Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Mã Giám Sinh mua Kiều hay nhất, gồm 9 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Mã Giám Sinh mua Kiều Ngữ văn lớp 9.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Mã Giám Sinh mua Kiều dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 9:
Mã Giám Sinh Mua Kiều
I. Tìm hiểu chung tác phẩm
1. Thể loại: Truyện thơ Nôm + Thể thơ: lục bát
2. Xuất xứ
- Nằm ở đoạn đầu của phần hai trong “Truyện Kiều” (Gia biến và lưu lạc).
3. Bố cục: 3 phần
- Phần 1: (10 câu đầu): Chân dung Mã Giám Sinh qua ngoại hình, hành động.
- Phần 2: (6 câu tiếp): Nỗi đau đớn tủi nhục của Kiều.
- Phần 3: (10 câu cuối): Bản chất con buôn của Mã Giám Sinh.
4. Giá trị nội dung
Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” là một bức tranh hiện thực về xã hội đồng thời thể hiện tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du trên cả hai phương diện: Phơi bày bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh, vừa lên án các thế lực xấu xa, tàn bạo vừa thương cảm, xót xa trước sắc đẹp, tài năng, nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp.
5. Giá trị nghệ thuật
Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” còn cho thấy tài năng nghệ thuật của Nguyễn Du: miêu tả nhân vật phản diện bằng ngòi bút hiện thực, khắc hoạ tính cách nhân vật qua diện mạo, cử chỉ (khác với nhân vật chính diện bằng bút pháp ước lệ lý tưởng hoá nhân vật).
II. Dàn ý phân tích tác phẩm
1. Mã Giám Sinh: một kẻ xấu xa, giả dối, vô học
a. Lai lịch bất minh
- Cái tên chung chung, không rõ ràng: Giám Sinh không phải là tên, đó là một từ để chỉ người học trò học Nho giáo thời xưa. Trong một vài thời đại nhất định, đây là một chức danh có thể mua được bằng tiền. Qua cái tên, ta không biết gì nhiều về nhân vật.
- Quê quán mập mờ, khuất tất. Nguyễn Du đã khéo léo vạch trần sự giả dối của Mã Giám Sinh, ông giới thiệu hắn là “viễn khách”.
⇒ Có sự mâu thuẫn trong lời nói của Mã Giám Sinh và lời giới thiệu của mụ mối, “viễn khách” mà sao “cũng gần”? Sự thật là Mã Giám Sinh đã dối trá về quê quán của mình: quê Lâm Tri mà lại nói thành Lâm Thanh.
⇒ Ở Mã Giám Sinh, những thông tin ban đầu, cơ bản nhất về một con người như tên tuổi, quê quán đều có dấu hiệu bất minh, dối trá. Đây không phải là một con người đáng tin cậy.
b. Lời nói xấc xược
- Nguyễn Du tiếp tục, một cách khéo léo, hé lộ bản chất vô học của Mã Giám Sinh qua những câu trả lời của hắn:
+ Nhịp thơ ngắn, chia nhỏ nhiều lần (2/1/3, 2/1/3/2) kết hợp với điệp cấu trúc “Hỏi… rằng…” cho người đọc hình dung được cách thức trả lời các câu hỏi của Mã Giám Sinh, nhát ngừng, cộc lốc.
+ Câu trả lời của Mã Giám Sinh thể hiện rõ sự bất kính: Không thưa gửi, nói trống không thể hiện sự vô văn hóa trong giao tiếp với người bề trên.
c. Ngoại hình bảnh bao, chải chuốt
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao
+ Hai câu thơ có sự tương phản: câu lục hoàn toàn là từ Hán Việt; câu bát hoàn toàn là từ thuần Việt. Câu lục có sắc thái trang trọng. Câu bát có sắc thái bình dị. Ở đây, Nguyễn Du chủ ý tô đậm sự tương phản giữa tuổi tác của Mã Giám Sinh (trạc ngoài bốn mươi) và vẻ bên ngoài không phù hợp với với độ tuổi ấy.
+ Đây chính là thủ pháp nâng và hạ của trào phúng: Dùng cái trang trọng để nói về độ tuổi, để bóc trần vẻ ngoài lố lăng, không phù hợp, cái trang trọng cần có của độ tuổi càng được tô đậm, thì cái lố bịch của ngoại hình càng hiện lên đậm nét.
+ Vẻ ngoài của Mã Giám Sinh là ngoại hình bảnh bao, chải chuốt, cố làm cho trẻ hơn độ tuổi: “Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao”. Mày râu chính là một chuẩn mực thẩm mỹ của người xưa khi đánh giá một người đàn ông. Theo chuẩn mực thẩm mĩ người xưa, mày râu của người đàn ông chính là biểu tượng cho nhân, nghĩa là dấu hiệu của bậc đại trượng phu. Nguyễn Du tả Từ Hải, một đấng anh hùng là “Râu hùm, hàm én, mày ngài”. Mã Giám Sinh đối lập hoàn toàn với tất cả chuẩn mực ấy, mày râu nhẵn nhụi (trong quan niệm của người xưa) là dung mạo của kẻ tiểu nhân, không đàng hoàng.
d. Hành động vô phép
- Bản chất vô lại, lố lăng của Mã Giám Sinh được thể hiện cụ thể nhất qua hành động của hắn.
+ Đầu tiên, Nguyễn Du tả: “Trước thầy sau tớ lao xao”. Từ láy “lao xao” tạo cảm giác nhốn nháo, mất trật tự, vô kỷ luật, hoàn toàn không phù hợp với sự trang nghiêm, lịch sự cần có của một buổi lễ vấn danh.
+ Kế tới, Nguyễn Du để cho họ Mã “Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”, thể hiện đỉnh cao của sự vô phép. Phó từ “tót” đặc tả tư thế ngồi của Mã Giám Sinh, cộc cằn, ngang ngược. Nguyễn Du đã nhận xét rất xác đáng về hành động này: “sỗ sàng”. Đây là sự thiếu lịch sự, vô phép tắc của một kẻ vô học. Ngoài ra, đó còn là thái độ khinh người của một kẻ cậy tiền.
⇒ Nhận xét:
- Bằng bút pháp tả thực, Nguyễn Du đã khéo léo từng bước bóc trần bản chất vô lại của Mã Giám Sinh, từ thông tin cơ bản cho đến diện mạo, lời nói, hành động. Hai chữ Giám Sinh chỉ là cái mác vô nghĩa: Đó không phải là thái độ, hành động của người có học, càng không phải là thái độ, hành động của một người đến làm lễ vấn danh.
2. Mã Giám Sinh: một kẻ buôn người
- Từ việc lột trần cái mác Giám Sinh, Nguyễn Du còn tiến đến một bước cao hơn trong việc xây dựng nhân vật: làm bật lên bản chất con buôn của Mã Giám Sinh. Mã Giám Sinh chính là hạng người đồi bại trong xã hội xưa, sống bám vào các kĩ viện, lừa các cô gái lương thiện vào chốn thanh lâu để chúng chuộc lợi về bọn “buôn thịt bán người”.
a) Tâm lý con buôn
Đắn đo cân sắc cân tài
Ép cung cầm nguyệt, thử tài quạt thơ
Mặn nồng một vẻ một ưa,
Bằng lòng khách mới tùy cơ dặt dìu
- Vẻ ngoài, việc người con gái trình diễn tài nghệ của mình cho người đến xem mắt là rất bình thường. Nhưng Nguyễn Du đã khéo léo chỉ ra cho người đọc, đây thực chất là một cuộc buôn bán, thông qua từ chỉ hành động của con buôn: “cân”, “ép”, “thử”. Tâm lý con buôn cũng được thể hiện rất sắc sảo: “Đắn đo” - “bằng lòng” – tùy cơ dặt dìu” ⇒ Chọn lựa kĩ càng, suy tính lợi nhuận.
b) Lời nói con buôn
- Mã Giám Sinh học đòi nói những lời lẽ rất hoa mỹ, bóng bảy:
Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều”
Sinh nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?
Nhưng tiềm thức của một con buôn vẫn hiện trên con chữ. Chữ “mua” và “bao nhiêu” đã tố cáo hắn. Lời lẽ hoa mỹ thực chất chỉ là một lời hỏi giá.
c) Hành động con buôn
- Và cuối cùng là việc mặc cả:
+ Từ láy “cò kè” đã cho thấy bản tình bần tiện, chuộc lợi của Mã Giám Sinh.
+ Nhịp thơ ngắn: 2/2/2 (hoặc 1/1/1/1/1/1) tạo cảm giác thời gian kéo dài, mệt mỏi, chán chường. Cuộc ngã giá càng kéo dài, nhân phẩm của Kiều càng bị chà đạp, giá trị của Kiều càng bị xúc phạm.
III. Bài phân tích
Người ta đã nói nhiều về tài miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Trong Truyện Kiều, dù là nhân vật chính diện hay phản diện đều rất sinh động. Chỉ bằng một vài nét chấm phá nhân vật của ông hiện ra trước mắt người đọc một cách cụ thể cả ngoại hình lẫn nội tâm. Đoạn trích “Mã Giám Sinh mua Kiều” đã phần nào chứng minh tài năng miêu tả nhân vật của Nguyễn Du. Chân tướng tên buôn thịt bán người Mã Giám Sinh cứ lộ dần qua màn kịch ngắn này.
Đoạn “Mã Giám Sinh mua Kiều” dài 34 câu, trích trong “Truyện Kiều” từ câu 618-652. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra tấn, tù đày, tài sản gia đình bị bọn sai nha sạch sành sanh vét cho đầy túi tham. Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: “Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha”. Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu “trâm gãy bình tan”.
Mã Giám Sinh xuất hiện với tư cách là một “viễn khách". “Viễn khách" là người khách từ phương xa đến. Ngay từ đầu người khách từ phương xa đến này đã có một chút đáng ngờ:
Hỏi tên, rằng: “Mã Giám Sinh’’
Hỏi quê, rằng: “Huyện Lâm Thanh cũng gần.
Khách tự giới thiệu mình là kẻ sĩ - từng theo học ở trường Quốc Tử Giám, chỉ nói họ không xưng tên, rất kiểu cách quý tộc; sau đó giới thiệu quê hương bản quán: “huyện Lâm Thanh cũng gần”. Hai chữ “rằng” nối tiếp nhau xuất hiện biểu lộ một thái độ kiêu kì coi thiên hạ bằng nửa con mắt. Khẩu ngữ đối đáp của “viễn khách” vừa hợm hĩnh vừa thô thiển, khiếm nhã.
Chân tướng Mã Giám Sinh bộc lộ dần qua cách Nguyễn Du miêu tả ngoại hình của y:
Quá niên trạc ngoại tứ tuần
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.
“Trạc ngoại tứ tuần” là đã ngoài bốn mươi tuổi. Thời bấy giờ là ở vào tuổi không còn trẻ nữa, thế mà y vẫn “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao". Tác giả cố ý làm nổi bật mâu thuẫn giữa tuổi tác và cách tỉa tót, chải chuốt, cách ăn diện quá mức của y. Những từ “nhẵn nhụi', “bảnh bao” không chỉ thể hiện được vẻ kệch cỡm của Mã Giám Sinh mà còn kín đáo bộc lộ thái độ châm biếm của Nguyễn Du. Cách ăn mặc “bảnh bao" của y càng chứng tỏ y chẳng phải là một sinh viên trường Quốc Tử Giám hào hoa phong nhã. Hình như y đang cố che đậy một điều gì, qua cách tỉa tót, chải chuốt và ăn diện quá mức ấy. Nhưng dù cố che đậy, bản chất vỏ bọc của y vẫn cứ lòi ra:
Trước thầy sau tớ lao xao
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
“Trước thầy sau tớ” có vẻ rất đàng hoàng, trịnh trọng, nhưng sao lại “lao xao”? “Lao xao'” là ồn ào, lộn xộn mất trật tự. Cả tớ lẫn thầy đều chẳng giữ ý tứ khi vào nhà Vương ông. Vừa vào đến nơi Mã Giám Sinh đã “ngồi tót” ở “ghế trên” một cách “sỗ sàng”. Động tác ngồi của y càng chứng tỏ y là kẻ vô học trịch thượng hợm hĩnh. Một người thực sự là sinh viên trường Quốc Tử Giám ít nhất phải thanh nhã như Kim Trọng, đi đứng, ăn nói từ tốn, lịch sự như Kim Trọng:
Nẻo xa mới tỏ mặt người
Khách đà xuống ngựa tới nơi tự tình.
Mã Giám Sinh hoàn toàn ngược lại: y nói năng cộc lốc, ăn mặc kệch cỡm, đi đứng láo nháo, hợm hĩnh,... Tất cả đã cho ta hiểu con người của y. Nguyễn Du không dừng lại ở đó, ông còn tiếp tục lột trần chân tướng Mã Giám Sinh. Trước “nét buồn như cúc, điệu gầy như mai” của Kiều, y chẳng một chút động lòng trắc ẩn. Ngược lại y còn bắt Kiều làm thơ, gảy đàn để y “đắn đo cân sắc cân tài”. Sau đó y mặc cả, y xem Kiều chỉ là món hàng không hơn không kém. Đầu tiên y còn làm bộ là người có chữ. Sau đó y lộ nguyên hình là một tên “buôn thịt bán người” sành sỏi:
Cò kè bớt một thêm hai,
Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm.
Từ “đáng giá nghìn vàng” y “cò kè" thêm, bớt chỉ còn “bốn trăm”. Nghĩa là chưa được một nửa... Vậy là cuộc ngã giá đầy căng thẳng giữa mụ mối và tên buôn Mã Giám Sinh đã diễn ra. Đến đây, Mã Giám Sinh thể hiện rõ bản chất của một con buôn nhưng đầu tiên hắn ta vẫn cố khoác lên mình cái vẻ trí thức đầy giả tạo “Rằng mua ngọc đến Lam Kiều” nhưng cũng chỉ ngay sau đó thôi thì bản chất con buôn cũng được thể hiện ra rõ mồn một, với sự sành sỏi vốn có, hắn ta đã cò kè “bớt một thêm hai” và cuối cùng thì sự lọc lõi ấy đã mang lại cho hắn ta một món hời khi trả giá từ “ngàn vàng” xuống còn “ngoài bốn trăm”:
Định ngày nạp thái vu quy,
Tiền lưng đã có việc gì chẳng xong!
Tính cách con buôn lừa đảo, giả dối, xảo trá, kệch cỡm của Mã Giám Sinh được Nguyễn Du khắc họa khá cụ thể và sinh động. Tính cách đó được thể hiện chủ yếu qua việc miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ và hành động nhân vật. Bằng những từ ngữ chọn lọc có sức gợi, sức biểu cảm cao, Nguyễn Du vừa lột trần được bản chất xấu xa của tên buôn thịt bán người họ Mã vừa bộc lộ thái độ châm biếm khinh ghét của mình đối với hạng người bịp bợm, hợm hĩnh, thô lỗ ấy. Chỉ qua màn kịch ngắn này, chúng ta cũng hiểu phần nào tài năng miêu tả nhân vật của đại thi hào Nguyễn Du.
Vẫn bút pháp ước lệ quen thuộc của Nguyễn Du khi tả những nhân vật chính diện mà ông yêu mến: lệ hoa, cúc, mai… vẻ đẹp của Kiều lúc bình thường đã khiến hoa ghen, liễu hờn, nghiêng nước nghiêng thành, thì lúc này, trong cơn đau khổ đến tột cùng, nàng vẫn đẹp – vẻ đẹp làm thổn thức lòng người. Nghệ thuật đối rất chỉnh đã được nhà thơ khai thác triệt để trong những dòng thơ tả Kiều. Tình cảm chân thành của tác giả đã phá vỡ tính khuôn sáo của bút pháp cổ điển và đem lại xúc động thực sự cho người đọc. Chúng ta thương Thúy Kiều và càng căm thù cái xã hội phong kiến thối nát đã làm tan nát gia đình nàng, đẩy nàng vào chôn đoạn trường đầy chông gai, bão tố.
IV. Một số lời bình về tác phẩm
1. Trong toàn bộ khổ thơ, Nguyễn Du đã đối lập sự câm lặng, khổ đau của Thúy Kiều với sự hoạt động năng nổ, của bọn buôn người, đối lập giữa giá trị đẹp đẽ vô song của Thúy Kiều với giá cả mua bán chua xót “Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm” . Tiếng nói quyết định và lạnh lùng của đồng tiền hôi tanh khép lại màn kịch giải quyết tai họa gia đình, để mở ra một tai họa khác cho cô gái họ Vương.
(Đặng Thanh Lê, Giảng văn Truyện Kiều)
1. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả Nguyễn Du và đoạn trích:
+ Nguyễn Du (1765 – 1820), là người có hiểu biết sâu rộng, có vốn sống phong phú. Sự ngiệp văn học rất phong phú và đồ sộ.
+ Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều: nằm ở phần đầu kiếp đoạn trường của người con gái họ Vương.
2. Thân bài
- Nghệ thuật sử dụng từ ngữ, bút pháp miêu tả của Nguyễn Du.
+ Mã Giám Sinh được Nguyễn Du miêu tả đúng với bản chất của một tên buôn người.
- Nhân vật Mã Giám Sinh
+ Diện mạo và cử chỉ
+ Sinh viên trường Quốc Tử Giám
+ Người khách ở xa
+ Tên: Mã Giám Sinh
+ Quê: huyện Lâm Thanh
+ Tuổi: ngoại tứ tuần
+ Cách ăn mặc: mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao
+ Nói năng: thô lỗ, vô lễ
- Hành động: ghế trên ngồi tót sỗ sàng
- Vẻ ngoài chải chuốt, không phù hợp với lứa tuổi, cử chỉ và thái độ bất lịch sự, trơ trẽn, hỗn láo.
- Bản chất
+ Giả dối từ lai lịch đến tướng mạo, tính danh
+ Bản tính con buôn, lưu manh
- Bút pháp tả thực, cùng các từ tượng hình, tượng thanh làm cho Mã Giám Sinh hiện lên là một kẻ giả dối, vô học, con buôn, mất lịch sự.
- Hình ảnh tội nghiệp của Thúy Kiều
+ Tình cảnh tội nghiệp của Thúy Kiều: Nàng là một món hàng để người ta trao đổi, mua bán.
+ Ý thức được nhân phẩm.
+ Nỗi đau đớn, tái tê
- Tâm trạng đau khổ, xấu hổ, đau đớn.
- Tấm lòng của tác giả
+ Khinh bỉ, căm phẫn tố cáo thế lực vì đồng tiền mà chà đạp lên nhân phẩm của con người.
+ Tác giả có cái nhìn mỉa mai, châm biếm, lên án diện mạo và cử chỉ thô lỗ, sỗ sàng của Mã Giám Sinh.
- Tác giả thể hiện niềm cảm thương sâu sắc trước thực trạng con người bị hành hạ, bị chà đạp.
- Hóa thân vào nhân vật để nói lên nỗi tủi hổ, đau đớn của Kiều.
3. Kết bài
- Nội dung: Bằng nghệ thuật tả ngoại hình, cử chỉ và ngôn ngữ đối thoại để khắc họa tính cách nhân vật, bóc trần bản chất xấu xa, đê tiện của Mã Giám Sinh. Qua đó lên án những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên tài sắc và nhân phẩm của người phụ nữ.
- Nghệ thuật: Sử dụng hình ảnh tượng trưng, ước lệ. Dùng bút pháp tả thực để khắc họa, miêu tả và xây dựng nhân vật.
Trong xã hội phong kiến suy tàn đầy áp bức, bất công thì người phụ nữ là nạn nhân khốn khổ nhất. Thi hào Nguyễn Du viết về họ với những lời thơ thống thiết: "Đau đớn thay phận đàn bà, Lời rằng bạc mệnh củng là lời chung". Thời nhà thơ sống, dường như bạc mệnh đã trở thành quy luật chung của thân phận phụ nữ. Cuộc đời Thúy Kiều, một cô gái tài sắc vẹn toàn chứng minh cho quy luật ấy. Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là nốt nhạc buồn, khởi đầu cho cung đàn bạc mệnh của đời nàng.
Đoạn trích nằm ở phần hai (Gia biến và lưu lạc) trong Truyện Kiều. Sau khi bị thằng bán tơ vu oan, gia đình Thúy Kiều lâm vào cảnh tan tác, đau thương. Của cải bị cướp đoạt, cha và em trai Kiều bị lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa bắt bớ, khảo tra. Cái giá mà chúng đưa ra thật là khủng khiếp: Có ba trăm lạng việc này mới xong. Kiều đành gạt nước mắt, gác mối tình đầu với Kim Trọng để bán mình chuộc cha và em ra khỏi chốn lao tù.Bút pháp tả thực sắc sảo, tài tình của Nguyễn Du đã vẽ lên chân dung sống động của Mã Giám Sinh, tên lưu manh bán thịt buôn người; đồng thời thể hiện nỗi đau đớn, tuyệt vọng của Thúy Kiều – người con gái tài sắc tuyệt vời mà bị coi như một thứ hàng hóa vô tri, bị mua đi bán lại không chút xót thương. Lời tố cáo tội ác của xã hội phong kiến suy tàn và lời kêu gọi thống thiết: Hãy cứu lấy con người của Nguyễn Du ẩn chứa sau từng hình ảnh, từ ngữ trong đoạn trích này.
Cái tin Kiều muốn bán mình đã gây xôn xao dư luận cả một vùng rộng lớn vì không ai không biết đến nàng – người con gái nức tiếng tài sắc vẹn toàn. Mã Giám Sinh đã nhờ người mai mối dẫn đến nhà để cưới nàng làm vợ lẽ.Một điều dễ nhận thấy trong bút pháp tả người của Nguyễn Du là khi tả những nhân vật chính diện (như chị em Thúy Kiều, Kim Trọng, Từ Hải…) thì ông dùng bút pháp ước lệ; còn tả những nhân vật phản diện (như Tú Bà, Mã Giám Sinh, Hồ Tôn Hiến…) thì ông dùng bút pháp tả thực. Qua công thức này, người đọc có thể xác định nhân vật thuộc loại nào và thái độ yêu ghét của nhà thơ ra sao. Mã Giám Sinh cũng không nằm ngoài công thức đó.Cái tài của Nguyễn Du là không miêu tả dài dòng mà đi sâu vào những chi tiết tiêu biểu, chọn lọc, thể hiện được thần thái của nhân vật. Không ai biết rõ tung tích Mã Giám Sinh, chỉ biết hắn là người từ phương xa tới (viễn khách). Hỏi hắn thì hắn trả lời cộc lốc: "Hỏi tên, rằng: Mã Giám Sinh / Hỏi quê, rằng: Huyện Lâm Thanh cũng gần”. Hai câu mà chỉ cung cấp được một thông tin nhỏ là hắn mang họ Mã. Còn tất cả đều mù mờ, không rõ ràng. Giám Sinh là tên gọi chung của các sinh viên trường Quốc tử giám chứ không phải là tên riêng. Còn huyện Lâm Thanh rộng bao la, ai biết hắn ở chỗ nào, gia thế ra sao? Cách nói năng của Mã đã bộc lộ một phần về con người hắn. Hắn chẳng có chút gì là nho nhã, thanh lịch của một chàng giám sinh, hạng người có học.
Hình dáng bên ngoài của Mã có nhiều mâu thuẫn. Tuổi tác: Quá niên trạc ngoại tứ tuần. Một loạt từ phỏng đoán đứng liền nhau (quá, trạc, ngoại), từ Việt có, từ Hán có, cùng với nhịp thơ chậm, ngập ngừng càng làm tăng cảm giác khó xác định tuổi tác của Mã. Ngoại tứ tuần có thế là bốn mốt, bốn hai; mà cùng có thể là bốn lăm, bốn sáu tuổi. Thuở ấy, đàn ông ngoại tứ tuần là sắp lên lão (ngữ tuần – năm mươi tuổi). Vậy mà diện mạo và cách ăn mặc của hắn lại cố làm ra vẻ trẻ trung như trai mới lớn: Mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao. Những từ tả thực đến mức dung tục như nhẵn nhụi, bảnh bao đã hàm ý mỉa mai, cười cợt, châm biếm của Nguyễn Du đối với nhân vật này. Rõ ràng là Mã Giám Sinh cố tìm mọi cách dùng cái mẽ ngoài hào nhoáng để che đậy bản chất bên trong, nhưng nực cười thay, cái lố lăng, kệch cỡm của hắn vẫn cứ lộ ra.Chỉ một câu: Trước thầy sau tớ lao xao, Nguyễn Du đã tô đậm cái cung cách đi hỏi vợ lạ đời của Mã Giám Sinh. Thầy tớ hắn có khác chi một lũ lưu manh lấc cấc, hỗn hào. Riêng Mã, thái độ của hắn là hợm hĩnh, vênh váo, cậy tiền, không thèm biết đến lễ nghi, phép tắc: Ghế trên ngồi tót sỗ sàng. Ghế trên là ghế dành riêng cho chủ nhà hoặc khách quý. Ngồi tót là ngồi rất nhanh, co cả hai chân lên, chẳng đợi ai mời, ai thỉnh. Sỗ sàng là ngổ ngáo, coi thường mọi người. Hành động ấy, thái độ ấy là của kẻ tiểu nhân vô học. Chỉ qua vài chi tiết, chân tướng Mã đã dần dần bộc lộ.
Khi mụ mối dẫn Kiều ra, Mã nhìn ngắm, xem xét nàng với đôi mắt của một tên lái buôn lọc lõi: Đắn đo cân sắc cân tài, Ép cung cầm nguyệt thử bài quạt thơ. Hắn ép Kiều phải đánh đàn, làm thơ để có cơ sở chắc chắn mà định giá nàng. Tài sắc Thúy Kiều làm cho hắn rất hài lòng: Mặn nồng một vẻ một ưa, Bằng lòng khách mới tùy cơ đặt dìu. Mã chắc mẩm trong bụng sẽ mua được món hàng vô giá, chuyến này ắt có lời to, nhưng hắn chẳng vội vàng mà còn Cò kè bớt một thêm hai, Giờ lâu ngã giá vàng ngoài bốn trăm. Thần tình thay là những tiếng chợ búa nôm na như cò kè, ngã giá của Nguyễn Du. Bằng mấy tiếng này, nhà thơ đã lột sạch áo mũ giám sinh giả và lời lẽ cố làm ra vẻ văn chương hoa mĩ cho đúng điệu giám sinh đi hỏi vợ: Rằng: “Mua ngọc đến Lam Kiều, Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường?… của gã lưu manh này. Trước mắt người đọc, chỉ còn lại một hiện thực trần trụi đáng sợ: Mã Giám Sinh – tên tú ông bán thịt buôn người đã lộ nguyên hình.Đọc đoạn thơ này, chúng ta căm ghét, khinh bỉ Mã Giám Sinh bao nhiêu thì càng xót thương Thúy Kiều bấy nhiêu bởi người con gái tài sắc nhường ấy đã rơi vào nanh vuốt lũ sói lang. Nguyễn Du đã tả tâm trạng Kiều lúc bán mình hằng tất cả nỗi quằn quại, đau đớn, tưởng như nước mắt rơi, máu chảy ở đầu ngọn bút:
“Nỗi mình thêm tức nỗi nhà,
Thềm hoa một bước lệ hoa mấy hàng
Ngại ngùng dợn gió e sương
Ngừng hoa bóng thẹn trông gương mặt dày.
Mối càng vén tóc bắt tay,
Nét buồn như cúc điệu gầy như mai.”
Vẫn bứt pháp ước lệ quen thuộc của Nguyễn Du khi tả những nhân vật chính diện mà ông yêu mến: lệ hoa, cúc, mai… vẻ đẹp của Kiều lúc bình thường đã khiến hoa ghen, liễu hờn, nghiêng nước nghiêng thành, thì lúc này, trong cơn đau khổ đến tột cùng, nàng vẫn đẹp – vẻ đẹp làm thổn thức lòng người. Nghệ thuật đối rất chỉnh đã được nhà thơ khai thác triệt để trong những dòng thơ tả Kiều. Tình cảm chân thành của tác giả đã phá vỡ tính khuôn sáo của bút pháp cổ điển và đem lại xúc động thực sự cho người đọc. Chúng ta thương Thúy Kiều và càng căm thù cái xã hội phong kiến thối nát đã làm tan nát gia đình nàng, đẩy nàng vào chôn đoạn trường đầy chông gai, bão tố.
Đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều là một dẫn chứng chứng minh cho tài năng miêu tả tâm lí và xây dựng hình tượng nhân vật tài tình của đại thi hào Nguyễn Du. Truyện Kiều một trong muôn tiếng kêu thương trước số phận bất hạnh của người phụ nữ. Đồng thời, nó là lời kết án âm thầm mà không kém phần mãnh liệt cái xã hội phong kiến suy tàn đã sinh ra những kẻ bất lương như Mã Giám Sinh; Vì lợi ích cá nhân, chúng sẵn sàng chà đạp thô bạo lên nhân phẩm. Thông điệp mà nhà thơ Nguyễn Du muốn gửi đến tất cả chúng ta là: Hãy chặn đứng những bàn tay tội ác! Hãy cứu lấy con người!
Đoạn Mã Giám Sinh mua Kiều dài 34 câu, trích trong Truyện Kiều từ câu 618 - 652. Bị thằng bán tơ vu oan, cha và em trai bị tra tấn, tù đày, tài sản gia đình bị bọn sai nha "sạch sành sanh vét cho đầy túi tham". Trước cảnh gia biến, Kiều đã quyết định: "Dẽ cho để thiếp bán mình chuộc cha!".
Video bài văn mẫu Phân tích đoạn trích Mã Giám Sinh mua Kiều
Đoạn thơ ghi lại cảnh Mã Giám Sinh đến mua Kiều và nỗi đau khổ của nàng trước bi kịch gia đình và bi kịch tình yêu " trâm gãy bình tan".Đoạn thơ tả cảnh mua bán người thời trung cổ được kể lại rất cụ thể, sống động. Người mua là Mã Giám Sinh kẻ bán là mụ mối. Người bị đem bán là Thúy Kiều. Khách viễn phương đến, mụ mối rước khách vào lầu trang. Mụ mối giục Kiểu "kíp ra” cho khách gặp. Mụ mối "vén tóc bắt tay" món hàng mình; Mã Giám Sinh "cân sắc cân tài". Khi khách đã "mặn nồng một vẻ một ưu" mới hỏi giá. Mụ mối thách: "một nghìn vàng". Hai bên "cò kè" mua bán với cái giá "vàng ngoài bốn trăm". Cuộc mua bán xong, hai bên làm thủ tục: "đưa canh thiếp" và hẹn ngày chồng tiền nhận hàng. Cuộc mua bán người lại được dùng bằng những ngôn từ sang trọng như: mua ngọc, sính nghi, đưa canh thiếp làm nghi, nạp thái vu quy. Đúng như cảnh hỏi vợ, thách cưới của các gia đình quý tộc thời xưa.
Cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực sâu sắc. Trong xã hội có bọn buôn thịt bán người, có loại người làm mối, sống bằng nghề làm mối. Tài sắc của người con gái như Thúy Kiều đã trở thành một món hàng để "cò kè" mua bán. Nhân phẩm của người phụ nữ bị chà đạp. Câu thơ "Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong" là lời bình luận cuộc mua bán, lên án đồng tiền hôi tanh, mặt trái đồng tiền trong tay bọn bất lương, bọn buôn thịt bán người.Đoạn thơ thể hiện nghệ thuật tả người của Nguyễn Du. Mụ mối: nhanh nhảu, đon đả hỏi họ tên, quê quán viễn khách, rồi "rước vào lầu trang". Giục Kiều ra nhanh (kíp ra), "vén tóc bắt tay” Kiều, khôn khéo thách giá:
Mối rằng: Đáng giá nghìn vàng,
Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài!
Tác giả tả cử chỉ, ngôn ngữ mụ mối, làm hiện lên một loại người nhanh nhẹn, khôn khéo, giảo hoạt, kiếm ăn bằng nghề làm mối trong việc mua, bán người.Mã Giám Sinh là "viễn khách" đến để "vấn danh" - khách đến hỏi vợ và xin cưới. Cách giới thiệu có vẻ trang trọng. Hai câu tiếp theo là "hỏi - đáp". Cách trả lời cộc lốc, khiếm nhã. Hai chữ "rằng" làm cho khẩu ngữ thêm thô lậu:
“Hỏi tên, rằng: "Mã Giám Sinh",
Hỏi quê, rằng: "Huyện Lâm Thanh cũng gần”.
Mã Giám Sinh chung lưng vốn với mụ Tú Bà mở ngôi hàng lầu xanh ở Lâm Tri nhưng nói dối là quê ở "Lâm Thanh cũng gần". Hắn chỉ là một tên buôn thịt bán người nhưng mập mờ khoe hão là sinh viên trường Quốc Tử Giám, họ Mã, nghĩa là một trí thức phong kiến thuộc tầng lớp quý tộc. Nhân cách hé lộ dần. Ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn trai lơ: "Nhẵn nhụi" và "bảnh bao" là hai nét vẽ châm biếm:
“Quá niên trạc ngoại tứ tuần,
Mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao.”
Cũng "thầy"cũng "tớ", cũng "trước" cũng "sau", có vẻ sang trọng lắm, đi đâu một bước là có kẻ hầu người hạ, nhưng thầy, tớ của ông khách viễn phương này sao mà "lao xao" chẳng có nề nếp, lễ giáo gì! Cái cử chỉ "sỗ sàng", không biết ý tứ gì, không biết giữ lễ phép, dám đường đột leo lên ghế cao ngồi "tót"! Nếu là sinh viên trường Quốc Tử Giám thật, thì hắn ta rất kém sĩ hạnh!
“Trước thầy sau tớ lao xao,
Nhà băng đưa mối rước vào lầu trang.
Ghế trên ngồi tót sỗ sàng...”
Một chữ “tót” đầy khinh bỉ, đã vạch trần chân tướng kẻ "Quen mồi lại kiếm ăn miền nguyệt hoa". "Cân sắc cân tài", "ép", "thử”,... những cử chi, cách thức mua người ấy của tên lái buôn họ Mã mới thật ghê tởm! Chỉ sau khi đã "mặn nồng một vẻ một ưa", Mã Giám Sinh mới "dặt dìu" mua bán. Hắn là kẻ khôn ngoan đến róc đời, trong mọi mánh lới buôn thịt bán người. Cũng sang trọng kiểu cách như ai. Chẳng qua chỉ là hoa hòe hoa sói thớ lợ:
“Rằng: "Mua ngọc đến Lam Kiều",
Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường.”
Hai chữ "cò kè" đã bóc trần bản chất bủn xỉn của một kẻ “ Quanh năm buôn phấn bán hương đã lẻ”Qua nhân vật Mã Giám Sinh, ta càng thấy rõ bút pháp hiện thực trong tả người của Nguyễn Du. Nét vẽ nào cũng sắc sảo tạo nên tính cách rất sống của nhân vật Mã Giám Sinh. Chi tiết nghệ thuật nào cũng rất sống, đằng sau đó là thái độ khinh bỉ của nhà thơ đối với loại người bạc ác tinh ma này! Bức chân dung phản diện của Mã Giám Sinh có giá trị tố cáo hiện thực đặc sắc, lên án bọ buôn thịt bán người vô nhân đạo, đạo đức giả trong xã hội phong kiến suy tàn, thối nát.Kiều là một thiếu nữ hiếu thảo, giàu đức hi sinh. Trước cảnh gia biến nàng bán mình để chuộc cha, để cứu gia đình. Nàng tự xem thân mình như "hạt mưa” nhỏ bé hèn mọn. Tất cả vì "ba xuân", một lòng đền đáp công ơn sinh thành của cha mẹ:
“Hạt mưa sá nghĩ phận hèn,
Liều đem tấc cỏ quyết đền ba xuân.”
Kiều sống trong tâm trạng bi kịch dữ dội giữa tình riêng với tình nhà, giữa chữ tình với chữ hiếu, "nỗi mình thêm tức nỗi nhà". Nàng vô cùng đau khổ. Bao nhiêu nước mắt, bao nhiêu "lệ hoa” đã tuôn rơi, cả người nàng như héo hon rũ xuống: "ngại ngùng",... "bóng thẹn",... "mặt dày", "nét buồn như cúc điệu gầy như mai”. Vì là người đẹp đau khổ cho nên các ẩn dụ so sánh mà nhà thơ sử dụng đều gắn liền với cái đẹp: thềm hoa, lệ hoa "nét buồn như cúc, điệu gầy như mai". Kiều bị mụ mối và Mã Giám Sinh "ép cung cầm nguyệt, thử bài quạt thơ". Mã Giám Sinh đã “đắn đo cân sắc cân tài". Con người Kiều, tài sắc Kiều đã trở thành món hàng đem ra mua bán. Nguyễn Du đã ca ngợi lòng hiếu thảo, đức hi sinh của Kiều trước gia biến, cảm thương cho nỗi đau khổ của nàng khi Mã Giám Sinh "cân sắc cân tài", khi bị hắn "cò kè bớt một thêm hai"... Đoạn thơ chứa chan tinh thần nhân đạo là ở những chi tiết nội dung ấy."Mã Giám Sinh mua Kiều" là đoạn thơ có giá trị tố cáo đanh thép và sâu sắc nhất trong Truyện Kiều. Nguyễn Du đã dựng nên một bức tranh tả thực sắc xảo giúp chúng ta thấy rõ được bộ mặt tàn ác, ghê tởm của bọn buôn thịt bán người trong xã hội, ở đây là Mã Giám Sinh. Nhà thơ đã lên án mặt trái đồng tiền hôi tanh: "Tiền lưng đã có, việc gì chẳng xong!". Đồng cảm, xót thương cho số phận nàng Kiều: phải bán mình chuộc cha. Thương tiếc tài sắc giai nhân bị dập vùi. Đó là giá trị nhân đạo.
Đoạn thơ thể hiện bút pháp nghệ thuật đặc sắc của Nguyễn Du trong sự tả cảnh mua Kiều, trong tả người: tả Mã Giám Sinh, tả mụ mối thì sử dụng bút pháp hiện thực, chi tiết hiện thực; tả Kiều thì thiên về ước lệ. Rất biến hóa, tài tình. Ngôn ngữ mang sắc thái biểu cảm đầy ấn tượng.Tóm lại, cảnh Mã Giám Sinh mua Kiều có giá trị tố cáo hiện thực và chứa chan tinh thần nhân đạo. Đoạn thơ là sự khởi đầu tiếng kêu thương của một kiếp đoạn trường.