Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 13 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi vào lớp 10 môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Bài giảng: Mã Giám Sinh mua Kiều
Truyện Kiều là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp sáng tác của đại thi hào Nguyễn Du, đồng thời nó cũng là tiếng lòng thổn thức, xót thương cho số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Đó không chỉ là số phận nàng Kiều mà còn là hình ảnh người phụ nữ bị vùi dập trong xã hội đương thời rối ren. Trong đó đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều chính là một bức tranh lột tả trần trụi về sự bất công trong chế độ bấy giờ.
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều nằm ở phần thứ hai thuộc “Gia biến và lưu lạc”. Sau khi gia đình họ Vương bị thằng bán tơ vu oán, gia đình rơi vào cảnh rối ren đau thương. Của cải bị cướp đoạt cha và em trai đều bị bắt bớ tra khảo dã man. Cái giá mà chúng đưa ra để kết thúc việc này là “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Trong phút bĩ cực chẳng còn cách nào Kiều đành phải nhắm mắt xuôi tay, gạt đi mối tình đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em.
Đoạn trích này chính là một nốt trầm buồn khởi đầu cho cuộc đời đầy bất hạnh truân chuyên của Kiều trong suốt 15 năm lưu lạc.Sau khi nghe tin Thúy Kiều bán mình chuộc cha đã gây xôn xao một vùng rộng lớn. Vì không ai là không nghe đến Thúy Kiều một người con gái tài sắc vẹn toàn. Chính vì thế Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối đến hỏi cưới nàng về làm lẽ.Thế nhưng thay vì miêu tả cặn kẽ con người con gã họ Mã, Nguyễn Du chỉ đi vào đẵ tả chi tiết tiêu biểu từ thần thái đến trang phục cử chỉ của nhân vật. Vì thế không ai biết rõ tung tích của Mã Giám Sinh chỉ biết gã họ Mã là người “viễn khách” đến. Câu trả lời cộc lốc không đầu không đuôi phần nào đã khắc họa hết bản chất của y:
“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: “huyện Lâm Thanh cũng gần”
Bằng ấy câu hỏi nhưng cũng chỉ biết hắn họ Mã, còn tên Giám Sinh là một cái tên chỉ chung những sinh viên trường Quốc tử giám. Thế là y không nói tên, còn quê quán cũng chẳng rõ ràng cụ thể. Cách nói năng của y thể hiện hắn là một kẻ thô tục, không hề có khí chất phi phàm nho nhã của những người có học.
Đi sâu vào miêu tả ngoại hình của y, Nguyễn Du đã có những câu thơ sau:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”
Bộ mặt nhẵn nhụi, bảnh bao phần nào thể hiện sự giả dối trong con người của hắn. Từ láy “nhẵn nhịu”, “bảnh bao” mang đến cho con người cảm giác trơ trẽn, phẳng phiu. Những từ ngữ miêu tả bề ngoại cùng với tuổi “trạc ngoại tứ tuần” càng khiến người đọc cảm thấy gờn gợn. Cái tuổi sắp lên lão mà còn tỉa tót ngoại hình tô vẽ cho mình thêm trẻ trung đôi mươi càng bộc lộc bản chất thực sự của gã buôn người họ Mã.Không chỉ dừng lại ở miêu tả ngoại hình mà cử chỉ của thầy tớ họ Mã cũng được Nguyễn Du nhắc đến “trước thầy sau tớ lao xao”.Đó là một lũ ô hợp nhốn nháo không có trật tự, sỗ sàng vô học. Đặc biệt hành động “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” càng nhấn mạnh sự thô thiển của một kẻ vô học đội lốt học trò trường Quốc tử giám. Ghế trên vốn là vị trí trang trọng dành cho bậc cao niên thế nhưng hắn là kẻ đi hỏi vợ phận làm khách lại làm vậy thật trướng mắt và vô lễ.Càng về sau cuộc mua bán thì Mã Giám Sinh càng thể hiện mình là một con buôn lọc lõi và từng trải:
“ Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”.
Nhưng trái với những lời lẽ hoa mỹ đó hành động của y càng thể hiện nhân cách thấp hèn cũng ngầm dự báo cho một cuộc đời đầy nước mắt của Kiều. Một loạt các cụm từ như “cò kè bớt một thêm hai”, “ngã giá”…. Chứng tỏ hắn là một con buôn lọc lõi, sành sỏi. Một kẻ buôn người đội lốt học trò trường Quốc tử giám nhưng ẩn sâu bên trong là một bản chất xấu xa, đê tiện và giả dối.Còn Kiều một “món hàng” được mang ra trao đổi suốt cuộc trò chuyện đó nàng chỉ biết im lặng. Hình như nỗi đau đớn tủi hổ, xót xa đã xâm chiếm toàn bộ tâm trí nàng. Từ một người con gái “kín cổng cao tường” nay biến thành món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của tú bà và Mã Giám Sinh thì sao tránh khỏi đau thương cho được.Nguyễn Du đã dùng một loạt các hình ảnh ẩn dụ tượng trưng để miêu tả tâm trạng lúc bấy giờ của Kiều như “ngại ngùng dợn gió e sương”, “nét buồn như trúc, điệu gầy như mai”…. Phần nào chúng ta cũng cảm thông trước sự đau đớn của một người con gái tài hoa mệnh bạc.
Có thể nói đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một trong những đoạn trích lấy đi nhiều nước mắt cũng như trăn trở của người đọc. Bằng bút pháp miêu tả chân thực, lối nói ẩn dụ tương trưng Nguyễn Du đã phần nào hé lộ một cuộc đời đầy biến động sóng gió của Kiều. Cũng là tiếng lòng đồng cảm xót thương cho số phận của những người phụ nữ trong xã hội đương thời đầy tai biến và đau thương.
1. Mở bài:
- Giới thiệu đoạn trích
- Giới thiệu hoàn cảnh của nhân vật Thúy Kiều: bán mình để chuộc cha và em trai.
2. Thân bài:
- Hình ảnh của Thúy Kiều trước khi gia đình gặp biến cố
- Sinh ra trong gia đình thượng lưu, lương thiện, vừa xinh đẹp tuyệt trần vừa trong trắng ngây thơ.
- Một buổi chiều xuân đi tảo mộ, nàng có hai cuộc gặp gỡ đầy định mệnh...
- Trước biến cố của gia đình, nàng biết chịu đựng và hi sinh khi quyết định bán mình chuộc cha...
- Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều trong cuộc trao đổi, mua bán:
- Tình cảnh tội nghiệp của Thúy Kiều:
- Nàng là một món hàng để người ta trao đổi, mua bán
- Ý thức được nhân phẩm
- Nỗi đau đớn, tái tê:
+ Buồn rầu, tủi hổ, ngại ngùng
+ Ê chề trong cảm giác thẹn với lòng
+ Đau đớn khi tình duyên tan vỡ...
- Tấm lòng của tác giả:
- Khinh bỉ, căm phẫn tố cáo thế lực vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của con người.
- Tác giả có cái nhìn cảm thông, thương cảm với số kiếp "hồng nhan bạc mệnh" của Thúy Kiều.
3. Kết bài:
- Nội dung: Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào sô phận ai oán, bi thương của Kiều.
- Nghệ thuật: Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ, dùng bút pháp tả thực để khắc họa, miêu tả.
Các bài mẫu khác:
Tác phẩm Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ gắn liền với tên tuổi của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện tập trung xoay quanh cuộc đời sóng gió của Kiều, cũng là cuộc đời của bao người phụ nữ trong thời phong kiến. Họ luôn phải chịu nhiều cay đắng, tủi nhục từ bọn người bất nhân, vô lương tâm dùng đồng tiền của mình chà đạp lên quyền sống của họ. Trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã lột tả trần trụi thân phận của nàng Kiều là một trường hợp tiêu biểu cho chế độ thời ấy.
Đoạn trích nằm ở đầu phần thứ hai (gia biến và lưu lạc). Sau khi bị thằng bán tơ vu oan , gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” bắt bớ, khảo tra, đánh đập dã man. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.
Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm.Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư luận cả một vùng rộng lớn vì không ai không biết đến nàng một người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:
“Hỏi tên rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Hai câu mà chỉ cung cấp được một thông tin nhỏ là hắn mang họ Mã. Còn tất cả đều mập mờ, không rõ ràng. “Giám Sinh” là tên gọi chung của các sinh viên trường Quốc tử giám chứ không phải là tên riêng. Còn “huyện Lâm Thanh” rộng bao la, ai biết hắn ở chỗ nào, gia thế ra sao?. Cách nói năng của Mã đã bộc lộ một phần về con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là nho nhã, thanh lịch của một chàng “giám sinh”, hạng người có học.Nguyễn Du đã chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.”
Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần trưng diện, cũng thiếu tự nhiên, Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn”. Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ ngoài nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một người đã “trạc ngoại tứ tuần” ( sắp lên lão ) lại tỉa tót công phu, lại cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn.
Chân dung của y còn rõ nét qua hành động. Chỉ một câu:
“Trước thầy sau tớ lao xao”
Nguyễn Du đã tô đậm cái cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh. Thầy tớ hắn có khác chi một lũ người ô hợp, nhốn nháo, lộn xộn, lưu manh lấc cấc.
Đặc biệt hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học, đội lốt người học trò trường Quốc tử giám, đã hiện lên khá rõ qua chi tiết:
“Ghế trên ngòi tót sỗ sàng”.
“Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc huynh trưởng, bậc đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là bậc con cái mà lại “ngồi tót” thì thật chướng mắt, vô lễ.Bản chất con buôn của Mã Giám Sinh bộc lộ đầy đủ hơn trong cuộc mua bán Kiều. Miệng nói những lời hoa mỹ:
Rằng:”Mua ngọc đến Lam Kiều”
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Nhưng hành động của y lại hoàn toàn trái ngược. Một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…” đã chứng tỏ Mã Giám Sinh là một kẻ buôn người sành sỏi, lọc lõi. Y đã lộ nguyên hình là một con buôn sành sỏi. Mã Giám Sinh đâu còn là người học trò trường Quốc tử giám như đã xưng danh. Mặc dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời hoa mỹ, ra vẻ lịch sự nhưng dần dần bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của y đã lộ rõ.Với bút pháp kết hợp giữa kể và tả, bằng một số nét phác họa về mối quan hệ mờ ám, vẻ ngoài chải chuốt, nói năng vô lễ, cử chỉ vô học, hành động vô lương, Nguyễn Du đã khắc họa sắc nét hình tượng Mã Giám Sinh, kẻ buôn người, từ ngoại hình đến tính cách. Mã Giám Sinh trở thành một điển hình bất hủ cho sự đê tiện, tàn ác.Nói đến Kiều trong toàn bộ cuộc mua bán này, Nguyễn Du đã để cho Kiều câm lặng, không nói được một lời nào. Nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề đã lên đến đỉnh điểm. Từ một người con gái, gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, nay biến thành một món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, làm sao không khỏi đau đớn cho được.Nguyễn Du đã sử dụng một loạt hình ảnh ẩn dụ, ước lệ, tượng trưng, lấy thiên nhiên làm chuẩn mực, để diễn tả tâm trạng của Kiều khác hẳn với đoạn miêu tả Kiều trong cuộc mua bán ở “Kim Vân Kiều truyện”, từ đầu đến cuối, Kiều tuyệt nhiên không nói một lời. Điều đó chứng tỏ sự sáng tạo của Nguyễn Du, sự am hiểu sâu sắc và thấu đáo tâm lý nhân vật của đại thi hào.
Nguyễn Du không đưa ra một lời nhận xét, đánh giá trực tiếp nhưng qua một loạt các hình ảnh, từ ngữ miêu tả dáng vẻ, tâm trạng Kiều “Ngại ngùng dợn gió e sương…..mặt dày”, “nét buồn……..như mai” chúng ta cũng cảm nhận được sự cảm thông, xót xa cho người con gái đẹp tài hoa nhưng đã bị những thế lực hắc ám trong xã hội phong kiến ( bọn buôn thịt bán người, thế lực đồng tiền) chà đạp, biến thành một món hàng giữa chợ.Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật chính diện và phản diện và sự am hiểu của sâu sắc tâm lý nhân vật của ông trong tác phẩm. Ông đã phơi bày một cách chân thật bản chất đê tiện, xấu xa của Mã Giám Sinh đồng thời lên án xã hội phong kiến, tố cáo gay gắt sự tàn nhẫn của đồng tiền và những kẻ xấu xa đã chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm của người phụ nữ.
Thân phận của người con gái vốn đã rất mong manh, sinh ra vào thời phong kiến lại càng phải chịu nhiều những đau đớn và tủi nhục. Thúy Kiều một nhân vật trong truyện Kiều của Nguyễn Du là tiêu biểu cho thân phận của người phụ nữ lúc bấy giờ. Nguyễn Du đã đánh những lời ai oán, đau đớn nhất để nói về cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều”, đã lột tả trần trụi thân phận của nàng Kiều bị mua đi bán lại như món hàng vô tri vô giác.
Thuý Kiểu là người con gái tài sắc của một gia đình trung lưu nền nếp. Trong tiết Thanh minh, Thuý Kiểu tình cờ gặp Kim Trọng. Hai người nhanh chóng yêu nhau rổi hẹn ước thề nguyện. Bỗng dưng, Vương viên ngoại b| thằng bán tơ vu oan. Gia đỉnh tan nát, cha và em trai bi bắt bớ, đánh đập, Thuý Kiều đành phải bán minh chuộc cha rổi rơi vào lẩu xanh lán thứ nhất. Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu " trâm gãy bình tan".Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm. Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Nguyễn Du đã chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần trưng diện, cũng thiếu tự nhiên, Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn”. Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ ngoài nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một người đã “trạc ngoại tứ tuần” ( sắp lên lão ) lại tỉa tót công phu, lại cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn.Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:
“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Đặc biệt hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học, đội lốt người học trò trường Quốc tử giám, đã hiện lên khá rõ qua chi tiết: “Ghế trên ngòi tót sỗ sàng.” “Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc huynh trưởng, bậc đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là bậc con cái mà lại “ngồi tót” thì thật chướng mắt, vô lễ. Mã Giám Sinh xuất hiện trong buổi đến xem mặt như một kẻ bất nhân, đê tiện nhất
“Khác màu kẻ quỷ người thanh
Chẳng hay con lại mắc tay bợm già.”
Bản chất của Mã Giám Sinh lại càng rõ hơn khi hắn:
“Đắn đo cân sức cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.”
Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để "cò kè"mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp.
“Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm.”
Một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…” đã chứng tỏ Mã Giám Sinh là một kẻ buôn người sành sỏi, lọc lõi. Y đã lộ nguyên hình là một con buôn sành sỏi.Mã Giám Sinh đâu còn là người học trò trường Quốc tử giám như đã xưng danh. Mặc dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời hoa mỹ, ra vẻ lịch sự nhưng dần dần bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của y đã lộ rõ.Chính vì sự tủi nhục khi phải bán mình, lại càng đau đớn hơn khi bán cho một tên buôn người bỉ ổi và đê tiện như Mã Giám Sinh. Nguyễn Du đã không để cho Kiều nói được một lời nào trong suốt cuộc buôn bán, kỳ kèo của Mã Giám Sinh. Nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề đã được Nguyễn Du đẩy lên đến đỉnh điểm. Từ một người con gái, gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, nay biến thành một món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, làm sao không khỏi đau đớn cho được. Tâm tình nàng Kiều lúc này thật ngổn ngang, nỗi đau vì mối tình đầu tan vỡ, nỗi uất ức vì án oan mà cha và em trai phải chịu, nỗi xấu hổ, thẹn thùng khi bản thân lâm vào cảnh phải để người đàn ông lạ tới xem mặt,… Hình ảnh nàng khi bước chân ra khỏi khuê phòng thật muôn vàn xót thương :
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”
Nhìn cảnh vật nàng thấy xấu hổ ngại ngùng.Nước mắt của nàng thấm đẫm cả trang giấy, mỗi bước đi là mỗi bước xót đau. Những giọt nước mắt của tan nát, khổ đau làm quặn thắt lòng người đọc, khiên ai cũng thương thay cho thân phận nàng Kiều. Bước vào phòng khách với vẻ dè dặt, tủi hổ của người con gái khuê các
“Ngại ngùng dơn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trong gương mặt dày.”
Nỗi đau khổ ấy đã đến tột cùng khi chẳng một ai mảy may động tâm thương cho nàng , mụ mối thì vén tóc bắt tay , lạ lùng đối xử với 1 một món hàng còn Mã Giám Sinh thì đặt tài năng và nhan sắc lên cân đo đong đếm . Đến lúc này người con gái tài hoa nhan sắc ấy cảm thấy tủi hổ bẽ bàng:
“Mối càng vén tóc bắt bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào số phận ai oán, bi thương của Kiều trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc xảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dâp vùi. Đó là giá trị nhân đạo. Có thể nói đoạn trích là 1 tiếng khóc ai oán cho thân phận con người , cho nhân phẩn con người bị chà đạp phải chăng trái tim của nhà thơ đang rung lên nức nở cùng với nỗi đau của Thúy Kiều. Đáng ra con người tài sắc “mười phân vẹn mười” này xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc, vậy mà xã hội phong kiến thối nát đã chà đạp phũ phàng khiến nàng phải gánh chịu khổ đau và bất hạnh trong mười năm đoạn trường cay đắng. Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật chính diện và phản diện và sự am hiểu của sâu sắc tâm lý nhân vật của ông trong tác phẩm.
Đoạn thơ Mã Giám Sinh mua Kiều đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận đau khổ của những con người bi áp bức, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước nỗi đau của con người và lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo. Đồng thời bày tò sự trân trọng đối với khát vọng tự do, hạnh phúc và khát vọng công lí, chính nghĩa.
Truyện Kiều là một kiệt tác xuất sắc của nền văn học nước nhà, nó trở thành linh hồn cao đẹp của văn học Việt Nam, là "quốc hồn, quốc túy" của dân tộc. Cuộc đời và thân phận của Thúy Kiều trong tác phẩm thật đáng thương biết bao, người con gái trẻ trung, tài sắc ấy phải chịu biết bao nỗi bi kịch, bao phen sóng gió giữa cuộc đời đầy ô trọc. Đoạn trích "Mã Giám Sinh mua Kiều" là trích đoạn mở đầu cho phần 2 Gia biến và lưu lạc, Kiều từ một tiểu thư đài các, sống cuộc sống "êm đềm trướng rủ màn che" bị cuốn vào những biến cố khắc nghiệt của cuộc đời. Cũng qua đoạn trích này, tác giả Nguyễn Du đã thể hiện đầy tinh tế và sâu sắc tâm trạng đau khổ cùng nỗi bất an của nàng Kiều.
Cuộc sống gia đình vốn đang an ổn thì không hay lại gặp nạn bất ngờ, bị thằng tơ vu oan, cha và em trai Thúy Kiều bị bắt giam trong ngục, để được thả ra cần có một khoản tiền lớn để đút lót cho bọn quan lại, cường hào. Đấng sinh thành và em trai đang bị bọn sai nha hống hách bắt bớ, là phận làm chị cả, Kiều đâu thể dửng dưng. Thực hiện trách nhiệm của người làm con, làm trọn chữ hiếu không còn cách nào khác, Kiều đành bán mình cứu cha. Đoạn trích này nói về việc tên buôn người họ Mã đến mua Kiều, hắn cùng lũ tôi tới đến trong bộ dạng vừa nực cười vừa hống hách.
"Gần miền có một mụ nào
Đưa người viễn khách tìm vào vấn dành
Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh"
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần".
Kẻ viễn khách chẳng rõ tên tuổi, nơi ăn chốn ở đến, cách ăn nói thì cộc lốc, thiếu lễ độ, chẳng biết cả phép lịch sự tối thiểu trong giao tiếp là thưa, chào khi giao tiếp với người khác. Cách trả lời thiếu cụ thể, chi tiết về quê quán, gia đình,...cũng khiến người khác không khỏi không nghi ngờ về hắn. Tự xưng là thư sinh trường Quốc Tử Giám nhưng qua ngôn ngữ, lời nói của hắn thì không thấy được điều đó, phải chăng đó chỉ là vỏ bọc của một kẻ "giả danh tri thức" để làm điều bất chính, bất lương.
"Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao"
Dù tuổi đã ngoài bốn mươi, độ tuổi của người đã từng trải, trưởng thành và chín chắn, vậy mà cái vẻ bề ngoài, trên bộ trang phục hết sức bóng bẩy của hắn lại khiến ta không khỏi bật cười. Nhẵn nhụi, tỉa tót mày râu, áo quần thì trưng diện bảnh bao đến khó hiểu. Cách ăn mặc ấy, vẻ chăm chút sắc diện ấy không phù hợp với một người đã "ngoại tứ tuần" khiến cho hình ảnh của Mã Giám Sinh trở nên kệch cỡm, lố bịch. Kiểu cách khác người của chàng Mã còn được thể hiện qua những hành động sỗ sàng , bất lịch sự, thiếu tế nhị:
" Trước thầy sau tớ lao xao....
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng"
Đặc biệt, khiến ta kinh tởm hơn rất nhiều là những lời hoa mỹ hắn dùng để ngỏ lời mùa Kiều
"Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều"
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?"
Kiểu cách trang trọng là thế, ấy vậy mà rồi cái bản chất ranh ma, xảo quyệt của kẻ buôn người cũng bộc lộ rõ, hắn cò kè một, hai đồng với cả giá trị của một con người, với hắn, Kiều chính là thứ hàng hóa để trao đổi, mua bán. Bản chất con buôn thật sành sỏi, hắn biết cách lọc lừa, ngã giá để không chịu phần thiệt về mình, hắn cò kè để mong mua được Kiều với giá rẻ mạt nhất có thể. Là người ngoài cuộc, nhưng khi đọc đến những dòng này ta không khỏi không khỏi xót xa cho nàng Kiều, bất bình trước hành động của kẻ tàn nhẫn, đê tiện kia. Với người ngoài cuộc đã vậy, với một người con gái tài sắc, thông minh như Kiều chẳng phải sẽ thấm thía đến tận cùng sự kinh bạc, nỗi ề chề này sao. Nàng Kiều đã đã đau khổ bội phần bởi tình yêu lỡ dỡ, bởi phải xa cách mẹ cha, nay đứng trước sóng gió cuộc đời, nàng đau khổ nhưng vẫn đành phó mặc bản thân cho số phận, bởi với một "món hàng" như nàng thì đâu có quyền lựa chọn. Nàng im lặng không nói một lời, lặng lẽ bước đi, nước mắt tuôn thành dòng, đắng cay tận tâm can:
" Ngại ngùng giợn gió e sương
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng"
Chân bước đi mà lòng không đặng, trĩu nặng những nỗi đớn đau. Người con gái xưa kia phong lưu, hồng trần, tường đông ong bướm có đi về cũng mặc kệ chẳng để tâm, vậy mà giờ đây phải chịu đoạ đầy, trở thành món hàng phụ thuộc bởi kẻ khác, bị chà đạp đến rẻ rúng như vậy làm sao không ngại ngùng, không khổ sở được đây:
"Ngại ngùng dợn gió, e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai"
Chúng ép nàng đánh đàn, ca múa, chúng đắn đo, cân nhắc để rồi mặc cả, trả giá cho sự hoàn hảo của nàng. Những hành động vô thức, buồn bã của Kiều khiến ta không khỏi nhói lòng, xót thương. Kiều đã phải chịu đựng bao nỗi tủi nhục, hổ thẹn, đau buồn và đắng cay, điệu buồn hiện lên cả trên nét mặt, bao trùm lấy dáng hình gầy thương của Kiều. Đọc "Mã Giám Sinh mua Kiều", ta xót xa biết bao khi nhân phẩm con người bị chà đạp, giá trị còn người được đo bằng tiền bạc, vật chất rẻ rúng. Càng xót xa ta càng căm phẫn một xã hội bị tiền bạc chi phối, vì đồng tiền mà chẳng từ thủ đoạn, bất nhân. Những lời thơ cất lên như tiếng kêu than trách của một kiếp người, tiếng khóc van, thảm thiết làm ơn hãy cứu lấy con người trước những mưu mô của tội ác, gian manh.
Thân phận của người con gái vốn đã rất mong manh, sinh ra vào thời phong kiến lại càng phải chịu nhiều những đau đớn và tủi nhục. Thúy Kiều một nhân vật trong truyện Kiều của Nguyễn Du là tiêu biểu cho thân phận của người phụ nữ lúc bấy giờ. Nguyễn Du đã đánh những lời ai oán, đau đớn nhất để nói về cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều”, đã lột tả trần trụi thân phận của nàng Kiều bị mua đi bán lại như món hàng vô tri vô giác.
Thuý Kiểu là người con gái tài sắc của một gia đình trung lưu nền nếp. Trong tiết Thanh minh, Thuý Kiểu tình cờ gặp Kim Trọng. Hai người nhanh chóng yêu nhau rổi hẹn ước thề nguyện. Bỗng dưng, Vương viên ngoại b| thằng bán tơ vu oan. Gia đỉnh tan nát, cha và em trai bi bắt bớ, đánh đập, Thuý Kiều đành phải bán minh chuộc cha rổi rơi vào lẩu xanh lán thứ nhất. Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu " trâm gãy bình tan".Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm. Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Nguyễn Du đã chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.
Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần trưng diện, cũng thiếu tự nhiên, Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn”. Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ ngoài nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một người đã “trạc ngoại tứ tuần” ( sắp lên lão ) lại tỉa tót công phu, lại cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn.Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Đặc biệt hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học, đội lốt người học trò trường Quốc tử giám, đã hiện lên khá rõ qua chi tiết: Ghế trên ngòi tót sỗ sàng. “Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc huynh trưởng, bậc đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là bậc con cái mà lại “ngồi tót” thì thật chướng mắt, vô lễ. Mã Giám Sinh xuất hiện trong buổi đến xem mặt như một kẻ bất nhân, đê tiện nhất
Khác màu kẻ quỷ người thanh
Chẳng hay con lại mắc tay bợm già.
Bản chất của Mã Giám Sinh lại càng rõ hơn khi hắn:
Đắn đo cân sức cân tài
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.
Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để "cò kè"mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp.
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm.
Một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…” đã chứng tỏ Mã Giám Sinh là một kẻ buôn người sành sỏi, lọc lõi. Y đã lộ nguyên hình là một con buôn sành sỏi. Mã Giám Sinh đâu còn là người học trò trường Quốc tử giám như đã xưng danh. Mặc dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời hoa mỹ, ra vẻ lịch sự nhưng dần dần bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của y đã lộ rõ.
Chính vì sự tủi nhục khi phải bán mình, lại càng đau đớn hơn khi bán cho một tên buôn người bỉ ổi và đê tiện như Mã Giám Sinh. Nguyễn Du đã không để cho Kiều nói được một lời nào trong suốt cuộc buôn bán, kỳ kèo của Mã Giám Sinh. Nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề đã được Nguyễn Du đẩy lên đến đỉnh điểm. Từ một người con gái, gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, nay biến thành một món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, làm sao không khỏi đau đớn cho được. Tâm tình nàng Kiều lúc này thật ngổn ngang, nỗi đau vì mối tình đầu tan vỡ, nỗi uất ức vì án oan mà cha và em trai phải chịu, nỗi xấu hổ, thẹn thùng khi bản thân lâm vào cảnh phải để người đàn ông lạ tới xem mặt,…Hình ảnh nàng khi bước chân ra khỏi khuê phòng thật muôn vàn xót thương:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
Nhìn cảnh vật nàng thấy xấu hổ ngại ngùng.Nước mắt của nàng thấm đẫm cả trang giấy, mỗi bước đi là mỗi bước xót đau. Những giọt nước mắt của tan nát, khổ đau làm quặn thắt lòng người đọc, khiên ai cũng thương thay cho thân phận nàng Kiều. Bước vào phòng khách với vẻ dè dặt, tủi hổ của người con gái khuê các:
Ngại ngùng dơn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trong gương mặt dày.
Nỗi đau khổ ấy đã đến tột cùng khi chẳng một ai mảy may động tâm thương cho nàng , mụ mối thì vén tóc bắt tay , lạ lùng đối xử với 1 một món hàng còn MGS thì đặt tài năng và nhan sắc lên cân đo đong đếm . Đến lúc này người con gái tài hoa nhan sắc ấy cảm thấy tủi hổ bẽ bàng:
Mối càng vén tóc bắt bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào số phận ai oán, bi thương của Kiều trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc xảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dâp vùi. Đó là giá trị nhân đạo. Có thể nói đoạn trích là 1 tiếng khóc ai oán cho thân phận con người , cho nhân phẩn con người bị chà đạp phải chăng trái tim của nhà thơ đang rung lên nức nở cùng với nỗi đau của Thúy Kiều.
Đáng ra con người tài sắc “mười phân vẹn mười” này xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc, vậy mà xã hội phong kiến thối nát đã chà đạp phũ phàng khiến nàng phải gánh chịu khổ đau và bất hạnh trong mười năm đoạn trường cay đắng. Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật chính diện và phản diện và sự am hiểu của sâu sắc tâm lý nhân vật của ông trong tác phẩm.
Đoạn thơ Mã Giám Sinh mua Kiều đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận đau khổ của những con người bi áp bức, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước nỗi đau của con người và lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo. Đồng thời bày tò sự trân trọng đối với khát vọng tự do, hạnh phúc và khát vọng công lí, chính nghĩa.
Nguyễn Du được tôn vinh không chỉ đơn thuần vì tài năng mà ở tấm lòng của ông với những kiếp sống bị đoạ đày, đau khổ. Trái tim nhỏ bé của nhà văn đập bởi nhịp đập của quần chúng cần lao, để mỗi ngày sống qua, mỗi cảnh trông thấy đều khiến cho nhà thơ “thêm đau đớn lòng“. Mà dù thời đại nào, hoàn cảnh nào, người đau khổ nhất trong những người đau khổ vẫn là người phụ nữ. Lòng nhân hậu của bậc thiên tài đã giúp ông hiểu sâu sắc được nỗi bất hạnh muôn đời của người phụ nữ dưới chế độ phong kiến thối nát, để thốt lên đầy xót xa, ai oán trong thơ của mình:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Thuý Kiều là một trong những nhân vật có số phận như vậy. Trong Truyện Kiều của ông, nàng hiện thân cho những kiếp “hồng nhan bạc mệnh” điển hình của chế độ phong kiến xưa kia. Điều đó được thể hiện sinh động qua đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều.
Vốn sinh ra trong một gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che”, Thuý Kiều và Thuý Vân vừa xinh đẹp tuyệt trần vừa trong trắng ngây thơ. Một buổi chiều xuân đi tảo mộ, nàng có hai cuộc gặp gỡ đầy định mệnh. Một là số phận bi kịch của Đạm Tiên như thầm dự báo trước tương lai của Kiều, cuộc gặp sau là niềm đam mê, hạnh phúc với chàng Kim Trọng tài hoa nhất bậc. Nếu không có “tai biến bất kì” thì cuộc đời cô gái “nghiêng nước nghiêng thành” này đã chẳng có trong thơ Nguyễn Du. Trước biến cố của gia đình, nàng biết chịu đựng và hi sinh khi quyết định bán mình chuộc cha. Mặc dù đau đớn vô cùng, Kiều vẫn phải rời xa gia đình, từ bỏ mối tình đầu đẹp đẽ và trong sáng với Kim Trọng để trở thành món hàng mua bán với gã con buôn đê tiện Mã Giám Sinh.
Khi mụ mối đưa người viễn khách họ Mã tới để hỏi Kiều về làm vợ thì cuộc gặp gỡ ban đầu đã diễn ra trong đau đớn tuyệt vọng. Mã Giám Sinh xuất hiện trong buổi đến xem mặt như một kẻ bất nhân, đê tiện nhất mà chỉ ngay đêm hôm đó Kiều đã nhận xét với mẹ mình rất đúng về hắn:
Khác màu kẻ quỷ người thanh
Chẳng hay con lại mắc tay bợm già.
Khó có thể hình dung ra cuộc gặp mặt nào não nề, đớn đau hơn thế! Tâm tình ngổn ngang, nỗi đau vì mối tình đầu tan vỡ, nỗi uất ức vì án oan mà cha và em trai phải chịu, nỗi xấu hổ, thẹn thùng khi bản thân lâm vào cảnh phải để người đàn ông lạ tới xem mặt,… Hình ảnh nàng khi bước chân ra khỏi khuê phòng thật muôn vàn xót thương:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.
Nước mắt của nàng thấm đẫm cả trang giấy, mỗi bước đi là mỗi bước xót đau. Những giọt nước mắt của tan nát, khổ đau làm quặn thắt lòng người đọc, khiến ai cũng thương thay cho thân phận nàng Kiều. Bước vào phòng khách với vẻ dè dặt, tủi hổ của người con gái khuê các:
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Hình ảnh thẹn thùng của nàng là nỗi xấu hổ của người con gái mới lớn không may rơi vào hoàn cảnh trớ trêu lại vừa là sự hổ thẹn cho thân phận bất hạnh của mình. Trước nỗi đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh không một chút mảy may thương cảm mà còn xem nàng như xem một món hàng cần mua ở chợ:
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.
Xem xét mọi vẻ chưa đủ, hắn còn thử tài của Kiều theo kiểu của kẻ có tiền muốn mua hàng hoá xứng đáng với đồng tiền sẽ bỏ ra: Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Người thiếu nữ “sắc đành đòi một tài đành hoạ hai” được tên lái buôn họ Mã “đắn đo” mãi để “cân sắc cân tài”: ước lượng để sao mua được thật rẻ “món hàng” vô giá này. Chúng ta không thể không thương xót cho Kiều khi kẻ đê tiện “cò kè”, “thêm bớt” từng tí để ngã giá mua nàng với bốn trăm lượng… Kiều đau đớn thế nào khi nghĩ gã buôn thịt bán người ti tiện nhất thế gian này lại có thể làm chồng mình? Càng tan nát lòng hơn khi trong trái tim nàng in sâu hình bóng chàng Kim Trọng “vào trong phong nhã ra ngoài hào hoa”. Bắt đầu từ đây cuộc đời nàng bước ngoặt sang một trang khác, không còn êm đềm, ngọt ngào như trước nữa.
Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào số phận ai oán, bi thương của Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều. Đáng ra con người tài sắc “mười phân vẹn mười” này xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc, vậy mà xã hội phong kiến thối nát đã chà đạp phũ phàng khiến nàng phải gánh chịu khổ đau và bất hạnh trong mười lăm năm đoạn trường cay đắng. Trái tim tràn đầy nhân ái, yêu thương của nhà thơ đã để cho Kiều trong khi quyết liệt đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc cho người phụ nữ nói chung thì cũng tố cáo sâu sắc cái xã hội lúc bấy giờ.
Bài văn suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích "Mã Giám Sinh mua Kiều" số 6
Nói đến Truyện Kiều là nói đến quyền sống con người bị chà đạp oan uổng. Tiêu biểu nhất cho tình trạng bị chà đạp có lẽ là đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều, trong đó, Kiều bị xem như một đồ vật. Đoạn văn đã thể hiện tài quan sát tinh vi, tài miêu tả sinh động và nhất là thể hiện tấm lòng yêu đời, thương đời của Nguyễn Du.
Sau khi quyết định bán mình chuộc cha. Kiều nhờ mụ mối dắt người mua đến. Đây là cảnh Mã Giám Sinh đến tự giới thiệu và mua người. Đặc sắc thứ nhất trong cảnh mua người này là hình ảnh kẻ mua người. Bao nhiêu khinh bỉ, ghê tởm đối với bọn buôn người, Nguyễn Du dồn vào việc khắc họa nhân vật Mã Giám Sinh: Y xuất hiện trước người đọc bằng mấy câu đối đáp cộc lốc của một kẻ hoàn toàn vô giáo dục:
Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Thường người có giáo dục, khi được hỏi vấn danh, một nghi thức dạm hỏi, thì người được nói phải tự xưng là “tiểu sinh”, “vãn sinh” hoặc một cách gọi nào tỏ ý khiêm nhường. Đằng này Mã Giám Sinh nói trống. Lại nữa Mã Giám Sinh lại không phải là tên. Rõ ràng là trả lời qua quýt, để che giấu tông tích. Còn hỏi quê thì Mã đã nói dối. Y ở Lâm Tri lại nói chệch là Lâm Thanh, để đánh lừa. Về ngoại hình nhà thơ chú ý tính chất không ra dáng trượng phu của Mã. Tuổi ngoại tứ tuần, tức là đã qua cái tuổi đi hỏi vợ, nhưng cạo sửa mặt mày ra vẻ trai tơ với áo quần bảnh bao kiểu chú rể, không tương xứng chút nào.
Về cử chỉ thì Mã cùng lũ đầy tớ là một bọn hạ lưu, không tôn ti trật tự, cho nên: “Trước thầy sau tớ xôn xao”, âm thanh mạnh ai nấy nói, chẳng ai nhường ai. Đi vào vấn danh mà cũng không giữ được một chút trang nghiêm lễ độ. Đặc biệt ghê tởm là Mã tự cho mình cái quyền “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, chướng tai gai mắt. Điều đó chỉ có thể giải thích là vì y cậy thế có tiền!
Toàn bộ cách ăn nói, cử chỉ, đứng gồi, ăn mặc đều chứng tỏ Mã Giám Sinh là một đứa vô loài, bất nhân. Nhưng bản chất tàn bạo, thô lỗ của kẻ có tiền Mã Giám Sinh bộc lộ rõ nhất trong cảnh mua người. Khi mụ mối giục Kiều bước ra cho khách xem mặt, thì Mã đã xem xét kĩ lưỡng như xem một đồ vật:
Mối càng vén tóc bắt tay
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Vén tóc, bắt tay là cách giới thiệu hàng cho khách xem rất kĩ. Chưa đủ, Mã còn:
“Đắn đo cân sắc, cân tài.
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”.
Mã còn thử xem Kiều có tài thật không, ép nàng đánh đàn, làm thơ cho hắn thấy. Hài lòng với Kiều, Mã mới bắt đầu ngã giá.
Cò kè bớt một thêm hai
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Có hai chi tiết đáng chú ý: “cò kè” thêm bớt rất chi li, và “giờ lâu” tức là mất nhiều thì giờ lắm hắn mới ngã ngũ cái giá hơn 400 lạng. Mã không hề có cảm giác xúc động trước sắc tài của Kiều, trước sau hắn chỉ tính toán có một lỗ lãi, kiếm giá hời! Trong văn học Việt Nam không đâu có một cảnh mua người cụ thể, lạnh lùng, tàn nhẫn như vậy.
Nhưng số phận, tình cảm người bị bán như thế nào? Nhà thơ đã hết lòng thông cảm với nỗi đau của cô gái trẻ phải bán mình chuộc cha. Vừa tức cho cái oan của gia đình, cho đến cái cảm giác thẹn thùng sượng sùng phải chường mặt cho khách xem mặt. Khách bảo gì cô cũng phải làm mà tấm lòng thì sầu thảm như đưa ma cho tuổi trẻ mình. Nhà thơ không nói nhiều, chỉ ba nét:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng,
Ngại ngùng dợn gió e sương,
Ngừng hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày”;
“Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” là đã nói lên toàn bộ nỗi khổ đau, xấu hổ, tủi nhục của Kiều. Đây là bức tranh chiến thắng của đồng tiền trước tài sắc con người. Câu kết vừa là sự thật phũ phàng, vừa là một lời mai mỉa: “Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!”.
Tóm lại, đoạn văn đã thể hiện sâu sắc thảm cảnh của con người, và nỗi lòng đau đớn, thông cảm của Nguyễn Du. Đoạn văn thể hiện một tài nghệ quan sát tinh tế, khắc họa sinh động. Nguyễn Du vĩnh viễn hoá một cảnh tủi nhục của con người để muôn đời ghi nhớ, nhằm tố cáo các thế lực tàn bạo, và đấu tranh cho nhân phẩm của con người.
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều được trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là đoạn mở đầu cho quãng đời 15 năm lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Đoạn thơ đã làm sống lại một cảnh buôn bán người thời trung cổ, thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Đặc sắc nhất là khi tác giả tả nhân vật Mã Giám Sinh.
Vị khách đến mua Kiều là “người viễn khách”, được mụ mối đưa vào để “vấn danh” để ăn hỏi và xin cưới. Vị khách tự giới thiệu mình là “kẻ sĩ” - sinh viên của trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ chứ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc.
“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh
Hỏi quê, rằng: Huyện Thanh Lâm cũng gần”
Hai chữ “rằng” trong lời giới thiệu đã bộc lộ một thái độ kiêu kì, coi thiên hạ bằng nửa con mắt của Mã Giám Sinh, khẩu ngữ đối đáp của hắn vừa hợm hĩnh lại thô lậu và khiếm nhã. Nguồn gốc của hắn thực chẳng phải kẻ sĩ gì cả, hắn đích thực là một kẻ buôn thịt bán người mà Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”
Vẻ nhẵn nhụi của Mã Giám Sinh gợi lên sự dung tục, tầm thường, sự bảnh bao của áo quần lại biểu lộ sự giả dối, đội lốt, tác giả đã vẽ những nét châm biếm trên chân dung của Mã Giám Sinh. Vị khách này cũng có kẻ tớ, đi một bước cũng có người hầu hạ, ra vẻ rất sang trọng, quan dạng. Nhưng giữa vị thầy và tớ của ông khách này có những điểm lạ thường, gây “lao xao” ồn ào và lộn xộn. Chúng không có chút lễ giáo, phép tắc và thiếu nề nếp, đáng khinh:
“Trước thầy sau tớ lao xao…
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Chỉ qua các hành động ứng xử như “ngồi tót”, “sỗ sàng” đã bộc lộ rõ tư cách của những kẻ hạ lưu, thiếu nhân cách và thiếu lễ độ, đó là cách của phường buôn thịt và quân buôn người. Mã Giám Sinh là một kẻ buôn bán người đã lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay” món hàng thì hắn “cân sắc cân tài” rồi “ép” và “thử”, bắt Kiều đánh đàn, làm thơ, đối với hắn dù có là người có quốc sắc thiên hương như Kiều cũng chỉ là một món hàng không hơn không kém, để hẳn mang ra mà cân đo đong đếm. Sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưu” hắn mới “tùy cơ dặt dìu” mua bán. Cảnh mua bán Kiều đã thể hiện được cả cái tâm và cái tài của Nguyễn Du, qua nhân vật Mã Giám Sinh, tác giả đã tố cáo và lên án một cách khinh bỉ quân buôn thịt bán người trong xã hội phong kiến thối nát. Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, chuyện gì chẳng xong” là một lời vạch trần những kẻ bất lương, làm giàu trên thân xác của người phụ nữ. Bằng bút pháp nghệ thuật hiện thực, nghệ thuật miêu tả người rất tài tình, tác giả đã khắc họa tính cách nhân vật Mã Giám Sinh, hắn là một kẻ phong tình, giả dối, keo kiệt và vô tình, bất nhân bất nghĩa.
Hình ảnh Mã Giám Sinh trong Truyện Kiều hay chính trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã trở thành một điển hình cho bọn “buôn phấn bán hương” trong xã hội phong kiến xưa, góp phần tô đậm giá trị hiện thực của tác phẩm.
Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Thúy Kiều thể hiện nhân vật Mã Giám Sinh là một nhân vật mua phấn bán hương, buôn bán người trên thân thể phụ nữ để kiếm tiền.
Đoạn thơ được miêu tả chi tiết sống động như thời xưa, thể hiện bút pháp nghệ thuật tài tình của thiên tài ngôn ngữ Nguyễn Du. Tác giả Nguyễn Du đã vô cùng tinh tế thể hiện sự đặc sắc trong miêu tả con người, từ vẻ ngoài tới tính tình bên trong. Người khách tới mua Thúy Kiều là một người khách từ phương xa tới được bà mối đưa vào để vấn danh thể hiện tên tuổi của mình. Xin cưới Vương Thúy Kiều một cách đường đường chính chính, một cách trang trọng, uy nghi.
Nhưng sự thật thì có phải Mã Giám Sinh thật sự muốn lấy vợ hay chỉ là một trò bịp bợm giả vờ, lừa đảo chứ thực chất chỉ là một kẻ buôn phấn bán hương, lợi dụng thân xác phụ nữ để kinh doanh mưu lợi bất chính.
“Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.”
Người khách kia tự giới thiệu mình là người có học, là một kẻ sĩ của trường Quốc Tử Giám chỉ nói họ nhưng không xưng tên, không nói rõ, vẻ ngoài của anh ta luôn tỏ ra là một người quý tộc, quê quán của hắn ở huyện Thanh Lâm.
Hai chữ “rằng” nối tiếp thể hiện thái độ vô cùng cao ngạo, kiêu kỳ coi thiên hạ bằng nửa con mắt, có thể một tay che trời. Khẩu ngữ đối đáp của người khách lạ kia vừa hợm hĩnh thô bạo, thiếu lịch sự, khiếm nhã vô cùng.
“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Trong tuyệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du người ta tỏ rõ nguồn gốc viễn khách kia Mã Giám Sinh với mụ Tú Bà thực chất chỉ là người buôn bán dẫn khách, buôn thịt bán người kiếm tiền mà thôi. Hắn tự xưng mình là kẻ sĩ của trường Quốc Tử Giám là một trường nho sĩ vô cùng tên tuổi của Trung Quốc. Thực chất hắn chỉ là kẻ khoe khoang, bịp bợm, hợm hĩnh mà thôi.
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.”
Trong hai câu thơ này thể hiện một diện mạo vô cùng dung tục của một kẻ tầm thương, cái bảnh bao bên ngoài chỉ thể hiện qua bộ quần áo thể hiện một tính cách giả dối. Hình ảnh mày râu nhẵn nhụi thể hiện nét giả dối châm biếm của tác giả Nguyễn Du dành cho nhân vật này, thể hiện ra hắn là con người chải chuốt nhưng không đáng tin, hắn giấu diếm một điều gì đó.
“Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.”
Tác giả Nguyễn Du thể hiện lối viết cái lối ngồi tót thể hiện hành động vô cùng hợm hĩnh của những người buôn thịt bán người, những kẻ lấy thân thể của người phụ nữ làm nguồn kinh doanh lợi nhuận. Từ “sỗ sàng” của Nguyễn Du thể hiện sự thiếu lịch sự, thiếu nhân cách, thiếu tự trọng của những kẻ ít học luôn coi mình là nhất.
Qua hành động này người đọc có thể thấy rằng Mã Giám Sinh dần dần lộ rõ bộ mặt thật của mình là kẻ lõi đời, thiếu học thức chỉ là kẻ quanh năm buôn bán thân xác phụ nữ mà thôi, chứ không phải là người học ở trong Quốc Tử Giám như hắn giới thiệu:
“Đắn đo cân sức cân tài,
Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.”
Trong cảnh Mã Giám Sinh mua Thúy Kiều đã thể hiện cái tài của Nguyễn Du và lòng nhân văn cao thượng của tác giả. Thông qua nhân vật Mã Giám Sinh nhà thơ Nguyễn Du muốn tố cáo lên án xã hội cũ khi để những nhà chứa, kỹ viện, thanh lâu hoạt động một cách công khai, là chốn mua vui cho người có tiền và quan công, vua chúa. Thể hiện thân phận nhỏ bé của người phụ nữ khi sống trong xã hội cũ. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng kiếm lợi nhuận cho những kẻ buôn người kiếm tiền phi pháp.
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực lựa chọn nhiều chi tiết đặc sắc đắt giá, dáng vẻ cử chỉ ngôn ngữ khi tìm cách buôn bán người phụ nữ để khắc họa nhân vật Mã Giám Sinh. Một kẻ phong tình, giả dối, một người buôn người chính hiệu. Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành một điển hình cho bọn buôn người trong xã hội phong kiến, thông qua đoạn trích này tác giả muốn tố cáo tội ác của xã hội phong kiến.
Sau lần thề nguyền kết tóc se tơ, Kim Trọng phải về Liêu Dương để hộ tang chú. Gia đình gặp nạn, bị vu oan giá họa, Kiều phải cậy nhờ Thúy Vân thay mình giữ trọn tình chung thủy với Kim Trọng để bán mình cứu cha và em. Đoạn trích tả cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều để đem về Lâm Tri.
Mã Giám Sinh - một “viễn khách” cùng với người mốì tìm đến để “vấn danh”, tức là xin cưới hỏi Kiều về làm vợ. Cách nói như vậy có vẻ lương thiện nhưng sự thật không phải thế. Ta hãy theo dõi thái độ và việc làm của họ Mã.
Nguyễn Du đã giới thiệu ông khách họ Mã này như thế nào? Khi được hỏi về tên họ, quê quán, y đã trả lời một cách cộc lốc. Y còn có ngụ ý khoe khoang mình là kẻ có học, danh giá, sinh viên trường Quốc tử giám. Nhưng ngòi bút của Nguyễn Du thật tài tình khi viết hai câu:
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Đây là cách nói năng của kẻ thiếu lịch sự, thiếu văn hóa và ngay khi mới xuất hiện người đọc đã mất hết cảm tình với hắn ta rồi. Hắn che dấu tung tích, quê quán, chỉ biết “cũng gần” Nguyễn Du tiếp tục giới thiệu diện mạo anh chàng giám sinh họ Mã này:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trông vẻ bên ngoài, hẳn như một kẻ thanh lịch: mày râu được cạo kĩ, áo quần đẹp đẽ. Nhưng cách làm dáng, chải chuốt đó lại không phù hợp với con người đã “quá niên trạc ngoại tứ tuần”. Và đến nhà Kiều thì: “Trước thầy sau tớ xôn xao” gợi lên cảnh ồn ào bát nháo của tớ thầy Mã Giám Sinh. Rồi khi vào đến nhà, hắn vội “ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, chỉ một cử chỉ “tót” đó, Nguyễn Du đã phơi bày tất cả bản chất của con người thô lỗ, vô học, lưu manh.
Chỉ một đoạn thơ ngắn 8 câu, tác giả đã khắc họa một cách sinh động về diện mạo, ngôn ngữ, hành vi của Mã Giám Sinh. Và bức chân dung ấy được hoàn chỉnh khi tác giả tả cảnh hắn, mặc cả mưa Kiều. Mã đánh tiếng đến cưới Kiều về làm vợ nhưng sự thật hắn mua Kiều về lầu xanh ở Lâm Tri để tiếp khách làng chơi, nơi hắn cùng với mụ Tú Bà chung vốn làm ăn.
Vì vậy trong việc mua bán này, y phải tính toán thiệt hơn. Trước hết đắn đo, cân nhắc kĩ càng về mặt hàng: Đắn đo cân sắc, cân tài Để nắm chắc giá trị của món hàng, hắn không ngại bắt “ép” Kiều phải thử tài: Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Sau một hồi xem xét tính toán hắn tỏ ý vừa lòng: “mặn nồng một vẻ một ưa”. Điều còn lại là giá cả bao nhiêu để kiếm được nhiều lời, hắn liền hỏi giá:
Rằng: “mua ngọc đến Lam Kiều
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Mã cũng biết học đòi cách nói năng văn hoa của người có học và tỏ vẻ lễ phép khiêm nhường (xin dạy) nhưng bản chất của tên con buôn không che dấu được. Hắn “cò kè bớt một thêm hai”. Tìm cách ép giá, dìm giá vì hắn biết rõ hoàn cảnh quẫn bách của Kiều. Vì thế Mã đã mua được Kiều với giá rất hời, từ “đáng giá ngàn vàng” hắn chỉ mua có “ngoài bốn trăm”. Mã không đánh lừa được ai, hắn khoác áo kẻ thanh lịch, giả dạng một giám sinh nhưng qua cảnh mua bán này đã lộ nguyên hình một tên buôn người đểu cáng.
Kiều phải bán mình để cứu gia đình qua cơn nguy biến, một hành động hi sinh rất cao cả. Bắt đầu từ đây nàng dấn thân vào con đường đau khổ, nhục nhã ê chề và cảnh mua bán này sẽ mở đầu cho chuỗi dài bi đát của đoạn trường 15 năm.
Người con gái tài sắc vẹn toàn ấy nếu được sống trong một xã hội công bằng chắc hẳn sẽ có cuộc đời hạnh phúc.
Nhưng trong xã hội phong kiến thối nát, tài sắc ấy trở thành món hàng đem ra mặc cả “cò kè”, trao từ tay người này qua tay kẻ khác. Trong 6 câu thơ tả tâm trạng Kiều, Nguyễn Du để nàng im lặng. Đúng vậy, lúc này làm sao nàng nói được nên lời. Nhưng qua một vài cử chỉ, dáng điệu ta thấu hiểu nỗi đau của nàng:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Kiều khóc, những giọt lệ chảy thành hàng, những giọt nước mắt đau xót, tủi nhục. Nàng, con gái nhà lành sống trong cảnh “trướng rủ màn che” nay trở thành món hàng để người mua “vén tóc bắt tay” “cân sức cân tài” làm sao nàng không cảm thấy thẹn thùng, nhục nhã:
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày Nàng tự xỉ vả mình là kẻ mặt dạn mày dày, nhưng tội này không phải do nàng gây nên. Trong xã hội mà đồng tiền thống trị tất cả: “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong” thì có biết bao số phận bi thảm như Kiều.
Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” như một màn kịch ngắn, trong đó sự việc cứ tiến triển dần và tính cách nhân vật bộc lộ rõ nét. Thái độ của Nguyễn Du thật rõ ràng: lên án, tố cáo những thế lực đen tối của xã hội, thông cảm sâu sắc với nỗi đau của con người. Ngày nay, đọc lại Truyện Kiều ta cảm thương cho số phận bi đát của Kiều và căm ghét xã hội bạo ác đã chà đạp lên quyền sống của những phụ nữ.
Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân
Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều...
(Tố Hữu - Kính gửi cụ Nguyễn Du)
“Bâng khuâng” là trạng thái tinh thần của con người tuy đứng trước thực tại nhưng tâm hồn không đặt ở thực tại mà hướng về, thậm chí đắm chìm trong quá khứ, trong tương lai, hay trong mộng tưởng. Vì đắm chìm trong quá khứ, nên Tố Hữu cũng như chúng ta không thể nào quên được cụ Nguyễn Du, một đại thi hào đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Kiều - một bài ca lớn về giá trị nhân bản; bản cáo trạng nghiêm khắc về cái ác; tập đại thành của nghệ thuật văn chương.
Và chúng ta cũng không thể không “thương thân nàng Kiều” đang đau đớn, tủi nhục ê chề khi phải bán mình chuộc cha, rơi vào tay một kẻ “buôn thịt bán người” trong trích đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều.
Trích đoạn này gồm 34 câu thơ, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều, thuộc phần Gia biến và lưu lạc. Câu chuyện trước đoạn này như sau: Trên đường về của chuyến đi tảo mộ và du xuân, ba chị em Thuý Kiều gặp Kim Trọng - một chàng trai tài đức vẹn toàn, bạn đồng môn của Vương Quan. Trở về nhà, Thúy Kiều tơ tưởng đến bóng hình Kim Trọng mà “Ngổn ngang trăm mối bên lòng”.
Còn Kim Trọng, sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy cũng nặng lòng nhớ thương Kiều rồi tìm kiếm, dọn nhà đến kề cận vườn nhà Kiều. Nhờ vậy, đôi trai tài gái sắc có cơ hội làm quen, tìm hiểu và trao lời thề nguyền trọn đời bên nhau. Ngay sau đó, Kim Trọng phải cấp tốc trở về Liêu Dương thọ tang chú.Và cũng cùng thời điểm ấy, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, tất cả tài sản bị bọn sai nha vơ vét sạch. Để cứu cha và em thoát khỏi cơn gia biến, Kiều tự nguyện bán mình:
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.
Sự lòng ngỏ với băng nhân
Tin sương đồn đại, xa gần xôn xao.
Thúy Kiều buồn bã mang sự tình ngỏ với người mai mối. Lập tức, mụ mối dắt khách phương xa tới:
Gần miền có một mụ nào,
Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
“Viễn khách” là từ Hán Việt có sắc thái trân trọng, tao nhã. Phải chăng “viễn khách” ấy là con người tử tế, cao thượng, nho nhã đến để xin hỏi cưới Kiều về làm vợ theo đúng tục lệ hôn nhân ngày xưa? sắm vai là học sinh trường Quốc Tử Giám, trường lớn nhất ở kinh đô thời xưa, người khách phương xa bắt đầu xuất hiện:
Hỏi tên, rằng “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Cách ngắt nhịp thơ ở hai câu này rất trúc trắc, khác lạ. Câu lục nhịp: 2-1-3. Câu bát nhịp 2-1-3-2. Cách ngắt nhịp trùng với cách trả lời bất ổn của vị khách. “Mã” thì đúng là họ rồi. Nhưng “Giám Sinh” đâu có phải là tên người? Còn quê quán nghe rất mơ hồ: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Từ “cũng gần” được nhà thơ dùng rất đắt để biểu hiện một lí lịch, gốc gác không minh bạch của nhân vật. Nếu đúng là người tốt thì việc gì lại không dám giới thiệu cụ thể nơi ở của mình? Với cách trả lời cộc cằn ấy chứng tỏ Mã Giám Sinh là người vô văn hóa. Còn đây là tuổi tác và diện mạo của gã:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Ngoại tứ tuần có nghĩa là ngoài bốn mươi tuổi, đã qua rồi thời trai tráng. Từ “quá niên” càng tô đậm hơn điều đó. Thế nhưng hắn vẫn ăn mặc theo kiểu trai lơ “áo quần bảnh bao” và chuẩn bị “mày râu nhẵn nhụi” trông rất bảnh chọe. Nếu ở câu lục nhà thơ sử dụng toàn từ Hán Việt thì ở câu bát xuất hiện toàn từ thuần Việt để bày tỏ thái độ châm biếm.
Riêng hai từ láy “nhẵn nhụi” và “bảnh bao” có sức gợi tả thái độ sự dung tục và lố bịch rất cao vì hắn là người bất chính nên đám tôi tớ đi theo hắn cũng toàn là lũ xô bồ, lộn xộn:Trước thầy sau tớ lao xao, Có thể khẳng định rằng diện mạo và cách xuất hiện của Mã Giám Sinh hoàn toàn đối lập với Kim Trọng. Kim Trọng xuất hiện với một phong cách tao nhã, diện mạo khôi ngô tuấn tú, làm cho cả một vùng bừng sáng hơn:
Dùng dằng nửa ở nửa về,
Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.
Trông chừng thấy một văn nhân
Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng
Đề huề lưng túi gió trăng,
Sau chân theo một vài thằng con con.
Tuyết in sắc ngựa câu giòn
Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời,
Nẻo xa mới tỏ mặt người,
Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.
Hài văn lần bước dặm xanh,
Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
Thế nên, một con người bịp bợm như Mã Giám Sinh không thể nào xứng đáng với nàng Kiều tài sắc vẹn toàn. Và chúng ta hãy xem cử chỉ thô lỗ của hắn: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng “Ghế trên” bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng nhất của phòng khách, chỉ những thượng khách mới được mời an tọa, thường là người cao tuổi.
Vậy mà một tên trâng tráo như hắn chưa kịp mời đã vội “ngồi tót”, trông là biết vô học rồi. Chữ “ngồi tót” được nhà thơ dùng rất điêu luyện và đã giết chết Mã Giám Sinh ngay trong cõi sống. Liền sau đó là từ bồi bút “sỗ sàng”. Cùng là từ “tót” nhưng khác xa một trời một vực với cách tả Kim Trọng:
Phong tư tài mạo tót vời
Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
Trong Truyện Kiều nhiều lần Nguyễn Du đã giết chết nhân vật phản diện bằng nghệ thuật dùng từ. Nhà thơ giết chết tên Sở Khanh bằng một từ “lẻn” ở câu 1094:
Tường đông lay động bóng cành,
Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào.
Và đại thi hào cũng đã giết chết Hồ Tôn Hiến bằng từ “mặt sắt” trong câu 2580:
Nghe càng đắm, ngắm càng say,
Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
Nhìn chung, qua dụng công miêu tả của Nguyễn Du, chân tướng con buôn Mã Giám Sinh đã dần dần được phơi bày:
Đắn đo cân sắc cân tài,
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.
“Đắn đo” là trạng thái suy nghĩ, tính toán đến căng thẳng. Trạng thái này thường gặp ở những kẻ làm nghề buôn bán. Tuy được nghe mụ mối giới thiệu Kiều là người tài sắc vẹn toàn nhưng hắn vẫn chưa chắc chắn lắm. Bởi vậy hắn mới “cân sắc, cân tài” có nghĩa là xem đi, xem lại, kiểm tra một cách tỉ mỉ, cẩn thận như mua một món hàng giữa chợ trời. Thật đúng là một con buôn giàu kinh nghiệm, lõi đời. Sau khi thấy dáng dấp của nàng, tài năng của nàng, vẻ nào cũng mặn mà dễ thương, hắn bằng lòng về món hàng và lựa lời trao đổi về giá cả:
“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Chỉ với một từ “mua”, nhà thơ đã bóc trần bản chất đê tiện của gã họ Mã mặc dù hắn vẫn còn cố gắng trau chuốt lời ăn tiếng nói qua các từ: “Lam Kiều”, “xin dạy”. Và đây là cuộc “mặc cả” giữa con buôn sành sỏi và mụ mối:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm
“Cò kè” là từ luôn luôn được dùng ở bất cứ chợ nào thuộc lĩnh vực buôn bán đồ vật. Từ “cò kè” còn tạo ra một không khí mua bán hết sức thô lỗ, mụ mối càng nói thách để được lời về phần mình thì tên “buôn thịt bán người” Mã Giám Sinh càng trả cho thật rẻ để tích luỹ lợi nhuận cho lòng tham không đáy. Vì mãi “cò kè”, công cuộc “ngã giá” mất nhiều thời gian nên “giờ lâu” con buôn mới đi đến quyết định mua Kiều hơn bốn trăm lượng vàng. Công cuộc “cò kè” người thiệt hại. Thật phũ phàng và tàn nhẫn làm sao!
Tóm lại, bằng nghệ thuật dùng những hình thái ngôn ngữ nghệ thuật trực diện, thiên tài Nguyễn Du vừa vẽ được chân dung ghê tởm và đê tiện của Mã Giám Sinh, vừa thể hiện thái độ tố cáo bọn con buôn bất công phi nghĩa đã xô đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng, đã chà đạp lên nhân phẩm, danh dự của phận “liễu yếu đào tơ” một cách không thương tiếc.
Đối lập với màn kịch “vấn danh” và chân tướng Mã Giám Sinh là tâm trạng buồn bã, khổ đau, nhục nhã của Thúy Kiều:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Ngại ngùng dín gió e sương,
Nhìn hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc, bắt tay,
Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Giờ đây, Kiều đang đau xót cho mối tình đầu tươi đẹp. Mới hôm nào, nàng và Kim Trọng thề nguyền cùng chung một lòng một dạ, có sự chứng giám của ánh trăng sáng vằng vặc nhưng xa xăm, lạnh lẽo, đơn côi:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,
Đinh ninh hai mặt một lời song song.
Tóc tơ căn vặn tấc lòng,
Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Vậy mà nay, đôi ngả nước mây cách vời, chỉ còn là kỉ niệm của một thời yêu nhau tha thiết. Ai? Ai đã gây ra bi kịch đắng cay này? Trong lòng nàng bỗng trào dâng một nỗi niềm oán hận. Lần đầu tiên trong đời nàng biết hận. Nàng hận thằng bán tơ đã vu oan cho gia đình nàng. Nàng hận bọn sai nha đã “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” và ra sức đánh đập, tra tấn cha và em trai nàng.
Cho nên, mỗi bước đi của nàng trên thềm hoa đều nặng nề và đong đầy nước mắt. Phép tăng cấp và đối ngữ tương hỗ trong câu “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng?” đã nhấn mạnh nỗi thống khổ cùng cực của nàng. Và cũng lần đầu tiên trong đời, nhìn bóng mình, nàng cảm thấy hổ thẹn, soi vào gương thấy mặt mình như dày ra vì xấu hổ, tủi nhục, vì phải mang thân lá ngọc cành vàng và nhan sắc “một hai nghiêng nước nghiêng thành” để cho một tên buôn người như Mã Giám Sinh đánh giá, bình phẩm. Có nỗi ê chề nào hơn thế nữa?
Nàng để mặc mụ mối hướng dẫn giới thiệu, khoe “hàng” mà cõi lòng tan nát như ai xé ai vò: Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Phép so sánh tu từ, phép đối ngữ tương hỗ cùng nghệ thuật ước lệ, tượng trưng đã góp phần điểm tô thêm vẻ đẹp trong đau khổ của Kiều và hoàn toàn đối lập với nhân vật Thúy Kiều trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
Qua trích đoạn văn xuôi trên đây, chúng ta thấy nhân vật Thúy Kiều của nhà văn Tài Nhân trực tiếp tham gia việc “cò kè” giá cả trông rất dạn dĩ, và nhân cách của nàng thật không có gì đặc biệt. Còn nhân vật Thúy Kiều của thiên tài Nguyễn Du chỉ là người câm lặng suốt cuộc mua bán, nàng xấu hổ, tủi nhục. Và đó chính là vẻ đẹp nhân cách của nàng.
Nhìn chung, đoạn thơ miêu tả tâm trạng nàng Kiều đã cho chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo mênh mông của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đối với nhân vật Thúy Kiều cũng như những kiếp người đau khổ, bất hạnh. Nhà thơ bao giờ cũng dành cho những nhân vật chính diện một thái độ yêu thương, hết sức cảm thông, rất mực trân trọng, thấu hiểu, chia sẻ. Đặc biệt, càng dấn sâu vào bi kịch, nhan sắc - tài năng - lòng thủy chung - lòng hiếu thảo - đức hi sinh của Thúy Kiều càng đẹp - càng vẹn toàn - càng sâu sắc - càng cao cả.
Tóm lại, bằng bút pháp thủy mặc, “điểm nhãn”, Nguyễn Du đã miêu tả thành công bức chân dung sống động, điển hình của nhân vật Mã Giám Sinh không còn ở trang thơ của đại thi hào mà đang hiện diện ở một nơi nhất định của cuộc đời thực. Bằng bút pháp đậm nét, nhân vật Thúy Kiều hiện lên với biết bao khổ nhục, đắng cay đồng thời Thúy Kiều cũng là điển hình của nhân vật người phụ nữ đẹp trong đau khổ.
Cùng với thiên tài ngôn ngữ và thiên tài khám phá, phân tích, miêu tả tâm lí con người trong mối quan hệ giữa tâmlí và hoàn cảnh sống của con người, qua trích đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều, chúng ta thấy rằng Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật tả người trong lịch sử tiểu thuyết bằng thơ.
Trong Truyện Kiều bên cạnh những nhân vật được Nguyễn Du hết lòng thương yêu trân trọng là một số gương mặt đê tiện, tàn ác. Mã Giám Sinh tiêu biểu cho hạng người đó. Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã phơi trần bản chất xảo trá đê tiện của tên buôn người và cũng mở đầu cho một chuỗi dài những bi kịch đau khổ của đoạn trường mười lăm năm đời Kiều.Sau lần thề nguyền, hạnh phúc vừa chớm nở, gia đình Kiều gặp tai biến. Bọn “đầu trâu mặt ngựa” kéo đến đập phá tan tành, Vương Ông, Vương Quan bị trói đánh hành hạ:
“Giường cao rút ngược dây oan.
Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người.”
Không đành lòng để gia đình tan nát, Kiều đã bán mình để cứu cha và em. “Tin sương đồn đại”, xa gần xôn xao, nghe tin đó anh chàng họ Mã đã “ngửi” thấy món lợi lớn vội nhờ người mai mối để đến “vấn danh”, nói dối là cưới Kiều về làm vợ.Mã Giám Sinh xuất hiện, ta hãy nghe hắn giới thiệu về tên họ, quê quán:
Dừng lại với khóm hoa ngâu, tay lựa và gỡ nhẹ từng chùm hoa, chiếc lá, cụ hỏi: "Văn thơ hay là văn thơ thế nào?". Tôi lúng túng giây lát. Cụ bảo: "Đừng vội trả lời. Vài năm nữa, ba bốn mươi năm nữa trả lời cũng được, tôi chết rồi thì anh cứ viết ra, lúc nào tiện thắp cho tôi một nén hương rồi đọc câu trả lời cũng được". Đoạn, cụ nói: "Văn thơ hay là phải làm cho người thoát tục đi một ít, thanh sạch hơn lên một chút ... phải không?. Chừng như để cho tôi lờ mờ vỡ vạc ra, cụ nói tiếp: "Cái đoạn thằng Mã Giám Sinh mà anh vừa nhắc tới đọc ghê ghê là, nó gớm lắm và tức lắm. Tôi thường lượt qua thôi". Rồi cụ cười nhẹ không thành tiếng.
Vậy là không phải các cụ ta xưa chưa chú ý đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều, mà thực ra, là đã có thành kiến về nó. Đọc lên, nhớ lại, thấy "ghê ghê" và "tức", thì không bàn tới nữa. Thẩm thơ bình văn là khoa học và cũng là do cái tạng người, biết làm sao khác được?
Cái cảm giác "ghê ghê" khi đọc Mã Giám Sinh mua Kiều, phải chăng bắt nguồn từ ý nghĩ này: Thì ra, từ dăm trăm năm trước, cái chuyện bán người, mua người đã thành một nghề hẳn hoi. Nghề đó được thể hiện qua ngòi bút của Nguyễn Du. Mới đem "Sự lòng" – Một chuyện nhà éo le "ngỏ với băng nhân" (Tại sao không "ngỏ" với bà con, hàng xóm, mà với "băng nhân"? Chắc là vì gia đình Kiều đã biết là trong xã hội bây giờ, đã có hẳn một loại người này, phải nhờ họ giả quyết mới được), mới thế thôi, mà đã "đồn đại, xa gần xôn xao". Vì đã "xôn xao" nên mụ mối mới có cơ hội làm ăn, mới đưa được người từ nơi xa (viễn khách) đến. Là nghề bán mua người, nên giá trị của người, sắc đẹp và tài năng của người từng được coi là "nghiêng nước nghiêng thành", may ra chỉ có một hai người như thế trông thiên hạ, đã bị đem ra cân nhắc, ép buộc thử thách ... thật lạnh lùng.Trong cuộc mua bán này không hề có sự cảm thông, nhân nhượng mà chỉ là một sự "Cò kè bớt một thêm hai" suốt buối để rồi "Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm". Trong cuộc mua bán đó, là hàng hóa, nên Thúy Kiều đâu có được nói năng chi Người nói (cười) lúc này chỉ là mụ mối và gã Giám Sinh họ Mã – Họ là người hành nghề thực thụ mà!Thế nhưng cuộc mua bán ấy lại được ngụy trang bằng một cuộc "tìm hiểu" để cưới người ta về làm vợ, nên mới kết thúc bằng việc "Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm nghi, rồi hẹn ngày nạp thái vu quy"!
Xã hội văn minh là xã hội có nhiều ngành nghề với hàng loạt người có chuyên môn ở từng lãnh vực, từng công đoạn nghề nghiệp rõ ràng. Nhưng ở một xã hội tài năng và sắc đẹp đức hạnh và phẩm giá con người, như Thúy Kiều mà rơi vào tay bọn nghề buôn người kia, thì thật là ghê tởm! Xã hội đó đâu phải là xã hội văn minh.Nhiều người đọc đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều cũng có cảm giác tức. Tức vì thấy dung mạo ra vẻ chải chuốt nhẵn nhụi, bảnh bao rất khả nghi của Mã, sự đi lại ồn ào, xôn xao của thầy tờ nhà Mã, và nhất là cái kiểu "Ghế trên ngồi tót số sàng" của hắn. Ai cho phép hắn ngang nhiên như vậy? Tiền đấy. Hắn cậy có tiền. Còn dân chúng đôi khi cũng đã thấy kẻ có tiền "nói quấy, nói quá" thì "người nghe ầm ầm" rồi. Ở đây, cách xử thế của Mã, không chỉ bộc lộ cái tư cách kém cỏi, hợm hinhgx của hắn, mà còn bộc lộ cả cái tình thế oái oăm đau đớn của gia đình Thúy Kiều, cả cái tâm thế để cho đồng tiền trong tay bọn bất lương được hoành hành của xã hội đang trên đà suy vi.Có người đã trách Nguyễn Du sao lại dựng đoạn này tỉ mỉ đến thế. Càng tỉ mỉ càng đau tức thôi. Đã tỉ mỉ thế, sao không cho ai nói vài câu, không cho ai lam vài cử chỉ an ủi động viên Thúy Kiều? ... Tôi nghĩ: ấy là chì chúng ta ghét Mã Giám Sinh, thương xót Thúy Kiều mà nghĩ ra thế. Đây là luật mua bán, lại là bán mua ở trong nhà lầu có lẽ cũng kín đáo, nghiêm cẩn( như đi dạm vợ cơ mà!), thì cụ Nguyễn viết thế, dựng thế cũng đã là hết nhẽ.
“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Hắn không nói tên chỉ xưng họ ngụ ý khoe khoang mình cũng là một kẻ danh giá, có học hành, một giám sinh của trường Quốc tử giám. Lời nói lại cộc lốc, nhát gừng đúng giọng điệu của những kẻ thiếu văn hoá, nghe rất chói tai. Tiếp theo Nguyễn Du giới thiệu diện mạo của hắn:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
Ngoại tứ tuần” nhưng lại chải chuốt, đỏm dáng râu mày tỉa tót nhẵn nhụi, áo quần chưng diện bảnh bao làm cho người gặp lần đầu đã nghi ngờ về tư cách của hắn. Rồi thì “trước thầy sau tớ xôn xao”, “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” càng lộ rõ bản chất huênh hoang, thô lỗ của hắn. Chỉ bằng một cử chỉ “ngồi tót”, Nguyễn Du bóc trần sự bịp bợm của tên lưu manh giả dạng một giám sinh.Một đoạn thơ ngắn chỉ 8 câu, ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã dựng lên một chân dung sinh động của anh chàng họ Mã từ diện mạo, cử chỉ, lời nói đến bản chất bỉ ổi, bịp bợm. Bức chân dung của Mã Giám Sinh được hoàn chỉnh như nhà thơ tả cảnh hắn mặc cả cò kè mua Kiều. Kiều ra mắt trong tâm trạng nhục nhã ê chề:
“Ngại ngùng dợn gió e sương,
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.”
Một cô gái tài sắc vẹn toàn, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” nay trở thành món hàng để người mua “vén tóc, hất tay” nàng tủi nhục biết nhường nào. Nhưng Mã Giám Sinh coi nàng là một món hàng không hơn không kém, hắn cân nhắc xem xét kĩ càng:
“Đắn đo cân sức, cân tài,
Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.”
Và khi đã “mặn nồng một vẻ một ưa” hắn liền hỏi giá, cho đến lúc này hắn vẫn đóng kịch làm bộ một kẻ có học, ăn nói văn hoa kiểu cách tỏ vẻ khiêm nhường lễ phép:
“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho vừa”.
Nhưng bộ mặt thật của hắn chẳng đánh lừa được ai, hắn đã lộ nguyên hình một tên bán thịt buôn người đê tiện. Hắn rõ hoàn cảnh của Kiều nên tìm cách dìm giá, ép giá, mặc cả “cò kè bớt một thêm hai” để rồi mua với giá rất hời:
“Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.”
Kết thúc màn “bi hài kịch” mua người này, Nguyễn Du đã thốt lên chua xót: “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong”. Nhà thơ tố cáo thế lực tàn bạo của đồng tiền, đồng tiền đã tác oai tác quái chà đạp đạo lí và lương tâm con người. Một xã hội mà “Trong tay sẵn có đồng tiền - Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì” thì giá trị của con người chỉ là món hàng.Bức tranh mua bán người thật xót xa não lòng làm ta liên tưởng đến những chợ bán nô lệ một thời dã man của lịch sử. Ngòi bút Nguyễn Du cố giữ thái độ bình tĩnh khách quan khi miêu tả nhưng rồi lòng căm phẫn và xót thương không kìm nén được. Nguyễn Du lên án gay gắt cái xã hội tàn ác đã giày xéo lên quyền sống con người mà nạn nhân bi thảm nhất là những người phụ nữ.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.
- Quê: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.
- Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng.
- Cuộc đời:
+ Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX.
+ Từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều → vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.
- Sự nghiệp văn học
+ Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.
+ Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn.
- Nằm ở đầu phần thứ hai (“Gia biến và lưu lạc”).
- Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” bắt bớ, khảo tra, đánh đập dã man. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.
- Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mênh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm.
2. Bố cục
- 10 câu đầu : Chân dung Mã Giám Sinh qua ngoại hình, hành động.
- 6 câu tiếp : Nỗi đau đớn tủi nhục của Kiều.
- 10 câu cuối : Bản chất con buôn của Mã Giám Sinh.
3. Nội dung chính
Đoạn trích là cảnh mua bán giữa Mã Giám Sinh và Tú bà với món hàng là Thúy Kiều, bộ mặt kẻ mua người bán cũng được khắc họa đậm nét; phơi bày hết bản chất, địa vị, nỗi lòng của từng loại người.
4. Phương thức biểu đạt: Miêu tả, tự sự
5. Thể loại: Truyện thơ Nôm viết theo thể thơ lục bát.
6. Giá trị nội dung
- Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một bức tranh hiện thực về xã hội đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trên cả hai phương diện
+ Phơi bày bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh.
+ Lên án các thế lực xấu xa, tàn bạo vừa thương cảm, xót xa trước sắc đẹp, tài năng, nhân phẩm của người phụ nữ bị trà đạp.
7. Giá trị nghệ thuật
- Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều còn cho thấy tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du: miêu tả nhân vật phản diện bằng ngòi bút hiện thực, khắc hoạ tính cách nhân vật qua diện mạo, cử chỉ (khác với nhân vật chính diện bằng bút pháp ước lệ lý tưởng hoá nhân vật).
- Thể hiện sự am hiểu sâu sắc tâm lý nhân vật của Nguyễn Du trong tác phẩm.