Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 10 tài liệu sơ đồ tư duy bài Chiến thắng Mtao Mxây hay nhất, gồm 14 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Chiến thắng Mtao Mxây Ngữ văn lớp 10.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Chiến thắng Mtao Mxây dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 10:
Chiến thắng Mtao Mxây
Bài giảng: Chiến thắng Mtao Mxây
A. Sơ đồ tư duy bài Chiến thắng Mtao Mxây
B. Tìm hiểu bài Chiến thắng Mtao Mxây
I. TÁC PHẨM
1. Thể loại: Sử thi
Là các tác phẩm tự sự dân gian có quy mô lớn, sử dụng ngôn từ có vần, nhịp, xây dựng các hình tượng nghệ thuật hoành tráng, hào hùng để kể về một hay nhiều biến cố lớn diễn ra trong đời sống cộng đồng của cư dân thời cổ đại.
2. Vị trí đoạn trích:
Ở phần đầu sử thi “Đăm Săn”.
3. Tóm tắt đoạn trích:
- Bị Mtao Mxây lừa lúc vắng nhà, cướp phá buôn, cướp vợ Hơ Nhị.
- Đăm Săn tổ chức đánh trả Mtao Mxây.
- Đoạn trích kể về cuộc giao chiến giữa Đăm Săn và Mtao Mxây. Đăm Săn chiến thắng, cứu được vợ và thu phục được dân làng của tù trưởng Mtao Mxây.
4. Bố cục
+ Phần 1 (Từ đầu đến … rồi vào làng): Cảnh trận đánh giữa hai tù trưởng và cuộc đối đáp giữa Đăm Săn với nô lệ.
+ Phần 2 (Còn lại): Cảnh ăn mừng sau chiến thắng và hình tượng Đăm Săn.
5. Giá trị nội dung
Vẻ đẹp của người anh hùng sử thi Đăm Săn: Trọng danh dự, gắn bó với hạnh phúc gia đình, thiết tha với cuộc sống bình yên, phồn thịnh của cộng đồng.
6. Giá trị nghệ thuật
Nghệ thuật của sử thi anh hùng: Xây dựng thành công nhân vật, ngôn ngữ trang trọng, giàu hình ảnh, nhịp điệu; phép so sánh, phóng đại.
II. DÀN Ý PHÂN TÍCH
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” (giá trị nội dung, nghệ thuật).
2. Thân bài
a. Giới thiệu khái quát về đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”
- Vị trí đoạn trích: Ở phần đầu sử thi“Đăm Săn”.
- Tóm tắt đoạn trích:
+ Bị Mtao Mxây lừa lúc vắng nhà, cướp phá buôn, cướp vợ Hơ Nhị.
+ Đăm Săn tổ chức đánh trả.
+ Đoạn trích kể về cuộc giao chiến giữa Đăm Săn và Mtao Mxây. Đăm Săn chiến thắng, cứu được vợ và thu phục được dân làng của tù trưởng Mtao Mxây.
b. Hình ảnh Đăm Săn và Mtao Mxây trong cuộc chiến
* Lúc khiêu chiến:
Đăm Săn
- Đứng tại chân cầu thang nhà kẻ thù khiêu chiến: Ta thách nhà ngươi…
- Xuống! Xuống!
- Ta sẽ lấy cái sàn hiên…bổ đôi…
- Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi…
Một tư thế đàng hoàng, tự tin, chủ động, một thái độ dứt khoát, quyết liệt.
MTao – Mxây
- Đứng tại nhà của mình: Ta không xuống đâu…
- Ngươi không được đâm ta…
- Ta sợ ngươi đâm ta…
- Dáng tần ngần do dự…
→ Một thái độ do dự, thiếu tự tin, nhát sợ trước Đăm Săn.
* Lúc giao tranh:
Đăm Săn
Hiệp 1
- Khiêu khích, thách Mxây múa trước.
- Bình tĩnh, thản nhiên.
Hiệp 2
- Đăm Săn múa trước: múa khiên vừa khoẻ, vừa đẹp (vượt đồi tranh, đồi lồ ô, chạy vun vút qua phía đông, phía tây...)
- Nhai được miếng trầu của vợ → mạnh hơn.
Hiệp 3
- Đăm Săn múa, đuổi đánh, đâm trúng kẻ thù nhưng không thủng → cầu cứu thần linh.
Hiệp 4
- Được ông Trời mách kế.
- Đuổi theo.
- Giết chết kẻ thù.
Mtao Mxây
Hiệp 1
- Múa khiên như trò chơi, khiên kêu lạch xạch như quả mướp khô, tự xem mình là tướng quen đánh trăm trận, quen xéo nát đất đai thiên hạ (chủ quan, ngạo mạn).
Hiệp 2
- Hoảng hốt trốn chạy bước cao bước thấp (yếu sức).
- Chém trượt, chỉ trúng chão cột trâu.
- Cầu cứu Hơ Nhị.
Hiệp 3
- Chạy, vừa chạy vừa chống đỡ.
Hiệp 4
- Vùng chạy cùng đường, xin tha mạng.
- Bị giết.
* Hình tượng Đăm Săn: Mang vẻ đẹp dũng mãnh, kỳ vĩ, sức mạnh siêu phàm, tầm vóc thần linh - hội tụ sức mạnh cộng đồng. Đây cũng là ước mơ, khát vọng của cộng đồng có được người anh hùng chiến thắng mọi thế lực…
* Ngôn ngữ: Giàu hình ảnh, từ ngữ có ấn tượng mạnh,động từ mạnh, nhịp điệu vừa cân đối vừa hào hùng. Phép trùng điệp, trùng lặp trong tổ chức câu. Phép phóng đại, so sánh ở mức độ kỳ vĩ với sức mạnh của thiên nhiên, thần linh…
* Ý nghĩa của cuộc giao tranh và chiến thắng của Đăm Săn
- Kết quả:
+ Giải thoát cho vợ (không được chú tâm miêu tả).
+ Thu phục nô lệ, của cải, mở rộng đất đai.
- Ý nghĩa:
+ Trọng danh dự, bảo vệ hạnh phúc gia đình.
+ Mang lại sự phồn thịnh, lớn mạnh cho cộng đồng.
+ Khát vọng cuộc sống bình yên.
c. Cảnh ăn mừng chiến thắng và hình tượng Đăm Săn
* Thái độ của cộng đồng đối với cuộc chiến và người anh hùng
- Cuộc đối thoại giữa Đăm Săn và nô lệ: 3 lần hỏi, 3 lần đáp (một nhà, tất cả các nhà, mỗi nhà).
+ Các nô lệ tự nguyện đi theo, mang theo của cải.
+ Tuân phục tuyệt đối với cá nhân anh hùng.
- Dân làng Đăm Săn đối với chiến thắng của tù trưởng:
+ Lời nghệ nhân: bà con xem…(điệp khúc) - tự hào, kiêu hãnh.
+ Cảnh ăn mừng tưng bừng, tiệc tùng linh đình.
- Các tù trưởng khác cũng ngưỡng mộ, chúc mừng.
Niềm vui mừng, phấn khởi, tự hào, đấy là chiến thắng của chính họ. Ca ngợi tù trưởng anh hùng của mình.
* Nghi lễ
+ Tế lễ thần linh.
+ Tổ chức ăn mừng: đánh chiêng, rượu thịt nhiều vô kể.
+ Mọi người chúc mừng…
- Quan niệm tôn thờ thần linh, tập tục ăn mừng chiến thắng của người Ê - Đê.
* Hình ảnh Đăm Săn
+ Lời hiệu triệu: ơ các con, ơ các con…, hỡi anh em trong nhà, hỡi bà con trong làng…
+ Lời chỉ huy, ra lệnh: hãy đánh chiêng lên, hãy đi lấy rượu…
+ Hình dáng, cơ thể: đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch, bắp chân to bằng cây xà ngang…
+Trang phục: ngực quấn một tấm mền chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ..
+ Hình ảnh ăn uống, vui chơi: uống không biết say, ăn không biết no, chuyện trò không biết chán, tóc thả trên sàn…
+ Sức mạnh: nằm sấp thì gãy rầm sàn, nằm ngửa thì gãy xà dọc.
- Đặc điểm nghệ thuật: Những đoạn văn dài, câu dài với so sánh phóng đại trùng điệp, liệt kê trùng điệp, kiểu câu cảm thán, hô ngữ, hình ảnh hào hùng, nhịp điệu nhịp nhàng, sôi nổi…tạo nên vẻ đẹp của văn phong sử thi.
- Ý nghĩa của việc mô tả đậm nét cảnh ăn mừng chiến thắng:
+ Bộc lộ quan điểm về chiến tranh bộ tộc lúc bấy giờ: mở rộng cộng đồng, đồng tình với sự phát triển, lớn mạnh của cộng đồng → Cho nên bộc lộ niềm vui say sưa ca ngợi chiến thắng, hướng về cuộc sống thịnh vượng, no đủ đoàn kết. Đó là khát vọng lớn lao cao đẹp của xã hội Ê - đê.
3. Kết bài
- Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật.
+ Nội dung: Ca ngợi người anh hùng tài năng, phẩm chất cao đẹp: trọng danh dự, gắn bó với hạnh phúc gia đình, thiết tha với sự phồn vinh của thị tộc.
- Khát vọng cao đẹp của con người đã được khẳng định từ ngàn xưa.
+ Nghệ thuật: Xây dựng hình tượng anh hùng kỳ vĩ tầm vóc thần linh. Ngôn ngữ giàu hình ảnh, nhạc điệu, trang trọng với phép so sánh và phóng đại độc đáo. Câu cảm thán, hô ngữ, trùng điệp, liệt kê,…
→ Tạo nên một phong cách riêng cho Sử thi: Phong cách lãng mạn hào hùng, đầy sức hấp dẫn.
III. MỘT SỐ CÂU HỎI ĐỌC HIỂU VÀ BÀI PHÂN TÍCH
Câu hỏi: Đọc văn bản sau và trả lời câu hỏi từ 1 đến 4:
Đọc những câu văn sau đây và trả lời câu hỏi:
“Đến lúc này, Mtao Mxây bảo Hơ Nhị quăng cho hắn miếng trầu. Nhưng Đăm Săn đã đớp được miếng trầu. Chàng nhai trầu, sức chàng tăng lên gấp bội.”
(…)Đến lúc này Đăm Săn đã thấm mệt. Chàng vừa chạy vừa ngủ mộng thấy ông Trời.
Đăm Săn: Ối chao,chết mất thôi ông ơi ! Cháu đâm mãi mà không thủng hắn!”.
Ông Trời: “Thế ư, cháu? Vậy thì cháu hãy lấy một cái chày mòn ném vào vành tai hắn là được”.
Đăm Săn bừng tỉnh, chộp ngay một cái chày mòn, ném trúng vào vành tai kẻ địch.”
(Trích Đăm Săn - sử thi Tây Nguyên)
1. Ý nghĩa của hình ảnh miếng trầu trong đoạn trích trên?
2. Vai trò của ông Trời đối với cuộc chiến đấu và chiến thắng của Đăm Săn được thể hiện như thế nào?
3. Sáng tạo chi tiết miểng trầu và nhân vật ông trời, tác giả dân gian muốn bày tỏ thái độ và tình cảm gì đối với nhân vật chính của tác phẩm?
4/ Viết đoạn văn ngắn (5 đến 7 dòng) bày tỏ suy nghĩ về vai trò của con người trong cuộc sống hôm nay.
Trả lời:
1/ Miếng trầu mang ý nghĩa biểu tượng cho sức mạnh của thị tộc tiếp sức cho người anh hùng. Người anh hùng trong xã hội cổ đại không thể sống tách rời thị tộc.
2/ Ông Trời là vị thần bảo trợ cho thị tộc. Ông Trời giúp đỡ và chỉ giúp đỡ cho những ai chiến đấu vì quyền lợi của thị tộc. Cần nói thêm là cả Đăm Săn và Hơ Nhị đều có nguồn gốc thần linh. Đó chính là ngọn nguồn tài năng, sức mạnh kì vĩ mà nhân vật có được. Trong thời đại sử thi, con người không thể chiến thắng nếu không dựa vào sự giúp sức của thần linh. Mối quan hệ giữa con người và thần linh gần gũi, mật thiết thậm chí bình đẳng thân tình. Điều đó phản ánh dấu vết của tư duy thần thoại cổ sơ, dấu vết của xã hội chưa có sự phân hóa giai cấp rạch ròi.
Thần linh có tham gia vào việc con người nhưng chỉ đóng vai trò gợi ý, cố vấn, không quyết định kết quả cuộc chiến. Kết quả đó hoàn toàn phụ thuộc vào hành động của người anh hùng. Điều đó biểu hiện của ý thức dân chủ công xã thời thị tộc cổ xưa.
3/ Qua cách kể lại cuộc chiến, chúng ta thấy được thái độ yêu mến, tự hào của tập thể cộng đồng (dân làng Ê-đê) đối với chiến thắng của cá nhân anh hùng (tù trưởng ĐĂM SĂN)
4/ Đoạn văn đảm bảo các yêu cầu:
- Hình thức: đảm bảo về số câu, không được gạch đầu dòng, không mắc lỗi chính tả, ngữ pháp. Hành văn trong sáng, cảm xúc chân thành.
- Nội dung: Từ nhân vật Đăm Săn quyết định cho việc chiến thắng kẻ thù qua văn bản, thí sinh thấy được vai trò quan trọng của con người trong cuộc sống hôm nay. Từ đó, cần phải tôn trọng, bảo vệ con người, đề cao nhân quyền. Phê phán những hành động xâm phạm quyền sống và quyền lợi của con người. Rút ra bài học nhận thức và hành động.
Bài phân tích
Phân tích đoạn trích "Chiến thắng Mtao Mxây"
Nhân vật Đăm Săn nổi bật lên trong toàn bộ cuốn sử thi nói chung và đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây” nói riêng hai khía cạnh. Một mặt, đó là con người hội đủ những phẩm chất cá nhân như trí tuệ, tài năng, nhân cách, khát vọng. Mặt khác, đó còn là sự gắn bó, liên kết với cộng đồng mà chính chàng là tù trưởng. Với cái nhìn ấy, ta thấy nhân vật Đăm Săn đã tự khẳng định mình trong những biến cố, sự kiện ở đoạn trích “Chiến thắng Mtao Mxây”.
Xét về tình tiết trong mô hình cốt truyện thì cuộc giao tranh giữa Đăm Săn với các tù trưởng khác không chỉ xảy ra có một lần. Dường như nhu cầu mở rộng lãnh địa, tăng cường lực lượng, khẳng định quyền uy... là nguyên nhân sâu xa dẫn đến những cuộc giao tranh ấy. Nhưng trong các cuộc chiến xảy ra thì cuộc đối mặt giữa Đăm Săn với Mtao Mxây có tính chất điển hình hơn cả.
Đối thủ của Đăm Săn là Mtao Mxây, một đối thủ ngang tầm. Tuy võ nghệ không thuộc hàng cao thủ nhưng Mtao Mxây là một kẻ “túc trí đa mưu”, lấy sự sắc sảo, khôn ngoan làm sức mạnh cho mình. Không tin vào bản thân thì làm sao dám táo tợn cướp vợ của Đăm Săn! Và khi biết Đăm Săn tới để làm gì rồi mà còn khiêu khích “Ta không xuống đâu, diêng ơi. Tay ta đang còn bận ôm vợ hai chúng ta…”.
Thái độ nghênh chiến của Mtao Mxây khá đàng hoàng: “Bà con xem, khiên hắn tròn như đầu cú, gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. Trông hắn dữ tợn như một vị thần”. Có thể nói, đó là tư thế tự tin. Tự tin nhưng thận trọng. Hai lần Mtao Mxây nhắc Đăm Săn không được đâm mình khi Mtao Mxây đi xuống và lúc đi xuống rồi vẫn còn do dự, đắn đo. Cách ứng xử của Mtao Mxây theo lối “quân tử phòng thân” luôn đề phòng bất trắc.
Bước vào cuộc chiến, Mtao Mxây nhường cho Đăm Săn múa khiên trước với một thái độ khiêm tốn giả vờ. Giả vờ nói rằng võ nghệ của mình kém cỏi: “Ta như gà làng mới mọc cựa, như gà rừng mới mọc cựa êchăm, chưa ai giẫm phải mà đã gãy mất cánh”. Võ nghệ ấy là chắp vá: “Có cậu, ta học cậu. Có bác, ta học bác. Có thần Rồng, ta học thần Rồng”. Nhưng từ sự giả vờ ấy đã lộ ra một câu nói thật: “Thế ngươi không biết ta đây là một tướng đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, đã quên đi xéo nát đất đai thiên hạ hay sao?”. Không phải vô tình mà câu kể khan của người dẫn truyện ngay từ đầu đã phác ra cái vẻ sang trọng, tôn nghiêm, bề thế của Mtao Mxây, một tù trưởng giàu mạnh trong vùng. Cái cách giả vờ ấy phải chăng làm cho đối thủ chủ quan, khinh suất?
Mặc cho Đăm Săn khinh bỉ, mặc cho mình múa khiên không đẹp (múa “kêu lạch xạch như quả mướp khô”), tốc độ lại chậm chạp, nặng nề (“bước cao bước thấp”) nhưng Mtao Mxây không nản lòng. Y rắp tâm chờ cơ hội. Và khi cơ hội đến, hành động của Mtao Mxây nhanh hơn một chớp mắt: đâm lén Đăm Săn. Khi Mtao Mxây “chém phập một cái”, chắc chắn Đăm Săn không khỏi giật mình. May cho Đăm Săn là nhát chém quá nhanh và không ngờ ấy của địch lợi hại “chỉ vừa trúng một cái chão cột trâu”.
Hai trợ thủ cuối cùng của Mtao Mxây là miếng trầu của Hơ Nhị và cái áo giáp che thân. Đăm Săn chỉ vô hiệu hóa được con bài thứ nhất, đến con bài thứ hai thì Đăm Săn đã bất lực hoàn toàn. Đùi Mtao Mxây bị đâm trúng nhưng không thủng, người Mtao Mxây cũng thế. Nếu không có sự giúp sức của Ông Trời thì Đăm Săn chắc chắn sẽ trắng tay, cả danh dự và quyền uy vì chàng sẽ là người bại trận.
Nhìn chung cách khắc họa nhân vật (cả Mtao Mxây và Đăm Săn) của đoạn trích là kết hợp hai yếu tố: đối thoại giữa các nhân vật và lời người dẫn chuyện. Riêng với nhân vật Đăm Săn, tác giả cuốn truyện còn thực hiện phép đối xứng nghệ thuật nữa. Bằng cách ấy, nhân vật Đăm Săn xuất hiện như một điểm nhấn rực rỡ, sáng ngời.
Trước hết, chàng là người cương trực, thẳng thắn, không đê tiện, nhỏ nhen. Bởi vậy khi chạm vào những ý nghĩa hèn hạ, mờ ám của Mtao Mxây, Đăm Săn như người đụng phải lửa. Hai lần Mtao Mxây cất tiếng (“không được đâm ta khi ta đang đi xuống”) là hai lần Đăm Săn như thấy lòng tự trọng bị tổn thương. Qua đối thoại của chàng, ta cảm nhận được sự khinh khi, tức giận: “Ngươi xem, đến con lợn nái của nhà ngươi dưới đất, ta cũng không thèm đâm nữa là!”. Và đối lập với những ý nghĩ vẩn đục của Mtao Mxây, tâm hồn của Đăm Săn thật là trong sáng.
Mặc dù đến nhà Mtao Mxây để gây chiến vì Đăm Săn có lý do khiêu chiến, nhưng chàng không vội ra tay. Phải bình tĩnh đến mức nào đó để không làm cho cơn giận bùng lên, Đăm Săn mới nhường cho Mtao Mxây múa khiên trước. Chỉ thực sự gai mắt khi chứng kiến lời nói của đối thủ, khoác lác huênh hoang mà thực tài kém cỏi, Đăm Săn mới thực sự rung khiên.
Tài nghệ phi thường của Đăm Săn được chứng thực trong cuộc múa khiên hùng tráng. Có đến hai dụng ý nghệ thuật của tác phẩm sử thi mà người kể khan đã dùng đắc địa. Thứ nhất là biện pháp đối lập hai chiều (giữa cảnh Mtao Mxây múa gươm trước với cái cách múa khiên đầy tốc độ của Đăm Săn “Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô” là những đường gươm chậm chạp, nặng nề của Mtao Mxây: “bước cao bước thấp chạy hết bãi tây sang bãi đông”. Thứ hai là vai trò của người dẫn truyện. Trong đợt múa khiên tiếp theo, đối xứng nghệ thuật đã không còn. Thay vào đó là lời thuyết minh của người chứng kiến. Trong lần múa khiên này, võ nghệ của Đăm Săn không còn là tốc độ mà chuyển sang cường độ. Nếu tốc độ múa khiên của chàng cứ thấy “vun vút” (“vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây”) thì cường độ múa khiên của chàng lại là một trận bão lớn. Chỉ còn lại một hào hứng, một tung hô đầy kinh ngạc: “Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lăn lóc. Cây cối chết rụi. Khi chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Khi chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung…”. Thủ pháp cường điệu khoa trương thật thích hợp trong văn cảnh này. Nó làm đậm lên một sức mạnh, một năng lực phi phàm chỉ những người xuất chúng như Đăm Săn mới có. Như thế là kịch tính đã phát triển tới tốc độ, tính hàm súc, lắng đọng cũng đạt đến độ cao.
Nhưng sự cường điệu khoa trương không bao giờ là vô hạn. Sức mạnh của Đăm Săn quả là có giới hạn. Nó biết dừng lại ở sự có lý ngay cả trong tư duy có yếu tố thần thoại của tác phẩm sử thi. Trong trường hợp ấy cần có thần linh trợ giúp. Ông Trời, ông bụt hiện lên đúng lúc từ những giấc mơ. Trời, bụt giúp người hoạn nạn. Trời, bụt cũng giúp cho những khát vọng lớn của con người. Nhân vật ông trời ở đây đứng về phía Đăm Săn, phát hiện cho chàng cái “gót chân A-sin” của địch thủ. Chỉ tới lúc đó, Mtao Mxây mới không còn một thành lũy nào ẩn nấp. Khi cái áo giáp của Mtao Mxây rơi xuống, hắn mới hiện nguyên hình là một kẻ yếu đuối biết bao! Hình ảnh cái chuồng lợn, chuồng trâu bẩn thỉu đã xuất hiện ở đầu đoạn văn, nay được lặp lại với một ý vị mỉa mai trên một tinh thần khác. Ở lần thứ nhất nó liên quan đến nhân cách của Mtao Mxây thì lần thứ hai nó lại liên quan đến sức mạnh của một kẻ không còn gì đáng sợ nữa.
Nếu cuộc chiến giữa Đăm Săn với Mtao Mxây khắc họa một phương diện của Đăm Săn, phương diện con người cá nhân thì cảnh trở về và lễ ăn mừng chiến thắng lại mở ra một góc khác của con người anh hùng đó: con người cộng đồng, con người xã hội.
Vốn là một tù trưởng giàu mạnh, Đăm Săn có trách nhiệm với bộ tộc đã đành. Chính vì danh dự của Đăm Săn bị xúc phạm (Mtao Mxây cướp vợ của Đăm Săn) cũng là danh dự của bộ tộc bị xúc phạm mà chàng đã dấy binh. Chiến thắng kẻ thù rồi, danh dự được bảo vệ rồi, trách nhiệm của Đăm Săn tăng lên gấp đôi. Có trách nhiệm với tôi tớ, dân làng của mình, chàng có nghĩa vụ che chở cho tôi tớ, dân làng của Mtao Mxây nữa. Sự mở rộng địa bàn ở đây không có nghĩa thôn tính một cách áp đặt, giản đơn. Nó dựa trên nguyên tắc tự nguyện và người thủ lĩnh mới không hề có định kiến mà ngược lại hết sức bình đẳng, chân tình. Không một hiệu lệnh nào thúc ép, không một lời nói nào cao giọng răn đe. Đăm Săn đã gõ cửa từng nhà. Biện pháp nghệ thuật ở đây là hình thức tiếng vang. Một câu nói của Đăm Săn truyền đi, một câu trả lời vọng lại để rồi một câu hỏi từ đó lại lan xa từ nhà này qua nhà khác. Câu hỏi thứ nhất (của Đăm Săn): “Ơ nghìn chim sẻ, ơ vạn chim ngói! ơ tất cả tôi tớ bằng này! Các ngươi có đi với ta không?”. Câu trả lời thứ nhất (của dân làng): “Không đi sao được! Tù trưởng chúng tôi đã chết, lúa chúng tôi đã mục, chúng tôi còn ở với ai?”... Câu hỏi thứ hai (của Đăm Săn): “Ơ tất cả dân làng này, các ngươi có đi với ta không? Tù trưởng các ngươi đã chết, lúa các ngươi đã mục. Ai đi chăn ngựa hãy đi bắt ngựa! Ai giữ voi hãy đi bắt voi! Ai giữ trâu hãy đi lùa trâu về!”. Cứ như thế một cuộc chạy tiếp diễn ra tạo nên sự kết tinh, hòa đồng gắn bó hai bộ tộc của Đăm Săn và Mtao Mxây làm một.
Lễ mừng chiến thắng do đó không chỉ đóng khung trong nghĩa hẹp là trừng trị một kẻ ác (Mtao Mxây) đã thành công. Nó mang một ý nghĩa kép: vừa chiến thắng kẻ thù vừa nhân lên gấp đôi sức mạnh của bộ tộc. Bởi vậy, âm hưởng của bản anh hùng ca mới ngát trời hào hứng: rộn rã âm thanh của các loại chiêng có tiếng đồng tiếng bạc cùng với vòng nhạc rung lên làm cho tất cả mọi giống loài phải im tiếng để nhường chỗ cho một sự kiện trang nghiêm chưa từng có bao giờ. Và rồi sau cái phút nín lặng âm thanh ấy, một bản hòa ca còn hùng tráng hơn bởi có sự tham gia của “Lươn trong hang, giun trong bùn, rắn hổ, rắn mang đều chui lên nằm trên cao sưởi nắng”. Ếch nhái cũng hoan hỷ, vui mừng, cùng kỳ nhông ngoài bãi “kêu rên inh ỏi suốt ngày đêm”. Không gian cứ mở rộng ra đến cùng trời cuối đất. Không gian của niềm vui và không gian của danh tiếng Đăm Săn: “Nhà Đăm Săn đông nghịt khách... Các khách tù trưởng đều từ phương xa đến”. Lại nữa: “Danh vang đến thần, tiếng lừng khắp núi, đông tây đâu đâu cũng nghe danh tiếng Đăm Săn”.
Trong bối cảnh nhộn nhịp tưng bừng ấy, hình tượng Đăm Săn hiện lên như một vị thần: oai phong về ngoại hình và đầy sức sống tiềm tàng nội lực. Lúc Đăm Săn nằm trên võng nghỉ ngơi “Tóc thả trên sàn, hứng tóc chàng ở dưới đất là một cái nong hoa”. Còn khi xuất hiện trước đám đông thì rực rỡ với “Ngực quấn chéo một tấm mên chiến, mình khoác một tấm áo chiến, tai đeo nụ, sát bên mình nghênh ngang đủ giáo gươm, đôi mắt long lanh như mắt chim ghếch ăn hoa tre”. Đăm Săn, trong con mắt của tôi tớ, dân làng, khách khứa là một sức mạnh vô địch, “một trang tù trưởng mới giàu lên, đang tràn đầy sức trai, tiếng tăm lừng lẫy”.
Về nghệ thuật kể chuyện trong đoạn văn có những đặc điểm nổi bật như kể chuyện kết hợp với miêu tả tạo nên hứng thú của cảm giác liền mạch nhưng lại có điểm dừng, vừa bao quát vừa đi sâu vào từng chi tiết. Ở đây còn một sự kết hợp thứ hai giữa câu chuyện được kể và người kể nhằm cá thể hóa vai trò chủ quan vừa tạo không khí đang diễn ra vừa gây được sự đồng cảm của những người nghe trong hình thức diễn xướng. Riêng ngôn ngữ sử thi thì đoạn văn là một ví dụ điển hình. Ngôn ngữ ấy vừa giàu chất hội họa (thông qua hình ảnh) vừa giàu chất âm nhạc (thông qua nhịp điệu). Hình ảnh thì có khi là tả thực, có khi là phóng đại, cường điệu, khoa trương. Riêng về âm nhạc thì tuy đoạn văn được kể dưới hình thức văn xuôi nhưng rất gần với thơ ở nhịp điệu, tiết tấu cân xứng, hài hòa, du dương trầm bổng. Để chứng minh những điều nhận định trên đây không khó. Có điều chắc chắn là với cách kể ấy, với ngôn ngữ ấy, ta được lắng nghe một thứ phối hợp của nhiều thể loại, một thứ hòa thanh của nhiều nhạc cụ, làm thức dậy nhiều giác quan. Sức hấp dẫn của nó là không thể nào cưỡng nổi. Đó là dấu hiệu của một tác phẩm sử thi đạt tới đỉnh cao trong sự sáng tạo tuyệt vời.