TOP 17 bài Phân tích Mã Giám Sinh mua Kiều 2023 SIÊU HAY

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 17 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi vào lớp 10 môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

PHÂN TÍCH ĐOẠN TRÍCH MÃ GIÁM SINH MUA KIỀU

Bài giảng: Mã Giám Sinh mua Kiều

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 1

Truyện Kiều là một tác phẩm kiệt tác của nền văn học Việt Nam, đây là tác phẩm lớn và có giá trị cao về mặt nội dung cũng như nghệ thuật của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều không chỉ là tác phẩm lớn của văn học trung đại Việt Nam mà đây còn là tác phẩm góp phần đưa nền văn học Việt Nam đến với độc giả trên thế giới. Truyện Kiều là tác phẩm thơ Nôm viết về nhân vật Thúy Kiều, một con người “tài sắc vẹn toàn”, một con người tài hoa xuất chúng, nhưng càng tài hoa bao nhiêu thì cuộc đời của cô gái này càng bất hạnh, thăng trầm bấy nhiêu. Vốn là một tiểu thư đài các sang trọng, cao quý nhưng những biến cố bất ngờ ập đến với gia đình Thúy Kiều đã vô tình đẩy nàng vào biến cố lớn nhất của cuộc đời mình. Đoạn trích đánh dấu chuyển biến của cuộc đời Thúy Kiều từ một tiểu thư cao quý sang cuộc sống đầy cay đắng của một cô gái lầu xanh, đó chính là đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”.

Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” là đoạn trích miêu tả cảnh Thúy Kiều bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền cứu cha và cả gia đình. Qua cuộc ngã giá mua bán ấy ta thấy được tâm trạng đau khổ của Thúy Kiều cũng như lột trần bản chất xấu xa, giả dối của Mã Giám Sinh, lên án thế lực đồng tiền đã chèn ép, bức con người vào bước đường cùng của sự đau khổ. Mở đầu bài thơ là không gian của cuộc mua bán, đó chính là hình ảnh của mụ mối khi dắt vào một người khách xa lạ, người sẽ mua Kiều:

“Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

Hỏi tên rằng Mã Giám Sinh

Hỏi quê rằng Huyện Lâm Thanh cũng gần”

“Mụ nào” ở đây ta có thể hiểu là bà mối, trước yêu cầu Thúy Kiều thì bà mối này đã dắt đến một người khách lạ “Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh”, hỏi ra thì hắn tên là Mã Giám Sinh, cái tên này thể hiện hắn ta là một người có học, mà cụ thể hơn là một nho sinh của trường Quốc Tử Giám, người ở Lâm Thanh. Nghe lời giới thiệu đầy nhiệt tình, tha thiết của mụ mối thì Mã Giám Sinh có vẻ là một người đàng hoàng, có gốc gác lại còn là một nho sinh có học, nhưng không để cho người đọc tò mò lâu, ngay những câu thơ sau đó thì Nguyễn Du đã cho người đọc biết trọn vẹn về bản chất của con người ngỡ như là tử tế, có học này:

“Quá niên trạc tuổi tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao

Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng đưa lối rước vào lầu trang”

Khác với cái tên đầy thư sinh, gốc gác rõ ràng để chứng minh là người tử tế thì những mô tả ngoại hình lại mang đến một cảm giác trái ngược hẳn, đó là một người đàn ông đã “trạc tuổi tứ tuần” có nghĩa là đã hơn bốn mươi tuổi, hơn thế nữa “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Trong xã hội phong kiến xưa thì tứ tuần có thể xem là người trung niên, với một độ tuổi như vậy mà vẫn còn là một nho sinh trường Quốc Tử Giám thật khiến cho người khác có cảm giác khó tin, hơn nữa sự chải chuốt quá đà ở diện mạo, trang phục lại gợi ra hình ảnh của một con người có phần lố lăng, kệch cỡm, vì dù đã nhiều tuổi nhưng vẫn cố tỏ ra rằng mình còn trẻ. Chỉ xét ngoại hình thôi cũng thể hiện được sự giả tạo đáng coi thường ở nhân vật này.

“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng

Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”

Quả nhiên như ta dự đoán, không chỉ có diện mạo trơ trẽn, lố lăng mà ngay cả hành động cũng thể hiện sự vô học, vô giáo dục, khác hẳn với cái mác thư sinh mà hắn ta giới thiệu “Chỗ trên ngồi tót sỗ sàng”. “Chỗ trên” ở đây là để dành cho những người trên ngồi, tức những bậc sinh thành, những bậc tiền bối, nhưng ở đây Mã Giám Sinh đã không hề biết đến phép tắc cơ bản ấy, hoặc cũng có thể biết nhưng vẫn cố tình ngồi, vì hắn ta vẫn đang tự cho mình là người có thế chủ động, bởi hắn ta sẽ bỏ tiền ra để mua Kiều. Hắn tự cho mình cái quyền được lộng hành, thể hiện một cách vô giáo dục như vậy. Không chỉ chủ là Mã Giám Sinh mà những tên đầy tớ của hắn ta cũng tỏ rõ là những người đi thuê, đi mượn, bởi nếu đúng là đầy tớ của hắn thì sẽ không có cái cảnh lao xao, lộn xộn như thế “Trước thầy sau tớ lao xao”. Trái với sự ngỗ ngược, hống hách của chủ tớ Mã Giám Sinh thì nàng Kiều lại vô cùng đau khổ.

Top 11 bài Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều hay nhất (ảnh 1)

“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà”, lúc này đây Thúy Kiều đang mang nặng những tâm trạng, suy tư cùng với sự đau khổ bởi nàng biết rồi sau đó nàng sẽ phải trải qua những đắng cay, đau khổ vì cuộc hôn nhân được mua bằng tiền mà không hề có tình yêu này. Lúc này nàng vừa buồn, vừa tủi cho mình nhưng cũng lại chồng chất thêm nỗi lo lắng cho bố mẹ và các em. “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng” những bước chân của nàng giờ đây mới thật đau đớn, nặng nề làm sao, bởi trên đôi vai nàng nặng trĩu những đau khổ cũng như những trách nhiệm lớn lao mà bổn phận của một người con phải làm, những giọt nước mắt của nàng rơi xuống làm cho người đọc cảm thấy xót xa, thương cảm.

“Ngại ngùng dợn gió e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày

Mối càng vén tóc bắt tay

Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”

Trước tương lai đầy bất định,Thúy Kiều dường như đã có những dự cảm về cuộc đời mình, những dự cảm ấy làm cho Kiều cảm thấy lo sợ, ngại ngùng, bởi đó sẽ là những ngày tháng đầy đau khổ “Ngại ngùng dợn gió e sương”, đây cũng là tâm trạng tất yếu của con người khi đứng trước những sóng đó, những dự cảm không lành. Nét buồn bã, đau khổ không thể kiềm nén mà thể hiện ra hết trên gương mặt của nàng Kiều “Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày”. Trước dự đau khổ, u uất của nàng thì mụ mối vẫn đang rất chuyên tâm, nhiệt tình với công việc của mình “mối càng vén tóc bắt tay”, gương mặt buồn bã của nàng Kiều được Nguyễn Du so sánh với nét buồn của cúc và sự mỏng manh, yếu gầy như những cánh mai “Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”.

“Đắn đo cân sắc cân tài

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ

Mặn nồng một vẻ một ưa

Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”

Đến câu thơ này, hình ảnh của Thúy Kiều hiện lên thật đáng thương, bởi họ coi nàng như một món hàng dùng để trao đổi, buộc nàng phải trổ tài đánh đàn, làm thơ “Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ”, khi đã rất hài lòng với người mà mình sẽ mua thì Mã Giám Sinh và mụ mối bắt đầu cuộc ngã giá của mình “Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”. Một con người tài sắc như vậy, tài năng trời phú ấy không phải thể hiện ở một dịp nào khác hơn mà dùng để làm vừa lòng người mua mình, sự tình ấy thật xót xa làm sao, đau đớn làm sao.

“Rằng mua ngọc đến Lam Kiều

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường

Mối rằng đáng giá ngàn vàng

Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài”

Vậy là cuộc ngã giá đầy căng thẳng giữa mụ mối và tên buôn Mã Giám Sinh đã diễn ra. Đến đây, Mã Giám Sinh thể hiện rõ bản chất của một con buôn nhưng đầu tiên hắn ta vẫn cố khoác lên mình cái vẻ trí thức đầy giả tạo “Rằng mua ngọc đến Lam Kiều” nhưng cũng chỉ ngay sau đó thôi thì bản chất con buôn cũng được thể hiện ra rõ mồn một, với sự sành sỏi vốn có, hắn ta đã cò kè “bớt một thêm hai”, và cuối cùng thì sự lọc lõi ấy đã mang lại cho hắn ta một món hời khi trả giá từ “ngàn vàng” xuống còn “ngoài bốn trăm”.Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một đoạn trích vạch trần đến tận cùng của cái xã hội “ăn thịt người”, khi con người bị mang ra mua bán như một thứ hàng hóa ở chợ. Đoạn trích này cũng thể hiện được bản chất xấu xa, giả dối của Mã Giám Sinh cũng như tâm trạng đầy đau khổ, bế tắc của nàng Kiều trước bước ngoặt của cuộc đời mình.

Sơ đồ tư duy

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều năm 2021

Dàn ý chi tiết

1. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Du và đoạn trích:

+ Nguyễn Du (1765 – 1820), là người có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú. Sự ngiệp văn học rất phong phú và đồ sộ.

+ Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều: nằm ở phần đầu kiếp đoạn trường của người con gái họ Vương.

2. Thân bài

- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, bút pháp miêu tả của Nguyễn Du.

+ Mã Giám Sinh được Nguyễn Du miêu tả đúng với bản chất của một tên buôn người.

- Nhân vật Mã Giám Sinh

+ Diện mạo và cử chỉ

+ Sinh viên trường Quốc Tử Giám

+ Người khách ở xa

+ Tên: Mã Giám Sinh

+ Quê: huyện Lâm Thanh

+ Tuổi: ngoại tứ tuần

+ Cách ăn mặc: mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao

+ Nói năng: thô lỗ, vô lễ

- Hành động: ghế trên ngồi tót sỗ sàng

- Vẻ ngoài chải chuốt, không phù hợp với lứa tuổi, cử chỉ và thái độ bất lịch sự, trơ trẽn, hỗn láo.

- Bản chất

+ Giả dối từ lai lịch đến tướng mạo, tính danh

+ Bản tính con buôn, lưu manh

- Bút pháp tả thực, cùng các từ tượng hình, tượng thanh làm cho Mã Giám Sinh hiện lên là một kẻ giả dối, vô học, con buôn, mất lịch sự.

- Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều

+ Tình cảnh tội nghiệp của Thúy Kiều: Nàng là một món hàng để người ta trao đổi, mua bán.

+ Ý thức được nhân phẩm.

+ Nỗi đau đớn, tái tê

- Tâm trạng đau khổ, xấu hổ, đau đớn.

- Tấm lòng của tác giả

+ Khinh bỉ, căm phẫn tố cáo thế lực vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của con người.

+ Tác giả có cái nhìn mỉa mai, châm biếm, lên án diện mạo và cử chỉ thô lỗ, sỗ sàng của Mã Giám Sinh.

- Tác giả thể hiện niềm cảm thương sâu sắc trước thực trạng con người bị hành hạ, bị chà đạp.

- Hóa thân vào nhân vật để nói lên nỗi tủi hổ, đau đớn của Kiều.

3. Kết bài

- Nội dung: Bằng nghệ thuật tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật, bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh. Qua đó lên án những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm của người phụ nữ.

- Nghệ thuật: Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ. Dùng bút pháp tả thực để khắc họa, miêu tả và xây dựng nhân vật.

Các bài mẫu khác:

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 2

Trong xã hội phong kiến suy tàn đầy áp bức, bất công thì người phụ nữ là nạn nhân khốn khổ nhất. Thi hào Nguyễn Du viết về họ với những lời thơ thống thiết: "Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh củng là lời chung". Thời nhà thơ sống, dường như bạc mệnh đã trở thành quy luật chung của thân phận phụ nữ. Cuộc đời Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn chứng minh cho quy luật ấy. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của đời nàng.

Đoạn trích nằm ở phần hai (Gia biến và lưu lạc) trong Truyện Kiều. Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa bắt bớ, khảo tra. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: Có ba trăm lạng việc này mới xong. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.Bút pháp tả thực sắc sảo, tài tình của Nguyễn Du đã vẽ lên chân dung sống động của Mã Giám Sinh, tên lưu manh bán thịt buôn người; đồng thời thể hiện nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều – người con gái tài sắc tuyệt vời mà bị coi như một thứ hàng hóa vô tri, bị mua đi bán lại không chút xót thương. Lời tố cáo tội ác của xã hội phong kiến suy tàn và lời kêu gọi thống thiết: Hãy cứu lấy con người của Nguyễn Du ẩn chứa sau từng hình ảnh, từ ngữ trong đoạn trích này.

Top 11 bài Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều hay nhất (ảnh 2)

Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư luận cả một vùng rộng lớn vì không ai không biết đến nàng – người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.Một điều dễ nhận thấy trong bút pháp tả người của Nguyễn Du là khi tả những nhân vật chính diện (như chị em Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải…) thì ông dùng bút pháp ước lệ; còn tả những nhân vật phản diện (như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến…) thì ông dùng bút pháp tả thực. Qua công thức này, người đọc có thể xác định nhân vật thuộc loại nào và thái độ yêu ghét của nhà thơ ra sao. Mã Giám Sinh cũng không nằm ngoài công thức đó.Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả dài dòng mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (viễn khách). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc: "Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh / Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”. Hai câu mà chỉ cung cấp được một thông tin nhỏ là hắn mang họ Mã. Còn tất cả đều mù mờ, không rõ ràng. Giám Sinh là tên gọi chung của các sinh viên trường Quốc tử giám chứ không phải là tên riêng. Còn huyện Lâm Thanh rộng bao la, ai biết hắn ở chỗ nào, gia thế ra sao? Cách nói năng của Mã đã bộc lộ một phần về con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là nho nhã, thanh lịch của một chàng giám sinh, hạng người có học.

Hình dáng bên ngoài của Mã có nhiều mâu thuẫn. Tuổi tác: Quá niên trạc ngoại tứ tuần. Một loạt từ phỏng đoán đứng liền nhau (quá, trạc, ngoại), từ Việt có, từ Hán có, cùng với nhịp thơ chậm, ngập ngừng càng làm tăng cảm giác khó xác định tuổi tác của Mã. Ngoại tứ tuần có thế là bốn mốt, bốn hai; mà cùng có thể là bốn lăm, bốn sáu tuổi. Thuở ấy, đàn ông ngoại tứ tuần là sắp lên lão (ngữ tuần – năm mươi tuổi). Vậy mà diện mạo và cách ăn mặc của hắn lại cố làm ra vẻ trẻ trung như trai mới lớn: Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Những từ tả thực đến mức dung tục như nhẵn nhụi, bảnh bao đã hàm ý mỉa mai, cười cợt, châm biếm của Nguyễn Du đối với nhân vật này. Rõ ràng là Mã Giám Sinh cố tìm mọi cách dùng cái mẽ ngoài hào nhoáng để che đậy bản chất bên trong, nhưng nực cười thay, cái lố lăng, kệch cỡm của hắn vẫn cứ lộ ra.Chỉ một câu: Trước thầy sau tớ lao xao, Nguyễn Du đã tô đậm cái cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh. Thầy tớ hắn có khác chi một lũ lưu manh lấc cấc, hỗn hào. Riêng Mã, thái độ của hắn là hợm hĩnh, vênh váo, cậy tiền, không thèm biết đến lễ nghi, phép tắc: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng. Ghế trên là ghế dành riêng cho chủ nhà hoặc khách quý. Ngồi tót là ngồi rất nhanh, co cả hai chân lên, chẳng đợi ai mời, ai thỉnh. Sỗ sàng là ngổ ngáo, coi thường mọi người. Hành động ấy, thái độ ấy là của kẻ tiểu nhân vô học. Chỉ qua vài chi tiết, chân tướng Mã đã dần dần bộc lộ.

Khi mụ mối dẫn Kiều ra, Mã nhìn ngắm, xem xét nàng với đôi mắt của một tên lái buôn lọc lõi: Đắn đo cân sắc cân tài, Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Hắn ép Kiều phải đánh đàn, làm thơ để có cơ sở chắc chắn mà định giá nàng. Tài sắc Thúy Kiều làm cho hắn rất hài lòng: Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tùy cơ đặt dìu. Mã chắc mẩm trong bụng sẽ mua được món hàng vô giá, chuyến này ắt có lời to, nhưng hắn chẳng vội vàng mà còn Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Thần tình thay là những tiếng chợ búa nôm na như cò kè, ngã giá của Nguyễn Du. Bằng mấy tiếng này, nhà thơ đã lột sạch áo mũ giám sinh giả và lời lẽ cố làm ra vẻ văn chương hoa mĩ cho đúng điệu giám sinh đi hỏi vợ: Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?… của gã lưu manh này. Trước mắt người đọc, chỉ còn lại một hiện thực trần trụi đáng sợ: Mã Giám Sinh – tên tú ông bán thịt buôn người đã lộ nguyên hình.Đọc đoạn thơ này, chúng ta căm ghét, khinh bỉ Mã Giám Sinh bao nhiêu thì càng xót thương Thúy Kiều bấy nhiêu bởi người con gái tài sắc nhường ấy đã rơi vào nanh vuốt lũ sói lang. Nguyễn Du đã tả tâm trạng Kiều lúc bán mình hằng tất cả nỗi quằn quại, đau đớn, tưởng như nước mắt rơi, máu chảy ở đầu ngọn bút:

“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng

Ngại ngùng dợn gió e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.

Mối càng vén tóc bắt tay,

Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.”

Vẫn bứt pháp ước lệ quen thuộc của Nguyễn Du khi tả những nhân vật chính diện mà ông yêu mến: lệ hoa, cúc, mai… vẻ đẹp của Kiều lúc bình thường đã khiến hoa ghen, liễu hờn, nghiêng nước nghiêng thành, thì lúc này, trong cơn đau khổ đến tột cùng, nàng vẫn đẹp – vẻ đẹp làm thổn thức lòng người. Nghệ thuật đối rất chỉnh đã được nhà thơ khai thác triệt để trong những dòng thơ tả Kiều. Tình cảm chân thành của tác giả đã phá vỡ tính khuôn sáo của bút pháp cổ điển và đem lại xúc động thực sự cho người đọc. Chúng ta thương Thúy Kiều và càng căm thù cái xã hội phong kiến thối nát đã làm tan nát gia đình nàng, đẩy nàng vào chôn đoạn trường đầy chông gai, bão tố.

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một dẫn chứng chứng minh cho tài năng miêu tả tâm lí và xây dựng hình tượng nhân vật tài tình của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều một trong muôn tiếng kêu thương trước số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời, nó là lời kết án âm thầm mà không kém phần mãnh liệt cái xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những kẻ bất lương như Mã Giám Sinh; Vì lợi ích cá nhân, chúng sẵn sàng chà đạp thô bạo lên nhân phẩm. Thông điệp mà nhà thơ Nguyễn Du muốn gửi đến tất cả chúng ta là: Hãy chặn đứng những bàn tay tội ác! Hãy cứu lấy con người!

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 3

Đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều dài 34 câu, trích trong Truyện Kiều từ câu 618 - 652. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra tấn, tù đày, tài sản gia đình bị bọn sai nha "sạch sành sanh vét cho đầy túi tham". Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!".

Video bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều

 

Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu " trâm gãy bình tan".Đoạn thơ tả cảnh mua bán người thời trung cổ được kể lại rất cụ thể, sống động. Người mua là Mã Giám Sinh kẻ bán là mụ mối. Người bị đem bán là Thúy Kiều. Khách viễn phương đến, mụ mối rước khách vào lầu trang. Mụ mối giục Kiểu "kíp ra” cho khách gặp. Mụ mối "vén tóc bắt tay" món hàng mình; Mã Giám Sinh "cân sắc cân tài". Khi khách đã "mặn nồng một vẻ một ưu" mới hỏi giá. Mụ mối thách: "một nghìn vàng". Hai bên "cò kè" mua bán với cái giá "vàng ngoài bốn trăm". Cuộc mua bán xong, hai bên làm thủ tục: "đưa canh thiếp" và hẹn ngày chồng tiền nhận hàng. Cuộc mua bán người lại được dùng bằng những ngôn từ sang trọng như: mua ngọc, sính nghi, đưa canh thiếp làm nghi, nạp thái vu quy. Đúng như cảnh hỏi vợ, thách cưới của các gia đình quý tộc thời xưa.

Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để "cò kè" mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Câu thơ "Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong" là lời bình luận cuộc mua bán, lên án đồng tiền hôi tanh, mặt trái đồng tiền trong tay bọn bất lương, bọn buôn thịt bán người.Đoạn thơ thể hiện nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Mụ mối: nhanh nhảu, đon đả hỏi họ tên, quê quán viễn khách, rồi "rước vào lầu trang". Giục Kiều ra nhanh (kíp ra), "vén tóc bắt tay” Kiều, khôn khéo thách giá:

Mối rằng: Đáng giá nghìn vàng,

Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!

Tác giả tả cử chỉ, ngôn ngữ mụ mối, làm hiện lên một loại người nhanh nhẹn, khôn khéo, giảo hoạt, kiếm ăn bằng nghề làm mối trong việc mua, bán người.Mã Giám Sinh là "viễn khách" đến để "vấn danh" - khách đến hỏi vợ và xin cưới. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu tiếp theo là "hỏi - đáp". Cách trả lời cộc lốc, khiếm nhã. Hai chữ "rằng" làm cho khẩu ngữ thêm thô lậu:

“Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh",

Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Mã Giám Sinh chung lưng vốn với mụ Tú Bà mở ngôi hàng lầu xanh ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở "Lâm Thanh cũng gần". Hắn chỉ là một tên buôn thịt bán người nhưng mập mờ khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử Giám, họ Mã, nghĩa là một trí thức phong kiến thuộc tầng lớp quý tộc. Nhân cách hé lộ dần. Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ: "Nhẵn nhụi" và "bảnh bao" là hai nét vẽ châm biếm:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.”

Cũng "thầy"cũng "tớ", cũng "trước" cũng "sau", có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của ông khách viễn phương này sao mà "lao xao" chẳng có nề nếp, lễ giáo gì! Cái cử chỉ "sỗ sàng", không biết ý tứ gì, không biết giữ lễ phép, dám đường đột leo lên ghế cao ngồi "tót"! Nếu là sinh viên trường Quốc Tử Giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh!

“Trước thầy sau tớ lao xao,

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng...”

Một chữ “tót” đầy khinh bỉ, đã vạch trần chân tướng kẻ "Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa". "Cân sắc cân tài", "ép", "thử”,... những cử chi, cách thức mua người ấy của tên lái buôn họ Mã mới thật ghê tởm! Chỉ sau khi đã "mặn nồng một vẻ một ưa", Mã Giám Sinh mới "dặt dìu" mua bán. Hắn là kẻ khôn ngoan đến róc đời, trong mọi mánh lới buôn thịt bán người. Cũng sang trọng kiểu cách như ai. Chẳng qua chỉ là hoa hòe hoa sói thớ lợ:

“Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều",

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.”

Hai chữ "cò kè" đã bóc trần bản chất bủn xỉn của một kẻ “ Quanh năm buôn phấn bán hương đã lẻ”Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong  tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách rất sống của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nghệ thuật nào cũng rất sống,  đằng sau đó là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người bạc ác tinh ma này! Bức chân dung phản diện của Mã Giám Sinh có giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án bọ buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.Kiều là một thiếu nữ hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Trước cảnh gia biến nàng bán mình để chuộc cha, để cứu gia đình. Nàng tự xem thân mình như "hạt mưa” nhỏ bé hèn mọn. Tất cả vì "ba xuân", một lòng đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ:

“Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.”

Kiều sống trong tâm trạng bi kịch dữ dội giữa tình riêng với tình nhà, giữa chữ tình với chữ hiếu, "nỗi mình thêm tức nỗi nhà". Nàng vô cùng đau khổ. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu "lệ hoa” đã tuôn rơi, cả người nàng như héo hon rũ xuống: "ngại ngùng",... "bóng thẹn",... "mặt dày", "nét buồn như cúc điệu gầy như mai”. Vì là người đẹp đau khổ cho nên các ẩn dụ so sánh mà nhà thơ sử dụng đều gắn liền với cái đẹp: thềm hoa, lệ hoa "nét buồn như cúc, điệu gầy như mai". Kiều bị mụ mối và Mã Giám Sinh "ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ". Mã Giám Sinh đã “đắn đo cân sắc cân tài". Con người Kiều, tài sắc Kiều đã trở thành món hàng đem ra mua bán. Nguyễn Du đã ca ngợi lòng hiếu thảo, đức hi sinh của Kiều trước gia biến, cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh "cân sắc cân tài", khi bị hắn "cò kè bớt một thêm hai"... Đoạn thơ chứa chan tinh thần nhân đạo là ở những chi tiết nội dung ấy."Mã Giám Sinh mua Kiều" là đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc xảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, ở đây là Mã Giám Sinh. Nhà thơ đã lên án mặt trái đồng tiền hôi tanh: "Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong!". Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dập vùi. Đó là giá trị nhân đạo.

Đoạn thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong sự tả cảnh mua Kiều, trong tả người: tả Mã Giám Sinh, tả mụ mối thì sử dụng bút pháp hiện thực, chi tiết hiện thực; tả Kiều thì thiên về ước lệ. Rất biến hóa, tài tình. Ngôn ngữ mang sắc thái biểu cảm đầy ấn tượng.Tóm lại, cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực và chứa chan tinh thần nhân đạo. Đoạn thơ là sự khởi đầu tiếng kêu thương của một kiếp đoạn trường.

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 4

Trong Truyện Kiều bên cạnh những nhân vật được Nguyễn Du hết lòng thương yêu trân trọng là một số gương mặt đê tiện, tàn ác. Mã Giám Sinh tiêu biểu cho hạng người đó. Cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã phơi trần bản chất xảo trá đê tiện của tên buôn người và cũng mở đầu cho một chuỗi dài những bi kịch đau khổ của đoạn trường mười lăm năm đời Kiều.Sau lần thề nguyền, hạnh phúc vừa chớm nở, gia đình Kiều gặp tai biến. Bọn “đầu trâu mặt ngựa” kéo đến đập phá tan tành, Vương Ông, Vương Quan bị trói đánh hành hạ:

“Giường cao rút ngược dây oan.

Dẫu rằng đá cũng nát gan lọ người.”

Không đành lòng để gia đình tan nát, Kiều đã bán mình để cứu cha và em. “Tin sương đồn đại”, xa gần xôn xao, nghe tin đó anh chàng họ Mã đã “ngửi” thấy món lợi lớn vội nhờ người mai mối để đến “vấn danh”, nói dối là cưới Kiều về làm vợ.Mã Giám Sinh xuất hiện, ta hãy nghe hắn giới thiệu về tên họ, quê quán:

Dừng lại với khóm hoa ngâu, tay lựa và gỡ nhẹ từng chùm hoa, chiếc lá, cụ hỏi: "Văn thơ hay là văn thơ thế nào?". Tôi lúng túng giây lát. Cụ bảo: "Đừng vội trả lời. Vài năm nữa, ba bốn mươi năm nữa trả lời cũng được, tôi chết rồi thì anh cứ viết ra, lúc nào tiện thắp cho tôi một nén hương rồi đọc câu trả lời cũng được". Đoạn, cụ nói: "Văn thơ hay là phải làm cho người thoát tục đi một ít, thanh sạch hơn lên một chút ... phải không?. Chừng như để cho tôi lờ mờ vỡ vạc ra, cụ nói tiếp: "Cái đoạn thằng Mã Giám Sinh mà anh vừa nhắc tới đọc ghê ghê là, nó gớm lắm và tức lắm. Tôi thường lượt qua thôi". Rồi cụ cười nhẹ không thành tiếng.

Vậy là không phải các cụ ta xưa chưa chú ý đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều, mà thực ra, là đã có thành kiến về nó. Đọc lên, nhớ lại, thấy "ghê ghê" và "tức", thì không bàn tới nữa. Thẩm thơ bình văn là khoa học và cũng là do cái tạng người, biết làm sao khác được?

Cái cảm giác "ghê ghê" khi đọc Mã Giám Sinh mua Kiều, phải chăng bắt nguồn từ ý nghĩ này: Thì ra, từ dăm trăm năm trước, cái chuyện bán người, mua người đã thành một nghề hẳn hoi. Nghề đó được thể hiện qua ngòi bút của Nguyễn Du. Mới đem "Sự lòng" – Một chuyện nhà éo le "ngỏ với băng nhân" (Tại sao không "ngỏ" với bà con, hàng xóm, mà với "băng nhân"? Chắc là vì gia đình Kiều đã biết là trong xã hội bây giờ, đã có hẳn một loại người này, phải nhờ họ giả quyết mới được), mới thế thôi, mà đã "đồn đại, xa gần xôn xao". Vì đã "xôn xao" nên mụ mối mới có cơ hội làm ăn, mới đưa được người từ nơi xa (viễn khách) đến. Là nghề bán mua người, nên giá trị của người, sắc đẹp và tài năng của người từng được coi là "nghiêng nước nghiêng thành", may ra chỉ có một hai người như thế trông thiên hạ, đã bị đem ra cân nhắc, ép buộc thử thách ... thật lạnh lùng.Trong cuộc mua bán này không hề có sự cảm thông, nhân nhượng mà chỉ là một sự "Cò kè bớt một thêm hai" suốt buối để rồi "Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm". Trong cuộc mua bán đó, là hàng hóa, nên Thúy Kiều đâu có được nói năng chi Người nói (cười) lúc này chỉ là mụ mối và gã Giám Sinh họ Mã – Họ là người hành nghề thực thụ mà!Thế nhưng cuộc mua bán ấy lại được ngụy trang bằng một cuộc "tìm hiểu" để cưới người ta về làm vợ, nên mới kết thúc bằng việc "Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm nghi, rồi hẹn ngày nạp thái vu quy"!

Xã hội văn minh là xã hội có nhiều ngành nghề với hàng loạt người có chuyên môn ở từng lãnh vực, từng công đoạn nghề nghiệp rõ ràng. Nhưng ở một xã hội tài năng và sắc đẹp đức hạnh và phẩm giá con người, như Thúy Kiều mà rơi vào tay bọn nghề buôn người kia, thì thật là ghê tởm! Xã hội đó đâu phải là xã hội văn minh.Nhiều người đọc đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều cũng có cảm giác tức. Tức vì thấy dung mạo ra vẻ chải chuốt nhẵn nhụi, bảnh bao rất khả nghi của Mã, sự đi lại ồn ào, xôn xao của thầy tờ nhà Mã, và nhất là cái kiểu "Ghế trên ngồi tót số sàng" của hắn. Ai cho phép hắn ngang nhiên như vậy? Tiền đấy. Hắn cậy có tiền. Còn dân chúng đôi khi cũng đã thấy kẻ có tiền "nói quấy, nói quá" thì "người nghe ầm ầm" rồi. Ở đây, cách xử thế của Mã, không chỉ bộc lộ cái tư cách kém cỏi, hợm hinhgx của hắn, mà còn bộc lộ cả cái tình thế oái oăm đau đớn của gia đình Thúy Kiều, cả cái tâm thế để cho đồng tiền trong tay bọn bất lương được hoành hành của xã hội đang trên đà suy vi.Có người đã trách Nguyễn Du sao lại dựng đoạn này tỉ mỉ đến thế. Càng tỉ mỉ càng đau tức thôi. Đã tỉ mỉ thế, sao không cho ai nói vài câu, không cho ai lam vài cử chỉ an ủi động viên Thúy Kiều? ... Tôi nghĩ: ấy là chì chúng ta ghét Mã Giám Sinh, thương xót Thúy Kiều mà nghĩ ra thế. Đây là luật mua bán, lại là bán mua ở trong nhà lầu có lẽ cũng kín đáo, nghiêm cẩn( như đi dạm vợ cơ mà!), thì cụ Nguyễn viết thế, dựng thế cũng đã là hết nhẽ.

“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Hắn không nói tên chỉ xưng họ ngụ ý khoe khoang mình cũng là một kẻ danh giá, có học hành, một giám sinh của trường Quốc tử giám. Lời nói lại cộc lốc, nhát gừng đúng giọng điệu của những kẻ thiếu văn hoá, nghe rất chói tai. Tiếp theo Nguyễn Du giới thiệu diện mạo của hắn:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao

Ngoại tứ tuần” nhưng lại chải chuốt, đỏm dáng râu mày tỉa tót nhẵn nhụi, áo quần chưng diện bảnh bao làm cho người gặp lần đầu đã nghi ngờ về tư cách của hắn. Rồi thì “trước thầy sau tớ xôn xao”, “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” càng lộ rõ bản chất huênh hoang, thô lỗ của hắn. Chỉ bằng một cử chỉ “ngồi tót”, Nguyễn Du bóc trần sự bịp bợm của tên lưu manh giả dạng một giám sinh.Một đoạn thơ ngắn chỉ 8 câu, ngòi bút tài tình của Nguyễn Du đã dựng lên một chân dung sinh động của anh chàng họ Mã từ diện mạo, cử chỉ, lời nói đến bản chất bỉ ổi, bịp bợm. Bức chân dung của Mã Giám Sinh được hoàn chỉnh như nhà thơ tả cảnh hắn mặc cả cò kè mua Kiều. Kiều ra mắt trong tâm trạng nhục nhã ê chề:

“Ngại ngùng dợn gió e sương,

Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày.”

Một cô gái tài sắc vẹn toàn, sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ màn che” nay trở thành món hàng để người mua “vén tóc, hất tay” nàng tủi nhục biết nhường nào. Nhưng Mã Giám Sinh coi nàng là một món hàng không hơn không kém, hắn cân nhắc xem xét kĩ càng:

“Đắn đo cân sức, cân tài,

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.”

Và khi đã “mặn nồng một vẻ một ưa” hắn liền hỏi giá, cho đến lúc này hắn vẫn đóng kịch làm bộ một kẻ có học, ăn nói văn hoa kiểu cách tỏ vẻ khiêm nhường lễ phép:

“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho vừa”.

Nhưng bộ mặt thật của hắn chẳng đánh lừa được ai, hắn đã lộ nguyên hình một tên bán thịt buôn người đê tiện. Hắn rõ hoàn cảnh của Kiều nên tìm cách dìm giá, ép giá, mặc cả “cò kè bớt một thêm hai” để rồi mua với giá rất hời:

“Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.”

Kết thúc màn “bi hài kịch” mua người này, Nguyễn Du đã thốt lên chua xót: “Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong”. Nhà thơ tố cáo thế lực tàn bạo của đồng tiền, đồng tiền đã tác oai tác quái chà đạp đạo lí và lương tâm con người. Một xã hội mà “Trong tay sẵn có đồng tiền - Dầu lòng đổi trắng thay đen khó gì” thì giá trị của con người chỉ là món hàng.Bức tranh mua bán người thật xót xa não lòng làm ta liên tưởng đến những chợ bán nô lệ một thời dã man của lịch sử. Ngòi bút Nguyễn Du cố giữ thái độ bình tĩnh khách quan khi miêu tả nhưng rồi lòng căm phẫn và xót thương không kìm nén được. Nguyễn Du lên án gay gắt cái xã hội tàn ác đã giày xéo lên quyền sống con người mà nạn nhân bi thảm nhất là những người phụ nữ.

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 5

Lâu nay ngẫm ngợi Truyện Kiều, các cụ ta thường chưa chú ý đến đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều bằng các đoạn khác, có phải thế không? Có lần, tôi đem cảm nhận này nói với một cụ giáo, và hỏi thêm: "Thưa cụ vì sao vậy?". Cụ giáo không trả lời ngay mà đứng lên, nhẹ bước ra vườn. Tôi đi theo mà lòng băn khoăn: "Chẳng lẽ mình vừa nêu, vừa hỏi chuyện mà cụ không vừa ý?"
Dừng lại với khóm hoa ngâu, tay lựa và gỡ nhẹ từng chùm hoa, chiếc lá, cụ hỏi: "Văn thơ hay là văn thơ thế nào?". Tôi lúng túng giây lát. Cụ bảo: "Đừng vội trả lời. Vài năm nữa, ba bốn mươi năm nữa trả lời cũng được, tôi chết rồi thì anh cứ viết ra, lúc nào tiện thắp cho tôi một nén hương rồi đọc câu trả lời cũng được".
Đoạn, cụ nói: "Văn thơ hay là phải làm cho người thoát tục đi một ít, thanh sạch hơn lên một chút ... phải không?. Chừng như để cho tôi lờ mờ vỡ vạc ra, cụ nói tiếp: "Cái đoạn thằng Mã Giám Sinh mà anh vừa nhắc tới đọc ghê ghê là, nó gớm lắm và tức lắm. Tôi thường lượt qua thôi". Rồi cụ cười nhẹ không thành tiếng.
Vậy là không phải các cụ ta xưa chưa chú ý đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều, mà thực ra, là đã có thành kiến về nó. Đọc lên, nhớ lại, thấy "ghê ghê" và "tức", thì không bàn tới nữa. Thẩm thơ bình văn là khoa học và cũng là do cái tạng người, biết làm sao khác được?
Cái cảm giác "ghê ghê" khi đọc Mã Giám Sinh mua Kiều, phải chăng bắt nguồn từ ý nghĩ này: Thì ra, từ dăm trăm năm trước, cái chuyện bán người, mua người đã thành một nghề hẳn hoi. Nghề đó được thể hiện qua ngòi bút của Nguyễn Du. Mới đem "Sự lòng" – Một chuyện nhà éo le "ngỏ với băng nhân" (Tại sao không "ngỏ" với bà con, hàng xóm, mà với "băng nhân"?
Chắc là vì gia đình Kiều đã biết là trong xã hội bây giờ, đã có hẳn một loại người này, phải nhờ họ giả quyết mới được), mới thế thôi, mà đã "đồn đại, xa gần xôn xao". Vì đã "xôn xao" nên mụ mối mới có cơ hội làm ăn, mới đưa được người từ nơi xa (viễn khách) đến. Là nghề bán mua người, nên giá trị của người, sắc đẹp và tài năng của người từng được coi là "nghiêng nước nghiêng thành", may ra chỉ có một hai người như thế trông thiên hạ, đã bị đem ra cân nhắc, ép buộc thử thách ... thật lạnh lùng.
Trong cuộc mua bán này không hề có sự cảm thông, nhân nhượng mà chỉ là một sự "Cò kè bớt một thêm hai" suốt buổi để rồi "Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm". Trong cuộc mua bán đó, là hàng hóa, nên Thúy Kiều đâu có được nói năng chi Người nói (cười) lúc này chỉ là mụ mối và gã Giám Sinh họ Mã – Họ là người hành nghề thực thụ mà!
Thế nhưng cuộc mua bán ấy lại được ngụy trang bằng một cuộc "tìm hiểu" để cưới người ta về làm vợ, nên mới kết thúc bằng việc "Hãy đưa canh thiếp trước cầm làm nghi, rồi hẹn ngày nạp thái vu quy"!
Xã hội văn minh là xã hội có nhiều ngành nghề với hàng loạt người có chuyên môn ở từng lĩnh vực, từng công đoạn nghề nghiệp rõ ràng. Nhưng ở một xã hội tài năng và sắc đẹp đức hạnh và phẩm giá con người, như Thúy Kiều mà rơi vào tay bọn nghề buôn người kia, thì thật là ghê tởm! Xã hội đó đâu phải là xã hội văn minh.
Nhiều người đọc đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều cũng có cảm giác tức. Tức vì thấy dung mạo ra vẻ chải chuốt nhẵn nhụi, bảnh bao rất khả nghi của Mã, sự đi lại ồn ào, xôn xao của thầy tớ nhà Mã, và nhất là cái kiểu "Ghế trên ngồi tót số sàng" của hắn. Ai cho phép hắn ngang nhiên như vậy? Tiền đấy. Hắn cậy có tiền. Còn dân chúng đôi khi cũng đã thấy kẻ có tiền "nói quấy, nói quá" thì "người nghe ầm ầm" rồi.
Ở đây, cách xử thế của Mã, không chỉ bộc lộ cái tư cách kém cỏi, hợm hĩnh của hắn, mà còn bộc lộ cả cái tình thế oái oăm đau đớn của gia đình Thúy Kiều, cả cái tâm thế để cho đồng tiền trong tay bọn bất lương được hoành hành của xã hội đang trên đà suy vi.
Có người đã trách Nguyễn Du sao lại dựng đoạn này tỉ mỉ đến thế. Càng tỉ mỉ càng đau tức thôi. Đã tỉ mỉ thế, sao không cho ai nói vài câu, không cho ai làm vài cử chỉ an ủi động viên Thúy Kiều? ... Tôi nghĩ: ấy là chỉ chúng ta ghét Mã Giám Sinh, thương xót Thúy Kiều mà nghĩ ra thế. Đây là luật mua bán, lại là bán mua ở trong nhà lầu có lẽ cũng kín đáo, nghiêm cẩn( như đi dạm vợ cơ mà!), thì cụ Nguyễn viết thế, dựng thế cũng đã là hết nhẽ.
Mặt khác, cũng cần thấy rằng: Đằng sau cái vẻ im lặng, tưởng như lạnh lùng dửng dung của cụ Nguyễn Du khi kể và dựng lại đoạn này như thế, là cả một tấm lòng dào dạt thương cảm cho thân phận Thúy Kiều, khi Nguyễn Du viết:
Hạt mưa sá nghĩ phận hènLiều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.
Là cụ đã không chỉ thương mà còn hiểu cho tình trạng của Thúy Kiều lắm (Thương đã là quý, trong thương có hiểu, vậy mới là tri ân, mới là thấu đạt, cả một tấm lòng dào dạt, người ta nói Nguyễn Du là nhà nhân đạo chủ nghĩa hẳn là vì thế). Chưa hết, đấy là đối với Thúy Kiều. Còn đối với cái sự mua bán kia, với cái gã hợm tiền kia, cụ đánh cho một câu:Tiền lưng đã sẵn, việc gì chẳng xong!
Đó là kết lại đoạn đau đời tức tưởi này, đó cũng là lời cảnh báo trước cho những người như Mã và cho cả những xun xoe khiếp nhược tống tiền. Ta thấy hiện lên ở đây cái nhếch mép và cả tiếng cười gằn hiếm hoi của nhà thơ nhân đạo: Xin các người cứ tưởng thế đi, tiền lưng đã sẵn rồi mà ...
 

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 6

Đang sống trong hạnh phúc của mối tình đầu say mê, trong trắng với Kim Trọng thì bất ngờ gia đình Kiều bị vu oan, giáng họa. Không đành lòng để cho gia đình tan nát, Thúy Kiều đau đớn trao duyên cho Thúy Vân, tự nguyện bán mình để lấy tiền cứu cha và em trai.
Lợi dụng tình cảnh đau đớn của Kiều, Mã Giám Sinh “vốn là một đứa phong tình đã quen” đánh tiếng cưới nàng về làm thiếp nhưng thực sự là hắn mua Kiều về cửa hàng thanh lâu của hắn với mụ Tú Bà ở Lâm Tri. Đoạn trích này miêu tả màn kịch mua bán, qua đó “lột mặt nạ” của Mã Giám Sinh và thể hiện nỗi đau đớn ê chề, mở đầu cho đoạn trường mười lăm năm lưu lạc đầy cay đắng của nàng Kiều.
Với ngòi bút sắc sảo trong miêu tả và nỗi căm ghét của nhà thơ, Nguyễn Du đã lột tả bộ mặt bỉ ổi, tàn ác, ghê tởm của bọn “buôn bán thịt người”. Trong màn kịch này, Mã Giám Sinh đóng vai chàng sinh viên Quốc Tử Giám đến để làm “lễ vấn danh”, xem mặt, dạm hỏi Thuý Kiều về làm vợ lẽ. Gã sinh viên giả hiệu “người viễn khách” mờ ám này, mù mờ từ tên họ đến tên quán. Và ngòi bút thần tình của Nguyễn Du cứ mỗi nét lại khắc hoạ rõ hơn chân dung của Mã Giám Sinh và cái bản chất con buôn ghê tởm của hắn:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần…“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Mã Giám Sinh đã “ngoại tứ tuần” mà vẫn “áo quần bảnh bao”, “mày râu nhẵn nhụi”, rõ ra một gã trai lơ. Lũ thầy, tớ chúng kéo đến nhà Kiều thật là nhốn nháo, lố lăng … và cái cử chỉ “ghế trên ngồi tót sỗ sàng” đã làm rơi cái mặt nạ sinh viên, phơi bày chân tướng của một tên vô học, thô lỗ của hắn.
Nguyễn Du cứ “khách quan” miêu tả cảnh mua bán vậy mà cái bản chất thật của Mã Giám Sinh vẫn bị lột trần, phơi bày bằng hết. Dẫu được khéo léo che đậy bằng mọi thứ mánh lới xảo quyệt nhưng diện mạo, thái độ, cử chỉ, hành vi và ngôn ngữ của hắn vẫn tự tố cáo bản chất đích thực của một tên “buôn thịt bán người” đê tiện.
Trong con mắt của Mã Giám Sinh, nàng Kiều cùng với tài sắc của nàng chỉ là một món hàng rồi đây sẽ sinh lợi cho hắn. Hắn đắn đo khi “cân sắc, cân tài”, hắn “ép”, hắn “thử” tài nghệ của nàng; nhấc lên, đặt xuống, xoay vần đủ kiểu hệt như người ta mua bán một món hàng. Khi đã hoàn toàn vừa ý, bản chất con buôn của hắn vẫn còn lộ ra ở cái thái độ “tuỳ cơ dặt dìu” khi mặc cả. Bản chất đó còn được che đậy bằng những lời lẽ mĩ miều, sang trọng:
“ Rằng mua ngọc đến Lam KiềuSính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Thì cuối cùng bộc lộ một cách trắng trợn và bỉ ổi nhất:
“Cò kè bớt một, thêm haiGiờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”.
Với sự mặc cả “cò kè” ti tiện, bẩn thỉu này, màn kịch “lễ vấn danh” lộ rõ thực chất là một cảnh “mua thịt bán người” một cách trắng trợn và Mã Giám Sinh hiện nguyên hình là một tên con buôn ghê tởm và đê tiện nhất.
Trong đoạn trích này, hình ảnh Thúy kiều hiện ra với tất cả những buồn khổ, xót xa, ê chề, tủi hổ. Là một cô gái tài sắc vẹn toàn, đang sống trong cảnh “êm đềm trướng rủ, màn che, tường đông ong bướm đi về mặc ai”, lại đang ngây ngất trong hạnh phúc của mối tình đầu trong trắng thì thình lình tai họa ập đến, Kiều trở thành một món hàng cho bọn “buôn thịt, bán người” trao tay mua bán, cò kè, mặc cả. Tâm hồn nhạy cảm của nàng đã cảm nhận sâu sắc cảnh ngộ éo le, vừa hổ thẹn, vừa dơ dáy, vừa đau đớn, nhục nhã của mình:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà………….Ngừng hoa bỗng thẹn, trông gương mặt dày”.
Kiều vừa xót xa cho mối tình của mình (nỗi mình), vừa xót xa cho gia đình (nỗi nhà), lệ rơi khôn cầm. Kiều ra với Mã Giám Sinh như cành hoa đem ra trước sương gió, cho nên “ dợn gió, e sương”, vì sương gió làm cho hoa tàn, hoa rụng. Và vì tự ví mình với hoa nên thẹn thùng khi nhìn thấy hoa, tự thấy không xứng với hoa. Đó là cái đạo đức thầm kín của Kiều. Trong khi đó mụ mối cứ giới thiệu Kiều như một món hàng, một đồ vật: “vén tóc, bắt tay” cho khách xem. Bắt nàng làm thơ, đánh đàn cho khách thấy. Còn Kiều thì “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai”.
Trong màn kịch “lễ vấn danh” này, dưới sự “đạo diễn” của mụ mối và theo đòi hỏi, nài ép của Mã Giám Sinh, Kiều “nhất cử, nhất động” đánh đàn , làm thơ như một “cái máy”. Bán mình để chuộc cha, cứu em là hành động tự nguyện của nàng nên nàng chịu đựng và cam chịu tất cả.
Qua ngòi bút của Nguyễn Du, nàng Kiều hiện lên với sự im lặng tuyệt đối mà vẫn không sao dấu được sự đau đớn, xót xa, tủi nhục, ê chề bởi nàng là người luôn có ý thức về nhân phẩm mà lại bị chà đạp lên nhân phẩm một cách nhục nhã. Kiều đau uất trước cảnh đời ngang trái, đau khi nghĩ tới”nỗi mình” – tình duyên dang dở, uất bởi “nỗi nhà” bị “vu oan giáng họa”, Bao trùm lên tâm trạng của Kiều là sự đau đớn, tái tê “thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”!
Phải nói, trước sau, Nguyễn Du cũng đã miêu tả cảnh bán người như là cảnh “cành hoa đem bán cho thuyền lái buôn”. Bằng việc miêu tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại, Nguyễn du đã khắc họa được tính cách nhân vật, tác giả đã bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh, qua đó lên án những thế lực tàn bạo chà đạp lên tài sắc, nhân phẩm của người phụ nữ đồng thời bộc lộ sự thương cảm sâu sắc bởi nỗi đau oan trái của Thúy Kiều ngay từ buổi đầu của đoạn đời lưu lạc đầy bất hạnh của nàng.
 
 

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 7

Đoạn trích "Mã Giám Sinh mua Kiều" nằm trong tác phẩm "Truyện Kiều" của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du - một thiên truyện tiêu biểu và là kiệt tác của nền văn học Việt Nam. Truyện xoay quanh cuộc đời của nhân vật Thúy Kiều - một con người tài sắc vẹn toàn, giai nhân xuất chúng nhưng cuộc đời lại thăng trầm và nhiều bất hạnh đau thương.
Đoạn trích đã thuật lại biến cố lớn nhất trong cuộc đời của Thúy Kiều, ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều, cuộc đời Kiều rẽ ngang từ một tiểu thư cao quý đức hạnh thành một món đồ hàng không hơn không kém. `
Vì bi kịch của gia đình nên Kiều đành phải bán mình lấy tiền chuộc cha và cứu em trai, đoạn trích "Mã Giám Sinh mua Kiều" chính là cuộc ngã giá mua bán, trước cảnh tượng ấy, người đọc thấu hiểu tâm trạng đau khổ của Kiều đồng thời nhìn rõ bộ mặt xấu xa, bản chất giả dối của tên buôn người Mã Giám Sinh. Nguyễn Du thông qua đoạn trích này đã lên án tố cáo những kẻ dùng đồng tiền để bức ép con người ta đi tới bước đường cùng của đau khổ. Mở đầu đoạn trích là lời giới thiệu về tên buôn người Mã Giám Sinh:
"Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh",Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần"Quá niên trạc ngoại tứ tuần.Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao"
Lời giới thiệu có vẻ nhiệt tình và tha thiết của mụ mối gợi ra hình tượng Mã Giám Sinh là một người đàng hoàng, có gốc gác lại có học thức. Thế nhưng đó chỉ là cái hư danh hão huyền, bởi từ chính cái nhìn ngoại hình đã lộ rõ bản chất của kẻ lố lăng này.
Đây là một người đàn ông đã ở tuổi trung niên, sự trau chuốt diện mạo quá đà "mày râu nhẵn nhụi" kết hợp với trang phục "áo quần bảnh bao" đã gợi ra vẻ lố lăng, kệch cỡm của kẻ nhiều tuổi nhưng lại cố tỏ ra mình còn trẻ. Sự giả tạo đáng coi thường của nhân vật này còn được bộc lộ rõ qua hành động, cử chỉ:
"Trước thầy sau tớ lao xao,Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.Ghế trên ngồi tót sỗ sàng,Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra."
Hành động của Mã Giám Sinh bộc lộ rõ vẻ trơ trẽn, vô học, vô giáo dục của hắn, giữa thầy và tớ không có sự tôn trọng, thiếu lễ nghĩa, đầy tớ của hắn như những kẻ đi thuê đi mượn, chính hắn cũng không nắm rõ những phép tắc cơ bản mà ngồi tót vào ghế trên. Tuy nhiên Mã Giám Sinh là người bỏ tiền ra mua Kiều, chính vì thế hắn tự cho mình cái quyền lộng hành, ra oai. Trái ngược với sự hống hách đầy ngỗ ngược của Mã Giám Sinh, Thúy Kiều bấy giờ đang trong cảnh vô cùng đau khổ:
"Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng!Ngại ngùng dợn gió, e sương,Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày."
Nỗi lòng đầy suy tư và đau khổ của Kiều bộc lộ rất rõ, nàng nhận thức rõ nỗi đắng cay tủi nhục khi phải bán thân mình cho cuộc hôn nhân không tình yêu này, nỗi buồn lại chồng chất thêm nỗi lo cho cha mẹ và gia đình. Bước chân đi nặng nề chứa chan nước mắt, nàng mang trên mình đau khổ và trách nhiệm cũng như bổn phận người làm con.
Kiều đã có những dự cảm chẳng lành về tương lai số phận của mình, nàng cảm thấy lo sợ, ngại ngùng nhưng đó vẫn là hiện thực không thể tránh khỏi. Thúy Kiều hiện lên trong tình cảnh đáng thương, bị coi như món hàng trao đổi, nâng lên đặt xuống, bắt nàng trổ tài đánh đàn, làm thơ rồi mới bắt đầu ngã giá.
Tài năng trời phú ban cho Kiều thật trớ trêu khi phải thể hiện ở một nơi ô uế như vậy, quả thực đau đớn và xót xa cho số phận Kiều. Sau khi cuộc ngã giá kết thúc, bản chất của kẻ buôn người bộc lộ rõ trong Mã Giám Sinh, sự sành sỏi, lọc lõi, cò kè "bớt một thêm hai" đã giúp hắn có một món hời.
Qua đoạn trích "Mã Giám Sinh mua Kiều", người đọc không chỉ được cảm nhận về nỗi đau khổ, số phận đầy cay đắng của Thúy Kiều mà còn nhìn rõ bản chất của tên buôn người lố lăng giả tạo Mã Giám Sinh. Nguyễn Du đã vạch trần bản chất của một xã hội dơ bẩn, "ăn thịt người", coi thường tính mạng và giá trị của con người, đồng tiền bị lợi dụng trở thành công cụ chèn ép và áp bức bất công.
 

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 8

Tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du là một bản cáo trạng bằng thơ, lên án xã hội phong kiến xấu xa, thể hiện nỗi đau khổ của những con người bị áp bức. Thúy Kiều là một hiện thân của những con người bị áp bức đó, nỗi đau đầu tiên của Kiều là phải bán thân, vùi dập dưới tay kẻ buôn bán người. Cụ thể nỗi đau khổ đầu tiên của Kiều được thể hiện trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều.
Phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều. Trước bi kịch gia đình, một tai họa bất ngờ khi thằng bán tơ đã vu oan cho gia đình nàng. Cha và em của nàng bị bắt và bị đánh đập dã man, tài sản của gia đình đã bị chúng vơ vét sạch. Vốn là người con hiếu thảo, Kiều phải bán mình để chuộc cha và em, chấp nhận hi sinh tình yêu của mình vì gia đình, chấp nhận làm vợ lẽ của Mã Giám Sinh để có tiền cứu cha và em.
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua kiều đã bộc lộ được rõ ràng tâm trạng, nỗi đau khổ của nàng trong tình cảnh đó. Mở đầu đoạn thơ, tác giả đã ghi lại một cách cụ thể tâm trạng của Kiều: “Nỗi mình thêm tức nỗi nhà”, đó là nỗi đau cũng là nỗi uất hận đã lên đến cao độ bởi nàng bị ép vào cảnh đường cùng. Gia đình chia li tan tác, tình yêu mà nàng dành cho Kim Trọng nay lại đành dở dang, mối tình đầu trong sáng đang tỏa sắc lên hương lại đành phải chia li vì cảnh ngộ gia đình.
Hai nỗi niềm gia đình và tình yêu đang chồng chất và đè nặng lên đôi vai của nàng, khiến cho nàng rơi vào đau khổ, xót xa. Hình ảnh Kiểu từ trong phòng bước ra, giáp mặt với Mã Giám Sinh trong lễ vấn danh đã cho thấy vẻ đau khổ của nàng trong mỗi bước đi: “Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng”. Với cách miêu tả có tính chất ước lệ “thềm hoa”, “lệ hoa”, câu thơ trở nên rất gợi hình và gợi cảm.
Hiện lên trước mắt người đọc là một khuôn mặt với vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành đang thấm đẫm nước mắt, đó là những giọt nước mắt của tủi hờn, xót xa và đau khổ. Kiều vừa thương cha, vừa thương em lại thương cho chính mình, căm tức và phẫn uất với cuộc đời ngang trái đã giáng tai họa xuống gia đình và cuộc đời nàng.
Là một thiếu nữ con nhà gia giáo, sống trong cảnh trướng rủ màn che, vậy mà giờ đây tài sắc của nàng phải chấp nhận phơi ra cho người ta xem xét, cân đo, thử, ép, nàng vô cùng tủi thân và e thẹn. Điều đó cho thấy nàng đã ý thức rất rõ về nhân phẩm và thân phận của mình nhưng vì cảnh ngộ gia đình và bổn phận người con nàng đành cam chịu.
Hình ảnh nàng Kiều lúc này giống như một chiếc bóng lặng câm và nhòe dần trước ánh sáng của đồng tiền, dù có là quốc sắc thiên hương nhưng vẫn chỉ là một món hàng không hơn không kém của bọn “buôn phấn bán hương”.
Thông qua việc miêu tả tâm trạng của nàng Kiều, đoạn thơ đã lên án tố cáo hiện thực của xã hội lúc bấy giờ, những người phụ nữ trong xã hội ấy đã trở thành một món hàng hóa. Sức mạnh của đồng tiền đã gây ra những bất hạnh cho họ, nhà thơ đã lên án và phê phán những kẻ tàn bạo đó, đồng thời thể hiện niềm xót thương đối với nàng Kiều.
 
 

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 9

Sau lần thề nguyền kết tóc se tơ, Kim Trọng phải về Liêu Dương để hộ tang chú. Gia đình gặp nạn, bị vu oan giá họa, Kiều phải cậy nhờ Thúy Vân thay mình giữ trọn tình chung thủy với Kim Trọng để bán mình cứu cha và em. Đoạn trích tả cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều để đem về Lâm Tri.
Mã Giám Sinh - một “viễn khách” cùng với người mốì tìm đến để “vấn danh”, tức là xin cưới hỏi Kiều về làm vợ. Cách nói như vậy có vẻ lương thiện nhưng sự thật không phải thế. Ta hãy theo dõi thái độ và việc làm của họ Mã.
Nguyễn Du đã giới thiệu ông khách họ Mã này như thế nào? Khi được hỏi về tên họ, quê quán, y đã trả lời một cách cộc lốc. Y còn có ngụ ý khoe khoang mình là kẻ có học, danh giá, sinh viên trường Quốc tử giám. Nhưng ngòi bút của Nguyễn Du thật tài tình khi viết hai câu:
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Đây là cách nói năng của kẻ thiếu lịch sự, thiếu văn hóa và ngay khi mới xuất hiện người đọc đã mất hết cảm tình với hắn ta rồi. Hắn che dấu tung tích, quê quán, chỉ biết “cũng gần” Nguyễn Du tiếp tục giới thiệu diện mạo anh chàng giám sinh họ Mã này:
Quá niên trạc ngoại tứ tuầnMày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
Trông vẻ bên ngoài, hẳn như một kẻ thanh lịch: mày râu được cạo kĩ, áo quần đẹp đẽ. Nhưng cách làm dáng, chải chuốt đó lại không phù hợp với con người đã “quá niên trạc ngoại tứ tuần”. Và đến nhà Kiều thì: “Trước thầy sau tớ xôn xao” gợi lên cảnh ồn ào bát nháo của tớ thầy Mã Giám Sinh. Rồi khi vào đến nhà, hắn vội “ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, chỉ một cử chỉ “tót” đó, Nguyễn Du đã phơi bày tất cả bản chất của con người thô lỗ, vô học, lưu manh.
Chỉ một đoạn thơ ngắn 8 câu, tác giả đã khắc họa một cách sinh động về diện mạo, ngôn ngữ, hành vi của Mã Giám Sinh. Và bức chân dung ấy được hoàn chỉnh khi tác giả tả cảnh hắn, mặc cả mưa Kiều. Mã đánh tiếng đến cưới Kiều về làm vợ nhưng sự thật hắn mua Kiều về lầu xanh ở Lâm Tri để tiếp khách làng chơi, nơi hắn cùng với mụ Tú Bà chung vốn làm ăn.
Vì vậy trong việc mua bán này, y phải tính toán thiệt hơn. Trước hết đắn đo, cân nhắc kĩ càng về mặt hàng: Đắn đo cân sắc, cân tài Để nắm chắc giá trị của món hàng, hắn không ngại bắt “ép” Kiều phải thử tài: Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Sau một hồi xem xét tính toán hắn tỏ ý vừa lòng: “mặn nồng một vẻ một ưa”. Điều còn lại là giá cả bao nhiêu để kiếm được nhiều lời, hắn liền hỏi giá:
Rằng: “mua ngọc đến Lam KiềuSính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Mã cũng biết học đòi cách nói năng văn hoa của người có học và tỏ vẻ lễ phép khiêm nhường (xin dạy) nhưng bản chất của tên con buôn không che dấu được. Hắn “cò kè bớt một thêm hai”. Tìm cách ép giá, dìm giá vì hắn biết rõ hoàn cảnh quẫn bách của Kiều. Vì thế Mã đã mua được Kiều với giá rất hời, từ “đáng giá ngàn vàng” hắn chỉ mua có “ngoài bốn trăm”. Mã không đánh lừa được ai, hắn khoác áo kẻ thanh lịch, giả dạng một giám sinh nhưng qua cảnh mua bán này đã lộ nguyên hình một tên buôn người đểu cáng.
Kiều phải bán mình để cứu gia đình qua cơn nguy biến, một hành động hi sinh rất cao cả. Bắt đầu từ đây nàng dấn thân vào con đường đau khổ, nhục nhã ê chề và cảnh mua bán này sẽ mở đầu cho chuỗi dài bi đát của đoạn trường 15 năm.Người con gái tài sắc vẹn toàn ấy nếu được sống trong một xã hội công bằng chắc hẳn sẽ có cuộc đời hạnh phúc.
Nhưng trong xã hội phong kiến thối nát, tài sắc ấy trở thành món hàng đem ra mặc cả “cò kè”, trao từ tay người này qua tay kẻ khác. Trong 6 câu thơ tả tâm trạng Kiều, Nguyễn Du để nàng im lặng. Đúng vậy, lúc này làm sao nàng nói được nên lời. Nhưng qua một vài cử chỉ, dáng điệu ta thấu hiểu nỗi đau của nàng:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!
Kiều khóc, những giọt lệ chảy thành hàng, những giọt nước mắt đau xót, tủi nhục. Nàng, con gái nhà lành sống trong cảnh “trướng rủ màn che” nay trở thành món hàng để người mua “vén tóc bắt tay” “cân sức cân tài” làm sao nàng không cảm thấy thẹn thùng, nhục nhã:
Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày Nàng tự xỉ vả mình là kẻ mặt dạn mày dày, nhưng tội này không phải do nàng gây nên. Trong xã hội mà đồng tiền thống trị tất cả: “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong” thì có biết bao số phận bi thảm như Kiều.
Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” như một màn kịch ngắn, trong đó sự việc cứ tiến triển dần và tính cách nhân vật bộc lộ rõ nét. Thái độ của Nguyễn Du thật rõ ràng: lên án, tố cáo những thế lực đen tối của xã hội, thông cảm sâu sắc với nỗi đau của con người. Ngày nay, đọc lại Truyện Kiều ta cảm thương cho số phận bi đát của Kiều và căm ghét xã hội bạo ác đã chà đạp lên quyền sống của những phụ nữ.
 
 

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 10

Nửa đêm qua huyện Nghi XuânBâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều...(Tố Hữu - Kính gửi cụ Nguyễn Du)
“Bâng khuâng” là trạng thái tinh thần của con người tuy đứng trước thực tại nhưng tâm hồn không đặt ở thực tại mà hướng về, thậm chí đắm chìm trong quá khứ, trong tương lai, hay trong mộng tưởng. Vì đắm chìm trong quá khứ, nên Tố Hữu cũng như chúng ta không thể nào quên được cụ Nguyễn Du, một đại thi hào đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Kiều - một bài ca lớn về giá trị nhân bản; bản cáo trạng nghiêm khắc về cái ác; tập đại thành của nghệ thuật văn chương.
Và chúng ta cũng không thể không “thương thân nàng Kiều” đang đau đớn, tủi nhục ê chề khi phải bán mình chuộc cha, rơi vào tay một kẻ “buôn thịt bán người” trong trích đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều.
Trích đoạn này gồm 34 câu thơ, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều, thuộc phần Gia biến và lưu lạc. Câu chuyện trước đoạn này như sau: Trên đường về của chuyến đi tảo mộ và du xuân, ba chị em Thuý Kiều gặp Kim Trọng - một chàng trai tài đức vẹn toàn, bạn đồng môn của Vương Quan. Trở về nhà, Thúy Kiều tơ tưởng đến bóng hình Kim Trọng mà “Ngổn ngang trăm mối bên lòng”.
Còn Kim Trọng, sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy cũng nặng lòng nhớ thương Kiều rồi tìm kiếm, dọn nhà đến kề cận vườn nhà Kiều. Nhờ vậy, đôi trai tài gái sắc có cơ hội làm quen, tìm hiểu và trao lời thề nguyền trọn đời bên nhau. Ngay sau đó, Kim Trọng phải cấp tốc trở về Liêu Dương thọ tang chú.Và cũng cùng thời điểm ấy, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, tất cả tài sản bị bọn sai nha vơ vét sạch. Để cứu cha và em thoát khỏi cơn gia biến, Kiều tự nguyện bán mình:
Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.Sự lòng ngỏ với băng nhânTin sương đồn đại, xa gần xôn xao.
Thúy Kiều buồn bã mang sự tình ngỏ với người mai mối. Lập tức, mụ mối dắt khách phương xa tới:
Gần miền có một mụ nào,Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh
“Viễn khách” là từ Hán Việt có sắc thái trân trọng, tao nhã. Phải chăng “viễn khách” ấy là con người tử tế, cao thượng, nho nhã đến để xin hỏi cưới Kiều về làm vợ theo đúng tục lệ hôn nhân ngày xưa? sắm vai là học sinh trường Quốc Tử Giám, trường lớn nhất ở kinh đô thời xưa, người khách phương xa bắt đầu xuất hiện:
Hỏi tên, rằng “Mã Giám Sinh”Hỏi quê, rằng “Huyện Lâm Thanh cũng gần”
Cách ngắt nhịp thơ ở hai câu này rất trúc trắc, khác lạ. Câu lục nhịp: 2-1-3. Câu bát nhịp 2-1-3-2. Cách ngắt nhịp trùng với cách trả lời bất ổn của vị khách. “Mã” thì đúng là họ rồi. Nhưng “Giám Sinh” đâu có phải là tên người? Còn quê quán nghe rất mơ hồ: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Từ “cũng gần” được nhà thơ dùng rất đắt để biểu hiện một lí lịch, gốc gác không minh bạch của nhân vật. Nếu đúng là người tốt thì việc gì lại không dám giới thiệu cụ thể nơi ở của mình? Với cách trả lời cộc cằn ấy chứng tỏ Mã Giám Sinh là người vô văn hóa. Còn đây là tuổi tác và diện mạo của gã:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần,Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
Ngoại tứ tuần có nghĩa là ngoài bốn mươi tuổi, đã qua rồi thời trai tráng. Từ “quá niên” càng tô đậm hơn điều đó. Thế nhưng hắn vẫn ăn mặc theo kiểu trai lơ “áo quần bảnh bao” và chuẩn bị “mày râu nhẵn nhụi” trông rất bảnh chọe. Nếu ở câu lục nhà thơ sử dụng toàn từ Hán Việt thì ở câu bát xuất hiện toàn từ thuần Việt để bày tỏ thái độ châm biếm.
Riêng hai từ láy “nhẵn nhụi” và “bảnh bao” có sức gợi tả thái độ sự dung tục và lố bịch rất cao vì hắn là người bất chính nên đám tôi tớ đi theo hắn cũng toàn là lũ xô bồ, lộn xộn:Trước thầy sau tớ lao xao, Có thể khẳng định rằng diện mạo và cách xuất hiện của Mã Giám Sinh hoàn toàn đối lập với Kim Trọng. Kim Trọng xuất hiện với một phong cách tao nhã, diện mạo khôi ngô tuấn tú, làm cho cả một vùng bừng sáng hơn:
Dùng dằng nửa ở nửa về,Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.Trông chừng thấy một văn nhânLỏng buông tay khấu, bước lần dặm băngĐề huề lưng túi gió trăng,Sau chân theo một vài thằng con con.Tuyết in sắc ngựa câu giònCỏ pha màu áo nhuộm non da trời,Nẻo xa mới tỏ mặt người,Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.Hài văn lần bước dặm xanh,Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.
Thế nên, một con người bịp bợm như Mã Giám Sinh không thể nào xứng đáng với nàng Kiều tài sắc vẹn toàn. Và chúng ta hãy xem cử chỉ thô lỗ của hắn: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng “Ghế trên” bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng nhất của phòng khách, chỉ những thượng khách mới được mời an tọa, thường là người cao tuổi.
Vậy mà một tên trâng tráo như hắn chưa kịp mời đã vội “ngồi tót”, trông là biết vô học rồi. Chữ “ngồi tót” được nhà thơ dùng rất điêu luyện và đã giết chết Mã Giám Sinh ngay trong cõi sống. Liền sau đó là từ bồi bút “sỗ sàng”. Cùng là từ “tót” nhưng khác xa một trời một vực với cách tả Kim Trọng:
Phong tư tài mạo tót vờiVào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa
Trong Truyện Kiều nhiều lần Nguyễn Du đã giết chết nhân vật phản diện bằng nghệ thuật dùng từ. Nhà thơ giết chết tên Sở Khanh bằng một từ “lẻn” ở câu 1094:
Tường đông lay động bóng cành,Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào.
Và đại thi hào cũng đã giết chết Hồ Tôn Hiến bằng từ “mặt sắt” trong câu 2580:
Nghe càng đắm, ngắm càng say,Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!
Nhìn chung, qua dụng công miêu tả của Nguyễn Du, chân tướng con buôn Mã Giám Sinh đã dần dần được phơi bày:
Đắn đo cân sắc cân tài,Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.
“Đắn đo” là trạng thái suy nghĩ, tính toán đến căng thẳng. Trạng thái này thường gặp ở những kẻ làm nghề buôn bán. Tuy được nghe mụ mối giới thiệu Kiều là người tài sắc vẹn toàn nhưng hắn vẫn chưa chắc chắn lắm. Bởi vậy hắn mới “cân sắc, cân tài” có nghĩa là xem đi, xem lại, kiểm tra một cách tỉ mỉ, cẩn thận như mua một món hàng giữa chợ trời. Thật đúng là một con buôn giàu kinh nghiệm, lõi đời. Sau khi thấy dáng dấp của nàng, tài năng của nàng, vẻ nào cũng mặn mà dễ thương, hắn bằng lòng về món hàng và lựa lời trao đổi về giá cả:
“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”
Chỉ với một từ “mua”, nhà thơ đã bóc trần bản chất đê tiện của gã họ Mã mặc dù hắn vẫn còn cố gắng trau chuốt lời ăn tiếng nói qua các từ: “Lam Kiều”, “xin dạy”. Và đây là cuộc “mặc cả” giữa con buôn sành sỏi và mụ mối:
Cò kè bớt một thêm hai,Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm
“Cò kè” là từ luôn luôn được dùng ở bất cứ chợ nào thuộc lĩnh vực buôn bán đồ vật. Từ “cò kè” còn tạo ra một không khí mua bán hết sức thô lỗ, mụ mối càng nói thách để được lời về phần mình thì tên “buôn thịt bán người” Mã Giám Sinh càng trả cho thật rẻ để tích luỹ lợi nhuận cho lòng tham không đáy. Vì mãi “cò kè”, công cuộc “ngã giá” mất nhiều thời gian nên “giờ lâu” con buôn mới đi đến quyết định mua Kiều hơn bốn trăm lượng vàng. Công cuộc “cò kè” người thiệt hại. Thật phũ phàng và tàn nhẫn làm sao!
Tóm lại, bằng nghệ thuật dùng những hình thái ngôn ngữ nghệ thuật trực diện, thiên tài Nguyễn Du vừa vẽ được chân dung ghê tởm và đê tiện của Mã Giám Sinh, vừa thể hiện thái độ tố cáo bọn con buôn bất công phi nghĩa đã xô đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng, đã chà đạp lên nhân phẩm, danh dự của phận “liễu yếu đào tơ” một cách không thương tiếc.
Đối lập với màn kịch “vấn danh” và chân tướng Mã Giám Sinh là tâm trạng buồn bã, khổ đau, nhục nhã của Thúy Kiều:
Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!Ngại ngùng dín gió e sương,Nhìn hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.Mối càng vén tóc, bắt tay,Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.
Giờ đây, Kiều đang đau xót cho mối tình đầu tươi đẹp. Mới hôm nào, nàng và Kim Trọng thề nguyền cùng chung một lòng một dạ, có sự chứng giám của ánh trăng sáng vằng vặc nhưng xa xăm, lạnh lẽo, đơn côi:
Vầng trăng vằng vặc giữa trời,Đinh ninh hai mặt một lời song song.Tóc tơ căn vặn tấc lòng,Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.
Vậy mà nay, đôi ngả nước mây cách vời, chỉ còn là kỉ niệm của một thời yêu nhau tha thiết. Ai? Ai đã gây ra bi kịch đắng cay này? Trong lòng nàng bỗng trào dâng một nỗi niềm oán hận. Lần đầu tiên trong đời nàng biết hận. Nàng hận thằng bán tơ đã vu oan cho gia đình nàng. Nàng hận bọn sai nha đã “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” và ra sức đánh đập, tra tấn cha và em trai nàng.
Cho nên, mỗi bước đi của nàng trên thềm hoa đều nặng nề và đong đầy nước mắt. Phép tăng cấp và đối ngữ tương hỗ trong câu “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng?” đã nhấn mạnh nỗi thống khổ cùng cực của nàng. Và cũng lần đầu tiên trong đời, nhìn bóng mình, nàng cảm thấy hổ thẹn, soi vào gương thấy mặt mình như dày ra vì xấu hổ, tủi nhục, vì phải mang thân lá ngọc cành vàng và nhan sắc “một hai nghiêng nước nghiêng thành” để cho một tên buôn người như Mã Giám Sinh đánh giá, bình phẩm. Có nỗi ê chề nào hơn thế nữa?
Nàng để mặc mụ mối hướng dẫn giới thiệu, khoe “hàng” mà cõi lòng tan nát như ai xé ai vò: Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Phép so sánh tu từ, phép đối ngữ tương hỗ cùng nghệ thuật ước lệ, tượng trưng đã góp phần điểm tô thêm vẻ đẹp trong đau khổ của Kiều và hoàn toàn đối lập với nhân vật Thúy Kiều trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).
Qua trích đoạn văn xuôi trên đây, chúng ta thấy nhân vật Thúy Kiều của nhà văn Tài Nhân trực tiếp tham gia việc “cò kè” giá cả trông rất dạn dĩ, và nhân cách của nàng thật không có gì đặc biệt. Còn nhân vật Thúy Kiều của thiên tài Nguyễn Du chỉ là người câm lặng suốt cuộc mua bán, nàng xấu hổ, tủi nhục. Và đó chính là vẻ đẹp nhân cách của nàng.
Nhìn chung, đoạn thơ miêu tả tâm trạng nàng Kiều đã cho chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo mênh mông của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đối với nhân vật Thúy Kiều cũng như những kiếp người đau khổ, bất hạnh. Nhà thơ bao giờ cũng dành cho những nhân vật chính diện một thái độ yêu thương, hết sức cảm thông, rất mực trân trọng, thấu hiểu, chia sẻ. Đặc biệt, càng dấn sâu vào bi kịch, nhan sắc - tài năng - lòng thủy chung - lòng hiếu thảo - đức hi sinh của Thúy Kiều càng đẹp - càng vẹn toàn - càng sâu sắc - càng cao cả.
Tóm lại, bằng bút pháp thủy mặc, “điểm nhãn”, Nguyễn Du đã miêu tả thành công bức chân dung sống động, điển hình của nhân vật Mã Giám Sinh không còn ở trang thơ của đại thi hào mà đang hiện diện ở một nơi nhất định của cuộc đời thực. Bằng bút pháp đậm nét, nhân vật Thúy Kiều hiện lên với biết bao khổ nhục, đắng cay đồng thời Thúy Kiều cũng là điển hình của nhân vật người phụ nữ đẹp trong đau khổ.
Cùng với thiên tài ngôn ngữ và thiên tài khám phá, phân tích, miêu tả tâm lí con người trong mối quan hệ giữa tâmlí và hoàn cảnh sống của con người, qua trích đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều, chúng ta thấy rằng Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật tả người trong lịch sử tiểu thuyết bằng thơ.
 
 

Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 11

Truyện Kiều là tác phẩm đặc sắc có những giá trị nội dung nhân văn sâu sắc và cho thấy nghệ thuật tài tình trong bút pháp của Nguyễn Du. Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” cho thấy nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật độc đáo của đại thi hào, là sự cảm thông sâu sắc với số phận nàng Kiều nói riêng và những người phụ nữ trong xã hội phong kiến đầy bất công nói chung.
Đoạn trích nằm ở đầu phần hai (Gia biến và lưu lạc) trong Truyện Kiều. Trước tai biến của gia đình, Kiều không thể ngồi yên, trăn trở giữa tình và hiếu, Kiều quyết định “làm con trước phải đền ơn sinh thành”, Kiều đã quyết định bán mình chuộc cha. Qua màn kịch vấn danh, Nguyễn Du đã bóc trần bản chất xấu xa của tên buôn thịt bán người Mã Giám Sinh.
Một sự tài tình và cũng hết sức thâm thúy của Nguyễn Du khi ông để Mã Giám Sinh xuất hiện trong vai một chàng sinh viên trường Quốc Tử Giám đến hỏi mua Kiều về làm vợ lẽ. Ngay từ những giây phút đầu tiên hắn đã tạo ấn tượng chẳng mấy tốt đẹp. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng là người “viễn khách” đến “vấn danh” nhưng cách trả lời lại cộc lốc:
“Hỏi tên, rằng: Mã Giám SinhHỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần.”
Câu trả lời vô cùng khiếm nhã, cách giới thiệu tên tuổi quê quán không rõ ràng. Cách giới thiệu như thế chắc hẳn là con người không đàng hoàng. Chỉ là một tên buôn thịt bán người nhưng lại khoe hão là học trường Quốc Tử Giám. Nguyễn Du tiếp tục khắc họa hình dáng lố bịch của Mã Giám Sinh:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuầnMày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao”

Một nét vẽ cực kì châm biếm của đại thi hào. Một tên đã ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn tỉa tót, chưng diện như trai tân: “mày râu nhẵn nhụi”, áo quần thì lại rất “bảnh bao”, tưởng như lịch sự nhưng lại cực kì lố bịch. Cũng thầy tớ như ai, đi sau là bọn đầy tớ có vẻ trang trọng lắm nhưng lại “lao xao” chẳng có nề nếp, lễ giáo gì. Sự lố bịch ấy không chỉ biểu hiện ở ngoại hình mà còn ở cả hành động của tên họ Mã:
“Trước thầy sau tớ lao xao…Buồng trong mối đã giục nàng kíp ra”
Hành động của hắn hết sức vô học, thiếu văn hóa. Cái “ngồi tót” thể hiện sự sỗ sàng lố bịch của Mã Giám Sinh. Nguyễn Du thật tài tình khi chỉ với một từ “tót” đã làm lộ rõ bản chất của tên buôn người. Trái ngược với sự ngỗ ngược của Mã Giám Sinh, nàng Kiều lại vô cùng đau khổ:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhàThềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng.”
Kiều mang nặng tâm trạng suy tư, buồn bã, nàng đau khổ bởi nàng biết cuộc sống sắp tới đây là những đau khổ, tủi cực. Nàng thương thay cho thân phận mình và cũng chồng chất nỗi lo cho bố mẹ và các em. “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng”, những bước chân nặng nề dường như không muốn bước tiếp nhưng vì chữ hiếu nàng đành hi sinh thân mình. Những giọt nước mắt của nàng rơi lã chã khiến người đọc không khỏi xót xa, thương cảm.
“Ngại ngùng dợn gió e sương…Nét buồn như cúc điệu gầy như mai”
Trước tương lai đầy bất định ấy, Kiều có những dự cảm về cuộc đời mình, Kiều lo sợ, ngại ngùng bởi vì nàng biết những khó khăn khổ cực của những tháng ngày trước mắt. Nét buồn bã, đau khổ ấy không thể giấu nổi trên gương mặt nàng. Trái ngược với sự đau khổ của Kiều, bà mối vẫn rất chuyên tâm, nhiệt tình với công việc mai mối của mình. Nỗi buồn của Kiều được Nguyễn Du so sánh với nét buồn của cúc, sự mỏng manh yếu gầy của những cánh hoa mai:
“Đắn đo cân sắc cân tài
…Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu”
Thúy Kiều thật đáng thương, nàng đúng như một món hàng không hơn không kém trong cuộc mua bán ấy. Nàng thật đáng thương. Cuối cùng bản chất con buôn của Mã Giám Sinh cũng được bộc lộ:
“Rằng: Mua ngọc đến Lam Kiều…Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm”
Vậy là cuộc ngã giá đầy căng thẳng diễn ra giữa tên buôn Mã Giám Sinh và mụ mối. Dù vẫn cố tỏ ra lịch sự, khoác lên mình vẻ trí thức “mua ngọc đến Lam Kiều” nhưng ngay sau đó bản chất con buôn ti tiện, bỉ ổi của Mã Giám Sinh cũng bộc lộ rõ nét với hành động “cò kè” thêm bớt, nâng lên đặt xuống, Cuối cùng hắn được một món hời khi trả giá từ “ngàn vàng” xuống “bốn trăm”.
Một cuộc mua bán, kẻ cười vui người chết lặng. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã lột trần bản chất con buôn đê tiện, hèn hạ, của Mã Giám Sinh và tâm trạng đầy tủi nhục, đau khổ của Kiều. Trong cuộc mua bán ấy, Kiều là một món hàng không hơn không kém. Đoạn trích là bức tranh hiện thực phản ánh chế độ phong kiến thối nát đã đẩy người phụ nữ đến tận cùng của những bi kịch:
“Tiếc thay cây quế giữa rừng
Để cho thằng Mán thằng Mường nó leo”

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 1

Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều được trích trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là đoạn mở đầu cho quãng đời 15 năm lưu lạc đau khổ của Thúy Kiều. Đoạn thơ đã làm sống lại một cảnh buôn bán người thời trung cổ, thể hiện những nét đặc sắc trong nghệ thuật tự sự và tả người của thi hào Nguyễn Du. Đặc sắc nhất là khi tác giả tả nhân vật Mã Giám Sinh.

Top 6 bài Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong Mã Giám Sinh mua Kiều hay nhất (ảnh 1)

Vị khách đến mua Kiều là “người viễn khách”, được mụ mối đưa vào để “vấn danh” để ăn hỏi và xin cưới. Vị khách tự giới thiệu mình là “kẻ sĩ” - sinh viên của trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ chứ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc.

“Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh

Hỏi quê, rằng: Huyện Thanh Lâm cũng gần”

Hai chữ “rằng” trong lời giới thiệu đã bộc lộ một thái độ kiêu kì, coi thiên hạ bằng nửa con mắt của Mã Giám Sinh, khẩu ngữ đối đáp của hắn vừa hợm hĩnh lại thô lậu và khiếm nhã. Nguồn gốc của hắn thực chẳng phải kẻ sĩ gì cả, hắn đích thực là một kẻ buôn thịt bán người mà Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung:

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”

Vẻ nhẵn nhụi của Mã Giám Sinh gợi lên sự dung tục, tầm thường, sự bảnh bao của áo quần lại biểu lộ sự giả dối, đội lốt, tác giả đã vẽ những nét châm biếm trên chân dung của Mã Giám Sinh. Vị khách này cũng có kẻ tớ, đi một bước cũng có người hầu hạ, ra vẻ rất sang trọng, quan dạng. Nhưng giữa vị thầy và tớ của ông khách này có những điểm lạ thường, gây “lao xao” ồn ào và lộn xộn. Chúng không có chút lễ giáo, phép tắc và thiếu nề nếp, đáng khinh:

“Trước thầy sau tớ lao xao…

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”

Chỉ qua các hành động ứng xử như “ngồi tót”, “sỗ sàng” đã bộc lộ rõ tư cách của những kẻ hạ lưu, thiếu nhân cách và thiếu lễ độ, đó là cách của phường buôn thịt và quân buôn người. Mã Giám Sinh là một kẻ buôn bán người đã lọc lõi “quanh năm buôn bán phấn hương đã lề”. Khi mụ mối “vén tóc, bắt tay” món hàng thì hắn “cân sắc cân tài” rồi “ép” và “thử”, bắt Kiều đánh đàn, làm thơ, đối với hắn dù có là người có quốc sắc thiên hương như Kiều cũng chỉ là một món hàng không hơn không kém, để hẳn mang ra mà cân đo đong đếm. Sau khi đã “mặn nồng một vẻ một ưu” hắn mới “tùy cơ dặt dìu” mua bán. Cảnh mua bán Kiều đã thể hiện được cả cái tâm và cái tài của Nguyễn Du, qua nhân vật Mã Giám Sinh, tác giả đã tố cáo và lên án một cách khinh bỉ quân buôn thịt bán người trong xã hội phong kiến thối nát. Câu thơ “Tiền lưng đã sẵn, chuyện gì chẳng xong” là một lời vạch trần những kẻ bất lương, làm giàu trên thân xác của người phụ nữ. Bằng bút pháp nghệ thuật hiện thực, nghệ thuật miêu tả người rất tài tình, tác giả đã khắc họa tính cách nhân vật Mã Giám Sinh, hắn là một kẻ phong tình, giả dối, keo kiệt và vô tình, bất nhân bất nghĩa.

Hình ảnh Mã Giám Sinh trong Truyện Kiều hay chính trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều đã trở thành một điển hình cho bọn “buôn phấn bán hương” trong xã hội phong kiến xưa, góp phần tô đậm giá trị hiện thực của tác phẩm.

Cảm nghĩ về nhân vật Mã Giám Sinh trong Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 2

Trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Thúy Kiều thể hiện nhân vật Mã Giám Sinh là một nhân vật mua phấn bán hương, buôn bán người trên thân thể phụ nữ để kiếm tiền.

Đoạn thơ được miêu tả chi tiết sống động như thời xưa, thể hiện bút pháp nghệ thuật tài tình của thiên tài ngôn ngữ Nguyễn Du. Tác giả Nguyễn Du đã vô cùng tinh tế thể hiện sự đặc sắc trong miêu tả con người, từ vẻ ngoài tới tính tình bên trong. Người khách tới mua Thúy Kiều là một người khách từ phương xa tới được bà mối đưa vào để vấn danh thể hiện tên tuổi của mình. Xin cưới Vương Thúy Kiều một cách đường đường chính chính, một cách trang trọng, uy nghi.

Nhưng sự thật thì có phải Mã Giám Sinh thật sự muốn lấy vợ hay chỉ là một trò bịp bợm giả vờ, lừa đảo chứ thực chất chỉ là một kẻ buôn phấn bán hương, lợi dụng thân xác phụ nữ để kinh doanh mưu lợi bất chính.

“Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh.”

Người khách kia tự giới thiệu mình là người có học, là một kẻ sĩ của trường Quốc Tử Giám chỉ nói họ nhưng không xưng tên, không nói rõ, vẻ ngoài của anh ta luôn tỏ ra là một người quý tộc, quê quán của hắn ở huyện Thanh Lâm.

Hai chữ “rằng” nối tiếp thể hiện thái độ vô cùng cao ngạo, kiêu kỳ coi thiên hạ bằng nửa con mắt, có thể một tay che trời. Khẩu ngữ đối đáp của người khách lạ kia vừa hợm hĩnh thô bạo, thiếu lịch sự, khiếm nhã vô cùng.

“Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”,

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Trong tuyệt tác Truyện Kiều của Nguyễn Du người ta tỏ rõ nguồn gốc viễn khách kia Mã Giám Sinh với mụ Tú Bà thực chất chỉ là người buôn bán dẫn khách, buôn thịt bán người kiếm tiền mà thôi. Hắn tự xưng mình là kẻ sĩ của trường Quốc Tử Giám là một trường nho sĩ vô cùng tên tuổi của Trung Quốc. Thực chất hắn chỉ là kẻ khoe khoang, bịp bợm, hợm hĩnh mà thôi.

“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.”

Trong hai câu thơ này thể hiện một diện mạo vô cùng dung tục của một kẻ tầm thương, cái bảnh bao bên ngoài chỉ thể hiện qua bộ quần áo thể hiện một tính cách giả dối. Hình ảnh mày râu nhẵn nhụi thể hiện nét giả dối châm biếm của tác giả Nguyễn Du dành cho nhân vật này, thể hiện ra hắn là con người chải chuốt nhưng không đáng tin, hắn giấu diếm một điều gì đó.

“Trước thầy sau tớ lao xao

Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang,

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng.”

Tác giả Nguyễn Du thể hiện lối viết cái lối ngồi tót thể hiện hành động vô cùng hợm hĩnh của những người buôn thịt bán người, những kẻ lấy thân thể của người phụ nữ làm nguồn kinh doanh lợi nhuận. Từ “sỗ sàng” của Nguyễn Du thể hiện sự thiếu lịch sự, thiếu nhân cách, thiếu tự trọng của những kẻ ít học luôn coi mình là nhất.

Qua hành động này người đọc có thể thấy rằng Mã Giám Sinh dần dần lộ rõ bộ mặt thật của mình là kẻ lõi đời, thiếu học thức chỉ là kẻ quanh năm buôn bán thân xác phụ nữ mà thôi, chứ không phải là người học ở trong Quốc Tử Giám như hắn giới thiệu:

“Đắn đo cân sức cân tài,

Ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ.

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.”

Trong cảnh Mã Giám Sinh mua Thúy Kiều đã thể hiện cái tài của Nguyễn Du và lòng nhân văn cao thượng của tác giả. Thông qua nhân vật Mã Giám Sinh nhà thơ Nguyễn Du muốn tố cáo lên án xã hội cũ khi để những nhà chứa, kỹ viện, thanh lâu hoạt động một cách công khai, là chốn mua vui cho người có tiền và quan công, vua chúa. Thể hiện thân phận nhỏ bé của người phụ nữ khi sống trong xã hội cũ. Tài sắc của người phụ nữ trở thành một món hàng kiếm lợi nhuận cho những kẻ buôn người kiếm tiền phi pháp.

Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật hiện thực lựa chọn nhiều chi tiết đặc sắc đắt giá, dáng vẻ cử chỉ ngôn ngữ khi tìm cách buôn bán người phụ nữ để khắc họa nhân vật Mã Giám Sinh. Một kẻ phong tình, giả dối, một người buôn người chính hiệu. Hình ảnh nhân vật Mã Giám Sinh trong tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du đã trở thành một điển hình cho bọn buôn người trong xã hội phong kiến, thông qua đoạn trích này tác giả muốn tố cáo tội ác của xã hội phong kiến.

Cảm nhận về đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 1

Sau lần thề nguyền kết tóc se tơ, Kim Trọng phải về Liêu Dương để hộ tang chú. Gia đình gặp nạn, bị vu oan giá họa, Kiều phải cậy nhờ Thúy Vân thay mình giữ trọn tình chung thủy với Kim Trọng để bán mình cứu cha và em. Đoạn trích tả cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều để đem về Lâm Tri.

Mã Giám Sinh - một “viễn khách” cùng với người mốì tìm đến để “vấn danh”, tức là xin cưới hỏi Kiều về làm vợ. Cách nói như vậy có vẻ lương thiện nhưng sự thật không phải thế. Ta hãy theo dõi thái độ và việc làm của họ Mã.

Nguyễn Du đã giới thiệu ông khách họ Mã này như thế nào? Khi được hỏi về tên họ, quê quán, y đã trả lời một cách cộc lốc. Y còn có ngụ ý khoe khoang mình là kẻ có học, danh giá, sinh viên trường Quốc tử giám. Nhưng ngòi bút của Nguyễn Du thật tài tình khi viết hai câu:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Đây là cách nói năng của kẻ thiếu lịch sự, thiếu văn hóa và ngay khi mới xuất hiện người đọc đã mất hết cảm tình với hắn ta rồi. Hắn che dấu tung tích, quê quán, chỉ biết “cũng gần” Nguyễn Du tiếp tục giới thiệu diện mạo anh chàng giám sinh họ Mã này:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao

Trông vẻ bên ngoài, hẳn như một kẻ thanh lịch: mày râu được cạo kĩ, áo quần đẹp đẽ. Nhưng cách làm dáng, chải chuốt đó lại không phù hợp với con người đã “quá niên trạc ngoại tứ tuần”. Và đến nhà Kiều thì: “Trước thầy sau tớ xôn xao” gợi lên cảnh ồn ào bát nháo của tớ thầy Mã Giám Sinh. Rồi khi vào đến nhà, hắn vội “ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, chỉ một cử chỉ “tót” đó, Nguyễn Du đã phơi bày tất cả bản chất của con người thô lỗ, vô học, lưu manh.

Chỉ một đoạn thơ ngắn 8 câu, tác giả đã khắc họa một cách sinh động về diện mạo, ngôn ngữ, hành vi của Mã Giám Sinh. Và bức chân dung ấy được hoàn chỉnh khi tác giả tả cảnh hắn, mặc cả mưa Kiều. Mã đánh tiếng đến cưới Kiều về làm vợ nhưng sự thật hắn mua Kiều về lầu xanh ở Lâm Tri để tiếp khách làng chơi, nơi hắn cùng với mụ Tú Bà chung vốn làm ăn.

Vì vậy trong việc mua bán này, y phải tính toán thiệt hơn. Trước hết đắn đo, cân nhắc kĩ càng về mặt hàng: Đắn đo cân sắc, cân tài Để nắm chắc giá trị của món hàng, hắn không ngại bắt “ép” Kiều phải thử tài: Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Sau một hồi xem xét tính toán hắn tỏ ý vừa lòng: “mặn nồng một vẻ một ưa”. Điều còn lại là giá cả bao nhiêu để kiếm được nhiều lời, hắn liền hỏi giá:

Rằng: “mua ngọc đến Lam Kiều

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

Mã cũng biết học đòi cách nói năng văn hoa của người có học và tỏ vẻ lễ phép khiêm nhường (xin dạy) nhưng bản chất của tên con buôn không che dấu được. Hắn “cò kè bớt một thêm hai”. Tìm cách ép giá, dìm giá vì hắn biết rõ hoàn cảnh quẫn bách của Kiều. Vì thế Mã đã mua được Kiều với giá rất hời, từ “đáng giá ngàn vàng” hắn chỉ mua có “ngoài bốn trăm”. Mã không đánh lừa được ai, hắn khoác áo kẻ thanh lịch, giả dạng một giám sinh nhưng qua cảnh mua bán này đã lộ nguyên hình một tên buôn người đểu cáng.

Kiều phải bán mình để cứu gia đình qua cơn nguy biến, một hành động hi sinh rất cao cả. Bắt đầu từ đây nàng dấn thân vào con đường đau khổ, nhục nhã ê chề và cảnh mua bán này sẽ mở đầu cho chuỗi dài bi đát của đoạn trường 15 năm.

Người con gái tài sắc vẹn toàn ấy nếu được sống trong một xã hội công bằng chắc hẳn sẽ có cuộc đời hạnh phúc.

Nhưng trong xã hội phong kiến thối nát, tài sắc ấy trở thành món hàng đem ra mặc cả “cò kè”, trao từ tay người này qua tay kẻ khác. Trong 6 câu thơ tả tâm trạng Kiều, Nguyễn Du để nàng im lặng. Đúng vậy, lúc này làm sao nàng nói được nên lời. Nhưng qua một vài cử chỉ, dáng điệu ta thấu hiểu nỗi đau của nàng:

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,

Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!

Kiều khóc, những giọt lệ chảy thành hàng, những giọt nước mắt đau xót, tủi nhục. Nàng, con gái nhà lành sống trong cảnh “trướng rủ màn che” nay trở thành món hàng để người mua “vén tóc bắt tay” “cân sức cân tài” làm sao nàng không cảm thấy thẹn thùng, nhục nhã:

Nhìn hoa bóng thẹn, trông gương mặt dày Nàng tự xỉ vả mình là kẻ mặt dạn mày dày, nhưng tội này không phải do nàng gây nên. Trong xã hội mà đồng tiền thống trị tất cả: “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong” thì có biết bao số phận bi thảm như Kiều.

Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” như một màn kịch ngắn, trong đó sự việc cứ tiến triển dần và tính cách nhân vật bộc lộ rõ nét. Thái độ của Nguyễn Du thật rõ ràng: lên án, tố cáo những thế lực đen tối của xã hội, thông cảm sâu sắc với nỗi đau của con người. Ngày nay, đọc lại Truyện Kiều ta cảm thương cho số phận bi đát của Kiều và căm ghét xã hội bạo ác đã chà đạp lên quyền sống của những phụ nữ.

Cảm nhận về đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 2

Nửa đêm qua huyện Nghi Xuân

Bâng khuâng nhớ Cụ, thương thân nàng Kiều...

(Tố Hữu - Kính gửi cụ Nguyễn Du)

“Bâng khuâng” là trạng thái tinh thần của con người tuy đứng trước thực tại nhưng tâm hồn không đặt ở thực tại mà hướng về, thậm chí đắm chìm trong quá khứ, trong tương lai, hay trong mộng tưởng. Vì đắm chìm trong quá khứ, nên Tố Hữu cũng như chúng ta không thể nào quên được cụ Nguyễn Du, một đại thi hào đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Kiều - một bài ca lớn về giá trị nhân bản; bản cáo trạng nghiêm khắc về cái ác; tập đại thành của nghệ thuật văn chương.

Và chúng ta cũng không thể không “thương thân nàng Kiều” đang đau đớn, tủi nhục ê chề khi phải bán mình chuộc cha, rơi vào tay một kẻ “buôn thịt bán người” trong trích đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều.

Trích đoạn này gồm 34 câu thơ, từ câu 619 đến câu 652 trong Truyện Kiều, thuộc phần Gia biến và lưu lạc. Câu chuyện trước đoạn này như sau: Trên đường về của chuyến đi tảo mộ và du xuân, ba chị em Thuý Kiều gặp Kim Trọng - một chàng trai tài đức vẹn toàn, bạn đồng môn của Vương Quan. Trở về nhà, Thúy Kiều tơ tưởng đến bóng hình Kim Trọng mà “Ngổn ngang trăm mối bên lòng”.

Còn Kim Trọng, sau buổi gặp gỡ đầu tiên ấy cũng nặng lòng nhớ thương Kiều rồi tìm kiếm, dọn nhà đến kề cận vườn nhà Kiều. Nhờ vậy, đôi trai tài gái sắc có cơ hội làm quen, tìm hiểu và trao lời thề nguyền trọn đời bên nhau. Ngay sau đó, Kim Trọng phải cấp tốc trở về Liêu Dương thọ tang chú.Và cũng cùng thời điểm ấy, gia đình Kiều bị thằng bán tơ vu oan, tất cả tài sản bị bọn sai nha vơ vét sạch. Để cứu cha và em thoát khỏi cơn gia biến, Kiều tự nguyện bán mình:

Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,

Liều đem tấc cỏ, quyết đền ba xuân.

Sự lòng ngỏ với băng nhân

Tin sương đồn đại, xa gần xôn xao.

Thúy Kiều buồn bã mang sự tình ngỏ với người mai mối. Lập tức, mụ mối dắt khách phương xa tới:

Gần miền có một mụ nào,

Đưa người viễn khách tìm vào vấn danh

“Viễn khách” là từ Hán Việt có sắc thái trân trọng, tao nhã. Phải chăng “viễn khách” ấy là con người tử tế, cao thượng, nho nhã đến để xin hỏi cưới Kiều về làm vợ theo đúng tục lệ hôn nhân ngày xưa? sắm vai là học sinh trường Quốc Tử Giám, trường lớn nhất ở kinh đô thời xưa, người khách phương xa bắt đầu xuất hiện:

Hỏi tên, rằng “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng “Huyện Lâm Thanh cũng gần”

Cách ngắt nhịp thơ ở hai câu này rất trúc trắc, khác lạ. Câu lục nhịp: 2-1-3. Câu bát nhịp 2-1-3-2. Cách ngắt nhịp trùng với cách trả lời bất ổn của vị khách. “Mã” thì đúng là họ rồi. Nhưng “Giám Sinh” đâu có phải là tên người? Còn quê quán nghe rất mơ hồ: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Từ “cũng gần” được nhà thơ dùng rất đắt để biểu hiện một lí lịch, gốc gác không minh bạch của nhân vật. Nếu đúng là người tốt thì việc gì lại không dám giới thiệu cụ thể nơi ở của mình? Với cách trả lời cộc cằn ấy chứng tỏ Mã Giám Sinh là người vô văn hóa. Còn đây là tuổi tác và diện mạo của gã:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.

Ngoại tứ tuần có nghĩa là ngoài bốn mươi tuổi, đã qua rồi thời trai tráng. Từ “quá niên” càng tô đậm hơn điều đó. Thế nhưng hắn vẫn ăn mặc theo kiểu trai lơ “áo quần bảnh bao” và chuẩn bị “mày râu nhẵn nhụi” trông rất bảnh chọe. Nếu ở câu lục nhà thơ sử dụng toàn từ Hán Việt thì ở câu bát xuất hiện toàn từ thuần Việt để bày tỏ thái độ châm biếm.

Riêng hai từ láy “nhẵn nhụi” và “bảnh bao” có sức gợi tả thái độ sự dung tục và lố bịch rất cao vì hắn là người bất chính nên đám tôi tớ đi theo hắn cũng toàn là lũ xô bồ, lộn xộn:Trước thầy sau tớ lao xao, Có thể khẳng định rằng diện mạo và cách xuất hiện của Mã Giám Sinh hoàn toàn đối lập với Kim Trọng. Kim Trọng xuất hiện với một phong cách tao nhã, diện mạo khôi ngô tuấn tú, làm cho cả một vùng bừng sáng hơn:

Dùng dằng nửa ở nửa về,

Nhạc vàng đâu đã tiếng nghe gần gần.

Trông chừng thấy một văn nhân

Lỏng buông tay khấu, bước lần dặm băng

Đề huề lưng túi gió trăng,

Sau chân theo một vài thằng con con.

Tuyết in sắc ngựa câu giòn

Cỏ pha màu áo nhuộm non da trời,

Nẻo xa mới tỏ mặt người,

Khách đà xuống ngựa, tới nơi tự tình.

Hài văn lần bước dặm xanh,

Một vùng như thể cây quỳnh cành dao.

Thế nên, một con người bịp bợm như Mã Giám Sinh không thể nào xứng đáng với nàng Kiều tài sắc vẹn toàn. Và chúng ta hãy xem cử chỉ thô lỗ của hắn: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng “Ghế trên” bao giờ cũng được đặt ở nơi trang trọng nhất của phòng khách, chỉ những thượng khách mới được mời an tọa, thường là người cao tuổi.

Vậy mà một tên trâng tráo như hắn chưa kịp mời đã vội “ngồi tót”, trông là biết vô học rồi. Chữ “ngồi tót” được nhà thơ dùng rất điêu luyện và đã giết chết Mã Giám Sinh ngay trong cõi sống. Liền sau đó là từ bồi bút “sỗ sàng”. Cùng là từ “tót” nhưng khác xa một trời một vực với cách tả Kim Trọng:

Phong tư tài mạo tót vời

Vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa

Trong Truyện Kiều nhiều lần Nguyễn Du đã giết chết nhân vật phản diện bằng nghệ thuật dùng từ. Nhà thơ giết chết tên Sở Khanh bằng một từ “lẻn” ở câu 1094:

Tường đông lay động bóng cành,

Rẽ song đã thấy Sở Khanh lẻn vào.

Và đại thi hào cũng đã giết chết Hồ Tôn Hiến bằng từ “mặt sắt” trong câu 2580:

Nghe càng đắm, ngắm càng say,

Lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình!

Nhìn chung, qua dụng công miêu tả của Nguyễn Du, chân tướng con buôn Mã Giám Sinh đã dần dần được phơi bày:

Đắn đo cân sắc cân tài,

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

“Đắn đo” là trạng thái suy nghĩ, tính toán đến căng thẳng. Trạng thái này thường gặp ở những kẻ làm nghề buôn bán. Tuy được nghe mụ mối giới thiệu Kiều là người tài sắc vẹn toàn nhưng hắn vẫn chưa chắc chắn lắm. Bởi vậy hắn mới “cân sắc, cân tài” có nghĩa là xem đi, xem lại, kiểm tra một cách tỉ mỉ, cẩn thận như mua một món hàng giữa chợ trời. Thật đúng là một con buôn giàu kinh nghiệm, lõi đời. Sau khi thấy dáng dấp của nàng, tài năng của nàng, vẻ nào cũng mặn mà dễ thương, hắn bằng lòng về món hàng và lựa lời trao đổi về giá cả:

“Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều,

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?”

Chỉ với một từ “mua”, nhà thơ đã bóc trần bản chất đê tiện của gã họ Mã mặc dù hắn vẫn còn cố gắng trau chuốt lời ăn tiếng nói qua các từ: “Lam Kiều”, “xin dạy”. Và đây là cuộc “mặc cả” giữa con buôn sành sỏi và mụ mối:

Cò kè bớt một thêm hai,

Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm

“Cò kè” là từ luôn luôn được dùng ở bất cứ chợ nào thuộc lĩnh vực buôn bán đồ vật. Từ “cò kè” còn tạo ra một không khí mua bán hết sức thô lỗ, mụ mối càng nói thách để được lời về phần mình thì tên “buôn thịt bán người” Mã Giám Sinh càng trả cho thật rẻ để tích luỹ lợi nhuận cho lòng tham không đáy. Vì mãi “cò kè”, công cuộc “ngã giá” mất nhiều thời gian nên “giờ lâu” con buôn mới đi đến quyết định mua Kiều hơn bốn trăm lượng vàng. Công cuộc “cò kè” người thiệt hại. Thật phũ phàng và tàn nhẫn làm sao!

Tóm lại, bằng nghệ thuật dùng những hình thái ngôn ngữ nghệ thuật trực diện, thiên tài Nguyễn Du vừa vẽ được chân dung ghê tởm và đê tiện của Mã Giám Sinh, vừa thể hiện thái độ tố cáo bọn con buôn bất công phi nghĩa đã xô đẩy người phụ nữ vào bước đường cùng, đã chà đạp lên nhân phẩm, danh dự của phận “liễu yếu đào tơ” một cách không thương tiếc.

Đối lập với màn kịch “vấn danh” và chân tướng Mã Giám Sinh là tâm trạng buồn bã, khổ đau, nhục nhã của Thúy Kiều:

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,

Thềm hoa một bước, lệ hoa mấy hàng!

Ngại ngùng dín gió e sương,

Nhìn hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.

Mối càng vén tóc, bắt tay,

Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai.

Giờ đây, Kiều đang đau xót cho mối tình đầu tươi đẹp. Mới hôm nào, nàng và Kim Trọng thề nguyền cùng chung một lòng một dạ, có sự chứng giám của ánh trăng sáng vằng vặc nhưng xa xăm, lạnh lẽo, đơn côi:

Vầng trăng vằng vặc giữa trời,

Đinh ninh hai mặt một lời song song.

Tóc tơ căn vặn tấc lòng,

Trăm năm tạc một chữ đồng đến xương.

Vậy mà nay, đôi ngả nước mây cách vời, chỉ còn là kỉ niệm của một thời yêu nhau tha thiết. Ai? Ai đã gây ra bi kịch đắng cay này? Trong lòng nàng bỗng trào dâng một nỗi niềm oán hận. Lần đầu tiên trong đời nàng biết hận. Nàng hận thằng bán tơ đã vu oan cho gia đình nàng. Nàng hận bọn sai nha đã “sạch sành sanh vét cho đầy túi tham” và ra sức đánh đập, tra tấn cha và em trai nàng.

Cho nên, mỗi bước đi của nàng trên thềm hoa đều nặng nề và đong đầy nước mắt. Phép tăng cấp và đối ngữ tương hỗ trong câu “Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng?” đã nhấn mạnh nỗi thống khổ cùng cực của nàng. Và cũng lần đầu tiên trong đời, nhìn bóng mình, nàng cảm thấy hổ thẹn, soi vào gương thấy mặt mình như dày ra vì xấu hổ, tủi nhục, vì phải mang thân lá ngọc cành vàng và nhan sắc “một hai nghiêng nước nghiêng thành” để cho một tên buôn người như Mã Giám Sinh đánh giá, bình phẩm. Có nỗi ê chề nào hơn thế nữa?

Nàng để mặc mụ mối hướng dẫn giới thiệu, khoe “hàng” mà cõi lòng tan nát như ai xé ai vò: Nét buồn như cúc, điệu gầy như mai. Phép so sánh tu từ, phép đối ngữ tương hỗ cùng nghệ thuật ước lệ, tượng trưng đã góp phần điểm tô thêm vẻ đẹp trong đau khổ của Kiều và hoàn toàn đối lập với nhân vật Thúy Kiều trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc).

Qua trích đoạn văn xuôi trên đây, chúng ta thấy nhân vật Thúy Kiều của nhà văn Tài Nhân trực tiếp tham gia việc “cò kè” giá cả trông rất dạn dĩ, và nhân cách của nàng thật không có gì đặc biệt. Còn nhân vật Thúy Kiều của thiên tài Nguyễn Du chỉ là người câm lặng suốt cuộc mua bán, nàng xấu hổ, tủi nhục. Và đó chính là vẻ đẹp nhân cách của nàng.

Nhìn chung, đoạn thơ miêu tả tâm trạng nàng Kiều đã cho chúng ta thấy tấm lòng nhân đạo mênh mông của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du đối với nhân vật Thúy Kiều cũng như những kiếp người đau khổ, bất hạnh. Nhà thơ bao giờ cũng dành cho những nhân vật chính diện một thái độ yêu thương, hết sức cảm thông, rất mực trân trọng, thấu hiểu, chia sẻ. Đặc biệt, càng dấn sâu vào bi kịch, nhan sắc - tài năng - lòng thủy chung - lòng hiếu thảo - đức hi sinh của Thúy Kiều càng đẹp - càng vẹn toàn - càng sâu sắc - càng cao cả.

Tóm lại, bằng bút pháp thủy mặc, “điểm nhãn”, Nguyễn Du đã miêu tả thành công bức chân dung sống động, điển hình của nhân vật Mã Giám Sinh không còn ở trang thơ của đại thi hào mà đang hiện diện ở một nơi nhất định của cuộc đời thực. Bằng bút pháp đậm nét, nhân vật Thúy Kiều hiện lên với biết bao khổ nhục, đắng cay đồng thời Thúy Kiều cũng là điển hình của nhân vật người phụ nữ đẹp trong đau khổ.

Cùng với thiên tài ngôn ngữ và thiên tài khám phá, phân tích, miêu tả tâm lí con người trong mối quan hệ giữa tâmlí và hoàn cảnh sống của con người, qua trích đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều, chúng ta thấy rằng Nguyễn Du đã đạt đến đỉnh cao chói lọi nhất của nghệ thuật tả người trong lịch sử tiểu thuyết bằng thơ.

Suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 1

Truyện Kiều là một kiệt tác xuất sắc của nền văn học nước nhà, nó trở thành linh hồn cao đẹp của văn học Việt Nam, là "quốc hồn, quốc túy" của dân tộc. Cuộc đời và thân phận của Thúy Kiều trong tác phẩm thật đáng thương biết bao, người con gái trẻ trung, tài sắc ấy phải chịu biết bao nỗi bi kịch, bao phen sóng gió giữa cuộc đời đầy ô trọc. Đoạn trích "Mã Giám Sinh mua Kiều" là trích đoạn mở đầu cho phần 2 Gia biến và lưu lạc, Kiều từ một tiểu thư đài các, sống cuộc sống "êm đềm trướng rủ màn che" bị cuốn vào những biến cố khắc nghiệt của cuộc đời. Cũng qua đoạn trích này, tác giả Nguyễn Du đã thể hiện đầy tinh tế và sâu sắc tâm trạng đau khổ cùng nỗi bất an của nàng Kiều.

Cuộc sống gia đình vốn đang an ổn thì không hay lại gặp nạn bất ngờ, bị thằng tơ vu oan, cha và em trai Thúy Kiều bị bắt giam trong ngục, để được thả ra cần có một khoản tiền lớn để đút lót cho bọn quan lại, cường hào. Đấng sinh thành và em trai đang bị bọn sai nha hống hách bắt bớ, là phận làm chị cả, Kiều đâu thể dửng dưng. Thực hiện trách nhiệm của người làm con, làm trọn chữ hiếu không còn cách nào khác, Kiều đành bán mình cứu cha. Đoạn trích này nói về việc tên buôn người họ Mã đến mua Kiều, hắn cùng lũ tôi tới đến trong bộ dạng vừa nực cười vừa hống hách.

"Gần miền có một mụ nào

Đưa người viễn khách tìm vào vấn dành

Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh"

Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần".

Kẻ viễn khách chẳng rõ tên tuổi, nơi ăn chốn ở đến, cách ăn nói thì cộc lốc, thiếu lễ độ, chẳng biết cả phép lịch sự tối thiểu trong giao tiếp là thưa, chào khi giao tiếp với người khác. Cách trả lời thiếu cụ thể, chi tiết về quê quán, gia đình,...cũng khiến người khác không khỏi không nghi ngờ về hắn. Tự xưng là thư sinh trường Quốc Tử Giám nhưng qua ngôn ngữ, lời nói của hắn thì không thấy được điều đó, phải chăng đó chỉ là vỏ bọc của một kẻ "giả danh tri thức" để làm điều bất chính, bất lương.

"Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao"

Dù tuổi đã ngoài bốn mươi, độ tuổi của người đã từng trải, trưởng thành và chín chắn, vậy mà cái vẻ bề ngoài, trên bộ trang phục hết sức bóng bẩy của hắn lại khiến ta không khỏi bật cười. Nhẵn nhụi, tỉa tót mày râu, áo quần thì trưng diện bảnh bao đến khó hiểu. Cách ăn mặc ấy, vẻ chăm chút sắc diện ấy không phù hợp với một người đã "ngoại tứ tuần" khiến cho hình ảnh của Mã Giám Sinh trở nên kệch cỡm, lố bịch. Kiểu cách khác người của chàng Mã còn được thể hiện qua những hành động sỗ sàng , bất lịch sự, thiếu tế nhị:

" Trước thầy sau tớ lao xao....

Ghế trên ngồi tót sỗ sàng"

Đặc biệt, khiến ta kinh tởm hơn rất nhiều là những lời hoa mỹ hắn dùng để ngỏ lời mùa Kiều

"Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều"

Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?"

Kiểu cách trang trọng là thế, ấy vậy mà rồi cái bản chất ranh ma, xảo quyệt của kẻ buôn người cũng bộc lộ rõ, hắn cò kè một, hai đồng với cả giá trị của một con người, với hắn, Kiều chính là thứ hàng hóa để trao đổi, mua bán. Bản chất con buôn thật sành sỏi, hắn biết cách lọc lừa, ngã giá để không chịu phần thiệt về mình, hắn cò kè để mong mua được Kiều với giá rẻ mạt nhất có thể. Là người ngoài cuộc, nhưng khi đọc đến những dòng này ta không khỏi không khỏi xót xa cho nàng Kiều, bất bình trước hành động của kẻ tàn nhẫn, đê tiện kia. Với người ngoài cuộc đã vậy, với một người con gái tài sắc, thông minh như Kiều chẳng phải sẽ thấm thía đến tận cùng sự kinh bạc, nỗi ề chề này sao. Nàng Kiều đã đã đau khổ bội phần bởi tình yêu lỡ dỡ, bởi phải xa cách mẹ cha, nay đứng trước sóng gió cuộc đời, nàng đau khổ nhưng vẫn đành phó mặc bản thân cho số phận, bởi với một "món hàng" như nàng thì đâu có quyền lựa chọn. Nàng im lặng không nói một lời, lặng lẽ bước đi, nước mắt tuôn thành dòng, đắng cay tận tâm can:

" Ngại ngùng giợn gió e sương

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng"

Chân bước đi mà lòng không đặng, trĩu nặng những nỗi đớn đau. Người con gái xưa kia phong lưu, hồng trần, tường đông ong bướm có đi về cũng mặc kệ chẳng để tâm, vậy mà giờ đây phải chịu đoạ đầy, trở thành món hàng phụ thuộc bởi kẻ khác, bị chà đạp đến rẻ rúng như vậy làm sao không ngại ngùng, không khổ sở được đây:

"Ngại ngùng dợn gió, e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.

Mối càng vén tóc bắt tay,

Nét buồn như cúc điệu gầy như mai"

Chúng ép nàng đánh đàn, ca múa, chúng đắn đo, cân nhắc để rồi mặc cả, trả giá cho sự hoàn hảo của nàng. Những hành động vô thức, buồn bã của Kiều khiến ta không khỏi nhói lòng, xót thương. Kiều đã phải chịu đựng bao nỗi tủi nhục, hổ thẹn, đau buồn và đắng cay, điệu buồn hiện lên cả trên nét mặt, bao trùm lấy dáng hình gầy thương của Kiều. Đọc "Mã Giám Sinh mua Kiều", ta xót xa biết bao khi nhân phẩm con người bị chà đạp, giá trị còn người được đo bằng tiền bạc, vật chất rẻ rúng. Càng xót xa ta càng căm phẫn một xã hội bị tiền bạc chi phối, vì đồng tiền mà chẳng từ thủ đoạn, bất nhân. Những lời thơ cất lên như tiếng kêu than trách của một kiếp người, tiếng khóc van, thảm thiết làm ơn hãy cứu lấy con người trước những mưu mô của tội ác, gian manh.

Suy nghĩ về thân phận Thúy Kiều trong đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều – mẫu 2

Thân phận của người con gái vốn đã rất mong manh, sinh ra vào thời phong kiến lại càng phải chịu nhiều những đau đớn và tủi nhục. Thúy Kiều một nhân vật trong truyện Kiều của Nguyễn Du là tiêu biểu cho thân phận của người phụ nữ lúc bấy giờ. Nguyễn Du đã đánh những lời ai oán, đau đớn nhất để nói về cảnh “Mã Giám Sinh mua Kiều”, đã lột tả trần trụi thân phận của nàng Kiều bị mua đi bán lại như món hàng vô tri vô giác.

Thuý Kiểu là người con gái tài sắc của một gia đình trung lưu nền nếp. Trong tiết Thanh minh, Thuý Kiểu tình cờ gặp Kim Trọng. Hai người nhanh chóng yêu nhau rổi hẹn ước thề nguyện. Bỗng dưng, Vương viên ngoại b| thằng bán tơ vu oan. Gia đỉnh tan nát, cha và em trai bi bắt bớ, đánh đập, Thuý Kiều đành phải bán minh chuộc cha rổi rơi vào lẩu xanh lán thứ nhất. Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu " trâm gãy bình tan".Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm. Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả chung chung mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Nguyễn Du đã chụp cận cảnh làm rõ bộ mặt và trang phục của Mã:

Quá niên trạc ngoại tứ tuần,

Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao.

Bộ mặt mày râu nhẵn nhụi dĩ nhiên là thiếu tự nhiên, râu cạo nhẵn, lông mày tỉa tót rất trai lơ. Từ “nhẵn nhụi” gợi cảm giác về một sự trơ trẽn, phẳng lì. Áo quần bảnh bao là áo quần trưng diện, cũng thiếu tự nhiên, Hai chữ “bảnh bao” thường dùng để khen áo quần trẻ em chứ ít dùng cho người lớn”. Phủ một lớp hào nhoáng lên vẻ ngoài nhân vật, tác giả đã chế giễu, mỉa mai tên buôn người họ Mã. Sự đả kích ngầm càng sâu cay hơn khi một người đã “trạc ngoại tứ tuần” ( sắp lên lão ) lại tỉa tót công phu, lại cố tô vẽ cho mình ra dáng trẻ trung như trai mới lớn.Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (“viễn khách”). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc, không có chủ ngữ, không thèm thưa gửi:

Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh”

Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần”.

Đặc biệt hành động thô lỗ, sỗ sàng của một kẻ vô học, đội lốt người học trò trường Quốc tử giám, đã hiện lên khá rõ qua chi tiết: Ghế trên ngòi tót sỗ sàng. “Ghế trên” là ghế ở vị trí trang trọng, dành cho bậc cao niên, bậc huynh trưởng, bậc đáng kính. Kẻ đi hỏi vợ là bậc con cái mà lại “ngồi tót” thì thật chướng mắt, vô lễ. Mã Giám Sinh xuất hiện trong buổi đến xem mặt như một kẻ bất nhân, đê tiện nhất

Khác màu kẻ quỷ người thanh

Chẳng hay con lại mắc tay bợm già.

Bản chất của Mã Giám Sinh lại càng rõ hơn khi hắn:

Đắn đo cân sức cân tài

Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ.

Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để "cò kè"mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp.

Cò kè bớt một thêm hai

Giờ lâu ngã giá vâng ngoài bốn trăm.

Một loạt các từ “cò kè, thêm bớt, ngã giá…” đã chứng tỏ Mã Giám Sinh là một kẻ buôn người sành sỏi, lọc lõi. Y đã lộ nguyên hình là một con buôn sành sỏi. Mã Giám Sinh đâu còn là người học trò trường Quốc tử giám như đã xưng danh. Mặc dù ăn mặc chải chuốt, nói những lời hoa mỹ, ra vẻ lịch sự nhưng dần dần bản chất xấu xa, đê tiện, giả dối của y đã lộ rõ.

Chính vì sự tủi nhục khi phải bán mình, lại càng đau đớn hơn khi bán cho một tên buôn người bỉ ổi và đê tiện như Mã Giám Sinh. Nguyễn Du đã không để cho Kiều nói được một lời nào trong suốt cuộc buôn bán, kỳ kèo của Mã Giám Sinh. Nỗi đau đớn, thẹn thùng, xót xa tủi hổ ê chề đã được Nguyễn Du đẩy lên đến đỉnh điểm. Từ một người con gái, gia đình phong lưu, “Kín cổng cao tường”, nay biến thành một món hàng dưới bàn tay bẩn thỉu của mụ mối và Mã Giám Sinh, làm sao không khỏi đau đớn cho được. Tâm tình nàng Kiều lúc này thật ngổn ngang, nỗi đau vì mối tình đầu tan vỡ, nỗi uất ức vì án oan mà cha và em trai phải chịu, nỗi xấu hổ, thẹn thùng khi bản thân lâm vào cảnh phải để người đàn ông lạ tới xem mặt,…Hình ảnh nàng khi bước chân ra khỏi khuê phòng thật muôn vàn xót thương:

Nỗi mình thêm tức nỗi nhà

Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng

Nhìn cảnh vật nàng thấy xấu hổ ngại ngùng.Nước mắt của nàng thấm đẫm cả trang giấy, mỗi bước đi là mỗi bước xót đau. Những giọt nước mắt của tan nát, khổ đau làm quặn thắt lòng người đọc, khiên ai cũng thương thay cho thân phận nàng Kiều. Bước vào phòng khách với vẻ dè dặt, tủi hổ của người con gái khuê các:

Ngại ngùng dơn gió e sương

Ngừng hoa bóng thẹn trong gương mặt dày.

Nỗi đau khổ ấy đã đến tột cùng khi chẳng một ai mảy may động tâm thương cho nàng , mụ mối thì vén tóc bắt tay , lạ lùng đối xử với 1 một món hàng còn MGS thì đặt tài năng và nhan sắc lên cân đo đong đếm . Đến lúc này người con gái tài hoa nhan sắc ấy cảm thấy tủi hổ bẽ bàng:

Mối càng vén tóc bắt bắt tay

Nét buồn như cúc điệu gầy như mai

Bằng ngòi bút tài hoa của mình, Nguyễn Du đã cho người đọc thấy phần nào số phận ai oán, bi thương của Kiều trong đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều”. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc xảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dâp vùi. Đó là giá trị nhân đạo. Có thể nói đoạn trích là 1 tiếng khóc ai oán cho thân phận con người , cho nhân phẩn con người bị chà đạp phải chăng trái tim của nhà thơ đang rung lên nức nở cùng với nỗi đau của Thúy Kiều.

Đáng ra con người tài sắc “mười phân vẹn mười” này xứng đáng được hưởng hạnh phúc nhất trong những người hạnh phúc, vậy mà xã hội phong kiến thối nát đã chà đạp phũ phàng khiến nàng phải gánh chịu khổ đau và bất hạnh trong mười năm đoạn trường cay đắng. Nguyễn Du đã thành công trong việc khắc hoạ nhân vật chính diện và phản diện và sự am hiểu của sâu sắc tâm lý nhân vật của ông trong tác phẩm.

Đoạn thơ Mã Giám Sinh mua Kiều đã phản ánh sâu sắc hiện thực xã hội đương thời với bộ mặt tàn bạo của tầng lớp thống trị và số phận đau khổ của những con người bi áp bức, đặc biệt là bi kịch của người phụ nữ. Qua đó, tác giả thể hiện niềm thương cảm sâu sắc trước nỗi đau của con người và lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo. Đồng thời bày tò sự trân trọng đối với khát vọng tự do, hạnh phúc và khát vọng công lí, chính nghĩa.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

Nguyễn Du (1765 – 1820), tên chữ là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên.

- Quê: làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.

- Sinh trưởng trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học. Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng.

- Cuộc đời:

+ Nguyễn Du gắn bó sâu sắc với những biến cố lịch sử của giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – XIX.

+ Từng trải, phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc, đi nhiều, tiếp xúc nhiều → vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.

- Sự nghiệp văn học

+ Sáng tác bằng chữ Hán: gồm ba tập thơ là Thanh Hiên thi tập, Nam Trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục.

+ Sáng tác bằng chữ Nôm: Đoạn trường tân thanh (thường gọi là Truyện Kiều), Văn chiêu hồn.

2. Tác phẩm

1. Vị trí đoạn trích

- Nằm ở đầu phần thứ hai (“Gia biến và lưu lạc”).

- Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha “đầu trâu mặt ngựa” bắt bớ, khảo tra, đánh đập dã man. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: “Có ba trăm lạng việc này mới xong”. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu đẹp đẽ với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.

- Đoạn này nói về việc Mã Giám Sinh đến mua Kiều. Đoạn trích là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mênh của cuộc đời Kiều kéo dài suốt mười lăm năm.

2. Bố cục

 - 10 câu đầu : Chân dung Mã Giám Sinh qua ngoại hình, hành động.

- 6 câu tiếp : Nỗi đau đớn tủi nhục của Kiều.

- 10 câu cuối : Bản chất con buôn của Mã Giám Sinh.

3. Nội dung chính

Đoạn trích là cảnh mua bán giữa Mã Giám Sinh và Tú bà với món hàng là Thúy Kiều, bộ mặt kẻ mua người bán cũng được khắc họa đậm nét; phơi bày hết bản chất, địa vị, nỗi lòng của từng loại người.

4. Phương thức biểu đạt: Miêu tả, tự sự

5. Thể loại: Truyện thơ Nôm viết theo thể thơ lục bát.

6. Giá trị nội dung

- Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một bức tranh hiện thực về xã hội đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trên cả hai phương diện

+ Phơi bày bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh.

+ Lên án các thế lực xấu xa, tàn bạo vừa thương cảm, xót xa trước sắc đẹp, tài năng, nhân phẩm của người phụ nữ bị trà đạp.

7. Giá trị nghệ thuật

- Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều còn cho thấy tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du: miêu tả nhân vật phản diện bằng ngòi bút hiện thực, khắc hoạ tính cách nhân vật qua diện mạo, cử chỉ (khác với nhân vật chính diện bằng bút pháp ước lệ lý tưởng hoá nhân vật).

- Thể hiện sự am hiểu sâu sắc tâm lý nhân vật của Nguyễn Du trong tác phẩm.

Tài liệu có 17 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống