Ánh trăng - Tác giả tác phẩm – Ngữ văn lớp 9

Tải xuống 7 7.6 K 8

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu tác giả tác phẩm Ánh trăng hay nhất, gồm 7 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Ánh trăng Ngữ văn lớp 9.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu tác phẩm Ánh trăng Ngữ văn lớp 9:

ÁNH TRĂNG

Bài giảng: Ánh trăng

(Nguyễn Duy)

A. Nội dung tác phẩm

Bài thơ là câu chuyện nhỏ được kể theo trình tự thời gian từ quá khứ đến hiện tại gắn với các mốc sự kiện trong cuộc đời con người. Theo dòng tự sự ấy, mạch cảm xúc đi từ quá khứ đến hiện tại và lắng kết trong cái "giật mình" cuối bài thơ. Từ một câu chuyện riêng, bài thơ như một lời nhắc nhở chính mình, củng cố, cảnh tỉnh ở người đọc về thái độ sống “uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thuỷ chung với qúa khứ.

Tác giả tác phẩm Ánh trăng – Ngữ văn lớp 9 (ảnh 2)

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Tác giả

- Nguyễn Duy (1948) tên thật là Nguyễn Duy Nhuệ

- Quê quán: Xã Đông Vệ, huyện Đông Sơn (nay là phường Đông Vệ - Thanh Hóa)

- Sự nghiệp sáng tác:

    + Nguyễn Duy làm thơ từ rất sớm, từ khi học cấp ba.

    + Năm 1973, ông đã đoạt giải nhất cuộc thi thơ tuần báo văn nghệ với chùm thơ vô cùng xuất sắc.

    + Ngoài việc sáng tác thơ ông còn viết tiểu thuyết và bút kí

    + Năm 2007, Nguyễn Duy được Giải thưởng Nhà nước về Văn học Nghệ thuật

    + Những tác phẩm tiểu biểu: “Đãi cát tìm vàng”, “Bụi”, “Mẹ và em” …

- Phong cách sáng tác: Thơ Nuyễn Duy giàu chất triết lí, thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở, day dứt và suy tư.

2. Tác phẩm

a, Hoàn cảnh sáng tác

- “Ánh trăng” là một bài thơ hay viết vào năm 1978 - 3 năm sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam. Bài thơ được viết tại Thành phố Hồ Chí Minh, in trong tập “Ánh trăng”.

b, Bố cục

3 phần: 

- 2 khổ đầu: Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ.

- 2 khổ giữa: Những thay đổi trong mối quan hệ của nhà thơ với vầng trăng.

- 2 khổ cuối: Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả.

c, Ý nghĩa nhan đề

- Ánh trăng là ánh sáng của vầng trăng, ánh sáng soi rọi lương tâm, soi vào những góc khuất trong tâm hồn con người khiến cho con người phải giật mình thức tỉnh nhận ra những sai lầm và vươn tới những điều tốt đẹp.

- Nhan đề thể hiện chủ đề của bài thơ: củng cố và gợi nhắc thái độ sống ân tình thủy chung với quá khứ, đó là truyền thống uống nước nhớ nguồn, ân tình thủy chung với quá khứ.

d, Giá trị nội dung

- Bài thơ là sự nhắc nhở về những năm tháng gian lao đã qua của cuộc đời người lính gắn bó với thiên nhiên, đất nước rất bình dị, hiền hậu. Qua đó nhắc nhở người đọc phải có một thái độ sống “Uống nước nhớ nguồn”, thủy chung ân tình với quá khứ, nhớ quên là lẽ thường tình, quan trọng là biết thức tỉnh lương tâm.

e, Giá trị nghệ thuật

 - Thể thơ năm chữ, bố cục rõ ràng, mạch lạc. 

 - Kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và tự sự.

 - Hình ảnh thơ vừa cụ thể, vừa sinh động vừa khát, giàu tính biểu cảm.

 - Giọng điệu tâm tình tự nhiên như lời tâm sự của nhân vật trữ tình.

C. Đọc hiểu văn bản

1. Cảm nghĩ về vầng trăng quá khứ (hai khổ đầu)

- Điệp từ hồi được lặp đi lặp lại ba lần → bắt đầu dòng hồi tưởng, gắn kết thời gian hiện tại với quá khứ ; làm cho giọng thơ như một lời thủ thỉ tâm tình.

- Ánh trăng gắn bó với kỉ niệm trong sáng của tuổi thơ.

- Biện pháp điệp : với + Biện pháp liệt kê : đồng ; sông ; bể → thiên nhiên bao la khoáng đạt, con người sống gắn bó chan hòa với thiên nhiên

- Ánh trăng gắn với kỉ niệm năm tháng kháng chiến gian khổ

+“Hồi chiến tranh ở rừng” → những năm tháng gian khổ, ác liệt thời chiến tranh,

+ Biện pháp nhân hóa (vầng trăng thành tri kỉ) → trăng là người bạn thân thiết, tri âm tri kỉ, là đồng chí cùng chia sẻ những vui buồn, khó khăn gian khổ trong kháng chiến với người lính.

-Biện pháp nhân hóa, so sánh (Trần trụi với thiên nhiên/ hồn nhiên như cây cỏ) → vẻ đẹp bình dị, mộc mạc, trong sáng, rất đỗi vô tư, hồn nhiên của vầng trăng. Đó cũng chính là hình ảnh con người lúc bấy giờ (vô tư, hồn nhiên, trong sáng, sống hòa mình với thiên nhiên).

Ngỡ không bao giờ quên/Cái vầng trăng tình nghĩa :

+ Biện pháp nhân hóa (vầng trăng tình nghĩa) → con người luôn coi trăng là người bạn tri kỉ của mình và đinh ninh không bao giờ quên. 

Ngỡ : tưởng vậy mà thực tế về sau không phải như vậy. Con người đinh ninh không bao giờ quên trăng nhưng thời gian trôi đi, con người đã lãng quên.

→ Vầng trăng đã gắn bó thân thiết với con người từ lúc nhỏ đến lúc trưởng thành, cả trong hạnh phúc và gian lao.

+ Trăng là vẻ đẹp của đất nước bình dị, hiền hậu của thiên nhiên vĩnh hằng, tươi mát, thơ mộng.

→ Vầng trăng vừa là người bạn tri kỉ vừa biểu tượng cho quá khứ nghĩa tình, thủy chung, cho sự đùm bọc của nhân dân, đất nước đối với những người lính trong những năm kháng chiến gian khổ.

2. Những thay đổi trong mối quan hệ của nhà thơ với vầng trăng 

- Hoàn cảnh dẫn đến thay đổi : 

+ Xa cách về thời gian 

+ Thay đổi về không gian sống (thành phố) : nơi phồn hoa, đô hội. Biện pháp hoán dụ: ánh điện cửa gương gợi cuộc sống đầy đủ tiện nghi, hiện đại.

→ Không gian sống thay đổi → con người sống cách biệt với thiên nhiên, vầng trăng; thời gian xa cách → con người đã quen với cuộc sống mới tiện nghi, hấp dẫn.

- Biệp pháp nhân hóa : vầng trăng đi qua ngõ → trăng vẫn thủy chung âm thầm, lặng lẽ.

- Biện pháp so sánh: như người dưng qua đường → Tình cảm của con người dành cho vầng trăng đã thay đổi: Vầng trăng từ người bạn tri kỉ → trở thành người dưng qua đường. Con người hờ hững thờ ơ, lãng quên và vô tình với trăng.

→ Sự cách biệt về thời gian và không gian sống → khiến cho tình cảm giữa người và trăng thay đổi. Con người hờ hững thờ ơ, lãng quên và vô tình với trăng, cũng chính là quên đi gian khổ, nghĩa tình trong quá khứ. Nét tâm lí này không phải là hiếm gặp, nên người ta vẫn thường nhắc nhở nhau: ngọt bùi nhớ lúc đắng cay.

* Khổ 4 : Tình huống gặp lại vầng trăng

Từ láy thình lình + biện pháp đảo ngữ → nhấn mạnh tình huống bất ngờ làm chuyển đổi mạch cảm nghĩ: tình huống gặp lại trăng do đèn điện tắt.  Đến lúc ấy con người nhận ra sự chật hẹp, bức bách, ngột ngạt của không gian đô thị và như một phản ứng tự nhiên, nhân vật trữ tình vội bật tung cửa sổ tìm nguồn sáng.

Động từ mạnh vội, bật tung → bộc lộ trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, những hành động rất nhanh như phạn xạ tự nhiên tìm nguồn sáng.

Từ láy : đột ngột + đảo ngữ → nhấn mạnh cảm giác ngỡ ngàng, thảng thốt của con người khi bất ngờ gặp lại vầng trăng bên ngoài cửa sổ. Vầng trăng vẫn tròn đầy, và đã ở đó tự bao giờ.

- Thực ra, vầng trăng tròn đâu phải chỉ khi đèn điện tắt mới xuất hiện. Chỉ có điều con người có nhận ra hay không. Nh­ư vậy hành động "bật tung cửa sổ" không chỉ đơn thuần là mở cánh cửa sổ phòng mình mà còn là mở cửa tâm hồn : Mình đối diện với tri kỷ với tình nghĩa mà bấy lâu nay mình dửng dư­ng. Đó hẳn là một cuộc "đối diện đàm tâm " Đối diện với chính mình của quá khứ và đối diện với mình của hiện tại.

→ Trăng biểu tượng cho giá trị vĩnh hằng, không thay đổi.

3. Cảm xúc và suy ngẫm của tác giả

* Khổ 5: Những xúc động mạnh liệt của nhà thơ khi gặp lại trăng

Mặt nhìn mặt → tư thế tập trung, có phần thành kính.

- Từ mặt thứ 2 trong câu thơ đầu được dùng với ý nghĩa chuyển theo phương thức ẩn dụ → mặt người đối diện với mặt trăng.

- Cuộc gặp mặt với vầng trăng → gọi về bao kỉ niệm:

+ Từ láy rưng rưng → trạng thái ngân ngấn lệ, sắp khóc, cảm xúc xao xuyến, bồi hồi gặp lại tri kỉ, đan xen niềm ân hận, day dứt, xót xa vì đã lỡ lãng quên trăng, có cả sự xót xa tiếc nuối.

+ Phép liệt kê : đồng, sông, bể + biện pháp so sánh : như là → nhịp thơ trở nên dồn dập, mạnh mẽ hối hả, diễn tả sự dâng trào của cảm xúc trước sự ùa về của kỉ niệm sống động trong kí ức: lúc ấy con người và vầng trăng sống chan hòa, là tri âm tri kỉ.

→ Trong khoảnh khắc bất ngờ gặp lại vầng trăng, vầng trăng đã gọi về những hồi ức cao đẹp, những xúc cảm trong trẻo thuần khiết của tuổi ấu thơ; gọi bao nhiêu cảnh tượng rộng lớn của thiên nhiên đất nước bình dị, và gọi về quá khứ nghĩa tình gian lao.

→ Nhà thơ đối diện với trăng là đối diện với tuổi ấu thơ, tuổi trưởng thành, tuổi hoa niên và một phần của cuộc đời

Khổ 6: Suy ngẫm và triết lí sâu sắc của nhà thơ

- Hình ảnh ẩn dụ: “Trăng tròn vành vạnh” + phó từ cứ → trăng vẫn nguyên vẹn, không hề thay đổi, mang vẻ đẹp cho thiên nhiên vĩnh hằng. Hình ảnh này ẩn dụ cho tình cảm tròn đầy, vẹn nguyên của nghĩa tình quá khứ, của thiên nhiên, cuộc đời, đất nước, nhân dân nhân hậu bao dung.

- Biện pháp tương phản đối lập: 

Trăng tròn vạnh vạnh >< Người vô tình → con người có thể vô tình lãng quên, nhưng thiên nhiên, nghĩa tình quá khứ thì luôn tròn đầy, bất diệt.

+ Đối lập trạng thái: cái im phăng phắc của vầng trăng và cái giật mình thức tỉnh của con người khi soi vào vàng trăng ấy.

Ánh trăng im phăng phắc → trăng được nhân hóa thành người bạn, một chứng nhân tình nghĩa mà nghiêm khắc, trăng nghiêm khắc phê phán nhưng không một lời trách cứ, gợi ta liên tưởng tới cái nhìn nghiêm khắc mà bao dung, độ lượng của người bạn thủy chung, tình nghĩa. Chính sự nghiêm khăc, bao dung độ lượng của trăng đã cảm hóa  khiến con người phải tự vấn lòng mình để mà giật mình nhận ra sự vô tình bạc bẽo của mình. 

- Soi vào vầng trăng tròn vành vạnh lặng lẽ tỏa sáng, vừa độ lượng, vừa nghiêm khắc con người “giật mình”:

+ Giật mình, thấu hiểu hơn sự thủy chung, vẹn nguyên của vầng trăng và cũng nhận ra sự thay đổi của bản thân, sự vô tình bạc bẽo của bản thân đối với quá khứ ân tình.

+ Giật mình là sự tự vấn lương tâm để tự nhắc nhở tự cảnh tỉnh với chính mình để sống có ân nghĩa, thủy chung với quá khứ gian khổ mà đẹp đẽ của đồng đội, của nhân dân.

→ đây là sự ăn năn nhân bản, sự thức tỉnh của nhân cách.

- Tác giả dùng ánh trăng không phải vầng trăng → vì ánh trăng là ánh sáng dịu hiền, có khả năng len lẻn vào trong phần khuất lấp của tâm hồn → thức tỉnh con người hướng đến những giá trị tốt đẹp.

→ Triết lí : gợi nhắc và củng cố thái độ sống thủy chung ân tình với quá khứ, đó là đạo lí uống nước nhớ nguồn.

D. Sơ đồ tư duy

Tác giả tác phẩm Ánh trăng – Ngữ văn lớp 9 (ảnh 1)

Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Ánh trăng

Phân tích bài thơ Ánh trăng năm 2021

Dàn ý chi tiết Phân tích bài thơ Ánh trăng

1, Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

-  Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mỹ. Sau 1975, những sáng tác của ông càng trở nên sâu sắc, đa nghĩa, thể hiện sự đa diện của cuộc sống.

-  Bài thơ nói tới hình ảnh quen thuộc trong thi ca, nhưng với một hơi thở hiện đại, mang nhiều suy tư, ý nghĩa ánh trăng trở nên khác biệt.

2, Thân bài

a, Con người trong quá khứ hòa mình với thiên nhiên, vầng trăng là tri kỉ

- Kí ức tuổi trẻ sống chan hòa với thiên nhiên, sống chân chất giản dị:

+ Lúc còn nhỏ: “sống với đồng”, “với sông”, “với bể”.

+ Trong thời chiến tranh: ở rừng, cuộc sống khó khăn thiếu thốn, tuy vất vả nhưng vẫn đầy nét thơ mộng vì có trăng làm tri kỷ.

⇒ thiên nhiên nuôi dưỡng tâm hồn con người trở nên thơ ngây, trong trẻo: “trần trụi”, “hồn nhiên” không đắn đo suy nghĩ, không toan tính thiệt hơn. Trong khó khăn con người sống đùm bọc nhau, che chở cho nhau như rừng như núi che chở cho quân dân khỏi kẻ thù.

- Hình ảnh trăng lúc đó là vầng trăng “tình nghĩa”, vầng trăng bầu bạn, vầng trăng hi vọng: theo chân con người trong những buổi hành quân, soi sáng con đường những đêm tối, đem lại cảm giác bình yên, an ủi như người thân.

b, Con người ở hiện tại lãng quên quá khứ

- Hoàn cảnh hiện tại: ở thành phố đầy đủ tiện nghi với “ánh điện cửa gương”, nhà cao tầng.

- Vị trí của trăng hiện tại: “Như người dưng qua đường”, trở nên nhỏ bé, xa lạ.

⇒ Thủ pháp nghệ thuật đối lập giữa hai khổ thơ đầu với khổ thơ thứ ba tạo sự khác biệt, thay đổi một cách chớp nhoáng của hoàn cảnh sống, của lòng người.

c, Sự đối diện giữa trăng và người

- Hoàn cảnh: mất điện, sự tiện nghi của cuộc sống hiện đại đột ngột biến mất, quay trở về thuở quá khứ khó khăn, tăm tối ⇒ nhân vật mở cửa sổ và thấy vầng trăng tròn, tỏa sáng.

⇒ Tác giả sử dụng một loạt tính từ, động từ mạnh: thình lình, tối om, vội, bật tung, đột ngột.

- Sự đối diện giữa nhân vật với vầng trăng như đối diện với chính mình, với quá khứ:

+ Tư thế đối mặt: Ngửa mặt lên nhìn mặt

+ Vầng trăng gợi lại những kỉ niệm trong quá khứ: đồng, bể, sông, rừng – mỗi địa điểm gắn với đường đời của nhân vật đều có ánh trăng làm bạn.

+ Cảm xúc: trăng là hiện thân của tất cả những gì đã qua trong quá khứ, là tuổi thơ, là chiến tranh gian khổ nhưng hào hùng, là sự hi sinh xương máu nhưng đánh đổi lấy cuộc sống hiện tại tự do, đủ đầy. Nhân vật đã lãng quên tất cả, mải mê hưởng thụ cuộc sống mới, đến khi nhìn lại thì như đánh mất một phần bản thân mình, xúc động và hối hận.

d, Sự nhắc nhở, thức tỉnh con người không được quên giá trị truyền thống, không được quay lưng với quá khứ

- Sự bất biến của quá khứ, của giá trị truyền thống: Trăng vẫn luôn “tròn vành vạnh”, là vầng trăng của sự bao dung, tha thứ (“kể chi người vô tình”). Trăng không biết nói, cũng như quá khứ không biết trách móc kẻ vô tình: “kể chi”.

- Sự giật mình thức tỉnh của nhân vật: không ai trách móc anh ta, nhưng tự bản thân anh đã nhận ra sai lầm của mình khi lãng quên quá khứ, bao gồm cả những gì tốt đẹp, trong trẻo lẫn khó khăn, mất mát.

- Liên hệ so sánh với câu nói nổi tiếng của nhà thơ Gamzatov: “Nếu anh bắn vào quá khứ bằng súng lục thì tương lai sẽ bắn vào anh bằng đại bác”

3, Kết bài: Khái quát giá trị bài thơ:

- Bài thơ cho thấy những ý nghĩa khác của hình ảnh vầng trăng: vầng trăng còn mang ý nghĩa như một chứng nhân lịch sử, chứng kiến cuộc sống của con người trong quá khứ.

- Bài thơ giàu tính triết luận, răn dạy con người không được lãng quên quá khứ, ghi nhớ nó với lòng biết ơn và lấy nó làm động lực phấn đấu cho tương lai.

Top 20 bài Phân tích bài thơ Ánh trăng hay nhất (ảnh 2)

 

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Ánh trăng – mẫu 1

“Văn chương chân chính dù sáng tác ở thời đại nào cũng góp phần gợi mở, định hướng giá trị sống cho con người hiện tại.” Quả thật vậy, mỗi tác phẩm văn học đều mang trong mình những bài học nhân sinh sâu sắc và tác phẩm “Ánh trăng” của nhà thơ Nguyễn Duy cũng là một tác phẩm văn học chân chính khi gửi gắm tới bạn đọc bài học có giá trị muôn thời – bài học về lối sống ân nghĩa, thủy chung.Tác phẩm “Ánh trăng” được Nguyễn Duy sáng tác năm 1978 khi đất nước đã giải phóng được khoảng ba năm. Bước ra khỏi cuộc sống chiến đấu gian khổ đề sống những ngày tháng hòa bình, độc lập, con người ta thường dễ dàng lãng quên đi những quá khứ gian lao mà tình nghĩa của một thời. Bởi vậy, để nhắc nhở chính mình cũng như mọi người, Nguyễn Duy đã sáng tác nên bài thơ này,Mở đầu tác phẩm, tác giả đưa người đọc trở về sống trong những ngày tháng quá khứ với những kỷ niệm khó phai:

“Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hổi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỷ”

Sự xuất hiện của những hình ảnh “đồng”, “sông”, “bể”, “rừng” gợi cho ta liên tưởng đến khoảng không gian bao la, khoáng đạt. Không gian ấy cứ mỗi lúc được mở rộng hơn trước mắt chúng ta. Kèm theo đó là sự lớn khôn, trưởng thành của nhân vật trữ tình. Mới ngày nào chỉ là một đứa trẻ hồn nhiên nô đùa trên đồng ruộng sông nước quê hương vậy mà giờ đã trở thành người lính trường thành xông pha trận mạc gian khổ. Gắn bó thân thiết cùng với người lính, “vầng trăng trở thành tri kỷ”, luôn đồng hành, chia ngọt sẻ bùi cùng người lính trong suốt những đêm dài chiến dịch. Bởi vậy mà người lính năm xưa đã từng khẳng định:

“ngỡ không bao giờ quên

cái vầng trăng tình nghĩa”

“Ngỡ” có nghĩa là nghĩ, là tin, là tưởng. Nói ra điều này chứng tỏ người lính luôn tin tưởng rằng tình cảm gắn bó giữa mình và trăng sẽ mãi mãi bền chặt, không thể tách rời. tuy nhiên ngỡ không bao giờ quên có nghĩa là đã có lúc trót quên. Câu thơ mang chút ngậm ngùi, xót xa bởi những tình cảm gắn bó tưởng chừng không bao giờ thay đổi vậy mà giờ đã đổi thay. Dòng hồi tưởng về quá khứ khép lại nhưng cũng lại mở ra một bước ngoặt mới, tạo bước đệm để thể hiện được tư tưởng bài thơ.Chiến tranh kết thúc, người lính rời xa núi rừng gian khổ về với cuộc sống phố phường hiện đại, nơi có “ánh điện”, “cửa gương” xa hoa, hào nhoáng. Cuộc sống ấy hoàn toàn đối lập với cuộc sống kháng chiến gian khổ, thiếu thốn trước đây của người lính. Nhưng sự thay đổi về hoàn cảnh sống ấy lại tới một sự đổi thay khác – sự đổi thay trong lòng người:

“vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường”

“Người dưng” là người xa lạ không quen biết và đau đớn hơn là người dưng ấy lại đã từng là tri kỷ một thời. Thế mới biết sức mạnh cuộc sống vật chất ghê gớm đến mức độ nào. Nó có thể làm thay đổi cả lương tâm con người. Quên đi trăng đồng nghĩa với việc người lính đã quên đi quá khứ gian lao mà nghĩa tình, quên đi mất mát hi sinh của dân tộc, quên đi chính bản thân mình với những lý tưởng cao đẹp của một thời tuổi trẻ. Thế nhưng, một tình huống đã xảy ra:

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn – đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”

Từ láy “đột ngột” được đảo lên đầu câu nhấn mạnh thái độ ngạc nhiên, ngỡ ngàng của người lính khi gặp lại vầng trăng tròn vành vạnh trên bầu trời thành phố. Có thái độ ấy còn bởi vì bấy lâu nay người lính đã quên trăng, coi trăng là xa lạ nhưng vầng trăng vẫn hiện diện, vẫn thủy chung với con người một cách vẹn nguyên như thuở còn gian khó. Trong giây phút gặp lại “cố nhân” ấy, người lính có hành động “ngửa mặt lên nhìn mặt”. Tác giả không viết “ngửa mặt lên nhìn trăng” bởi lẽ ông đã thực sự coi trăng là một con người trong cuộc hội ngộ không hẹn trước. Chính trong lúc ấy, nhà thơ lại thấy “rung rung” bao nỗi niềm xúc cảm, muốn nói mà chẳng thể cất thành lời. Một lần nữa , các hình ảnh “đồng”, “sông”, “rừng”, “bể” lại một lần nữa xuất hiện mở ra những trang ký ức quá khứ nghĩa tình năm xưa. Trăng giờ đây hiện lên là biểu tượng cho vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên, đất nước; cho một thời quá khứ nghĩa tình; cho một thời tuổi trẻ với bao lí tưởng sống tốt đẹp.Đoạn thơ cuối kết tinh những suy ngẫm của người lính về vầng trăng:

“Trăng cứ tròn vành vạnh

kể chi người vô tình

ánh trăng im phăng phắc

đủ cho ta giật mình.”

Video bài văn mẫu Phân tích bài thơ Ánh trăng

Cấu trúc “cứ…kể chi…” gợi ra hình ảnh người và trăng trong trạng thái đối lập tương phản” trăng mãi thủy chung, nguyên vẹn dù con người có bội bạc, lãng quên. Nghệ thuật nhân hóa góp phần nhấn mạnh vẻ đẹp vĩnh hằng của thiên nhiên đất nước. Trong cuộc gặp gỡ, trăng không một lời trách mắng mà chỉ “im phăng phắc”. Phép nhân hóa khiến ta liên tưởng đến hình ảnh của vị quan tòa tuy bao dung độ lượng nhưng vô cùng nghiêm khắc khiến con người phải giật mình. Cái “giật mình” ở đây là cái giật mình đầy ý nghĩa. Người lính “giật mình” là bởi đã nhận ra được lỗi lầm của bản thân, những vô tình, sai phạm đáng trách. “Giật mình” còn do sự ăn năn, hối lỗi, xấu hổ trước vầng trăng tình nghĩa vẫn vẹn nguyên, tự thấy bản thân cần phải thay đổi cách sống. Có được những giây phút như vậy, con người sẽ sống trong sáng hơn, lương thiện hơn, tốt đẹp hơn. Bài thơ đi dần về những triết lí sâu sắc của cuộc đời. Nó là lời nhắc nhở ta về một đạo lí sống từ ngàn xưa của dân tộc ta – lối sống ân nghĩa, thủy chung, uống nước nhớ nguồn. Ta không được phép quên đi những mất mát hi sinh của những người đi trước, những người đã hi sinh mồ hôi và xương máu cho chúng ta ngày nay được hưởng một cuộc sống bình yên, độc lập. Bởi thế, mỗi người đặc biệt là thế hệ trẻ phải biết sống có trách nhiệm, sống sao cho xứng đáng với những gì mình được hưởng.Bài thơ được viết theo thể thơ năm chữ, chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của mỗi khổ khiến dòng cảm xúc liền mạch tạo cho bài thơ dáng dấp như một câu chuyện kể theo trình tự thời gian, kéo dài từ quá khứ đến hiện tại. Tác giả xây dựng được hình tượng vầng trăng giàu ý nghĩa biểu tượng, từ đó giúp nhà thơ truyền tải những thông điệp sâu sắc đến bạn đọc. Bài thơ không chỉ là câu chuyện của riêng tác giả mà là cả với những thế hệ đã từng đi qua chiến tranh, những ngày tháng gian lao mà nghĩa tình.

Đi qua ngày tháng bom rơi đạn lửa, con người ta sống trong thời bình bởi vậy mà dễ dàng quên đi một thời đã qua. “Ánh trăng” của Nguyễn Duy có giá trị muôn thời là bởi vậy. Nó đã định hướng một lối sống tình nghĩa, thủy chung không chỉ với thế hệ khi ấy mà cả hiện tại và mai sau.

Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Ánh trăng – mẫu 2

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã từng nhận định “Tác phẩm vừa là kết tinh của tâm hồn người sáng tác, vừa là sợi dây truyền cho mọi người sự sống mà nghệ sĩ mang trong lòng”. Với bài thơ Ánh trăng của Nguyễn Duy, nhận định đó trở nên đúng đắn và xác thực hơn bao giờ hết. Qua mạch cảm xúc dâng trào mãnh liệt, ta cảm nhận được một ngòi bút sâu sắc, một trái tim tinh tế rung động, trước những đổi thay nhỏ bé nhất, và cả một khát khao ước vọng truyền cho mọi người lẽ sống, cách sống trọn vẹn, tình nghĩa.Nguyễn Duy sinh năm 1948, ông thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Mĩ. Thơ ông thiên về chiều sâu nội tâm với những trăn trở day dứt, suy tư khôn ngôi. Hãy lật đến Anh trăng đầy chất triết lí, tìm về Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhẹ nhàng, tình cảm nhóm lại tình yêu gia đình với Hơi ấm ổ rơm,… ta sẽ cảm nhận rõ nhất những trăn trở, day dứt, suy tư say sưa ấy trong suốt những tác phẩm của ông.

Trong sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Duy, lung linh rực rỡ một “ánh trăng” tròn đầy. Ánh trăng ấy là lời thức tỉnh nhẹ nhàng mà hết sức sâu sắc về triết lí nhân sinh, lẽ sống thủy chung, tình nghĩa và những trăn trở suy nghĩ trước cuộc sống hiện đại đầy cám dỗ, đầy lãng quên và vô tình.Hai khổ thơ đầu tiên gợi lại những kỉ niệm đẹp, những tình cảm gắn bó giữa con người và vầng trăng trong quá khứ. Bốn câu thơ nhẹ nhàng như những lời thủ thỉ, tâm tình, kể về một quãng thời gian của tuổi thơ, tuổi trẻ, nhất là quãng thời gian chiến tranh gian khổ. Ngôn ngữ thơ mộc mạc, bình dị: “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh”. Câu thơ mở ra một không gian bao la, mênh mông sông nước, khoảng trời ấy nuôi lớn cả một tâm hồn tuổi thơ với bao khát vọng, khoảng rộng ấy được mở ra rồi thu lại khăng khít, gắn bó với quá khứ biết bao tình nghĩa. Điệp từ “với” được nhắc lại ba lần, nhấn mạnh sự thân thiết, gần gũi giữa con người với thiên nhiên:

“Hồi nhỏ sống với đồng

với sông rồi với bể

hồi chiến tranh ở rừng

vầng trăng thành tri kỉ”

Cuộc sống “hồi nhỏ”, “hồi chiến tranh” tuy khó khăn, vất vả mà chan hòa với thiên nhiên. Cuộc sống ấy bình dị, vô tư và mênh mông hoài bão như thiên nhiên, như cánh rừng mặt bể. Chợt nhận ra, ta có một người bạn hiền hòa, gắn bó, “tri kỉ” – vầng trăng tròn đầy, hiền dịu. vẻ đẹp của trăng xoa dịu những vết thương do chiến tranh gây ra, xoa dịu những mỏi mệt, buồn đau của cuộc sống ấy; trăng vỗ về cho con người bằng những sẻ chia lặng im, bằng những đêm sát cánh bên nhau “đầu súng trăng treo”. Trăng theo ta trên mọi bước đường đi, là người bạn đồng hành tin cậy nhất. Vì lẽ ấy, trăng chính là hiện thân của quá khứ, của kí ức chan hòa tình nghĩa:Trần trụi với thiên nhiên hồn nhiên như cây cỏ ngỡ không bao giờ quên cái vầng trăng tình nghĩa Vầng trăng đã được nhân hóa cao độ để trở thành người bạn tinh thần của nhà thơ, một người bạn tri âm tri kỉ tưởng chừng sẽ không bao giờ quên được. Thế nhưng, giữa dòng hồi tưởng tươi đẹp và bình yên, tác giả chợt bất ngờ có những băn khoăn, vướng bận, mờ hồ, báo hiệu cho sự xuất hiện của những biến chuyển trong câu chuyện. Từ “ngỡ” như điểm tiếp nối tinh tế giữa hai khổ thơ, làm bài thơ giữ được nét uyển chuyển trong cả nội dung và ngôn từ.Khép lại nhẹ nhàng đẹp như mơ trong quá khứ ngòi bút tác giả đưa ta đến với hiện tại, với những đổi thay, xa cách trong lòng người. Chiến tranh qua đi, người lính trở về guồng quay xô bồ và náo nhiệt của cuộc sống. Tác giả nhận ra một quy luật đáng buồn của cuộc sống: khi được sống trong nhung lụa ấm êm, con người ta dễ quay lưng lại với quá khứ vất vả, nghèo nàn, dù đó có là một quá khứ mơ mộng, đẹp đẽ và đáng quý. Quy luật ấy đi từ sự lãng quên, đổi thay quá nhanh của con người:

“Từ hồi về thành phố

quen ánh điện cửa gương

vầng trăng đi qua ngõ

như người dưng qua đường”

“Ánh điện, cửa gương” là cách nói hoán dụ cho cuộc sống tiện nghi hiện đại, xa rời thiên nhiên. Từ đổi thay trong hoàn cảnh sống, lòng người cũng dần đổi thay, khó nhận ra, mà hay là đã nhận ra nhưng cố tình quên đi. Vầng trăng từ chỗ là người bạn thân thiết gắn bó trở thành “người dưng qua đường”. Vầng trăng thì một mực thủy chung tình nghĩa “đi qua ngõ” như đợi người bạn cũ nhận ra, thế nhưng người bạn cũ ngày xưa nay đã quen với ánh sáng của đèn điện vàng bọt giả tạo, giam mình trong bốn bức tường bê tông gạch đá chật hẹp tù túng mà tưởng cuộc sống đã sung sướng hơn xưa. Người ta đã để cho xi măng láng trơn tuột đi những rung động, xúc cảm tinh tế của trái tim, và trát kín cả những khe sáng huyền diệu từ quá khứ rọi về. Sống cuộc sống như thế, phải chăng ta đang đánh đổi cái giàu có trong tâm hồn lấy những tiện nghi hiện đại phù phiếm xa hoa, khi mà hạnh phúc đích thực luôn là một trái tim tràn đầy tình yêu thương!Sự lãng quên ấy có thể là mãi mãi nếu không có một chuyển biến bất ngờ: thành phố bị mất điện. Hoàn cảnh bài thơ là bước ngoặt tạo cảm xúc dâng trào, giúp nhà thơ bộc lộ rõ nét cảm xúc, tư tưởng chủ đề của tác phẩm.

“Thình lình đèn điện tắt

phòng buyn-đinh tối om

vội bật tung cửa sổ

đột ngột vầng trăng tròn”

Tình huống tưởng như không có gì mới mẻ, lạ lẫm, nhất là những năm đầu giải phóng như thời điểm sáng tác bài thơ – năm 1978, nhưng đặt vào hoàn cảnh tác giả, nó làm nổi bật lên sự đối lập tương phản giữa ánh sáng và bóng tối. Các từ ngữ “thình lình”, “vội”, “bật tung” tạo nhịp thơ nhanh, mạnh; để rồi tất cả như sững lại, lặng đi bởi một vầng trăng tròn” “đột ngột” và lung linh. Chính khoảnh khắc ấy đã làm nổi bật lên ý nghĩa tuyệt đẹp của toàn bài: con người vội vã, gấp gáp với cuộc sống hiện đại khi nhận ra vẻ đẹp của thiên nhiên, cuộc sống thì thật bàng hoàng, sững sờ. Đã có “ánh điện” sáng trưng, người ta đâu cần ánh trăng huyền diệu lờ mờ nữa, chỉ đến khi thứ ánh sáng nhân tạo kia mất đi, người ta mới nhận ra người bạn cũ từng nguyện mãi mãi không quên và sững người trước người bạn trăng tròn đầy, vẹn nguyên, luôn chung thủy đợi chờ. Khoảnh khắc người và trăng mặt đối mặt thì tình xưa nghĩa cũ dâng lên đến tràn đầy. Cuộc hội ngộ bất ngờ tạo rung động mạnh mẽ và thức tỉnh lương tâm con người; cái “đột ngột” không phải ở trăng, mà ở chính tâm trạng tác giả – tâm trạng thảng thốt, ngỡ ngàng của con người trước sự đổi thay của lòng mình và Sự vẹn tròn của trăng, để từ đó đi đến những day dứt, suy tư.Nếu như khổ thơ thứ tư đẩy tình huống thơ đến cao trào thì khổ thơ thứ năm lại “rưng rưng” trong sự xúc động mãnh liệt của nhà thơ.

“Ngửa mặt lên nhìn mặt

có cái gì rưng rưng

như là đồng là bể

như là sông là rừng”

...................................................

 

 

Tài liệu có 7 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống