Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Thuyết minh về con trâu hay nhất, gồm 9 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 26 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Video bài văn mẫu Thuyết minh về con trâu
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công?”
Bài ca dao quen thuộc với mỗi người Việt Nam cũng giống như hình ảnh con trâu đã gắn liền với làng quê Việt Nam, với người nông dân chân lấm tay bùn, với cây đa và lũy tre làng. Bởi trong tâm thức của người Việt, con trâu là biểu tượng của sự cần cù, chăm chỉ, hiền lành, chất phác như chính họ.
Trâu được nuôi nhiều ở các vùng nông thôn, đặc biệt là vùng đồi núi ở Việt Nam bởi đặc tính tự nhiên của trâu có thể chịu được lạnh và thích kiếm ăn trong rừng. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng được con người thuần hóa cách đây hàng ngàn năm, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Trâu là loài động vật hiền lành, thuộc lớp thú, lông có màu xám hoặc xám đen, không dày. Thân hình trâu vạm vỡ, hơi thấp, chân ngắn. Bụng trâu to, mông dốc xuống. Một con trâu trưởng thành có thể nặng tới hơn 500kg. Đuôi trâu dài, thường xuyên phe phẩy để đuổi những động vật kí sinh như ruồi, muỗi. Là động vật có vú, trâu có bầu sữa nhỏ, nằm ở dưới bụng và sẽ nuôi con bằng dòng sữa ấy. Trên đầu trâu thường có một bộ sừng dài, cứng, nhọn hoắt, hình lưỡi liềm. Đây là vũ khí tự vệ của trâu cũng là đặc điểm còn sót lại của trâu rừng sau khi được thuần hóa. Trâu đực xem bộ sừng là thứ để biểu lộ sức mạnh của mình với những con trâu cái, sừng càng dài, càng cứng càng chứng tỏ đó là một con trâu khỏe mạnh. Những con trâu ấy sẽ thu hút được những con trâu cái hơn những con trâu khác. Mỗi năm trâu chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con và sẽ nuôi còn bằng sữa mẹ.
Từ xưa đến nay, trâu luôn là nông cụ quan trọng của người nông dân bởi đây là loài gia súc lớn, khỏe, cung cấp sức kéo để cày bừa trên khắp các cánh đồng. Đặc tính của trâu là loài động vật hiền lành, chăm chỉ, chịu thương chịu khó nên hầu hết những công việc nặng nhọc trong nhà nông đều do con trâu gánh vác. Từ sớm tinh mơ cho đến tận khi mặt trời đã khuất núi, con trâu cùng với người nông dân cần mẫn trên những cánh đồng. Từ cày đến bừa, từ cấy đến gặt, khi nào cũng thấy có mặt của con trâu để giúp con người làm ra hạt lúa, hạt gạo. Có lẽ vì thế mà nhân dân ta nhắc đến con trâu bằng một tình cảm yêu mến, trân trọng Con trâu là đầu cơ nghiệp, Ruộng sâu trâu nái...Trâu cũng là nguồn cung cấp thực phẩm quan trọng cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm cao, hàm lượng chất béo thấp rất tốt cho người đang điều trị bệnh béo phì hoặc bổ sung dinh dưỡng khi mới ốm dậy. Sữa trâu cũng là nguồn cung cấp chất đạm, chất béo. Dù không tốt và thơm ngon như sữa bò song đây cũng là nguồn sữa có thể bổ sung và cải thiện bữa ăn cho trẻ em vùng núi. Da trâu cũng có thể làm mặt trống, làm giày rất dày và bền. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ, đồ trang trí.
Đâu chỉ mang tới những lợi ích vật chất, con trâu còn gắn bó với đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Tuổi thơ của biết bao thế hệ gắn liền với những ngày tháng thong dong chăn trâu trên đồng cỏ của làng. Hình ảnh những em bé ngồi trên lưng trâu thổi sáo, đọc sách hay con trâu thủng thẳng gặm cò còn mấy đứa trẻ túm năm tụm ba chơi đánh bi, đánh chắt, thả diều, chọi gà đã từng đi vào thơ ca, hội họa của không biết bao nhiêu nghệ sĩ. Những hình ảnh ấy khiến cho con người ta thầy tâm hồn mình bình lặng lại sau những xô bồ, vội vã của cuộc sống thành thị. Giang Nam cũng viết về tuổi thơ chăn trâu của mình qua những vần thơ:
“Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ:
“Ai bảo chăn trâu là khổ?”
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao”
Trong văn hóa của người Việt, con trâu cũng là một biểu tượng cho một năm. Trong 12 con giáp, trâu đứng hàng thứ hai sau Tý và đứng trước 10 con vật khác, thuộc âm. Người ta cũng chẳng thể quên hình ảnh của chú bé Định Bộ Lĩnh đầu ba chỏm đã cùng đám trẻ chăn trâu trong vùng Hoa Lư cưỡi trâu rước cờ lau tập trận. Định Bộ Lĩnh là một bị vua xuất thân từ hình ảnh chú bé mục đồng, cũng gắn liền với con trâu.
Những chú trâu mập mạp còn gắn liền với những lễ hội truyền thống trong văn hóa của người Việt Nam. Có những lễ hội thu hút rất đông du khách tới tham gia như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn, Hải Phòng. Trước đó, những chú trâu được chăm sóc chu đáo khiến con nào con nấy vạm vỡ, khỏe mạnh với đôi sừng cong vút, nhọn hoắt. Trong tiếng trống giục giã, tiếng reo hò cổ vũ của khán giả trên khán đài, hai chú trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Bên cạnh đó, ở Tây Nguyên cũng có lễ hộ đâm trâu để mừng một vụ mùa bội thu. Thịt trâu sẽ được dùng để cúng bái thần linh, phần còn lại sẽ được sẻ thịt để chia cho mỗi nhà trong buôn làng.
Vượt ra khỏi lũy tre làng, hình ảnh con trâu vàng trong SEA GAMES 22 đã gây ấn tượng với bạn bè quốc tế, trở thành biểu tượng của con người Việt Nam cần cù, chịu thương chịu khó nhưng cũng rất thân thiện, sáng tạo và thông minh.
Con trâu đã gắn bó với con người Việt Nam từ hàng nghìn năm nay nên cuộc sống hiện đại với những vật dụng thông minh thì con trâu vẫn sẽ luôn giữ được vị trí, vai trò của mình trong cuộc sống của chúng ta.
I. Mở bài
- Giới thiệu chung về hình ảnh con trâu trên đồng ruộng, làng quê Việt Nam.
- Là con vật thân thuộc, gắn bó, mang nhiều ý nghĩa quan trọng
II. Thân bài
1. Nguồn gốc, đặc điểm của loài trâu:
- Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
- Là động vật thuộc lớp thú, lông trâu có màu xám, xám đen; thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn; bụng to; mông dốc; đuôi dài thường xuyên phe phẩy; bầu vú nhỏ; sừng hình lưỡi liềm…
- Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ một đến hai lứa, mỗi lứa một con…
2. Lợi ích của con trâu:
a) Trong đời sống vật chất:
- Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày, bừa, giúp người nông dân làm ra hạt lúa, hạt gạo.
- Là tài sản quý giá của nhà nông.
- Cung cấp thịt; cung cấp da, sừng để làm đồ mỹ nghệ…
b) Trong đời sống tinh thần:
- Trâu là người bạn thân thiết với tuổi thơ của trẻ em ở nông thôn một buổi đi học, một buổi đi chăn trâu:thổi sáo, đọc sách, thả diều, đánh trận giả khi chăn trâu…
+ Hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng.
+ Lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên.
+ Là biểu tượng của Sea Game 22 Đông Nam Á được tổ chức tại Việt Nam.
III. Kết bài
- Khẳng định lại vai trò của con trâu trong đời sống người nông dân ở làng quê Việt Nam.
- Nêu suy nghĩ, tình cảm của bản thân.
Các bài mẫu khác:
Nếu bạn đã từng đi qua những làng quê ở Việt Nam thì không thể không bắt gặp những chú trâu đang cần mẫn cày ruộng hay đang thong thả gặm cỏ. Con trâu là người bạn thân thiết của người dân và gắn bó lâu đời với nhau từ hàng ngàn năm nay. Và chúng được xem như biểu tượng của người nông dân Việt Nam.
Trâu bắt nguồn từ loài trâu rừng. Lông trâu thường có màu xám đen, thân hình vạm vỡ. Với đôi sừng nhọn, uốn cong như hình một lưỡi liềm. Chúng được con người sử dụng làm đồ trang sức. Trâu là loài động vật thuộc lớp có vú. Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày. Một con trâu đực trung bình cày bừa từ 3 - 4 sào còn trâu cái có thể cày bừa từ 2 - 3 sào.
Trong những thời đại trước trâu còn dùng để kéo xe, chở hàng và có thể kéo tải trọng từ 400 - 500kg. Con trâu còn có thể kéo gỗ củi và hàng hóa. Trâu cung cấp cho ta rất nhiều sản lượng về lương thực và sữa. Đem bán thịt trâu cũng thu được những khoản tiền đáng kể. Người ta thường trồng cây xen lẫn các cây ăn quả, phân trâu ủ xanh là thuốc bón tốt nhất cho cây. Trâu chính là tài sản nên rất được người dân chăm sóc rất chu đáo.
Hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiêu là trò như đọc sách, thổi sáo... Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ ko bao giờ quên được những ngày thơ ấu.
Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất ở Việt Nam. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn - một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người. Ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ “Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ” để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng. Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho “nhân khang, vật thịnh”.
Người vùng biển đã gửi gắm tinh thần và ý chí của mình vào những “kháp đấu” giữa các “ông trâu”. Mỗi "ông trâu" trên xới đấu thắng thua ra sao sẽ chứng tỏ tài năng của các ông chủ trâu, của phường xã mình. Như vậy các “kháp đấu” giữa những ông trâu đã trở thành nghệ thuật, có tính biểu tượng sinh động, thể hiện bản sắc văn hoá. Như vậy chọi trâu đã nói hộ tích cách của người dân vùng biển, nó đã được định hình từ lâu với nội dung phong phú gồm nhiều yếu tố văn hoá dân gian, lành mạnh kết tinh của cả một vùng văn hoá ven biển mà Đồ Sơn là trung tâm. Đây là một lễ hội độc đáo của người dân Đồ Sơn, nó gắn liền việc thờ cúng thuỷ thần với nghi lễ chọi và hiến sinh trâu, có cả sự giao thoa giữa những yếu tố văn hoá nông nghiệp đồng bằng với văn hoá cư dân ven biển.
Con trâu đã gắn bó với người những người nông dân Việt Nam. Nó không những mang lại cho những người nhân dân việt nam về mặt vật chất mà còn mang lại cả về mặt tinh thần. Con trâu còn gắn bó với những lễ hội tiêu biểu của người dân Việt Nam. Nó đã là biểu tượng của của làng quê việt nam và Đất nước Việt Nam.
Con trâu là hình ảnh gắn liền với làng quê Việt Nam, với những khóm tre, với đồng ruộng và với người nông dân chân lấm tay bùn. Từ bao đời nay, khi nhắc đến hình ảnh con trâu chúng ta lại nghĩ đến vai trò to lớn của nó đối với nông nghiệp Việt Nam, đó là biểu tượng của sự cần cù, chăm chỉ, chất phác của con người Việt Nam.
Cha ông ta vẫn truyền tai nhau rằng “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đối với những người nông dân quanh năm bán mặt cho đất bán lưng cho trời thì con trâu chính là gia tài đáng giá hơn cả. Về nguồn gốc xuất xứ của trâu tại Việt Nam có rất nhiều tài liệu, tuy nhiên chưa có một tài liệu nào chính xác nói đến sự ra đời của trâu là như thế nào. Tùy vào điều kiện thiên nhiên địa lí mà trâu ở mỗi vùng miền lại có những đặc tính sinh trưởng khác nhau. Ở Việt Nam khí hậu nhiệt đới gió mùa nên trâu có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, hay còn gọi là trâu đầm lầy. Trâu có hai loại: trâu đực và trâu cái. Chúng có đặc tính giống nhau nhưng về hình dáng, kích thước thì khác nhau một chút, tuy nhiên không đáng kể. Trâu đực thường to và cao hơn trâu cái, sừng to và dày hơn, đôi chân chắc nịch, lúc chạy rất nhanh. Đầu của trâu đực nó hơn trâu cái một chút.
Mỗi con trâu trưởng thành có khối lượng từ 200kg đến 500kg. Một đặc điểm rất dễ nhận dạng của trâu chính là không có hàm răng trên. Trâu thuộc động vật nhai lại, sức nhai của trâu rất bền. Sừng của một con trâu khá dài và có hình dáng giống như lưỡi liềm, rất chắc chắn nhưng cấu tạo bên trong đều rỗng tuếch. Chân của trâu rất chắc và ngắn, lúc bước đi thường chệnh choạng ra hai bên. Da của chúng cũng rất dày. Lông của trâu thường có màu đen, nhưng có một số con trâu có màu vàng nhạt, đó là do giống lai. Trâu là người bạn thân thiết của nhà nông, từ công việc cày bừa, kéo lúa, kéo ngô, chở hoa màu… đều đến “lượt” của nó. Sức trâu rất dẻo dai, nó có thể làm quần quật cả ngày không biết mệt. Thời tiết thay đổi có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trâu. Nên đến mùa hè người nông dân thường cho trâu ra ao tắm, vào mùa đông thì giữ ấm cho trâu bằng việc lót rơm rạ ở chuồng cho trâu nằm. Trâu là động vật sinh con và nuôi con bằng sữa, mỗi năm nó sẽ sinh ra một con nghé con.
Đối với người nông dân thì con trâu chính là cơ ngơi quan trọng. Bên cạnh đó trâu còn là con vật linh thiêng trong các lễ hội chọi trâu lớn. Thịt trâu cũng là một món đặc sản rất nổi tiếng. Sừng trâu, da trâu còn dùng để làm các trang sức, quần áo cho con người. Đặc biệt sự xuất hiện của trâu trong SEA Games 22 tại Việt Nam thực sự là biểu tượng, là niềm tự hào của nhân dân việt nam. Nó mang ý nghĩa biểu trưng cho sự cần cù, chăm chỉ, cần mẫn, hiền lành của người nông dân. Một hình đáng đáng trân trọng. Trâu cũng gắn liền với nhiều kỉ niệm tuổi thơ của trẻ em nông thôn, theo các em lớn lên từng ngày.
Thật vậy, mặc dù hiện nay xuất hiện nhiều loại máy móc, phương tiện hiện đại nhưng trâu vẫn luôn là hình ảnh không thể thay thế được của người nông dân. Nó luôn là người bạn đáng tin cậy và hiền lành nhất. Hơn hết nó chính là nét đẹp của con người Việt Nam.
Con trâu là đầu cơ nghiệp. Đó là những suy nghĩ và tình cảm của người nông dân dành cho con trâu yêu quý của mình. Con trâu là cánh tay phải của người nông dân. Từ bao đời nay, con trâu đã trở thành quen thuộc và gần gũi với xóm làng, đồng ruộng. Trâu là bạn nhà nông, được người nông dân nâng niu, chăm sóc.
Trâu thuộc lớp thú có vú, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa. Lông tơ màu sẫm hoặc đen, thỉnh thoảng có một số ít con màu trắng. Bộ lông tơ ấy dù mọc dày đến đâu chăng nữa thì vẫn bị thưa dần bởi ánh nắng và cái ách cày trên đồng ruộng, để rồi thấp thoáng trong lớp lông ấy là lớp da căng bóng, nhẵn lì. Thân hình trâu vạm vỡ, chân to và ngắn, bụng to, mông dốc, đầu vú nhỏ, đuôi tựa cái chổi luôn ngoe nguẩy, mắt to và lồi, sừng trâu cong hình lưỡi liềm, cũng có con sừng dài và cong vút. Người ta thường phân biệt trâu lành hay trâu dữ nhờ đôi sừng và cặp mắt. Sừng dài và cong cùng cặp mắt đỏ ngầu ở khóe thì thường là trâu dữ, cần phải có biện pháp thuần phục. Trâu cái thường nặng từ 350 - 400 kg, trâu đực thường nặng từ 400 - 450 kg, có con lên đến 600 - 700 kg.
Trâu ba tuổi đã có thể đẻ lứa đầu, có con đến bốn tuổi mới đẻ được. Trâu đẻ có mùa vụ. Tỷ lệ đẻ hằng năm ở vùng núi là 40 - 45%, ở đồng bằng là 20 - 25%. Một đời trâu cái thường cho 5 - 6 nghé, nghé sơ sinh nặng 20 - 25kg. Đôi răng cửa giữa cố định bắt đầu mọc lúc 3 tuổi, trâu kết thúc sinh trưởng khi hết 6 tuổi. Lúc đó, trâu đã có 8 răng cửa. Đặc điểm nổi bật ở trâu là chỉ có một hàm răng, vì vậy trâu phải nhai lại thức ăn. Trâu nuôi chủ yếu để kéo cày. Lực kéo trung bình trên ruộng từ 70 - 75kg, bằng 0,36 - 0,40 mã lực. Trâu loại A mỗi ngày cày 3 - 4 sào ruộng, trâu loại B mỗi ngày cày 2 - 3 sào, trâu loại c mỗi ngày cày độ 1,5 - 2 sào. Trâu không những giúp người nông dân kéo cày, kéo xe mà trâu còn cho thịt, cho sữa và cho phân. Trâu có thể cho 400 - 500kg sữa trong một chu kỳ vắt. Trong 24 giờ, trâu 2 răng cửa thải ra 10kg phân, trâu 4 răng cửa thải 12 - 15kg và trâu trưởng thành thải ra 20 - 25kg. Phân trâu là chất dinh dưỡng chủ yếu cho cây trồng.
Trâu thật có ích nên người nông dân luôn coi trâu là gia sản của mình. Chẳng phải nhà nông nói:
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Hết mùa vụ trâu được nghỉ ngơi, được con người chăn dắt, được hưởng phút thanh nhàn sau những ngày lam lũ. Người tắm mát cho trâu, máng rơm, máng nước luôn chực sẵn mỗi ngày. Chuồng trại của trâu ngày nay cũng được khang trang, rộng rãi. Không những thế, trâu được người đưa đi dự hội hè, dự hội chọi trâu trong dịp tết đến xuân về.
Trâu là biểu tượng của SEA Games 22 được tổ chức tại Việt Nam. Biểu tượng “trâu vàng” mặc quần áo cầu thủ đón các vận động viên của các nước bạn đến Việt Nam là sự tôn vinh trâu Việt Nam, tôn vinh người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam thật có ích, thật đáng yêu. Trâu còn là đề tài của thơ ca, nhạc họa:
Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có đường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
(Trần Nhân Tông)
Ngày nay, đất nước ta đang phát triển ngành trồng lúa, dẫu cho máy cày hay máy kéo hiện đại xuất hiện nhưng con trâu vẫn là con vật thiêng liêng trong sâu thẳm tâm hồn người nông dân Việt Nam.
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà kể công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”
Từ xa xưa, trâu đã là người bạn thân thiết, gắn bó với người nông dân. Ông cha ta thường nói: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, đủ hiểu trâu có vị trí như thế nào trong cuộc sống của con người.Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy, phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ hàng ngàn năm trước, trâu đã gắn bó với con người cùng với sự ra đời của nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ không những biết săn trâu mà còn thuần hóa trâu, lợi dụng sức khỏe của trâu để phụ giúp trong việc đồng áng.
Trâu là động vật thuộc lớp thú có vú. Thân hình của trâu trông vô cùng vạm vỡ. Lông trâu là lông mao, thường có màu đen. Da trâu rất dày và bóng loáng. Hai cái tai như hai cái lá đa, lúc nào cũng ve vẩy để đuổi ruồi, ngoài ra, tai trâu cũng rất thính, giúp trâu nghe ngóng được những tiếng động xung quanh. Mũi trâu ươn ướt, người ta thường luồn sợi dây vào mũi trâu để kéo đi cho dễ. Mắt trâu to tròn như hai hòn bi ve. Trâu cũng giống như bò, thuộc nhóm động vật nhai lại và chỉ có một hàm răng. Việc trâu chỉ có một hàm răng được người xưa lí giải qua câu chuyện “Trí khôn của ta đây”: vì trâu mải cười con hổ bị người nông dân lừa buộc vào gốc cây nên ngã lăn xuống đất, răng đập vào đã, gãy mất một hàm. Đuôi trâu ngắn, có một túm lông ở cuối. Hai cái sừng trên đầu uốn cong hình lưỡi liềm, giúp trâu tự vệ chống lại sự tấn công của kẻ thù. Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ 1-2 lứa, mỗi lứa một con. Trâu con mới sinh ra gọi là nghé.
Trâu có vị trí quan trọng trong cuộc sống của con người. Ngày trước chưa có máy cày, trâu thường phải làm việc nặng nhọc: “Con trâu đi trước, cái cày theo sau”. Trâu thức dậy từ sáng sớm tinh mơ khi chú gà trống báo thức, cùng người nông dân ra đồng làm việc. Trâu chăm chỉ, cần mẫn cày hết thửa ruộng này đến thửa ruộng khác, bất kể là sáng hay tối, nóng nực hay giá rét. Nhờ có trâu, người nông dân mới có thể thu được một mùa màng bội thu. Đến ngày gặt, trâu lại chở lúa từ ruộng về nhà. Tuy công việc vất cả là vậy nhưng thức ăn của trâu rất giản dị, chỉ là cỏ hoặc rơm. Trâu thường được nuôi để lấy sức kéo, ở miền núi, ngoài công việc đồng ruộng, trâu còn chở hàng hoặc kéo xe, giúp con người vượt qua những con đường trắc trở, những ngọn núi xa xôi. Vì thế, trâu chở thành một gia sản quan trọng của người nông dân. Chẳng phải ca dao đã từng nói:“Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà.Trong ba việc ấy, thật khó lắm thay.”
Thịt trâu cũng là một loại thức ăn giàu dinh dưỡng vì có hàm lượng đạm khá cao, chất béo thấp. Sừng trâu dùng làm đồ mĩ nghệ, da trâu làm mặt trống, giày. Không chỉ trong đời sống vật chất, trâu còn gắn bó trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Trâu trở thành hình ảnh tượng trưng cho người nông dân hiền lành, chăm chỉ, chịu khó. Ở nước ta hàng năm thường tổ chức lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn. Những chú trâu tham dự cuộc thi thường là những chú trâu to nhất, khỏe nhất, được chủ chăm sóc hết sức kĩ càng. Mỗi chú trâu phải chiến đấu với biết bao với đối thủ khác để đem lại vinh quang cho bản thân cũng như vinh dự cho chủ trâu. Ngoài chọi trâu ở Đồ Sơn, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên. Tuổi thơ của mỗi người cũng đâu thể thiếu hình ảnh con trâu dưới lũy tre làng- những chú trâu góp phần làm nên nét bình yên của làng quê. Nhà thơ Giang Nam từng viết trong bài thơ “Quê hương”:
“Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường,
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ.
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.”
Nhớ làm sao những buổi chăn trâu trên cánh đồng, cánh diều no gió vút cao trên trời xanh. Nhớ những ngày hè nóng nực, người và trâu cùng hòa mình trong dòng nước mát. Nhớ tiếng thổi sáo của cậu bé mục đồng khi dắt trâu về nhà lúc chiều tối. Trâu không chỉ đi vào ca dao, văn thơ mà còn là biểu tượng của SEA GAMES 22 được tổ chức tại Việt Nam, là hình ảnh tượng trưng cho con người Việt Nam chất phác, hiền lành, đôn hậu.Để chú trâu được khỏe mạnh, người nông dân cần chú ý làm chuồng cho trâu, ấm vào mùa đông, mát về mùa hè, thường xuyên vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, tiêm vắc-xin phòng ngừa các loại bệnh cho trâu.
Ngày nay, cuộc sống đổi mới, nhiều máy móc hiện đại thay thế cho sức kéo của trâu. Tuy vậy, trâu vẫn là một báu vật quý giá với người nông dân. Mỗi khi nhìn thấy hình ảnh chú trâu trên cánh đồng bao la bát ngát, chúng ta sẽ bất giác nghĩ tới quê hương đầy thanh bình, yêu dấu.
Nhắc đến con trâu chúng ta nghĩ ngay đến con vật to khỏe nhưng hiền lành chăm chỉ. Trên những cánh đồng chúng ta bắt gặp hình ảnh con trâu cần mẫn kéo cày. Có thể nói con trâu gắn bó thân thiết với người nông dân Việt Nam: con trâu – là động vật nhai lai thuộc họ bò, phân bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn, lớp thú có vú - loài động vật này chủ yếu vào việc cày kéo.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần chủng, thuộc nhóm trâu đầm lầy. Lông màu xám hoặc xám đen, thân hình vạm vỡ, thấp ngắn bụng to, mông đốc, bầu vú nhơ, sừng có hình lưỡi liềm. Ngày xưa, người ta phân biệt trâu lành hay trâu dữ là một phần nhờ vào đôi sừng trêm chỏm đầu: sừng dài, uốn cong hình lưỡi liềm cùng cặp mắt to dữ thì phải coi chừng và có biện pháp thuần phục. Nếu trâu cái trung bình từ 350-400 kg có tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt và hiền lành thì trâu đực nặng từ 400-450kg có tầm vóc lớn, cân đối, dài đòn trước cao sau thấp, tính khí hăng hái nhưng hiền lành.
Không chỉ có thế con trâu còn có 1 vị trí to lớn trong đời sống tinh thần của con người Việt Nam. Hình ảnh con trâu đi trước cái cày đi sau đã trở thành hình ảnh gần gũi bao đời nay. Chính vì vậy nó là 1 một phần không thể thiếu của người nông dân. Hình ảnh con trâu ung dung gặm cỏ non, xanh mát và trên trời là những cánh diều bay cao giữa không trung đã in sâu trong tâm trí người Việt Nam. Chăn trâu thả diều là một trong những trò chơi của trẻ em nông thôn, một thú vui đầy lý thú. Trên lưng trâu còn có bao nhiu là trò như đọc sách, thổi sáo... Những đứa trẻ đó lớn dần lên, mỗi người mỗi khác nhưng sẽ không bao giờ quên được những ngày thơ ấu:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta,
Cái cày nối nghiệp nông gia,
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Ngoài ra trâu con gắn liền với những lễ hội truyền thống như chọi trâu đâm trâu. Lễ hội chọi trâu ở Hải Phòng là nổi tiếng nhất. Hải Phòng là vùng đất có truyền thống văn hoá với nhiều di tích lịch sử và danh thắng mang đặc trưng của miền biển. Trong những di sản văn hoá ấy, nổi bật là lễ hội chọi trâu Đồ Sơn - một lễ hội mang đậm bản sắc văn hoá dân tộc. Lễ hội nói chung là một sinh hoạt văn hoá, tôn giáo, nghệ thuật truyền thống phản ánh cuộc sống vật chất và tâm linh của một cộng đồng trong quá khứ. Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được khôi phục lại hơn 10 năm nay và được Nhà nước xác định là 1 trong 15 lễ hội quốc gia, bởi lễ hội này không chỉ có giá trị văn hoá, tín ngưỡng, độc đáo mà còn là điểm du lịch hấp dẫn với mọi người.
Con trâu cũng có mặt trong lễ hội đình đám Việt Nam như tục chọi trâu ở Đồ Sơn (Hải Phòng), tục đâm trâu ở Tây Nguyên, nhưng từ lâu lắm rồi người Đồ Sơn đã lưu truyền câu ca dao cổ:
"Dù ai buôn đâu, bán đâu
Mồng chín tháng tám chọi trâu thì về
Dù ai bận rộn trăm bề
Mồng chín tháng tám nhớ về chọi trâu"
Cũng có nhiều ý kiến về nguồn gốc ra đời của lễ hội chọi trâu đưa ra những căn cứ giải thích khác nhau, nhưng ở Đồ Sơn vẫn có câu thành ngữ "Trống mọi làng cùng đánh, thánh mọi làng cùng thờ" để lập luận Hội chọi trâu ra đời cùng với việc trở thành hoàng làng. Không những thế để nói lên sự sung túc, thành công của nhà nông có câu: "Ruộng sâu, trâu nái". Tìm hiểu nguồn gốc ấy để thấy rằng lễ hội chọi trâu có một ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống người Đồ Sơn từ xưa tới nay. Ngoài nhu cầu vui chơi, tìm hiểu, qua lễ hội người ta tưởng nhớ đến công ơn của các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã, để cầu nguyện cho "nhân khang, vật thịnh".
Chọi trâu không chỉ đơn thuần "hai con trâu chọi" mà nó đã trở thành tục lệ, tín ngưỡng độc đáo ở vùng biển Đồ Sơn. Người dân đặt vào lễ hội niềm tin và hy vọng bởi những cặp trâu chọi sẽ quyết định thắng thua, thành bại cho phe giáp ngày trước, phường xã ngày nay. Người Đồ Sơn gắn lễ hội chọi trâu với việc thờ cúng thành hoàng làng với mong muốn những chuyến đi biển thuận buồm xuôi gió, cho nên ngày Hội càng trở nên thiêng liêng, trang trọng. Vào Hội, mọi người được dịp hoà mình vào cộng đồng để tình cảm kết nối bền chặt, gắn bó hơn. Vì thế mà tinh thần đoàn kết, ý thực cộng đồng cũng được duy trì, khẳng định.
Con trâu được xem là một con vật linh thiêng bởi vì nó nằm trong mười hai con giáp mà người Việt Nam cũng như người phương Đông dùng để tính tuổi, tính năm. Ngoài ra, con trâu còn được đưa vào nhiều bức tranh của làng tranh Đông Hồ nổi tiếng như bức tranh "Trẻ em cưỡi trâu thổi sáo". Và con trâu cũng đã được xem là biểu tượng của Seagames 22. Đông Nam Á tổ chức tại Việt Nam. Biểu tượng Trâu Vàng mặc quần áo cầu thủ đón các vận động viên của các nước bạn vào ngày 25/12/2002 là sự tôn vinh con trâu Việt Nam người dân Việt Nam.Con vật thiêng này cũng là con vật đã in đậm vào kí ức tuổi thơ khi nhớ về làng quê. Nhà thơ Giang Nam đã ghi nhận kí ức tuổi thơ khi nhớ về quê hương:
"Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng như chim hót trên cao."
Ngày nay, có rất nhiều máy móc hiện đại đã xuất hiện khắp nơi trên cánh đồng làng quê Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật gắn bó thân thiết với người nông dân. Trâu luôn là con vật không thể thiếu ở làng quê Việt Nam - con vật linh thiêng trong sâu thẳm tâm hồn người dân Việt Nam. Con vật thiêng ấy sẽ mãi mãi in đậm trang kí ức của người dân Việt, nhất là những người xa xứ.
Từ bao đời nay, nước ta có truyền thống làm nông và nền văn minh lúa nước phát triển. Để làm được điều này chúng ta phải lao động cật lực và nặng nhọc. Con trâu – người bạn thân thiết cùng chia ngọt sẻ bùi với người nông dân, cùng người nông dân đi khắp cánh đồng để xới đất đai, cùng chung vui niềm vui ngày được mùa. Con vật này đã trở thành thân thuộc và không thể thiếu ở làng quê Việt Nam.
Không ai biết chính xác nguồn gốc của loài trâu ngày nay. Người ta chỉ biết trâu xuất hiện nhiều ở những nước châu Á như Pa-xki-tan, Băng-la-đét, Nê-pa, Thái Lan, ... Và đặc biệt ở Việt Nam người ta tìm thấy di tích hóa thạch của trâu cách đây vài chục triệu năm ở các hang động miền Bắc nước ta. Trâu theo khoa học thuộc lớp Mammalia, ngành Chordata, họ bò, bộ nhai lại, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn. Đa số trâu Việt Nam hiện nay có nguồn gốc là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy.
Trâu được phân loại theo giống đực và giống cái. Con đực tầm vóc lớn, dài đòn, trước cao, sau thấp. Con cái tầm vóc từ vừa đến to, linh hoạt. Đặc tính chung của trâu là hiền lành, thân thiện nên chúng được nuôi phổ biến ở khắp các tỉnh thành trong cả nước. Trung bình một con trâu trưởng thành có thể nặng từ 250 – 500kg. Cân nặng của trâu tùy thuộc vào giới tính và sức khỏe. Các bộ phận của trâu được chia thành các phần: đầu, cổ, thân, chân, đuôi và da. Đầu trâu đực dài, to vừa phải, trâu cái đầu thanh, dài. Trán rộng, phẳng, hơi gồ. Da mặt rất khô, nổi rõ mạch máu. Mắt to tròn, tròng đen láy lanh lẹ, mí mắt mỏng; mũi kín, bóng, ướt. Miệng trâu rộng, răng đều khít, không sứt mẻ.
Điểm đặc biệt của trâu là hàm trên không có răng mà chỉ có một miếng đệm rất dai, dẻo phù hợp với đặc tính nhai lại, ăn thực vật. Hai tai trâu nhỏ vừa có thể cử động, phủ một lớp lông mềm bảo vệ tai khỏi côn trùng chui vào. Sừng trâu thanh, đen, cân đối, ngấn sừng đều, rỗng ruột. Phần cổ và thân trâu có những đặc điểm sau: cổ dài vừa phải; ức rộng, sâu, lưng dài từ 1 – 1,5m hơi cong; xương sườn to, tròn, cong đều; bụng tròn lẳng; mông nở rộng, to. Chân trâu rất khỏe, vững chắc để đỡ cả thân người, bốn chân thẳng to, gân guốc. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng. Bàn chân thẳng, ngắn, vừa phải. Hai đùi sau to dài, bàn chân sau xuôi, ngắn.
Bốn móng rất cứng, khít tròn, đen bóng và chắc chắn. Đuôi trâu to, dài, phần đuôi có túm lông lúc nào cũng phe phẩy để đuổi ruồi, muỗi. Da trâu hơi mỏng nhưng bóng láng, màu xám đen. Lông đen, cứng, sát vào da giúp điều hòa nhiệt độ trong những trưa hè oi bức ở vùng nhiệt đới. Nhìn chung, trâu có thân hình khỏe khoắn, thích hợp với công việc đồng áng cực nhọc.Nhờ có sức khỏe tốt, trâu có thể làm việc cả ngày từ sáng sớm đến chiều tối. Một con trâu trung bình có thể kéo được 3 – 4 sào ruộng. Trâu cũng có khả năng chịu đựng thời tiết cao. Dù phải cày dưới nắng gắt hay mưa tuôn, trâu vẫn kiên trì cùng người nông dân đội nắng, gió để cày cho mảnh ruộng được tốt tươi.
Để nuôi trâu cũng không khó lắm. Đối với một con trâu cày từ sáng đến chiều thì nên cho ăn ba bữa chính: sáng sớm, trưa, tối. Cỏ là thức ăn chính của trâu nên vào mùa xuân hạ ta có thể tự tìm được dễ dàng trên đồi cỏ, hay bãi cỏ xanh tốt cho trâu ăn. Nhưng đối với những ngày đông rét mướt (nhất là ở Bắc Bộ) nhiệt độ xuống tới 7 – 10oC thì có không thể mọc được. Cho nên, tốt nhất là ta phải dự trữ cỏ khô cho trâu bằng cách ủ xanh, lên men, không chỉ giữ cỏ tươi lâu mà còn bổ sung được hệ vi sinh cho đường ruột giúp hệ tiêu hóa của trâu được tốt hơn. Sau khi đi làm đồng về, ta không nên cho trâu ăn ngay mà để cho trâu nghỉ ngơi, tắm rửa sạch sẽ.
Khoảng 30 phút sau khi nghỉ ngơi, ta cho trâu uống nước có pha muối (nồng độ nuối khoảng 10g trên 100kg trọng lượng trâu). Sau đó, ta mới cho trâu ăn. Hằng ngày, phải cung cấp đủ lượng nước cho trâu (40 lít nước/1con/1 ngày). Muốn trâu luôn khỏe để làm việc cần phải có chế độ chăm sóc phù hợp. Sau mỗi buổi cày phải xoa bóp vai cày. Tắm mỗi ngày sau 30 phút làm việc để điều hòa nhiệt độ cơ thể của trâu. Trong một buổi cày, cần cho trâu nghỉ 3 – 5 lần, mỗi lần khoảng 20 – 30 phút, tránh để trâu làm việc không hiệu quả cao. Nếu cho trâu làm việc cả tuần thì phải để trâu nghỉ một ngày không nên để trâu làm việc quá nhiều ảnh hưởng đến sức khỏe dẫn đến suy yếu. Quá trình làm việc mà thấy sức trâu sụt giảm thì phải để trâu nghỉ 3 – 5 ngày cho lại sức, bồi dưỡng thêm bằng cỏ tươi, cám cháo.
Trâu có rất nhiều lợi ích. Sức kéo khỏe giúp cày bừa, trục lúa, kéo xe. Trâu còn cho thịt, sữa, da và sừng. Thịt trâu ăn rất ngon, nhiều đạm hơn cả thịt bò, ít mỡ hơn thịt bò và giàu năng lượng. Sữa trâu giúp bồi bổ sức khỏe, tăng cường sinh lực. Da trâu làm thắt lưng rất bền và đẹp. Sừng làm lược, đồ thủ công mĩ nghệ rất bóng, đẹp được ưa chuộng trên thị trường trong và ngoài nước.Ngoài ra, trâu còn gắn liền với nhiều phong tục truyền thống của người Việt Nam ta như: dùng làm sính lễ, cưới hỏi, hội chọi trâu ở Đồ Sơn, ... Trâu còn là niềm tự hào của người dân Việt Nam, được trở thành biểu tượng của SEAGAME 22. Hình ảnh của trâu còn đầy ắp trong kỉ niệm tuổi thơ của những chú bé mục đồng. Những buổi chiều ngả lưng trên lưng trâu, thả hồn theo cánh diều trên lưng trâu, những hôm tắm sông cùng trâu trên dòng sông quê hương đỏ nặng phù sa... sẽ là những kỉ niệm đẹp, sâu đậm trong tâm hồn trẻ thơ.
Ngày nay, máy móc công nghiệp, công nghệ hiện đại đã thay thế cho trâu nhưng trâu vẫn mãi là con vật hiền lành, gần gũi của người nông dân. Trong tâm hồn người Việt, không có gì có thể thay thế cho con trâu dù cho nông nghiệp có tiến bộ thế nào, máy móc đã thay thế cho trâu hoàn toàn. Nếu một ngày trên đồng quê Việt Nam không còn hình ảnh của những chú trâu cày đồng thì nét đẹp của làng quê Việt không còn trọn vẹn nữa.
“Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày nợ cấy con trâu đi bừa.”
Bao đời nay, hình ảnh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp, ngắn. Bụng to. Da dày màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt mà bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm. Điều đặc biệt ở trâu má không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc họ nhai lại.Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ. khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày. nhựa sống căng tràn trong từng bước đi vững chắc nhưng chậm chạp của trâu
Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 - 75kg, tương đương 0,36 - 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3-4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 - 3 sào và loại c 1,5- 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng; trên đường xấu tải trọng là 400 - 500 kg, đường tốt là 700 800 kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5 – lm khối gỗ trên quãng đường 3 - 5km. Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất giản dị, chỉ là rơm hoặc cỏ.Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và...Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu đã có mặt trong 12 con giáp. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường chăm chỉ cần cù, thậm chí vất vả. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ hội cơm mới, lễ hội xuống đồng.
Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Những chú trâu được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo. Con nào con nấy vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ chỉ chờ vào sân đấu. Trong tiếng trống giục giả, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Ngoài ra, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu. Đây là phong tục tập quán của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt chia đều cho các gia đình trong buôn làng cùng liên hoan mừng một vụ mùa bội thu.
Hình ảnh con trâu còn in đậm trong kí ức của những đứa trẻ vùng quê. Chắc không ai quên Đinh Bộ Lĩnh, người làm nên kì tích thống lĩnh 12 sứ quân, đã có một tuổi thơ gắn bó với chú trâu trong trò đánh trận giả hay trò đua trâu đầy kịch tính. Chắc mỗi chúng ta đều có lần bắt gặp những hình ảnh rất đặc trưng, rất nên thơ của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đọc sách hay hình ảnh chú cũng đang ngồi trên lưng trâu nghiêng nghiêng cái đầu trái đào với cây sáo trúc... Những hình ảnh tuyệt vời đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những nghệ nhân làng tranh Đông Hồ và cũng là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.”
Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Với hình ảnh “trâu vàng” trong SEA GAMES 22, trâu không chỉ là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy maratong, trâu đội nón... rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Ngày nay, nhiều loại máy móc hiện đại đã xuất hiện trên cánh đồng làng Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật không thể thiếu đối với người nông dân. Hình ảnh con trâu cần cù, chung thủy mãi mãi in sâu trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”
Câu ca dao đã trở thành một lời ru quen thuộc, đi vào tiềm thức mỗi chúng ta từ ngày tấm bé. Hình ảnh gắn bó giữa người và trâu cũng từ đó mà mặc định không biến đổi. Đối với truyền thống nền văn minh lúa nước của nước ta, hình ảnh con trâu sớm đã trở thành biểu tượng của người nông dân Việt Nam.
Trâu có hai loại: trâu đực và trâu cái và là động vật nhai lại. Một đặc điểm khá dễ nhận ra của trâu, đó là nó không có hàm răng trên. Tấm thân của trâu rất chắc chắn, thân hình vạm vỡ nhưng thấp. Bụng to. Da của nó màu đen, rất dai nhưng được phủ bởi một lớp lông mềm bên ngoài nên có cảm giác rất mượt mà. Mũi trâu lớn, miệng trâu rộng, sừng có hình lưỡi liềm. Cân nặng trung bình của trâu cái là từ 350-400 kg thì trâu đực nặng từ 400-450kg. Bước đi của trâu chậm chạp nhưng chắc chắn. Cái đuôi luôn phe phẩy mọi lúc như để đánh động những chú ruồi không mời mà tới. Vì thưởng làm việc liên tục trên ruộng nên trau có thói quen ợ lên nhai lại. Khi chúng có thời gian ăn cỏ, chúng thưởng nhai qua loa để tích trữ càng nhiều thức ăn càng tốt cho những khi phải làm việc liên miên. Đó là lí do trâu có thể làm cả ngày mà không cần dừng lại nghỉ.
Với một ngoại hình như vậy, trâu là loài động vật rất khỏe và chịu khó. Xuất phát từ nền văn minh lúa nước, mảnh ruộng cày đã gắn chặt với đời sống bao nhiêu năm lao động của người dân Việt Nam. Công việc đồng áng vất vả kia tuy nặng nhọc, một nắng hai sương, vất vả vô cùng nhưng những người nông dân luôn có “người bạn cần mẫn” của mình là chú trâu luôn bên cạnh giúp đỡ, chăm chỉ cùng làm lụng. Dù ngày nắng hay ngày mưa, dù có gian lao vất vả, chỉ cần người cần đến, trâu sẵn sàng không quản ngại gian lao để cùng con người cầy cấy thửa ruộng, đem lại sự no ấm, yên tâm cho cả gia đình. Nên nông dân ta vẫn luôn có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Còn trâu thì có cần gì ngoài được con người cho ít ngọn cỏ ngoài đồng cùng một nơi để trú ngụ qua đêm. Đó là những ngày bận rộn với công việc đồng áng, còn những ngày nông nhàn, trâu lại làm bạn với tiếng sáo, với cánh diều mộng mơ của trẻ mục đồng trên những bãi cỏ rộng ngập nắng và gió. Những chú bé vắt vẻo trên lưng trâu đùa nghịch mà tạo nên những kỉ niệm tuổi thơ với cuộc sống làng quê khó quên đến tận những năm tháng về sau.
Là một loài động vật có sức lao động và trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm, chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và, ... Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Những chú trâu đã được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo từ lâu để chuẩn bị cho ngày hội hôm ấy. Con nào con nấy cũng vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ trông hung dũng oai phong chỉ chờ vào sân đấu.
Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Chắc hẳn mọi người vẫn còn nhớ rõ hình ảnh “trâu vàng” trong SEA GAMES 22, trâu không chỉ là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy maratong, trâu đội nón... rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lề hội cơm mới, lễ hội xuống đồng. Tất cả đều chứng tỏ từ xa xưa đến nay, trâu vẫn gắn liền với đời sống của dân tộc trong mọi mặt kể từ cuộc sống đời thường đến lao động, văn hóa, phong tục, đã trở thành một phần không thể thiếu trong bản sắc dân tộc.
Mang những giá trị to lớn về mọi mặt của đời sống nhân dân, con trâu đã trở thành một “nhân vật” không thể thiếu và xứng đáng để con người có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và quý trọng chúng.Cho dù trong cuộc sống hiện đại ngày nay, rất nhiều loại máy móc xuất hiện thay thế vai trò của trâu trong lao động, sản xuất nhưng hình ảnh và ý nghĩa của con trâu luôn là một phần nếp sống tinh thần không thể thiếu của mỗi người nông dân đất Việt
Khắp các làng quê Việt Nam trong mỗi vụ mùa chúng ta lại thấy bóng dáng của những chú trâu chăm chỉ làm việc trên những cánh đồng. Những con trâu đã giúp cho công việc cấy cầy ở mỗi vụ mùa của các bác nông dân được dễ dàng hơn. Trâu không chỉ gánh vác một phần không nhỏ vào việc đồng áng mà trâu còn đem lại rất nhiều lợi ích về mặt vật chất và tinh thần cho người nông dân ở các làng quê Việt Nam.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hoá thuộc nhóm trâu đầm lầy. Lông màu xám đen, thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn, bụng to, bầu vú nhỏ, sừng hình lưỡi liềm. Có hai đai màu trắng dưới cổ và chỗ đầu xương ức. Trâu cái nặng trung bình 350 - 400 kg (300 - 600kg) trâu đực: 400 - 450kg (350 - 700kg).... Vậy vị trí và vai trò của con trâu đã được coi là thứ hàng đầu của cơ nghiệp, hồi đó người ta chỉ cần xem nhà nào có nhiều trâu hay ít trâu là đủ để biết được gia cảnh của họ như thế nào. Đến tận bây giờ con trâu cũng vẫn được coi là thứ quý giá của người nông dân. Nó đem lại nhiều lợi ích về mặt vật chất.
Chúng sinh trưởng rất nhanh, trâu 3 tuổi có thể đẻ lứa đầu. Trong đàn trâu cái, trâu 4 tuổi đẻ lứa đầu chiếm 45 - 47%. Trâu đẻ có mùa vụ. Tỉ lệ đẻ hằng năm ở vùng núi là 40 - 45%, ở đồng bằng là 20 - 25%. Một đời trâu cái thường cho 5-6 nghé, nghé sơ sinh nặng 22 - 25kg. Đôi răng cửa giữa cố định bắt đầu mọc lúc 3 tuổi và trâu kết thúc sinh trưởng khi hết 6 tuổi (8 răng cửa). Do trâu sinh trưởng nhanh và nhiều nên đem lại một phần lợi về kinh tế không nhỏ cho người nông dân. Một con trâu trưởng thành khoảng 4-5 triệu đồng.
Trâu không chỉ để bán mà nó còn được nuôi để kéo cày: lực kéo trung bình trên ruộng 70 - 75 kg bằng 0,36 - 0,40 mã lực. Trâu loại A một ngày cày 3-4 sào; loại B: 2 - 3 sào và loại C: 1,5 - 2 sào bắc bộ, kéo xe ở đường xấu tải trọng 400 - 500 kg, đường đồi núi thường một trâu kéo 0,5 - l,3m3 với đoạn đường 3 - 5km. Bởi trâu có sức mạnh và rất chăm chỉ nên dùng trâu để chở hàng và chở gỗ cùng đem lại rất nhiều nguồn lợi về kinh tế. Trâu còn có khả năng cho thịt rất cao: trâu cái có tỉ lệ xẻ thịt là 42%. Trâu thiến là 45% và trâu đực 2 tuổi là 48%. Khả năng cho sữa 400 - 500 lít sữa trong một chu kì vắt. Mỡ sữa 9 - 10%. Đem bán thịt trâu cũng giúp cho người nông dân một khoản thu lớn. Người nông dân thường trồng xen cả những cây ăn quả, thức bón tốt nhất cho cây là phân ủ xanh. Trâu có khả năng cho phân cao: trong 24 giờ trâu 2 răng thải ra 10 kg phân, trâu 4 răng 12 kg và trâu trưởng thành 20 - 25kg. Chính vì khả năng cho phân cao như vậy nên người nông dân không phải mua phân bón và tiết kiệm được một số tiền không nhỏ. Trâu còn dùng cung cấp nguyên liệu làm đồ mĩ nghệ, thuộc da làm trống...
Con trâu gắn bó với đời sống tinh thần của người nông dân như thế nào? Ai đã từng sống ở nông thôn đều đã từng gắn bó một phần tuổi thơ của mình với những cánh đồng lộng gió, với những cánh diều cao vút và đặc biệt là với những con trâu. Tôi tuy là người sống ở thị xã nhưng mỗi khi về quê vừa đến đầu làng đi ngang qua cánh đồng tôi đã thấy những tiếng cười đùa vui vẻ của những đứa trẻ trong làng. Chúng tụ tập thành một hội cùng cưỡi trâu thả diều, những cánh diều bay lên tận trời cao. Tuy cuộc sống của bọn trẻ có khó khăn nhưng nhờ những con trâu cánh đồng và những con diều cũng đủ làm chúng rất đỗi vui vẻ. Tuy cuộc sống của tôi có ổn định hơn những bạn trẻ ở làng quê nhưng hiếm khi tôi có được những giây phút vui vẻ đến như vậy. Cả tuổi thơ của trẻ em nông thôn gắn liền với những tình cảm yêu quý, gắn bó với những con trâu.
Không chỉ có gắn bó với tuổi thơ của trẻ em mà chúng còn không thể thiếu trong các lễ hội như lễ hội chọi trâu Đồ Sơn... Các làng quê vẫn còn những phong tục tập quán gắn với con trâu, ở các dân tộc miền núi vẫn còn phong tục đua trâu. Người và trâu chiến thắng sẽ được chức vô địch. Trâu rất vinh dự được làm biểu tượng cho SEA GAMES 22 tổ chức tại Việt Nam là ngày hội thể thao lớn của khu vực.
Con trâu gắn bó với người nông dân Việt Nam với các làng quê. Bấy nhiêu đã đủ để mọi người hiểu được tầm quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân Việt Nam của con trâu. Nó xứng đáng là biểu tượng tượng trưng cho làng quê Việt Nam và là niềm tự hào của một Việt Nam cường tráng.
Từ xưa đến nay, ai ai cũng quen với hình ảnh của con trâu, đặc biệt là với những người ở nông thôn Việt Nam. Nó gắn bó rất sâu sắc từ thế hệ trước rồi đến thế hệ sau. Nó là người bạn của nhà nông, người bạn của những đứa trẻ, là con vật thân thuộc của mọi gia đình ở nông thôn Việt Nam.
Trâu ơi ta bảo trâu này!
Trâu ra đồng ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Trâu đây, ta đấy, ai mà quản công.
Hình ảnh của con trâu đã được đưa vào cả ca dao. Để khắc hoạ hình ảnh con trâu rất gần gũi thân thuộc với chúng ta, với lời lẽ thiết tha, ân cần con người đã gọi trâu như một người bạn chứ không còn coi trâu như là loài vật nữa. Khoảng cách giữa người và loài vật bây giờ rất gần vì trâu là bạn của nhà nông chúng ta. Nó đã dùng sức lực của mình để giúp con người làm ra lúa gạo nuôi sống con người. Từ xa xưa khi không có công cụ để cày ruộng thì trâu đã giúp con người đó là làm công cụ để cày, để gieo hạt trồng cây. Ca dao nói Con trâu là đầu cơ nghiệp chứng tỏ tầm quan trọng cùa nó với con người. Trong thời kì khó khăn nông thôn Việt Nam đã có lệ là nhìn thấy nhà nào có bao nhiêu trâu thì sẽ biết được nhà ấy khá giả hay nghèo nàn.
Trong truyện ngắn Lão Am, trâu không những có một vị trí quan trọng trong công việc mà còn có một vị trí quan trọng trong lòng lão. Lão coi trâu như người bạn đời của lão; lão chăm sóc, tắm rửa, bắt rận cho nó, tâm sự với nó khi con lão bảo bán thì lão rất đau khổ, cảm thấy lòng trĩu nặng, buồn bã. Như vậy hình ảnh của con trâu còn có vị trí quan trọng trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Có thể nói bây giờ và mãi mãi sau này người nông dân của chúng ta sẽ nhớ tới công sức của trâu với con người. Bên cạnh đó, trâu còn cho ta những đồ vật quý giá như hàng tiêu dùng, thủ công mĩ nghệ... Vậy nên trâu không chỉ là một phần quan trọng của nhà nông mà còn là một phần quan trọng trong đời sống của tất cả mọi người.
Trâu đã gắn bó với người dân để giúp cày ruộng nhưng nó còn gắn bó với cả những đứa trẻ chăn trâu thời tuổi thơ của chúng. Tuy cuộc sống của tôi ở thành phố nhưng đến dịp hè vào năm tôi lên bảy, bố đã cho tôi về thăm quê nội. Khi đó, hình ảnh mọi thứ trong tôi vẫn còn mờ nhạt nhưng chỉ hình ảnh của chú trâu là làm tôi nhớ mãi. Đó là, chiều chiều khi đã tắt nắng, những đứa trẻ trong làng lần lượt dắt trâu ra bãi cỏ cuối làng để cho chúng ăn. Những con trâu to lớn từng hàng từng hàng thong thả gặm cỏ. Trông chúng ăn thật ngon lành; những bãi cỏ xanh mượt được dành cho riêng mình, chúng có vẻ rất khoái chí. Còn bọn trẻ chăn trâu thì ngồi trên lưng chúng thổi sáo, sáo véo von như làm bản nhạc để trâu gặm cỏ. Thật là hay! Những bờ đê, bải cỏ đã in dấu chân của bọn trẻ cũng như dấu chân của những chú trâu. Mỗi khi chiều về tôi thường ra bờ đê để chơi cùng chúng.
Có khi chúng tôi còn đánh trận giả, trâu tuy là một con vật nhưng nó luôn sát cánh trong những buổi chơi của bọn chăn trâu. Khi thấy trâu luôn là người bạn thân thiết của bọn trẻ con chúng tôi thì tôi chợt ao ước giá như trâu mãi mãi được ở bên cạnh tôi. Rồi có những buổi, khi trời đã tắt nắng lũ trẻ chúng tôi đã nhảy xuống sông tắm cùng trâu. Những lúc ấy người bạn trâu của chúng tôi tỏ vẻ rất thích thú, vẫy vùng cả một đoạn sông; ánh mắt của trâu lúc ấy như muốn nói lời cảm ơn với chúng tôi vậy. Kết thúc ngày hè, khi về tới nhà, tôi đã ghi lại những ngày vui vẻ với những tiếng cười giòn giã ấy vào trang nhật kí của tôi.
Qua tìm hiểu, tôi được biết trâu không những thân thiết với tuổi thơ chúng tôi mà còn có trong những phong tục tập quán, những lễ hội của người Việt. Khi có những ngày hội cha ông ta đã giết trâu để ăn mừng hoặc tạ ơn thần linh đã ban cho vụ mùa bội thu. Vào những ngày hè đẹp trời, ở làng tôi còn tổ chức hội chọi trâu. Không khí tưng bừng của hội thi đã giúp cho con người sảng khoái sau những ngày mùa vất vả. Tuy không được sống và gắn bó với trâu nhiều nhưng tôi vẫn cảm thấy trâu rất có ý nghĩa và thân thiết với tôi và với mọi nhà. Trâu là một người bạn đem lại cho con người biết bao nhiêu niềm vui, bổ ích, những tiếng cười sảng khoái trong tuổi thơ êm đềm của tôi. Qua đây tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới trâu ở làng quê Việt Nam.
Tôi đã có những ngày được vui chơi cùng với trâu. Tôi nhận nó đã mang cho con người biết bao điều bổ ích về cả đời sống vật chất và tinh thần, bởi vậy mỗi chúng ta cần biết yêu thương và chăm sóc nó một cách trân trọng nhất.
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”
Nước ta vốn là quốc gia có nền văn minh lúa nước lâu đời. Chính vì thế, từ rất lâu trước kia, con trâu đã trở thành người bạn thân thiết, quen thuộc trong cuộc sống của nhân dân ta.
Trâu có nguồn gốc từ trâu rừng, nhiều thế kỉ sau được thuần hóa, trở nên hiền lành hơn. Trâu nước ta thuộc nhóm trâu đầm lầy, phân bố rộng rãi khắp cả nước. Trâu gắn liền với sự ra đời của nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ không những biết săn trâu mà còn thuần hóa nó, sử dụng sức khỏe của chúng trong việc đồng áng.
Trâu thược lớp thú có vú, chia thành trâu đực và trâu cái. Chúng sở hữu một thân hình vô cùng vạm vỡ. Cân nặng trung bình của trâu cái là từ 350-400 kg thì trâu đực nặng từ 400-450kg. Da nó màu đen, dày, bóng loáng và được phủ bởi một lớp lông mềm bên ngoài gọi là lông mao nên có cảm giác rất mượt mà. Hai cái tai trâu to như hai cái lá đa, lúc nào cũng ve vẩy đuổi ruồi. Tai trâu rất thính, giúp nó nghe rõ mọi động tĩnh xung quanh. Mũi trâu to, miệng trâu rộng, sừng có hình lưỡi liềm. Mắt trâu to tròn như hai hòn bi ve. Giống như bò, trâu thuộc nhóm động vật nhai lại, miệng chỉ có hàm răng dưới. Đuôi trâu ngắn, có một túm lông ở cuối lúc nào cũng phe phẩy. Cái bụng nó rất to chống đỡ bởi bốn chân. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng. Bàn chân ngắn, vừa phải. Hai đùi sau to dài, bàn chân sau xuôi, ngắn. Bốn móng rất cứng, khít tròn, đen bóng và chắc chắn. Mỗi năm trâu chỉ đẻ từ 1 đến 2 lứa, mỗi lứa một con, Trâu con mới sinh ra gọi là nghé.
Trâu trong đời sống con người có giá trị rất lớn. Trâu là người bạn thân thiết của nhà nông, quanh năm suốt tháng trâu vất vả quần quật cùng con người, kéo cày, kéo bừa,... “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, khi khoa học còn chưa phát triển, trâu chính là cơ nghiệp của mỗi nhà nông. Người nông dân khi ấy nếu thiếu đi con trâu thì sẽ không thể cấy cày, trồng lúa. Dù ngày nắng hay ngày mưa, chỉ cần người cần đến, trâu sẵn sàng cùng con người cầy cấy thửa ruộng, đem lại sự no ấm cho cả gia đình.
Đồng thời, trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu cung cấp chất đạm, chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu có thể làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và,..
Trong đời sống tinh thần, trâu là một trong 12 con giáp, gọi là “sửu”. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường chăm chỉ cần cù. Trâu là con vật thiêng liêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ cơm mới, lễ xuống đồng. Trâu đi vào ca dao, tục ngữ, trở thành hình tượng trong thơ ca, phản ánh lịch sử phát triển của nền văn minh lúa nước quê hương.
Chọi trâu là một trong những lễ hội nổi tiếng ở nước ta mỗi dịp xuân về, đặc biệt là lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Hình ảnh “trâu vàng” trong SEA GAMES 22 chính là niềm tự hào của đất nước ta trước bạn bè thế giới. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Hình ảnh những chú bé vắt vẻo trên lưng trâu đã trở thành một biểu tượng của làng quê Việt Nam. Trâu trở thành một phần tuổi thơ của biết bao người cùng tiếng sáo diều du dương.
Năm tháng qua đi, dù trong cuộc sống hiện đại ngày nay, rất nhiều loại máy móc đã xuất hiện thay thế vai trò của trâu trong lao động nhưng con trâu mãi là loài vật gắn bó với con người Việt Nam. Trâu trở thành một nét đẹp văn hóa, mang bản sắc dân tộc, là niềm tự hào của nhân dân ta. Để rồi bao năm trôi đi chăng nữa, người ta mãi ngân nga:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.”
Tuổi thơ tôi được lớn lên trong tiếng hát à ơi của bà, của mẹ. Những câu hát ru ngọt ngào ấy chứa tất cả hình ảnh thân thuộc của quê hương, đó là những cánh cò bay lả, những ruộng đồng bao la hay những con trâu chăm chỉ đều được kết thành lời hát ngọt ngào, đầy yêu thương. Nhưng để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất có lẽ là hình ảnh về con trâu - hình ảnh thân thuộc của mỗi làng quê Việt Nam.
Trâu không phải là loài động vật xa lạ với mỗi người nông dân. Trâu có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc giống trâu đầm lầy. Khoảng 5000 - 6000 năm trước, trâu được thuần hóa cùng với sự ra đời của nền văn minh lúa nước. Ông cha ta từ xa xưa đã biết săn bắt trâu và thuần hóa chúng để phục vụ cho công việc cày cấy cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Con trâu là động vật ở nhóm Thú có vú vì nó nuôi con bằng sữa mẹ. Và đây là loài động vật thuộc nhóm nhai lại, sức nhai của trâu rất bền. Khi có thời gian ăn, trâu thường ăn rất nhanh, qua loa để tích trữ được nhiều cho những khi phải làm việc liên miên. Vì vậy, trâu có thể làm việc cả ngày mà không cần nghỉ ngơi.
Những chú trâu đều sở hữu một thân hình vô cùng vạm vỡ. Trâu thuộc lớp thú có vú nên được sẽ có hai loại là trâu đực và trâu cái. Trâu đực thường to và cao hơn trâu cái, sừng to và dày hơn, đôi chân chắc nịch và chạy rất nhanh. Cân nặng trung bình của mỗi con trâu đực từ 400- 450 kg và trâu cái là từ 350- 400 kg. Da trâu có màu đen, dày, dai và bóng loáng, phía bên ngoài sẽ được phủ lên một lớp lông mao màu đen nên có cảm giác rất mượt. Hai cái tai trâu to như hai cái quạt mo lúc nào cũng ve vẩy để đuổi ruồi. Trai trâu rất thính, giúp nó nghe rõ mọi hoạt động xung quanh. Miệng nó rất rộng, mũi to và thường ẩm ướt để người nông dân luồn dây qua mũi kéo đi cho dễ dàng, mắt to tròn như hai hòn bi ve.
Vì trâu thuộc nhóm động vật nhai lại nên miệng nó chỉ có hàm răng dưới mà không có hàm răng trên. Và việc trâu chỉ có một hàm cũng được dân gian lý giải qua câu chuyện hài “ Trí khôn của ta đây”. Trâu có cặp sừng dài và cong hình lưỡi liềm trông rất chắc chắn giúp nó tự vệ khi gặp kẻ thù. Trâu có 4 chân rất chắc, ngắn, to. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng còn hai đùi sau to dài. Đuôi trâu ngắn và có một túm lông ở cuối đuôi. Đôi lúc nhìn con trâu rất nặng nề bởi nó phải mang một cái bụng rất to được chống đỡ bởi bốn chân. Chắc bởi vậy nên chân nó phải rất khỏe mới đỡ được cả thân hình vạm vỡ ấy. Mỗi năm trâu chỉ đẻ từ 1-2 lứa, mỗi lứa một con. Trâu con mới sinh ra sẽ được gọi là nghé.
Xuất phát từ nền văn minh lúa nước nên hình ảnh con trâu gắn liền với người nông dân lam lũ trên cánh đồng không quản ngại nắng mưa. Công việc đồng áng vất vả, nặng nhọc nhưng người nông dân luôn có một “ người bạn cần mẫn” bên cạnh giúp đỡ, chăm chỉ cùng làm việc. Dù mưa hay nắng, ngày hay đêm thì những chú trâu vẫn cày cấy cùng người nông dân đem lại sự ấm no cho cuộc sống của người dân. Bên cạnh công việc cày cấy thì người ta còn dùng trâu làm sức kéo để kéo gỗ, chở đồ. Trâu còn được dùng là thực phẩm hàng ngày phục vụ nhu cầu ẩm thực của mọi người. Thịt trâu dai, thơm và có hàm lượng đạm trong thịt cao.
Trâu là người bạn cũng là tài sản đem lại thu nhập cao cho người dân. Ông cha ta có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp” điều đó chứng tỏ được vai trò to lớn của trâu, ngày xưa hầu như mỗi gia đình đều sở hữu một con trâu. Không chỉ bắt gặp hình ảnh những con trâu chăm chỉ bên người nông dân mà chúng ta còn biết trâu còn gắn liền với tuổi thơ của những đứa trẻ nông thôn. Những buổi chiều chăn trâu thả diều hay ngồi vắt vẻo trên lưng trâu nằm đọc sách, thổi sáo sẽ luôn là kỉ niệm in sâu trong kí ức của tuổi thơ. Ngoài ra, trâu còn xuất hiện ở trong các lễ hội truyền thống như hội chọi trâu Hải Phòng, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn với những ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Qua lễ hội người ta muốn tưởng nhớ đến công ơn các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã và cầu nguyện cho một năm ấm no, bình yên, hạnh phúc.
Ngày nay, tuy có nhiều máy móc, công cụ hiện đại ra đời làm việc công suất hơn nhưng không thể thay thế được hình ảnh của những con trâu vạm vỡ trong lòng người dân Việt Nam. Trâu không chỉ mang lại giá trị vật chất mà còn là đời sống tinh thần của người nông dân. Đồng thời, hình ảnh của con trâu còn là biểu tượng cho những đức tính cao đẹp của con người Việt Nam: cần cù, chịu khó, hiền lành, chất phác. Chúng ta chăm sóc và bảo vệ trâu chính là giữ gìn biểu tượng văn hóa truyền thống cao đẹp của người Việt.
Đến với mỗi làng quê Việt Nam là ta không thể không nhắc đến hình ảnh con trâu là biểu tượng rất gần gũi, thân thiết. Trâu là biểu tượng cho sự cần cù, chăm chỉ, chất phác của con người Việt.
Trâu là động vật nhai lại, thuộc họ bò, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn thuộc lớp thú có vú, loại động vật này được dùng phổ biến. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần chủng thuộc nhóm trâu đầm lầy, lông màu đen, thân hình vạm vỡ, bụng to khỏe. Con trâu có cân nặng rất nặng. Nếu trâu cái trung bình từ 350- 450 kg thì linh hoạt và hiền lành thì trâu đực nặng từ 400-450kg có tầm vóc lớn, cân đối, dài đòn trước cao sau thấp. Trâu đực đầu dài và to, trâu cái đầu thanh và dài, da mặt trâu khô, nổi rõ các mạch máu, trán rộng phẳng hoặc hơi gồ. Mắt trâu to, tròn, lông mi dài, mí mắt mỏng, mũi trâu to, màu đen lúc nào cũng bóng ướt, lỗ mũi to, có thể xỏ dây thừng qua để dắt đi dắt lại cho thuận tiện. Mồm trâu rộng, có răng đều, khít, không sứt mẻ, tai trâu to và phía trong có nhiều lông.
Sừng trâu cưng cứng, có những con nghé con thì sừng nhỏ hơn và không cứng bằng trâu mẹ. Cổ trâu dài, ức sâu rộng. Lưng trâu dài, thẳng nhưng lúc nào cũng có con hơi cong. Các xương sườn to, tròn, cong đều. Mông trâu to, mông đốc, rộng, tròn, chắc. Trâu có bốn chân thẳng, to gân guốc, vững chãi. Bàn chân thẳng, tròn trịa, vừa ngắn vừa to, các móng khít, tròn, đen bóng, chắc chắn. Chân đi không chạm khoeo, không quẹt móng, hai chân sau đi đúng dấu bàn chân trước nhưng hơi chồm về phía trước. Đầu trâu thon, dài chừng 60- 70 cm, phần cuối đuôi có lông dài lúc nào cũng ngoe nguẩy như để đuổi ruồi muỗi. Da trâu mỏng và bóng loáng, lông đen mướt thưa cứng và xát vào da. Trâu 3 tuổi có thể đẻ lứa đầu. Một đời trâu có thể đẻ từ 5-6 nghé. Nghé sơ sinh nặng khoảng 20- 25 kg. Đôi răng cửa giữa cố định bắt đầu mọc lúc ba tuổi và trâu kết thúc sinh trưởng khi 6 tuổi và có 8 răng cửa. Ở Việt Nam có hai loại trâu chính là trâu rừng và trâu nhà. Trâu rừng là loại mãnh thú, dữ vì nó chưa được thuần hóa. Còn trâu nhà qua sự chăm sóc và thuầ phục nên nó trở nên rấ hiền lành và gắn bó thân thiết với con người. Trâu có ưu điểm hơn bò là khi rời nắng thì con trâu có thể đằm xuống nước để cho mát và đỡ nắng còn bò thì không.
Trâu rất khỏe, siêng năng, cần cù kéo cày giúp người nông dân từ sáng sớm đến tối khuya. Trâu chẳng bề hà trước . Chính vì thế mà người nông dân xưa coi con râu là đầu cơ nghiệp. Bên cạnh đó, thịt trâu được dùng để chế biến các món ăn rất ngon: thịt trâu xào rau muống, thịt trâu gác bếp. Con trâu có vị trí to lớn trong đời sống tinh thần của con người Việt. Người nông dân xưa coi con trâu như là người bạn thân thiết:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công”.
Hình ảnh con trâu đi trước, cái cày đi sau đã trở thành hình ảnh gần gũi. Chăn trâu thả diều cũng là thú vui của những chú bé mục đồng. Trâu cũng có khi rời đồng ruộng đi dự lễ hội, hay tục đâm trâu ở Tây Nguyên được tổ chức hàng năm để biểu dương cho sức mạnh của giống vật nuôi này. Con trâu được xem như là con vật linh thiêng bởi nó nằm trong 12 con giáp mà người phương Đông dùng để tính tuổi hay trâu còn gắn bó với kí ức tuổi thơ.
Để trâu có sức khỏe tốt cần có cách nuôi và chăm sóc khoa học. Trâu dễ nuôi, hay ăn chóng lớn. Hằng ngày cho trâu ăn đủ ba bữa, uống nước sạch đầy đủ. Sauk hi đi làm về cho trâu nghỉ ngơi, tắm rửa khoảng 30 phút sau cho trâu uống nước muối rồi mới cho ăn. Trong thời gian làm việc nếu thấy trâu có dấu hiệu mệt, sức khỏe giảm sút thì nên cho trâu nghỉ từ 4-5 ngày, bồi dưỡng bằng cỏ tươi, cám, cháo.Ngày nay có nhiều thiết bị, máy móc hiện đại ra đời, dần thay thế trâu. Nhưng con trâu vẫn mãi là biểu tượng cho người dân và vẫn xuất hiện trong các lễ hội đầu năm. Nhiều người đi xa nhớ về quê hương là nhớ về hình ảnh con trâu.
Đến với mỗi làng quê Việt Nam là ta không thể không nhắc đến hình ảnh con trâu là biểu tượng rất gần gũi, thân thiết. Trâu là biểu tượng cho sự cần cù, chăm chỉ, chất phác của con người Việt.
Trâu là động vật nhai lại, thuộc họ bò, nhóm sừng rỗng, bộ guốc chẵn thuộc lớp thú có vú, loại động vật này được dùng phổ biến. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần chủng thuộc nhóm trâu đầm lầy, lông màu đen, thân hình vạm vỡ, bụng to khỏe. Con trâu có cân nặng rất nặng. Nếu trâu cái trung bình từ 350- 450 kg thì linh hoạt và hiền lành thì trâu đực nặng từ 400-450kg có tầm vóc lớn, cân đối, dài đòn trước cao sau thấp. Trâu đực đầu dài và to, trâu cái đầu thanh và dài, da mặt trâu khô, nổi rõ các mạch máu, trán rộng phẳng hoặc hơi gồ. Mắt trâu to, tròn, lông mi dài, mí mắt mỏng, mũi trâu to, màu đen lúc nào cũng bóng ướt, lỗ mũi to, có thể xỏ dây thừng qua để dắt đi dắt lại cho thuận tiện. Mồm trâu rộng, có răng đều, khít, không sứt mẻ, tai trâu to và phía trong có nhiều lông.
Sừng trâu cưng cứng, có những con nghé con thì sừng nhỏ hơn và không cứng bằng trâu mẹ. Cổ trâu dài, ức sâu rộng. Lưng trâu dài, thẳng nhưng lúc nào cũng có con hơi cong. Các xương sườn to, tròn, cong đều. Mông trâu to, mông đốc, rộng, tròn, chắc. Trâu có bốn chân thẳng, to gân guốc, vững chãi. Bàn chân thẳng, tròn trịa, vừa ngắn vừa to, các móng khít, tròn, đen bóng, chắc chắn. Chân đi không chạm khoeo, không quẹt móng, hai chân sau đi đúng dấu bàn chân trước nhưng hơi chồm về phía trước. Đầu trâu thon, dài chừng 60- 70cm, phần cuối đuôi có lông dài lúc nào cũng ngoe nguẩy như để đuổi ruồi muỗi. Da trâu mỏng và bóng loáng, lông đen mướt thưa cứng và xát vào da. Trâu 3 tuổi có thể đẻ lứa đầu. Một đời trâu có thể đẻ từ 5-6 nghé. Nghé sơ sinh nặng khoảng 20- 25 kg. Đôi răng cửa giữa cố định bắt đầu mọc lúc ba tuổi và trâu kết thúc sinh trưởng khi 6 tuổi và có 8 răng cửa. Ở Việt Nam có hai loại trâu chính là trâu rừng và trâu nhà. Trâu rừng là loại mãnh thú, dữ vì nó chưa được thuần hóa. Con trâu nhà qua sự chăm sóc và thuần phục nên nó trở nên rất hiền lành và gắn bó thân thiết với con người. Trâu có ưu điểm hơn bò là khi trời nắng thì con trâu có thể đằm xuống nước để cho mát và đỡ nắng còn bò thì không.
Trâu rất khỏe, siêng năng, cần cù kéo cày giúp người nông dân từ sáng sớm đến tối khuya. Trâu chẳng bề hà trước . Chính vì thế mà người nông dân xưa coi con trâu là đầu cơ nghiệp. Bên cạnh đó, thịt trâu được dùng để chế biến các món ăn rất ngon: thịt trâu xào rau muống, thịt trâu gác bếp. Con trâu có vị trí to lớn trong đời sống tinh thần của con người Việt. Người nông dân xưa coi con trâu như là người bạn thân thiết:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công”.
Hình ảnh con trâu đi trước, cái cày đi sau đã trở thành hình ảnh gần gũi. Chăn trâu thả diều cũng là thú vui của những chú bé mục đồng. Trâu cũng có khi rời đồng ruộng đi dự lễ hội, hay tục đâm trâu ở Tây Nguyên được tổ chức hàng năm để biểu dương cho sức mạnh của giống vật nuôi này. Con trâu được xem như là con vật linh thiêng bởi nó nằm trong 12 con giáp mà người phương Đông dùng để tính tuổi hay trâu còn gắn bó với kí ức tuổi thơ.
Để trâu có sức khỏe tốt cần có cách nuôi và chăm sóc khoa học. Trâu dễ nuôi, hay ăn chóng lớn. Hằng ngày cho trâu ăn đủ ba bữa, uống nước sạch đầy đủ. Sau Khi đi làm về cho trâu nghỉ ngơi, tắm rửa khoảng 30 phút sau cho trâu uống nước muối rồi mới cho ăn. Trong thời gian làm việc nếu thấy trâu có dấu hiệu mệt, sức khỏe giảm sút thì nên cho trâu nghỉ từ 4-5 ngày, bồi dưỡng bằng cỏ tươi, cám, cháo.Ngày nay có nhiều thiết bị, máy móc hiện đại ra đời, dần thay thế trâu. Nhưng con trâu vẫn mãi là biểu tượng cho người dân và vẫn xuất hiện trong các lễ hội đầu năm. Nhiều người đi xa nhớ về quê hương là nhớ về hình ảnh con trâu.
Tuổi thơ tôi được lớn lên trong tiếng hát à ơi của bà, của mẹ. Những câu hát ru ngọt ngào ấy chứa tất cả hình ảnh thân thuộc của quê hương, đó là những cánh cò bay lả, những ruộng đồng bao la hay những con trâu chăm chỉ đều được kết thành lời hát ngọt ngào, đầy yêu thương. Nhưng để lại trong tôi nhiều cảm xúc nhất có lẽ là hình ảnh về con trâu - hình ảnh thân thuộc của mỗi làng quê Việt Nam.
Trâu không phải là loài động vật xa lạ với mỗi người nông dân. Trâu có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc giống trâu đầm lầy. Khoảng 5000 - 6000 năm trước, trâu được thuần hóa cùng với sự ra đời của nền văn minh lúa nước. Ông cha ta từ xa xưa đã biết săn bắt trâu và thuần hóa chúng để phục vụ cho công việc cày cấy cũng như trong sinh hoạt hàng ngày. Con trâu là động vật ở nhóm Thú có vú vì nó nuôi con bằng sữa mẹ. Và đây là loài động vật thuộc nhóm nhai lại, sức nhai của trâu rất bền. Khi có thời gian ăn, trâu thường ăn rất nhanh, qua loa để tích trữ được nhiều cho những khi phải làm việc liên miên. Vì vậy, trâu có thể làm việc cả ngày mà không cần nghỉ ngơi.
Những chú trâu đều sở hữu một thân hình vô cùng vạm vỡ. Trâu thuộc lớp thú có vú nên được sẽ có hai loại là trâu đực và trâu cái. Trâu đực thường to và cao hơn trâu cái, sừng to và dày hơn, đôi chân chắc nịch và chạy rất nhanh. Cân nặng trung bình của mỗi con trâu đực từ 400- 450 kg và trâu cái là từ 350- 400 kg. Da trâu có màu đen, dày, dai và bóng loáng, phía bên ngoài sẽ được phủ lên một lớp lông mao màu đen nên có cảm giác rất mượt. Hai cái tai trâu to như hai cái quạt mo lúc nào cũng ve vẩy để đuổi ruồi. Trai trâu rất thính, giúp nó nghe rõ mọi hoạt động xung quanh. Miệng nó rất rộng, mũi to và thường ẩm ướt để người nông dân luồn dây qua mũi kéo đi cho dễ dàng, mắt to tròn như hai hòn bi ve.
Vì trâu thuộc nhóm động vật nhai lại nên miệng nó chỉ có hàm răng dưới mà không có hàm răng trên. Và việc trâu chỉ có một hàm cũng được dân gian lý giải qua câu chuyện hài “ Trí khôn của ta đây”. Trâu có cặp sừng dài và cong hình lưỡi liềm trông rất chắc chắn giúp nó tự vệ khi gặp kẻ thù. Trâu có 4 chân rất chắc, ngắn, to. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng còn hai đùi sau to dài. Đuôi trâu ngắn và có một túm lông ở cuối đuôi. Đôi lúc nhìn con trâu rất nặng nề bởi nó phải mang một cái bụng rất to được chống đỡ bởi bốn chân. Chắc bởi vậy nên chân nó phải rất khỏe mới đỡ được cả thân hình vạm vỡ ấy. Mỗi năm trâu chỉ đẻ từ 1-2 lứa, mỗi lứa một con. Trâu con mới sinh ra sẽ được gọi là nghé.
Xuất phát từ nền văn minh lúa nước nên hình ảnh con trâu gắn liền với người nông dân lam lũ trên cánh đồng không quản ngại nắng mưa. Công việc đồng áng vất vả, nặng nhọc nhưng người nông dân luôn có một “ người bạn cần mẫn” bên cạnh giúp đỡ, chăm chỉ cùng làm việc. Dù mưa hay nắng, ngày hay đêm thì những chú trâu vẫn cày cấy cùng người nông dân đem lại sự ấm no cho cuộc sống của người dân. Bên cạnh công việc cày cấy thì người ta còn dùng trâu làm sức kéo để kéo gỗ, chở đồ. Trâu còn được dùng là thực phẩm hàng ngày phục vụ nhu cầu ẩm thực của mọi người. Thịt trâu dai, thơm và có hàm lượng đạm trong thịt cao.
Trâu là người bạn cũng là tài sản đem lại thu nhập cao cho người dân. Ông cha ta có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp” điều đó chứng tỏ được vai trò to lớn của trâu, ngày xưa hầu như mỗi gia đình đều sở hữu một con trâu. Không chỉ bắt gặp hình ảnh những con trâu chăm chỉ bên người nông dân mà chúng ta còn biết trâu còn gắn liền với tuổi thơ của những đứa trẻ nông thôn. Những buổi chiều chăn trâu thả diều hay ngồi vắt vẻo trên lưng trâu nằm đọc sách, thổi sáo sẽ luôn là kỉ niệm in sâu trong kí ức của tuổi thơ. Ngoài ra, trâu còn xuất hiện ở trong các lễ hội truyền thống như hội chọi trâu Hải Phòng, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn với những ý nghĩa tâm linh sâu sắc. Qua lễ hội người ta muốn tưởng nhớ đến công ơn các vị thần, duy trì kỷ cương làng xã và cầu nguyện cho một năm ấm no, bình yên, hạnh phúc.
Ngày nay, tuy có nhiều máy móc, công cụ hiện đại ra đời làm việc công suất hơn nhưng không thể thay thế được hình ảnh của những con trâu vạm vỡ trong lòng người dân Việt Nam. Trâu không chỉ mang lại giá trị vật chất mà còn là đời sống tinh thần của người nông dân. Đồng thời, hình ảnh của con trâu còn là biểu tượng cho những đức tính cao đẹp của con người Việt Nam: cần cù, chịu khó, hiền lành, chất phác. Chúng ta chăm sóc và bảo vệ trâu chính là giữ gìn biểu tượng văn hóa truyền thống cao đẹp của người Việt.
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”
Nước ta vốn là quốc gia có nền văn minh lúa nước lâu đời. Chính vì thế, từ rất lâu trước kia, con trâu đã trở thành người bạn thân thiết, quen thuộc trong cuộc sống của nhân dân ta.
Trâu có nguồn gốc từ trâu rừng, nhiều thế kỉ sau được thuần hóa, trở nên hiền lành hơn. Trâu nước ta thuộc nhóm trâu đầm lầy, phân bố rộng rãi khắp cả nước. Trâu gắn liền với sự ra đời của nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ không những biết săn trâu mà còn thuần hóa nó, sử dụng sức khỏe của chúng trong việc đồng áng.
Trâu thuộc lớp thú có vú, chia thành trâu đực và trâu cái. Chúng sở hữu một thân hình vô cùng vạm vỡ. Cân nặng trung bình của trâu cái là từ 350-400 kg thì trâu đực nặng từ 400-450kg. Da nó màu đen, dày, bóng loáng và được phủ bởi một lớp lông mềm bên ngoài gọi là lông mao nên có cảm giác rất mượt mà. Hai cái tai trâu to như hai cái lá đa, lúc nào cũng ve vẩy đuổi ruồi. Tai trâu rất thính, giúp nó nghe rõ mọi động tĩnh xung quanh. Mũi trâu to, miệng trâu rộng, sừng có hình lưỡi liềm. Mắt trâu to tròn như hai hòn bi ve. Giống như bò, trâu thuộc nhóm động vật nhai lại, miệng chỉ có hàm răng dưới. Đuôi trâu ngắn, có một túm lông ở cuối lúc nào cũng phe phẩy. Cái bụng nó rất to chống đỡ bởi bốn chân. Hai chân trước cách xa nhau, thẳng. Bàn chân ngắn, vừa phải. Hai đùi sau to dài, bàn chân sau xuôi, ngắn. Bốn móng rất cứng, khít tròn, đen bóng và chắc chắn. Mỗi năm trâu chỉ đẻ từ 1 đến 2 lứa, mỗi lứa một con, Trâu con mới sinh ra gọi là nghé.
Trâu trong đời sống con người có giá trị rất lớn. Trâu là người bạn thân thiết của nhà nông, quanh năm suốt tháng trâu vất vả quần quật cùng con người, kéo cày, kéo bừa,... “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, khi khoa học còn chưa phát triển, trâu chính là cơ nghiệp của mỗi nhà nông. Người nông dân khi ấy nếu thiếu đi con trâu thì sẽ không thể cấy cày, trồng lúa. Dù ngày nắng hay ngày mưa, chỉ cần người cần đến, trâu sẵn sàng cùng con người cày cấy thửa ruộng, đem lại sự no ấm cho cả gia đình.
Đồng thời, trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu cung cấp chất đạm, chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu có thể làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và,..
Trong đời sống tinh thần, trâu là một trong 12 con giáp, gọi là “sửu”. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường chăm chỉ cần cù. Trâu là con vật thiêng liêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ cơm mới, lễ xuống đồng. Trâu đi vào ca dao, tục ngữ, trở thành hình tượng trong thơ ca, phản ánh lịch sử phát triển của nền văn minh lúa nước quê hương.
Chọi trâu là một trong những lễ hội nổi tiếng ở nước ta mỗi dịp xuân về, đặc biệt là lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Hình ảnh “trâu vàng” trong SEA GAMES 22 chính là niềm tự hào của đất nước ta trước bạn bè thế giới. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Hình ảnh những chú bé vắt vẻo trên lưng trâu đã trở thành một biểu tượng của làng quê Việt Nam. Trâu trở thành một phần tuổi thơ của biết bao người cùng tiếng sáo diều du dương.
Năm tháng qua đi, dù trong cuộc sống hiện đại ngày nay, rất nhiều loại máy móc đã xuất hiện thay thế vai trò của trâu trong lao động nhưng con trâu mãi là loài vật gắn bó với con người Việt Nam. Trâu trở thành một nét đẹp văn hóa, mang bản sắc dân tộc, là niềm tự hào của nhân dân ta. Để rồi bao năm trôi đi chăng nữa, người ta mãi ngân nga:
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.”
Từ xưa đến nay, ai ai cũng quen với hình ảnh của con trâu, đặc biệt là với những người ở nông thôn Việt Nam. Nó gắn bó rất sâu sắc từ thế hệ trước rồi đến thế hệ sau. Nó là người bạn của nhà nông, người bạn của những đứa trẻ, là con vật thân thuộc của mọi gia đình ở nông thôn Việt Nam.
Trâu ơi ta bảo trâu này!
Trâu ra đồng ruộng trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia,
Trâu đây, ta đấy, ai mà quản công.
Hình ảnh của con trâu đã được đưa vào cả ca dao. Để khắc hoạ hình ảnh con trâu rất gần gũi thân thuộc với chúng ta, với lời lẽ thiết tha, ân cần con người đã gọi trâu như một người bạn chứ không còn coi trâu như là loài vật nữa. Khoảng cách giữa người và loài vật bây giờ rất gần vì trâu là bạn của nhà nông chúng ta. Nó đã dùng sức lực của mình để giúp con người làm ra lúa gạo nuôi sống con người. Từ xa xưa khi không có công cụ để cày ruộng thì trâu đã giúp con người đó là làm công cụ để cày, để gieo hạt trồng cây. Ca dao nói Con trâu là đầu cơ nghiệp chứng tỏ tầm quan trọng của nó với con người. Trong thời kì khó khăn nông thôn Việt Nam đã có lệ là nhìn thấy nhà nào có bao nhiêu trâu thì sẽ biết được nhà ấy khá giả hay nghèo nàn.
Trong truyện ngắn Lão Am, trâu không những có một vị trí quan trọng trong công việc mà còn có một vị trí quan trọng trong lòng lão. Lão cưỡi trâu như người bạn đời của lão; lão chăm sóc, tắm rửa, bắt rận cho nó, tâm sự với nó khi con lão bảo bán thì lão rất đau khổ, cảm thấy lòng trĩu nặng, buồn bã. Như vậy hình ảnh của con trâu còn có vị trí quan trọng trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Có thể nói bây giờ và mãi mãi sau này người nông dân của chúng ta sẽ nhớ tới công sức của trâu với con người. Bên cạnh đó, trâu còn cho ta những đồ vật quý giá như hàng tiêu dùng, thủ công mĩ nghệ... Vậy nên trâu không chỉ là một phần quan trọng của nhà nông mà còn là một phần quan trọng trong đời sống của tất cả mọi người.
Trâu đã gắn bó với người dân để giúp cày ruộng nhưng nó còn gắn bó với cả những đứa trẻ chăn trâu thời tuổi thơ của chúng. Tuy cuộc sống của tôi ở thành phố nhưng đến dịp hè vào năm tôi lên bảy, bố đã cho tôi về thăm quê nội. Khi đó, hình ảnh mọi thứ trong tôi vẫn còn mờ nhạt nhưng chỉ hình ảnh của chú trâu là làm tôi nhớ mãi. Đó là, chiều chiều khi đã tắt nắng, những đứa trẻ trong làng lần lượt dắt trâu ra bãi cỏ cuối làng để cho chúng ăn. Những con trâu to lớn từng hàng từng hàng thong thả gặm cỏ. Trông chúng ăn thật ngon lành; những bãi cỏ xanh mượt được dành cho riêng mình, chúng có vẻ rất khoái chí. Còn bọn trẻ chăn trâu thì ngồi trên lưng chúng thổi sáo, sáo véo von như làm bản nhạc để trâu gặm cỏ. Thật là hay! Những bờ đê, bãi cỏ đã in dấu chân của bọn trẻ cũng như dấu chân của những chú trâu. Mỗi khi chiều về tôi thường ra bờ đê để chơi cùng chúng.
Có khi chúng tôi còn đánh trận giả, trâu tuy là một con vật nhưng nó luôn sát cánh trong những buổi chơi của bọn chăn trâu. Khi thấy trâu luôn là người bạn thân thiết của bọn trẻ con chúng tôi thì tôi chợt ao ước giá như trâu mãi mãi được ở bên cạnh tôi. Rồi có những buổi, khi trời đã tắt nắng lũ trẻ chúng tôi đã nhảy xuống sông tắm cùng trâu. Những lúc ấy người bạn trâu của chúng tôi tỏ vẻ rất thích thú, vẫy vùng cả một đoạn sông; ánh mắt của trâu lúc ấy như muốn nói lời cảm ơn với chúng tôi vậy. Kết thúc ngày hè, khi về tới nhà, tôi đã ghi lại những ngày vui vẻ với những tiếng cười giòn giã ấy vào trang nhật kí của tôi.
Qua tìm hiểu, tôi được biết trâu không những thân thiết với tuổi thơ chúng tôi mà còn có trong những phong tục tập quán, những lễ hội của người Việt. Khi có những ngày hội cha ông ta đã giết trâu để ăn mừng hoặc tạ ơn thần linh đã ban cho vụ mùa bội thu. Vào những ngày hè đẹp trời, ở làng tôi còn tổ chức hội chọi trâu. Không khí tưng bừng của hội thi đã giúp cho con người sảng khoái sau những ngày mùa vất vả. Tuy không được sống và gắn bó với trâu nhiều nhưng tôi vẫn cảm thấy trâu rất có ý nghĩa và thân thiết với tôi và với mọi nhà. Trâu là một người bạn đem lại cho con người biết bao nhiêu niềm vui, bổ ích, những tiếng cười sảng khoái trong tuổi thơ êm đềm của tôi. Qua đây tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới trâu ở làng quê Việt Nam.
Tôi đã có những ngày được vui chơi cùng với trâu. Tôi nhận nó đã mang cho con người biết bao điều bổ ích về cả đời sống vật chất và tinh thần, bởi vậy mỗi chúng ta cần biết yêu thương và chăm sóc nó một cách trân trọng nhất.
Khắp các làng quê Việt Nam trong mỗi vụ mùa chúng ta lại thấy bóng dáng của những chú trâu chăm chỉ làm việc trên những cánh đồng. Những con trâu đã giúp cho công việc cấy cày ở mỗi vụ mùa của các bác nông dân được dễ dàng hơn. Trâu không chỉ gánh vác một phần không nhỏ vào việc đồng áng mà trâu còn đem lại rất nhiều lợi ích về mặt vật chất và tinh thần cho người nông dân ở các làng quê Việt Nam.
Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hoá thuộc nhóm trâu đầm lầy. Lông màu xám đen, thân hình vạm vỡ, thấp, ngắn, bụng to, bầu vú nhỏ, sừng hình lưỡi liềm. Có hai đai màu trắng dưới cổ và chỗ đầu xương ức. Trâu cái nặng trung bình 350 - 400 kg (300 - 600kg) trâu đực: 400 - 450kg (350 - 700kg).... Vậy vị trí và vai trò của con trâu đã được coi là thứ hàng đầu của cơ nghiệp, hồi đó người ta chỉ cần xem nhà nào có nhiều trâu hay ít trâu là đủ để biết được gia cảnh của họ như thế nào. Đến tận bây giờ con trâu cũng vẫn được coi là thứ quý giá của người nông dân. Nó đem lại nhiều lợi ích về mặt vật chất.
Chúng sinh trưởng rất nhanh, trâu 3 tuổi có thể đẻ lứa đầu. Trong đàn trâu cái, trâu 4 tuổi đẻ lứa đầu chiếm 45 - 47%. Trâu đẻ có mùa vụ. Tỉ lệ đẻ hằng năm ở vùng núi là 40 - 45%, ở đồng bằng là 20 - 25%. Một đời trâu cái thường cho 5-6 nghé, nghé sơ sinh nặng 22 - 25kg. Đôi răng cửa giữa cố định bắt đầu mọc lúc 3 tuổi và trâu kết thúc sinh trưởng khi hết 6 tuổi (8 răng cửa). Do trâu sinh trưởng nhanh và nhiều nên đem lại một phần lợi về kinh tế không nhỏ cho người nông dân. Một con trâu trưởng thành khoảng 4-5 triệu đồng.
Trâu không chỉ để bán mà nó còn được nuôi để kéo cày: lực kéo trung bình trên ruộng 70 - 75 kg bằng 0,36 - 0,40 mã lực. Trâu loại A một ngày cày 3-4 sào; loại B: 2 - 3 sào và loại C: 1,5 - 2 sào bắc bộ, kéo xe ở đường xấu tải trọng 400 - 500kg, đường đồi núi thường một trâu kéo 0,5 - l,3m3 với đoạn đường 3 - 5km. Bởi trâu có sức mạnh và rất chăm chỉ nên dùng trâu để chở hàng và chở gỗ cùng đem lại rất nhiều nguồn lợi về kinh tế. Trâu còn có khả năng cho thịt rất cao: trâu cái có tỉ lệ xẻ thịt là 42%. Trâu thiến là 45% và trâu đực 2 tuổi là 48%. Khả năng cho sữa 400 - 500 lít sữa trong một chu kỳ vắt. Mỡ sữa 9 - 10%. Đem bán thịt trâu cũng giúp cho người nông dân một khoản thu lớn. Người nông dân thường trồng xen cả những cây ăn quả, thức bón tốt nhất cho cây là phân ủ xanh. Trâu có khả năng cho phân cao: trong 24 giờ trâu 2 răng thải ra 10kg phân, trâu 4 răng 12kg và trâu trưởng thành 20 - 25kg. Chính vì khả năng cho phân cao như vậy nên người nông dân không phải mua phân bón và tiết kiệm được một số tiền không nhỏ. Trâu còn dùng cung cấp nguyên liệu làm đồ mĩ nghệ, thuộc da làm trống...
Con trâu gắn bó với đời sống tinh thần của người nông dân như thế nào? Ai đã từng sống ở nông thôn đều đã từng gắn bó một phần tuổi thơ của mình với những cánh đồng lộng gió, với những cánh diều cao vút và đặc biệt là với những con trâu. Tôi tuy là người sống ở thị xã nhưng mỗi khi về quê vừa đến đầu làng đi ngang qua cánh đồng tôi đã thấy những tiếng cười đùa vui vẻ của những đứa trẻ trong làng. Chúng tụ tập thành một hội cùng cưỡi trâu thả diều, những cánh diều bay lên tận trời cao. Tuy cuộc sống của bọn trẻ có khó khăn nhưng nhờ những con trâu cánh đồng và những con diều cũng đủ làm chúng rất đỗi vui vẻ. Tuy cuộc sống của tôi có ổn định hơn những bạn trẻ ở làng quê nhưng hiếm khi tôi có được những giây phút vui vẻ đến như vậy. Cả tuổi thơ của trẻ em nông thôn gắn liền với những tình cảm yêu quý, gắn bó với những con trâu.
Không chỉ có gắn bó với tuổi thơ của trẻ em mà chúng còn không thể thiếu trong các lễ hội như lễ hội chọi trâu Đồ Sơn... Các làng quê vẫn còn những phong tục tập quán gắn với con trâu, ở các dân tộc miền núi vẫn còn phong tục đua trâu. Người và trâu chiến thắng sẽ được chức vô địch. Trâu rất vinh dự được làm biểu tượng cho SEA GAMES 22 tổ chức tại Việt Nam là ngày hội thể thao lớn của khu vực.
Con trâu gắn bó với người nông dân Việt Nam với các làng quê. Bấy nhiêu đã đủ để mọi người hiểu được tầm quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần của người nông dân Việt Nam của con trâu. Nó xứng đáng là biểu tượng tượng trưng cho làng quê Việt Nam và là niềm tự hào của một Việt Nam cường tráng.
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta”
Câu ca dao đã trở thành một lời ru quen thuộc, đi vào tiềm thức mỗi chúng ta từ ngày tấm bé. Hình ảnh gắn bó giữa người và trâu cũng từ đó mà mặc định không biến đổi. Đối với truyền thống nền văn minh lúa nước của nước ta, hình ảnh con trâu sớm đã trở thành biểu tượng của người nông dân Việt Nam.
Trâu có hai loại: trâu đực và trâu cái và là động vật nhai lại. Một đặc điểm khá dễ nhận ra của trâu, đó là nó không có hàm răng trên. Tấm thân của trâu rất chắc chắn, thân hình vạm vỡ nhưng thấp. Bụng to. Da của nó màu đen, rất dai nhưng được phủ bởi một lớp lông mềm bên ngoài nên có cảm giác rất mượt mà. Mũi trâu lớn, miệng trâu rộng, sừng có hình lưỡi liềm. Cân nặng trung bình của trâu cái là từ 350-400 kg thì trâu đực nặng từ 400-450kg. Bước đi của trâu chậm chạp nhưng chắc chắn. Cái đuôi luôn phe phẩy mọi lúc như để đánh động những chú ruồi không mời mà tới. Vì thưởng làm việc liên tục trên ruộng nên trâu có thói quen ợ lên nhai lại. Khi chúng có thời gian ăn cỏ, trâu thường nhai qua loa để tích trữ nhiều thức ăn càng tốt cho những khi phải làm việc liên miên. Đó là lí do trâu có thể làm cả ngày mà không cần dừng lại nghỉ.
Với một ngoại hình như vậy, trâu là loài động vật rất khỏe và chịu khó. Xuất phát từ nền văn minh lúa nước, mảnh ruộng cày đã gắn chặt với đời sống bao nhiêu năm lao động của người dân Việt Nam. Công việc đồng áng vất vả kia tuy nặng nhọc, một nắng hai sương, vất vả vô cùng nhưng những người nông dân luôn có “người bạn cần mẫn” của mình là chú trâu luôn bên cạnh giúp đỡ, chăm chỉ cùng làm lụng. Dù ngày nắng hay ngày mưa, dù có gian lao vất vả, chỉ cần người cần đến, trâu sẵn sàng không quản ngại gian lao để cùng con người cày cấy thửa ruộng, đem lại sự no ấm, yên tâm cho cả gia đình. Nên nông dân ta vẫn luôn có câu: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Con trâu thì có cần gì ngoài được con người cho ít ngọn cỏ ngoài đồng cùng một nơi để trú ngụ qua đêm. Đó là những ngày bận rộn với công việc đồng áng, còn những ngày nông nhàn, trâu lại làm bạn với tiếng sáo, với cánh diều mộng mơ của trẻ mục đồng trên những bãi cỏ rộng ngập nắng và gió. Những chú bé vắt vẻo trên lưng trâu đùa nghịch mà tạo nên những kỉ niệm tuổi thơ với cuộc sống làng quê khó quên đến tận những năm tháng về sau.
Là một loài động vật có sức lao động và trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm, chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mĩ nghệ như lược, tù và, ... Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn – Hải Phòng. Những chú trâu đã được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo từ lâu để chuẩn bị cho ngày hội hôm ấy. Con nào con nấy cũng vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ rất hùng dũng oai phong chỉ chờ vào sân đấu.
Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Chắc hẳn mọi người vẫn còn nhớ rõ hình ảnh “trâu vàng” trong SEA GAMES 22, trâu không chỉ là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu đã trở thành biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy marathon, trâu đội nón... rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ hội cơm mới, lễ hội xuống đồng. Tất cả đều chứng tỏ từ xa xưa đến nay, trâu vẫn gắn liền với đời sống của dân tộc trong mọi mặt kể từ cuộc sống đời thường đến lao động, văn hóa, phong tục, đã trở thành một phần không thể thiếu trong bản sắc dân tộc.
Mang những giá trị to lớn về mọi mặt của đời sống nhân dân, con trâu đã trở thành một “nhân vật” không thể thiếu và xứng đáng để con người có trách nhiệm bảo vệ, chăm sóc và quý trọng chúng.Cho dù trong cuộc sống hiện đại ngày nay, rất nhiều loại máy móc xuất hiện thay thế vai trò của trâu trong lao động, sản xuất nhưng hình ảnh và ý nghĩa của con trâu luôn là một phần nếp sống tinh thần không thể thiếu của mỗi người nông dân đất Việt.
Trên đồng cạn dưới đồng sâu
Chồng cày vợ cấy con trâu đi bừa.
Bao đời nay, hình ảnh con trâu đã trở nên gắn bó với người nông dân Việt Nam. Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy và thường sống ở miền khí hậu nhiệt đới. Thân hình vạm vỡ nhưng thấp và ngắn. Bụng to. Da dày có màu xám đen nhưng vẫn tạo cảm giác mượt mà bởi bên ngoài được phủ một lớp lông mềm. Điều đặc biệt ở trâu mà không thể không nhắc đến đó là trâu thuộc họ nhai lại.
Quanh năm suốt tháng, trâu cùng người chăm lo việc đồng áng vì vậy người nông dân coi trâu như người bạn thân thiết nhất của mình. Trâu to khỏe, vạm vỡ lại chăm chỉ cần cù chịu thương chịu khó nên thường gánh vác những công việc nặng nhọc của nhà nông. Từ sáng sớm tinh mơ. khi mặt trời còn ngái ngủ, trâu đã cùng người ở “trên đồng cạn” rồi lại xuống “dưới đồng sâu”, cho đến khi ông mặt trời mệt mỏi sau một ngày làm việc, chuẩn bị đi ngủ trâu vẫn miệt mài bên luống cày.
Trâu là nguồn cung cấp sức kéo quan trọng. Lực kéo trung bình của trâu trên đồng ruộng là 70 - 75kg, tương đương 0,36 - 0,1 mã lực. Trâu loại A một ngày cày được 3 - 4 sào Bắc Bộ, loại B khoảng 2 - 3 sào và loại C 1,5 - 2 sào. Trâu còn được dùng để kéo đồ, chở hàng; trên đường xấu tải trọng là 400 - 500kg, đường tốt là 700 - 800kg, còn trên đường nhựa với bánh xe hơi thì tải trọng có thể lên đến 1 tấn. Trên đường đồi núi, trâu kéo từ 0,5m khối gỗ trên quãng đường 3 - 5km. Khỏe như vậy nhưng bữa ăn của trâu rất giản dị, chỉ là rơm hoặc cỏ.
Trâu cũng là một trong những nguồn cung cấp thực phẩm cho con người. Thịt trâu có hàm lượng đạm khá cao, hàm lượng chất béo thấp. Sữa trâu có tính năng cao trong việc cung cấp chất đạm chất béo. Da trâu làm mặt trống, làm giày. Sừng trâu làm đồ mỹ nghệ như lược, tù...
Không chỉ góp phần quan trọng trong đời sống vật chất của người dân, trâu còn có mặt trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Từ xa xưa, trâu hay còn gọi là ngưu, sửu - có mặt trong 12 con giáp. Con trâu trở thành con vật gắn liền với tuổi tác của con người. Người mang tuổi trâu thường là những người chăm chỉ cần cù, thậm chí vất vả. Trong đời sống văn hóa tinh thần, trâu còn là con vật thiêng dùng để tế lễ thần linh trong ngày lễ hội cơm mới, lễ hội xuống đồng.
Trâu còn gắn liền với những lễ hội đình đám như lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn - Hải Phòng. Những chú trâu được chăm sóc, luyện tập rất chu đáo. Con nào con nấy vạm vỡ, sừng cong như hình vòng cung, nhọn hoắt, da bóng loáng, mắt trắng, tròng đỏ chỉ chờ vào sân đấu. Trong tiếng trống giục giã, trong tiếng hò reo cổ vũ của mọi người hai con trâu lao vào nhau mà húc, mà chọi. Ngoài ra, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu. Đây là phong tục tập quán của một số dân tộc ở Tây Nguyên. Con trâu bị giết được đem xẻ thịt chia đều cho các gia đình trong buôn làng cùng liên hoan mừng một vụ mùa bội thu.
Hình ảnh con trâu còn in đậm trong kí ức của những đứa trẻ vùng quê. Chắc không ai quên Đinh Bộ Lĩnh, người làm nên kỳ tích thống lĩnh mười hai sứ quân, đã có một tuổi thơ gắn bó với chú trâu trong trò đánh trận giả hay trò đua trâu đầy kịch tính. Chắc mỗi chúng ta đều có lần bắt gặp những hình ảnh rất đặc trưng, rất nên thơ của làng quê Việt Nam, đó là hình ảnh chú bé mục đồng ngồi vắt vẻo trên lưng trâu đọc sách hay hình ảnh chú cũng đang ngồi trên lưng trâu nghiêng nghiêng cái đầu trái đào với cây sáo trúc... Những hình ảnh tuyệt vời đó đã trở thành nguồn cảm hứng cho những nghệ nhân làng tranh Đông Hồ và cũng là nguồn cảm hứng cho các tác giả dân gian:
Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ăn no cỏ trâu cày với ta.
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà quản công.
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn.
Trong những năm gần đây, chú trâu đã vượt ra khỏi lũy tre làng, tham gia vào các hoạt động văn hóa thể thao. Với hình ảnh “trâu vàng” trong SEA Games 22. Trâu không còn là giống vật nuôi quen thuộc của người nông dân Việt Nam mà đã trở thành hình ảnh thú vị đối với bạn bè quốc tế. Con trâu là biểu tượng cho sự trung thực, cho sức mạnh và tinh thần thượng võ. Từ hình ảnh chú trâu vàng, các sản phẩm trâu tập võ, trâu chạy marathon, trâu đội nón... rất ngộ nghĩnh, độc đáo đã ra đời. Ngày nay, nhiều loại máy móc hiện đại đã xuất hiện trên cánh đồng làng Việt Nam nhưng con trâu vẫn là con vật không thể thiếu đối với người nông dân. Hình ảnh con trâu cần cù, chung thủy mãi mãi in sâu trong trái tim mỗi người dân Việt Nam.
“Trâu ơi ta bảo trâu này
Trâu ra ngoài ruộng trâu cày với ta
Cấy cày vốn nghiệp nông gia
Ta đây trâu đấy ai mà kể công
Bao giờ cây lúa còn bông
Thì còn ngọn cỏ ngoài đồng trâu ăn”
Từ xa xưa, trâu đã là người bạn thân thiết, gắn bó với người nông dân. Ông cha ta thường nói: “Con trâu là đầu cơ nghiệp”, đủ hiểu trâu có vị trí như thế nào trong cuộc sống của con người.
Trâu Việt Nam là trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy, phân bố rộng rãi khắp Việt Nam. Từ hàng ngàn năm trước, trâu đã gắn bó với con người cùng với sự ra đời của nền văn minh lúa nước. Người Việt cổ không những biết săn trâu mà còn thuần hóa trâu, lợi dụng sức khỏe của trâu để phụ giúp trong việc đồng áng.
Trâu là động vật thuộc lớp thú có vú. Thân hình của trâu trông vô cùng vạm vỡ. Lông trâu là lông mao, thường có màu đen. Da trâu rất dày và bóng loáng. Hai cái tai như hai cái lá đa, lúc nào cũng ve vẩy để đuổi ruồi, ngoài ra, tai trâu cũng rất thính, giúp trâu nghe ngóng được những tiếng động xung quanh. Mũi trâu ươn ướt, người ta thường luồn sợi dây vào mũi trâu để kéo đi cho dễ. Mắt trâu to tròn như hai hòn bi ve. Trâu cũng giống như bò, thuộc nhóm động vật nhai lại và chỉ có một hàm răng. Việc trâu chỉ có một hàm răng được người xưa lí giải qua câu chuyện “Trí khôn của ta đây”: vì trâu mải cười con hổ bị người nông dân lừa buộc vào gốc cây nên ngã lăn xuống đất, răng đập vào đã, gãy mất một hàm. Đuôi trâu ngắn, có một túm lông ở cuối. Hai cái sừng trên đầu uốn cong hình lưỡi liềm, giúp trâu tự vệ chống lại sự tấn công của kẻ thù. Trâu mỗi năm chỉ đẻ từ 1-2 lứa, mỗi lứa một con. Trâu con mới sinh ra gọi là nghé.
Trâu có vị trí quan trọng trong cuộc sống của con người. Ngày trước chưa có máy cày, trâu thường phải làm việc nặng nhọc: “Con trâu đi trước, cái cày theo sau”. Trâu thức dậy từ sáng sớm tinh mơ khi chú gà trống báo thức, cùng người nông dân ra đồng làm việc. Trâu chăm chỉ, cần mẫn cày hết thửa ruộng này đến thửa ruộng khác, bất kể là sáng hay tối, nóng nực hay giá rét. Nhờ có trâu, người nông dân mới có thể thu được một mùa màng bội thu. Đến ngày gặt, trâu lại chở lúa từ ruộng về nhà. Tuy công việc vất cả là vậy nhưng thức ăn của trâu rất giản dị, chỉ là cỏ hoặc rơm. Trâu thường được nuôi để lấy sức kéo, ở miền núi, ngoài công việc đồng ruộng, trâu còn chở hàng hoặc kéo xe, giúp con người vượt qua những con đường trắc trở, những ngọn núi xa xôi. Vì thế, trâu chở thành một gia sản quan trọng của người nông dân. Chẳng phải ca dao đã từng nói: “ Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy, thật khó lắm thay”. Thịt trâu cũng là một loại thức ăn giàu dinh dưỡng vì có hàm lượng đạm khá cao, chất béo thấp. Sừng trâu dùng làm đồ mĩ nghệ, da trâu làm mặt trống, giày. Không chỉ trong đời sống vật chất, trâu còn gắn bó trong đời sống tinh thần của người dân Việt Nam. Trâu trở thành hình ảnh tượng trưng cho người nông dân hiền lành, chăm chỉ, chịu khó. Ở nước ta hàng năm thường tổ chức lễ hội chọi trâu ở Đồ Sơn. Những chú trâu tham dự cuộc thi thường là những chú trâu to nhất, khỏe nhất, được chủ chăm sóc hết sức kĩ càng. Mỗi chú trâu phải chiến đấu với biết bao với đối thủ khác để đem lại vinh quang cho bản thân cũng như vinh dự cho chủ trâu. Ngoài chọi trâu ở Đồ Sơn, chúng ta còn có lễ hội đâm trâu ở Tây Nguyên. Tuổi thơ của mỗi người cũng đâu thể thiếu hình ảnh con trâu dưới lũy tre làng - những chú trâu góp phần làm nên nét bình yên của làng quê. Nhà thơ Giang Nam từng viết trong bài thơ “Quê hương”:
Thuở còn thơ ngày hai buổi đến trường,
Yêu quê hương qua từng trang sách nhỏ.
Ai bảo chăn trâu là khổ
Tôi mơ màng nghe chim hót trên cao.”
Nhớ làm sao những buổi chăn trâu trên cánh đồng, cánh diều no gió vút cao trên trời xanh. Nhớ những ngày hè nóng nực, người và trâu cùng hòa mình trong dòng nước mát. Nhớ tiếng thổi sáo của cậu bé mục đồng khi dắt trâu về nhà lúc chiều tối. Trâu không chỉ đi vào ca dao, văn thơ mà còn là biểu tượng của SEAGAMES 22 được tổ chức tại Việt Nam, là hình ảnh tượng trưng cho con người Việt Nam chất phác, hiền lành, đôn hậu.
Để chú trâu được khỏe mạnh, người nông dân cần chú ý làm chuồng cho trâu, ấm vào mùa đông, mát về mùa hè, thường xuyên vệ sinh chuồng trại sạch sẽ, tiêm vắc-xin phòng ngừa các loại bệnh cho trâu.
Ngày nay, cuộc sống đổi mới, nhiều máy móc hiện đại thay thế cho sức kéo của trâu. Tuy vậy, trâu vẫn là một báu vật quý giá với người nông dân. Mỗi khi nhìn thấy hình ảnh chú trâu trên cánh đồng bao la bát ngát, chúng ta sẽ bất giác nghĩ tới quê hương đầy thanh bình, yêu dấu.
“Con trâu là đầu cơ nghiệp”. Câu tục ngữ đã nhấn mạnh vai trò vị trí của con trâu trong đời sống sinh hoạt của người nông dân Việt Nam.
Ở làng quê Việt Nam, thấp thoáng dưới bóng tre xanh là những mái nhà trai với chuồng trâu bên cạnh. Trâu Việt Nam có nguồn gốc từ trâu rừng thuần hóa, thuộc nhóm trâu đầm lầy, có màu xám đen, thân hình vạm vỡ, sừng to, công như hình lưỡi kiếm.
Con trâu gắn liền với người nông dân như bóng với hình. Trâu cùng người nông dân ra đồng để kéo cày, bừa đất, chở lúa … Dù dưới cái nắng gay gắt chói chang hoặc dưới những cơn mưa tầm tã, trâu vẫn gồng mình kéo chiếc cày cắm sâu xuống đất bùn, để cày xới đất.
Mỗi ngày trâu có thể cày từ hai đến ba sào ruộng. Tiếp công việc cày ruộng là công việc bừa đất. Với chiếc trục bừa dài trên hai mét có gắn những bánh xe răng cưa, trâu sục bùn, xào đất, vùi cỏ tạo cho đất tơi xốp.
Ngoài cày ruộng, bừa đất, sức mạnh của trâu được dùng vào công việc kéo xe, chở lúa vào mùa thu hoạch. Trên đường làng gập ghềnh trâu lầm lùi, chậm chạp kéo xe đẩy lúa về sân phơi.
Ngoài việc tận dụng sức kéo, ở một số nơi hiện nay trâu được nuôi để lấy sữa và lấy thịt. Sữa và thịt trâu là những thực phẩm giàu chất dinh dưỡng. Trâu có thể cho 45% thịt và 400 đến 500 kg sữa trong một chu kỳ vắt. Ngoài thịt và sữa, da trâu, sừng trâu là mặt hàng mà các nhà thủ công mỹ nghệ rất ưa chuộng. Phân trâu giúp bón xanh đồng ruộng, cải tạo đất trồng.
Trâu với người vất vả trên đồng ruộng nên trong các lễ hội ở đình làng cũng không thiếu bóng dáng của con trâu. Ở Hải Phòng có lễ hội chọi trâu. Ngay từ đầu năm, các làng xã phải kén chọn trâu tốt với tiêu chuẩn rất gắt gao: cổ dài, đầu nhỏ, xoáy tròn, lưng nhô, sùng cùng, mắc tròn,…Trước khi thi đấu phải làm lễ trình trâu với đức tôn thần. Lễ chọi trâu ở Hải Phòng được tổ chức hàng năm vào ngày mồng 10 tháng tám âm lịch. Người ta thường nhắc nhau qua câu:
Dù ai buôn đâu bán đâu
Mồng mười tháng tám chọi trâu thì về
Trâu với người chẳng những gắn bó với nhau trong công việc đồng áng mà còn cả trong cuộc sống từ lúc tuổi còn thơ. Trẻ chăn trâu thường cởi trần trùng trục, da rám nắng, ngồi ngất ngưởng trên lưng trâu trong bộ áo bà ba giản dị trên đồng cỏ xanh là hình ảnh của cuộc sống thanh bình, yên ả ở làng quê Việt Nam từ bao đời nay.
Ở làng quê trâu với người gắn bó với nhau từ tuổi ấu thơ cho đến khi nhắm mắt xuôi tay. Trâu mang lại nhiều lợi ích cho con người và thực sự trở thành bạn thân của người nông dân. Hình ảnh con trâu trong đời sống con người có ý nghĩa vừa gần gũi, vừa thiêng liêng, in đậm trong văn hóa và lối sống của con người Việt Nam.
Người bạn tốt nhất mà con người có được trên thế giới này có thể một ngày nào đó hoá ra kẻ thù quay lại chống lại ta. Con cái mà ta nuôi dưỡng với tình yêu thương hết mực rồi có thể là một lũ vô ơn. Những người gần gũi thân thiết ta nhất, những người ta gửi gắm hạnh phúc và danh dự có thể trở thành kẻ phản bội, phụ bạc lòng tin cậy và sự trung thành. Tiền bạc mà con người có được, rồi sẽ mất đi. Nó mất đi đúng vào lúc ta cần đến nó nhất.
Tiếng tăm của con người cũng có thể tiêu tan trong phút chốc bởi một hành động một giờ. Những kẻ phủ phục tôn vinh ta khi ta thành đạt có thể sẽ là những kẻ đầu tiên ném đá vào ta khi ta sa cơ lỡ vận. Duy có một người bạn hoàn toàn không vụ lợi mà con người có được trong thế giới ích kỷ này, người bạn không bao giờ bỏ ta đi, không bao giờ tỏ ra vô ơn hay tráo trở, đó là con chó của ta. Con chó của ta luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó ngủ yên trên nền đất lạnh, dù đông cắt da cắt thịt hay bão tuyết lấp vùi, miễn sao được cận kề bên chủ là được. Nó hôn bàn tay ta dù khi ta không còn thức ăn gì cho nó. Nó liếm vết thương của ta và những trầy xước mà ta hứng chịu khi ta va chạm với cuộc đời tàn bạo này. Nó canh giấc ngủ của ta như thể ta là một ông hoàng dù ta có là một gã ăn mày. Dù khi ta đã tán gia bại sản, thân bại danh liệt thì vẫn còn con chó trung thành với tình yêu nó dành cho ta như thái dương trên bầu trời.
Nếu chẳng may số phận đá ta ra rìa xã hội, không bạn bè, vô gia cư thì con chó trung thành chỉ xin ta một ân huệ là cho nó được đồng hành, cho nó làm kẻ bảo vệ ta trước hiểm nguy, giúp ta chống lại kẻ thù. Và một khi trò đời hạ màn, thần chết rước linh hồn ta đi để lại thân xác ta trong lòng đất lạnh, thì khi ấy khi tất cả thân bằng quyến thuộc đã phủi tay sau nắm đất cuối cùng và quay đi để sống tiếp cuộc đời của họ. Thì khi ấy còn bên nấm mồ ta con chó cao thượng của ta nằm gục mõm giữa hai chân trước, đôi mắt ướt buồn vẫn mở ra cảnh giác, trung thành và chân thực ngay cả khi ta đã mất rồi.
Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người. Con chó luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khỏe mạnh cũng như lúc ốm đau. Vì thế, chúng ta cần yêu thương và chăm sóc tốt cho chúng.
Trong tất cả các giống vật nuôi, loài vật đáng yêu và gắn bó với con người hơn cả là những chú chó. Chó trung thành và dễ gần, được xem là một người bạn thân thiết của con người.
Chó là giống vật đầu tiên được con người thuần hóa cách đây khoảng 12000 năm vào thời kì đồ đá. Họ hàng nhà chó có cả cáo và chó sói. Loài chó ngày nay được thuần hóa từ một loài chó nhà màu xám.
Chó có kích thước trung bình từ 40 đến 160cm, trọng lượng từ 1 đến 80 kg. Chó là loài động vật có bốn chân, chân thường có 4 ngón và 1 ngón treo gọi là ngón cái, ngực nở, bụng thon, ăn tạp. Mắt chó có 3 mí, 1 mí trên, 1 mí dưới và mí ở giữa hơi sâu vào bên trong giúp tránh bụi bẩn xâm nhập vào mắt. Mắt chó rất kém, chỉ có thể nhìn được hai màu đen và trắng. ngược lại, tia chó lại rất thính, nó có thể nhận ra 30000 mì chỉ trong vòng một giây. Mũi chó cũng thính như tai. Con người có thể ngửi thấy mùi thức ăn trong nhà bếp nhưng chó có thể phân biệt được mùi của từng gia vị, thậm chí với những loài chó săn, chúng có thể nhận ra cả mùi nấm mốc, bởi mũi của chúng có thể phân biệt 200.000.000 mùi. vào mùa đông lạnh, ta thường thấy hiện tượng chó lấy đuôi che cái mũi ướt. đó là một cách để chúng giữ nhiệt, không để khí lạnh tràn vào phổi. Ngón chân của chó có vuốt nhưng lại không co duỗi được nên không thể leo trèo như mèo và khó giữ mùi lâu. Tuy vậy chó lại được phú cho tài chạy nhanh bởi bốn chân dài và khỏe. Lông chó rất đa dạng, thường có 2 lớp lông, lớp lông mượt mà dễ thấy ở bên ngoài và lớp lông lót bên trong giúp chó khô ráo trong những ngày mưa rét hoặc hạ nhiệt trong những ngày nắng nóng. Đuôi chó dài, phủ kín lông, là bộ phận thể hiện rõ nhất tình cảm của chúng khi xúc động. Chó có bộ tiêu hóa rất tốt và hàm răng rất cứng nên chúng đặc biệt thích gặm xương. Chó mới sinh bao giờ cũng nhắm mắt, lông tơ mỏng, phải sau 1 tháng cứng cáp mới có thể đi lại được bình thường. Chó con sau mấy tuần tuổi đã có răng. Bộ hàm đầy đủ của chó có tới 42 chiếc. Chó mẹ nuôi con và chăm con bằng sữa. Chó có rất nhiều loài, chó béc giê, chó phốc, chó chihuahua, chó alaska,... mỗi loài có một giá trị riêng, có loài giá trị của nó lên tới hàng trăm triệu đồng.
Chó là loài vật rất gần gũi với con người bởi loài chó rất thông minh, rất trung thành với chủ, giúp được con người rất nhiều việc hữu ích như trông nhà, cứu hộ, kéo xe, trinh thám, săn bắt. Nhờ trí thông minh nhanh nhẹn nên chó tiếp thu mọi tín hiệu rất nhanh của người điều khiển rồi làm theo rất chính xác. Chó là loài thông minh nhất sau khỉ, bởi chúng có ô quan thính giác và khứu giác rất phát triển, có thể nhận biết, xác định các vật ở xa hàng chục mét. Chó điệp vụ được đào tạo để giúp cho nhiều ngành nghiên cứu, trong trinh sát, giúp các chiến sĩ cảnh sát xác định phương hướng kẻ thù, phát hiện ra dấu hiệu của tội phạm. Ngoài ra, chó còn là đề tài đã rất nhiều lần đi vào truyện, thơ, phim ảnh như "Sói hoang", "101 chú chó đốm",...
Chó rất gần gũi với con người, nên ta cần chăm sóc tốt cho chúng. Chăm sóc cho chó rất đơn giản và việc luyện tập cho nó cũng không phức tạp. Với tính hiền lành của chúng thì cho rất dễ hòa đồng và nhanh hiểu được những điều mà con người cần ở chúng. Lông chó rất dễ bám bụi, nên ta phải thường xuyên tắm rửa và chải lông cho chúng. Đáng lưu ý nhất là phải tiêm vắc xin phòng ngừa những căn bệnh nguy hiểm.
Chó là loài động vật trung thành và cũng rất thông minh. Hãy chăm sóc và bảo vệ chúng để chúng có thể có được những thứ xứng đáng với những gì chúng được hưởng.
Chó là một loài động vật rất có ích cho con người. Nó trung thành, dễ gần và là bạn của con người. Cũng có thể vì thế mà người ta gọi nó là “linh cẩu”.
Chó có rất nhiều loại khác nhau. Chúng là một trong số những loài động vật được thuần dưỡng sớm nhất. Trung bình chó có trọng lượng là từ một đến tám mươi ki-lô-gam. Chúng là giống vật nuôi đầu tiên được con người thuần hóa được cách đây 12.000 năm vào thời kỳ đồ đá. Tổ tiên của loài chó bao gồm cả cáo và chó sói (một loài động vật có vú gần giống như chồn sinh sống ở các hốc cây vào khoảng 400 triệu năm trước). Còn loài chó như chúng ta thấy ngày nay được tiến hóa từ một loài chó nhỏ, màu xám.
Lúc mới ra đời, chó con không có răng nhưng chỉ sau bốn tuần tuổi đã có thể có hai mươi tám chiếc răng. Bộ hàm đầy đủ của loài thú này là bốn mươi hai chiếc. Mắt chó có đến ba mí: Một mí trên, một mí dưới và mí thứ ba nằm ở giữa, hơi sâu vào phía trong, giúp bảo vệ mắt khỏi bụi bẩn. Tai của chúng thì cực thính, chúng có thể nhận được 35.000 âm rung chỉ trong một giây. Khứu giác của chúng cũng rất tuyệt vời. Người ta có thể ngửi thấy mùi thức ăn ở đâu đó trong nhà bếp nhưng chó thì có thể phân biệt từng gia vị trong nồi, thậm chí những chú chó săn còn tìm ra những cây nấm con con nằm sâu trong rừng, vì chúng có thể phân biệt gần 220 triệu mùi.
Khi muốn phân nhận dạng một vật thể, đầu tiên chúng dựa vào “chuyển động” sau đó đến “ánh sáng” và cuối cùng là “hình dạng”. Vì thế thị giác của chúng rất kém, ta có thấy vào mùa đông lạnh, thỉnh thoảng chó hay đuôi che lấy cái mũi ướt át, đấy là cách chúng giữ ấm cho mình. Hai lớp lông của chó gồm lớp bên ngoài và lớp lót bên trong giúp cho chúng giữ ấm, khô ráo trong những ngày mưa rét, thậm chí còn có nhiệm vụ “hạ nhiệt” trong những ngày oi bức.
Chó là loài động vật có bốn chân, mỗi bàn chân đều có móng vuốt sắc nhưng khi đi thì cụp vào. Chó có bộ não rất phát triển, xương quai hàm cứng. Đặc biệt, tai và mắt chó rất thính và tinh khi vào ban đêm. Chó vẫy đuôi để biểu hiện tình cảm. Bộ phận tiêu hóa của chúng rất tốt.
Chó có đặc tính là chạy rất nhanh bằng bốn chân, tốc độ lao về phía trước khoảng từ bảy mươi đến tám mươi ki-lô-mét trên một giờ. Hơn nữa, chó cũng có khả năng đánh hơi rất tài. Hiện nay chó hoang dã vẫn còn tồn tại, nhưng chó được thuần dưỡng như chó nhà, chó cảnh thì phổ biến hơn.
Chó thuần dưỡng có nhiệm vụ trông, giữ nhà và thường nặng từ mười lăm đến hai mươi ki-lô-gam, có tuổi thọ trung bình từ mười sáu đến mười tám năm. Loại chó bắt được tội phạm được gọi là chó nghiệp vụ, trinh thám và thường rất to, cao, tai vểnh, hoạt động nhanh nhẹn, linh hoạt và thông minh. Chúng được nuôi rất công phu. Một số loại chó khác như chó săn thường rất khôn. Chó cứu hộ được dùng trong việc cứu nước ở các bến cảng, sân bay… nơi xảy ra sự cố.
Ở một số nước trên thế giới, chó còn chuyên để kéo xe. Nhưng không hẳn là chỉ có ích, nó còn rất dễ bị bệnh, đó là bệnh “dại”. Thường là thời gian đầu chó rất bình thường, ít người phát hiện ra để đề phòng. Khi bị chó dại cắn, lúc bấy giờ mới thấy rõ việc nguy hiểm đến tính mạng con người. Vì vậy cần phải tiêm phòng cho chó thường xuyên theo định kỳ để tránh bị mắc bệnh.
Chó là loài động vật rất có ích trong mọi lĩnh vực. Chó còn là bạn của con người bởi sự thông minh, lanh lợi, trung thành và nhiều tác dụng của nó. Chó được coi là loài động vật rất quan trọng và giúp việc đắc lực cho con người.
Con chó luôn ở bên cạnh ta trong phú quý cũng như trong lúc bần hàn, khi khoẻ mạnh cũng như lúc ốm đau. Nó giống như một người bạn thực thụ của con người.
Chó là một loài vật nuôi gắn bó với con người. Cũng giống như mèo, chó đã trở thành người bạn thân thiết, gắn bó.
Chó chính là loài động vật đầu tiên được con người thuần hóa với nguồn gốc là sói hay cáo. Sau khi được thuần hóa, loài chó trở thành vật nuôi trong nhà. Chúng có rất nhiều loại khác nhau.
Chó là một loài vật có trí thông minh đặc biệt, theo các nhà nghiên cứu thì trí thông minh ấy có thể ngang ngửa một đứa trẻ hai tuổi. Nếu được huấn luyện tốt, chó có thể hiểu được khá nhiều từ, phân biệt được âm thanh, hình ảnh. Sở dĩ loài chó vô cùng thân thiết, gần gũi với con người là bởi chúng cũng có những biểu hiện cảm xúc, vui, buồn, mừng, tủi hệt như một đứa trẻ. Các giác quan của loài vật này vô cùng nhạy bén, đặc biệt là thính giác và khứu giác. Khứu giác của chó mạnh hơn của con người đến 10.000 lần. Khi ngủ, chúng thường cuộn mình lại như là một bản năng để giữ ấm cơ thể cũng như bảo vệ “cơ quan nhạy cảm” của mình.
Cũng giống như nhiều loài vật khác, loài chó có sự đa dạng về nguồn gốc, đặc điểm ngoại hình, đặc tính sống…Giống chó cao nhất thế giới là Great Dane, điển hình là một chú chó cao 2,1m ở Anh, được coi là chú chó cao nhất thế giới. Chihuahua chính là giống chó nhỏ nhất thế giới. Về cân nặng, loài chó được xem là nặng nhất thế giới chính là loài St. Bernard với trọng lượng lên đến 120kg khi đến độ tuổi trưởng thành. Bên cạnh việc quan tâm đến giống, nguồn gốc của một chú chó, người ta còn quan tâm đến cả tuổi của nó. Nhiều khi người ta ước tính độ tuổi của loài này qua việc quan sát gương mặt chúng. Các nhà khoa học đã nghiên cứu được chó sống ở thành thị thường có độ tuổi vượt trội hơn so với những con sống ở nông thôn. Bên cạnh đó, những yếu tố tác động từ một môi trường dân cư đông đúc, giao thông tấp nập cũng phần nào tác động tích cực lên tuổi thọ của những con chó ở thành thị so với nông thôn.
Ngày nay, chó được xem là loài động vật được con người nuôi nhiều nhất thế giới, được con người coi như người bạn, người thân của mình. Với hàm răng sắc nhọn, sự tinh khôn, nhạy bén của các giác quan và tính trung thành, chó giúp con người trông nhà trông cửa, giúp người nông dân chăn cừu trên đồng ruộng, kéo xe trên bãi tuyết và nhiều khi còn làm cả nhiệm vụ dẫn đường. Trong văn hóa, loài chó cũng mang nhiều biểu tượng văn hóa, tâm linh. Đó là tín ngưỡng thờ chó ở rất nhiều quốc gia, dân tộc trên thế giới. Trong thần thoại một số quốc gia, chó bên cạnh hình tượng là kẻ canh giữ gia súc, loài vật này còn được coi là loài canh giữ âm phủ. Trong nghệ thuật, ta cũng bắt nhiều nhiều nhà điêu khắc, họa sĩ, nhà văn, nhà thơ quan tâm và hướng cảm quan nghệ thuật của mình đến loài chó.
Là loài vật thân quen và được xem là trung thành nhất của con người, chó cũng có những đặc điểm thú vị đến kỳ lạ mà không phải ai cũng biết. Trên khắp thế giới, chó được nuôi rộng rãi và được con người rất yêu quý, đặc biệt là ở phương Tây nhưng trên thực tế, phải đến tận năm 1960, loài chó mới được nuôi nhiều ở các gia đình phương Tây.
Loài chó đã đem lại ý nghĩa tinh thần to lớn trong cuộc sống của con người. Chính bởi vậy mà đây là loài động vật gắn bó nhất với con người.