc quan, bông đùa với những khó khăn:
+ Bụi phun vào tóc, vào mặt là một trò gây cười, mưa ướt áo cứ đi tiếp vì gió lùa áo khô nhanh thôi, xe không kính cũng có cái hay đó là tầm nhìn rộng hơn, thấy được con đường “chạy thẳng vào tim”, thấy sao trời gần hơn “ùa vào buồng lái”.
+ Điệp từ “ừ thì”: như 1 cái tặc lưỡi, chép miệng đồng thuật, coi mọi khó khăn là chuyện nhỏ.
- Thái độ lạc quan, yêu đời, tự tin có chút bướng bỉnh, ngang ngạnh; hình ảnh người lính lái xe hiện lên vừa đáng yêu vừa đáng nể.
- Tình đồng đội:
+ Tiểu đội xe: là “Những chiếc xe từ trong bom rơi” gặp nhau.
+ Tình đồng đội: những cái bắt tay qua “cửa kính vỡ rồi”, là dựng bếp lửa giữa trời, cùng ăn cùng ca hát, cùng mắc võng ngủ trong rừng.
- Từ trong khó khăn, người lính từ mọi miền xa lạ trở thành “gia đình” của nhau.
- Niềm tin vào chiến thắng:
+ Điệp từ “lại đi”, lí do “vì miền Nam phía trước” : Không gì ngăn cản được các anh đến chi viện cho chiến trường miền Nam.
+ Hình ảnh ẩn dụ “trời xanh thêm” và hoán dụ “trong xe có một trái tim”: tình yêu thương dành cho miền Nam, cho Tổ quốc, là niềm tin và chiến thắng, vào tự do.
3. Kết bài:
- Nội dung: Bài thơ khắc họa xuất sắc hình ảnh các chiến sĩ lái xe, tái hiện lại chiến tranh tàn khốc.
- Nghệ thuật: giọng thơ vui tươi, ngôn ngữ giản dị; sử dụng điệp từ, phép đối giữa hiện thực khốc liệt với thái độ của người lính làm tôn lên vẻ đẹp hình tượng người lính.
Thời kháng chiến chống Mĩ thấy thế mà cam go lắm, ác liệt lắm. Vậy mà Phạm Tiến Duật lại là nhà thơ trẻ tài cao trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Thơ của ông có giọng điệu sôi nổi trẻ trung hồn nhiên tinh nghịch và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính in trong tập Vầng trăng quầng lửa năm 1969 là bài thơ hay độc đáo về hình ảnh người lính lái xe Trường Sơn hiên ngang tinh thần lạc quan về một ngày mai tươi sáng.Mỗi đề tài đều mang một nét hay một nét độc đáo. Người viết đề tài nào cũng phải dành tình yêu và sự hiểu biết của mình vào thì mới thành công. Phạm Tiến Duật nhà thơ trẻ tuổi tài cao chọn đề tài người lính trong thời kháng chiến chống Mĩ. Có thể nói đó là mảng đề tài hay và sâu sắc. Bài thơ về tiểu đội xe không kính là bài thơ có cách viết mới mẻ độc đáo rất cuốn hút người đọc, người nghe. Đó là hình ảnh những người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn vì mục đích tiến về Miền Nam thân yêu ruột thịt.Như tựa đề bài thơ, phần nào Phạm Tiến Duật giúp chúng ta hiểu rõ nội dung là miêu tả về hình ảnh những chiến xe không kính vẫn băng băng trên đường Trường Sơn.
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Nhiều từ “không” được lặp đi lặp lại trong dòng thơ mở đầu như một là một lời khẳng định: xưa kia xe vẫn có kính, nó vẫn là chiếc xe lành lặn đẹp đẽ. Nhưng hôm nay “xe không có kính” vì “bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”. Chiến tranh chống Mĩ ấy tàn khốc lắm, ác liệt lắm đã làm những chiếc xe rơi vỡ mất đi nhiều phụ tùng
“Không có kính rồi xe không có đèn
Không có mui xe, thùng xe có xước”
Đúng như vậy đó, chiếc xe ấy chẳng những “không có kính” rồi xe “không có đèn”. Cụm từ “không có” cứ thế mà lặp đi lặp lại để thấy chính chiến tranh đã gây ra bao thiệt hại về tài sản. Dường như tác giả Phạm Tiến Duật cũng dành sự xót thương cho hình ảnh chiếc xe trên đường Trường Sơn. Nó vẫn là con chiến mã quan trọng, là một anh hùng thầm lặng cho những người lính vì mục đích tiến về Miền Nam thân yêu ruột thịt.Nếu nhắc đến hình ảnh những chiếc xe không kính trên tuyến đường Trường Sơn đã làm người đọc xúc động như thế thì hình ảnh những người lính lái xe Trường Sơn lại mạnh mẽ và lạc quan đáng khâm phục
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Cụm từ “ung dung” vừa diễn tả hành động lại vừa bộc lộ trạng thái rất tự tại rất thoải mái. Những người lính trẻ cứ như đang tận hưởng tiết trời mát mẻ trên tuyến đường Trường Sơn. Họ luôn “ nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng” một cái nhìn đầy lạc quan đầy niềm tin và hi vọng. Đắt giá nhất là cụm từ “nhìn thẳng” được tác giả sử dụng như một lời khẳng định: dù có bất kì chuyện gì xảy ra những người lính ấy vẫn luôn luôn mạnh mẽ tiến về phía trước về Miền Nam yêu thương.
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.”
Một khung cảnh hiện lên quá hoàn hảo dưới ngòi bút viết như họa của Phạm Tiến Duật. Khung cảnh ấy có gió, có cánh chim chiều, và có cả ánh sao đêm,… Với hình ảnh nhân hóa “gió vào xoa mắt đắng”, liệu có ai đặt câu hỏi rằng tại sao tác giả lại sử dụng như thế? Vì xe không có kính mà những người lính lại chạy xe xuyên đêm nên cảm giác “ đắng” như thế ấy! Họ luôn ngày đêm nỗ lực chạy thật nhanh thật nhanh tiến về Nam. Mỗi con đường xe chạy qua đều in sâu trong tim và chứa chan đầy tình cảm. Các chữ “ như sa, như ùa” đã cho ta thấy được tốc độ chạy thật phi thường của những chiếc xe không kính, lướt nhanh qua bom đạn dày đặc.Xe không kính làm các anh chiến sĩ lái xe không chỉ chịu “gió xoa mắt đắng” mà có có “bụi”,”có mưa”. Ôi! Gian khổ biết bao
“Không có kính ừ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng như người già
Chưa cần rửa phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha”
Biết bao nỗi cực nhọc mà những người lính ấy phải gánh chịu. Từ “ừ” tác giả vang lên một cách đầy thách thức, thách thức khó khăn mà mình đang gánh chịu. Họ “ừ” một cách hiên ngang tràn đầy hi vọng về ngày mai tươi sáng. Dọc tuyến đường Trường Sơn ngày ấy có bom có gió có bụi. “Bụi phun tóc trắng như người già” với những từ ngữ gợi tả đủ để ta mường tượng ra cảnh tượng ấy đáng thương như thế nào! Chúng ta phải biết trân trọng, phải biết ơn những gì mà các anh chiến sĩ ngày ấy đã làm cho chúng ta hôm nay.Ngày hôm nay, khi đi trên đường nếu mưa ta còn cảm thấy vô cùng cực nọc dù xe có đủ mọi phụ tùng. Vậy mà trong thời khắc chiến tranh cam go ấy, xe không kính, không đèn, phải chịu đựng gió, bụi, bom giật, bom rung,..
Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn là trừu tượng nữa mà được tính bằng những cung đường “lái trăm cây số nữa”. Tác giả sử dụng từ chỉ số lượng “ trăm cây số” để chỉ còn đường ấy dù có xa dù có cách trở thì họ vẫn băng băng về trước đầy hiên ngang. Cung đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu. Câu thơ bảy từ mà có đến sáu thanh bằng diễn tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: “Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!”Con đường phía trước còn dài còn khó khăn chồng chất, nhưng tinh thần hiên ngang lạc quan và vui vẻ của các anh thật mạnh mẽ. Các anh vẫn tếu táo, vẫn hồn nhiên
“Những chiếc xe từ trong bom rơi
Đã về đây hợp thành tiểu đội
Gặp bè bạn suốt dọc đường đi tới
Bắt tay nhau qua cửa kính vỡ rồi”
Sau những ngày tháng lái xe gian khổ giữa rừng Trường Sơn phải chịu mưa, gió, bụi, bom đạn,… Hôm nay họ đã có thể gặp lại đồng đội. Những cái “bắt tay” vội vàng nhưng ấm nồng tình đồng chí đồng đội. Cái “bắt tay” như tiếp thêm sức mạnh luôn tiến về phía trước dù có khó khăn và thử thách.Thời chiến tranh luôn luôn gian khó, họ là những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn kiên trung bất khuất. Con đường giữa rừng núi ấy gặp lại anh em, cùng dựng nồi nấu bếp ăn một chén cơm mà ấm tình đồng đội
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi lại đi trời xanh thêm.”
“Bếp Hoàng Cầm” là bếp dã chiến của bộ đội được đặt dưới lòng đất, khi đun khói tản ra địch sẽ không phát hiện. Mọi thứ đều gian khổ như thế ấy nhưng tinh thần họ vẫn rất vui vẻ, lạc quan. Vẫn “dùng chung bát đũa” và xem nhau là đại gia đình lớn, là anh em ruột thịt. Với hình ảnh ẩn dụ “ xanh thêm” và nghệ thuật điệp từ “lại đi” như một lời cỗ vũ, một lời động viên các anh hãy luôn mạnh mẽ kiên cường tiến về phía trước. Rồi cũng sẽ có ngày tìm thấy màu xanh hi vọng màu xanh hòa bình và độc lập!Hai câu thơ cuối bài là hai câu thơ đắt giá mà Phạm Tiến Duật viết nên một niềm hi vọng cháy bỏng dành cho các anh lái xe trên tuyến đường Trường Sơn anh dũng, lạc quan:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
“Trái tim” ấy chính là hình ảnh hoán dụ đầy yêu thương. Trái tim nhỏ của từng chiến sĩ tích góp thành một trái tim lớn hướng trọn về Miền Nam thân yêu ruột thịt. Nhưng trái tim ấy cũng chất chứa bao nỗi căm hờn, phẫn uất? Họ căm ghét chiến tranh tàn khốc đã gây ra bao nỗi khốn cùng cho nhân dân, cho những người lính không ngại khó khăn vất vả. Đó chính là trái tim có tình yêu và cả lòng căm hận rất sâu sắc. Với ngòi bút tinh tế sâu sắc và cách dùng từ độc đáo đã góp phần làm hình ảnh mà tác giả muốn truyền tải càng rõ nét hơn trong lòng độc giả.Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật qua ngòi bút tinh tế, hình ảnh ẩn dụ, hoán dụ, điệp ngữ,… đã giúp hình ảnh người lính lái xe trên đường Trường Sơn càng hiên ngang dũng cảm. Họ là những con người kiên cường, bất khuất dù khó khăn gian khổ. Bài thơ đã tái hiện lại một cách đầy sống động về thời kháng chiến chống Mĩ oanh liệt trên tuyến đường Trường Sơn lịch sử và những con người dũng cảm, lạc quan mãi mãi đi vào lịch sử thơ ca thời kháng chiến chống Mĩ!
“Cùng mắc võng trên rừng Trường Sơn
Hai đứa ở hai đầu xa thẳm
Đường ra trận mùa này đẹp lắm
Trường Sơn đông nhớ Trường Sơn tây...”
(Trường Sơn đông, Trường Sơn tây)
Năm 1970, tập thơ Vầng trăng quầng lửa của Phạm Tiến Duật ra đời. Tiếng thơ của người chiến sĩ hoạt động trên tuyến đường Trường Sơn cất lên hào hùng, trẻ tráng và hồn nhiên kì lạ. Thơ Phạm Tiến Duật thể hiện tình cảm yêu nước và chí khí anh hùng của thế hệ thanh niên trong cuộc chiến tranh chống Mĩ qua những hình ảnh cô gái thanh niên xung phong và anh bộ đội trên tuyến đường Trường Sơn. Lửa đèn, Trường Sơn đông, Trường Sơn tây, Bài thơ về tiểu đội xe không kính, Gửi em, Cô thanh niên xung phong,... là những bài thơ rất nổi tiếng của chàng lính trẻ làm thơ này.Bài thơ về tiểu đội xe không kính được anh viết vào năm 1969 - khi cuộc chống Mĩ đang diễn ra vô cùng ác liệt. Máy bay giặc Mĩ trút hàng ngàn, hàng vạn tấn bom đạn và chất độc hóa học xuống con đường chiến lược mang tên con đường Hồ Chí Minh. Các trọng điểm mịt mù lửa khói suốt đêm ngày. Những đoàn xe vận tải quân sự vẫn nối đuôi nhau đi lên phía trước. Bài thơ đã ghi lại những nét ngang tàng, dũng cảm và lạc quan của người chiến sĩ lái xe trong binh đoàn vận tải quân sự, qua đó ca ngợi chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam thời đánh Mỹ.Bài thơ làm hiện lên chiếc xe không kính đang vượt qua bom đạn băng băng tiến ra tiền phương. Một hình tượng thật độc đáo vì xưa nay ít có, ít thấy loại xe không kính qua lại trên mọi nẻo đường. Thế mà, trên con đường chiến lược Trường Sơn vẫn có loại xe như vậy, không phải đôi ba chiếc mà là hàng vạn chiếc xe "không kính "đang vượt qua mưa bom bão đạn, đi qua mọi địa hình: đèo cao, dốc thẳm, khe suối, ngầm sông, chạy trong mưa gió, đêm tối mịt mùng, để chở hàng, tiếp viện cho chiến trường miền Nam. Hình tượng độc đáo vì chiếc xe mang sức mạnh thần kì của một dân tộc đang chiến đấu vì một quyết tâm sắt đá "xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước". Nó còn thể hiện cuộc chiến đấu diễn ra trên mặt trận giao thông vận tải, trên con đường chiến lược Trường Sơn là vô cùng ác liệt, dữ dội, con người và binh khí kĩ thuật mang tầm vóc kì vĩ sử thi hào hùng.Hai câu thơ đầu nói rõ vì sao xe "không có kính". Cấu trúc câu thơ dưới hình thức "hỏi-đáp". Ba chữ "không" đi liền nhau, hai nốt nhấn "bom giật, bom rung" biểu lộ "chất lính" trong cách nói phóng túng hồn nhiên. Câu thơ đậm đặc chất văn xuôi, nhưng đọc lên nghe vẫn thú vị:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật, bom rung kính vỡ đi rồi.”
Mười bốn câu thơ tiếp theo khắc họa hình ảnh những người chiến sĩ lái xe trên tuyến đường Trường Sơn qua một loạt hình ảnh hoán dụ: con mắt, mái tóc, tim, mặt, nụ cười... Một tư thế ngồi lái "ung dung" tuyệt đẹp: thong thả, khoan thai.Những cái nhìn khoáng đạt, nhìn thấp, nhìn thẳng, nhìn cao, nhìn xa. Dũng mãnh và hiên ngang:
“Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất, nhìn trời, nhìn thẳng”
Hai chữ "ta ngồi " với điệp từ "nhìn " láy lại 3 lần; giọng thơ, nhịp thơ mạnh mẽ, đĩnh đạc.Phạm Tiến Duật đã dành trọn một khổ thơ nói lên những gì người chiến sĩ "nhìn thấy". Những câu thơ nối tiếp xuất hiện với bao hình ảnh chẳng khác nào một đoạn phim quay nhanh:
“Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng,
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa, như ùa vào buồng lái.”
Có gió thổi, có cánh chim chiều và cả ánh sao đêm. Gió được nhân hóa và chuyển đổi cảm giác đầy ấn tượng: "gió vào xoa mắt đắng". Xe chạy thâu đêm, xe lại không có kính nên mới có cảm giác "đắng" như thế. Con đường phía trước là con đường chiến lược cụ thể, nó còn mang hàm nghĩa, "chạy thẳng vào tim", con đường chiến đấu chính nghĩa vì lẽ sống, vì tình thương, vì độc lập tự do của đất nước và dân tộc. Các từ "nhìn thấy"... "nhìn thấy... " "thấy... "với các chữ "sa", chữ "ùa" góp phần đặc tả tốc độ phi thường của chiếc xe quân sự đang bay đi, đang lướt nhanh trong bom đạn!Nếu khổ thơ trên nói đến "gió" thì khổ thơ tiếp theo nói đến "bụi". Gió bụi tượng trưng cho gian khổ, thử thách. Chữ "ừ" vang lên như một thách thức, một chấp nhận nhưng chủ động của người chiến sĩ lái xe:
“Không có kính, ừ thì có bụi,
Bụi phun tóc trắng như người già.
Chưa cần rửa, phì phèo châm điếu thuốc
Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!”
Bao chi tiết hiện thực đầy ắp vần thơ. Một mái tóc xanh của chàng trai qua mấy dặm trường có sự đổi thay đáng sợ: "Bụi phun tóc trắng như người già". Một hình ảnh so sánh hóm hỉnh, độc đáo, một kiểu hút thuốc rất "lính". Một nụ cười lạc quan yêu đời và hồn nhiên "ha ha" cất lên từ một gương "mặt lấm "khi đồng đội gặp nhau: "Nhìn nhau mặt lấm cười ha ha!".Sau "bụi" nói đến "mưa": "Mưa tuôn mưa xối như ngoài trời". Thế là người lính nếm trải đủ mùi gian khổ: gió bụi, mưa rừng. Mưa đã "tuôn" tất nhiên phải "xối". Bao nhiêu áo quần ướt sạch vì ngồi trong buồng lái mà "như ngoài trời". Chấp nhận, ngang tàng, phơi phới lạc quan:
“Không có kính, ừ thì ướt áo
Mưa tuôn, mưa xối như ngoài trời
Chưa cần thay lái trăm cây số nữa
Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!”
Nhiệt tình cách mạng của người lính không còn là trừu tượng nữa mà được tính bằng những cung đường "lái trăm cây số nữa". Cung đường ấy trong bom đạn, mưa tuôn phải trả giá bằng bao mồ hôi, xương máu. Câu thơ 7 từ mà có đến 6 thanh bằng diễn tả cái phơi phới, thênh thênh đầy nghị lực, bất chấp mọi gian khổ: "Mưa ngừng, gió lùa khô mau thôi!".Hai khổ thơ thứ 5, thứ 6 ghi lại hình ảnh tiểu đội xe không kính và cuộc trú quân giữa rừng. Sau những chặng đường gian khổ, những tháng ngày mưa gió, bụi mù và bom đạn, họ gặp lại nhau, cái bắt tay cũng vô cùng độc đáo. Trong niềm vui gặp gỡ đã có nhiều mất mát hi sinh:
“... Gặp bạn bè suốt dọc đường đi tới
Bắt tay qua cửa kính vỡ rồi.”
Có bữa cơm hội ngộ. Tình đồng đội cũng là tình anh em gia đình ruột thịt. Cảnh mắc võng dã chiến "chông chênh " bên đường. Rồi đoàn xe "lại đi, lại đi", nối tiếp nhau ra tiền phương. Trên đầu họ, trong tâm hồn họ "trời xanh thêm", chứa chan hi vọng, lạc quan dạt dào:
“Bếp Hoàng Cầm ta dựng giữa trời
Chung bát đũa nghĩa là gia đình đấy
Võng mắc chông chênh đường xe chạy
Lại đi, lại đi, trời xanh thêm.”
Khổ cuối bài thơ làm nổi bật cái dữ dội và khốc liệt của chiến tranh: Chiếc xe vận tải quân sự mang trên mình đầy thương tích. Đã có biết bao chiến sĩ lái xe dũng cảm hi sinh. Chiếc xe như một dũng sĩ kiên cường, 3 cái "Không có" và chỉ có 1 cái "có": "Không có kính, rồi xe không có đèn - Không có mui xe, thùng xe có xước. Sau cái "thùng xe có xước", người chiến sĩ lái xe tự hào khẳng định cần "có một trái tim "trong xe. "Có trái tim?" ấy là sẽ có tất cả: "Trái tim"- hình ảnh hoán dụ thể hiện sức mạnh chiến đấu, ý chí kiên cường của người chiến sĩ lái xe trẻ vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thân yêu, vì sự nghiệp thống nhất đất nước:
“Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước;
Chỉ cần trong xe có một trái tim”
"Trái tim" ấy là trái tim yêu thương, trái tim sục sôi căm giận? Phải chăng câu thơ của Phạm Tiến Duật khơi nguồn cảm hứng từ câu nói nổi tiếng của Hồ Chủ tịch kính yêu: "Miền Nam luôn luôn trong trái tim tôi"?Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là một bài thơ hay. Chất hiện thực ngồn ngộn về đời sống chiến đấu gian khổ mà hào hùng của các chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn thời đánh Mĩ đã kết hợp một cách hài hòa với cảm hứng sử thi tạo nên những vần thơ "góc cạnh" đầy ấn tượng. Nếu có gió, bụi, mưa, cánh chim, ánh sao sa vào, ùa vào buồng lái chiếc xe không kính thì cũng có những câu thơ rất gần với lối nói thường đậm chất văn xuôi tràn vào bài thơ. Có nhiều câu thơ mang cái dáng vẻ thô mộc, bình dị rất lính tráng một thời trận mạc.
Nếu tước đi những câu thơ ấy, thay vào bài thơ bằng những câu óng ả êm xuôi, chắc chắn giọng điệu, chất thơ, hồn thơ của Bài thơ về tiểu đội xe không kính sẽ chẳng còn gì nữa. Đúng như Vũ Quần Phương đã nhận xét: "Chỗ đặc sắc của thơ Phạm Tiến Duật: lấy cuộc sống để nói tình cảm. Cái sâu sắc tình cảm trong thơ anh phải tìm trong cuộc sống, không tìm trong chữ nghĩa.Hình tượng những chiếc xe không kính thật là li kì, độc đáo. Những chiếc xe không kính đã làm nổi bật hình ảnh những người lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Họ là những chiến binh sống và chiến đấu trong tư thế hiên ngang, quả cảm bất chấp mọi khó khăn, nguy hiểm, lạc quan, sôi nổi yêu đời, hi sinh chiến đấu vì sự nghiệp giải phóng miền Nam.Ngoài các ẩn dụ, so sánh, điệp từ, điệp ngữ, Phạm Tiến Duật rất thành công trong sáng tạo các hình ảnh hoán dụ (gió, bụi, mưa, mắt, tóc, tim,...) khắc họa vẻ đẹp tâm hồn và vẻ đẹp ý chí của người chiến sĩ lái xe tiền phương.
Con đường chiến lược Trường Sơn là một chiến tích mang màu sắc huyền thoại của dân tộc ta trong kháng chiến chống Mĩ. Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật đã làm sống lại một thời gian khổ, oanh liệt của anh bộ đội Cụ Hồ. Chất anh hùng ca dào dạt bài thơ. Bài thơ cũng là một chứng tích tuyệt đẹp của hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn anh hùng.