Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Thuyết minh về cây bàng hay nhất, gồm 10 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 21 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Với mỗi chúng ta, chắc hẳn mỗi người học trò nào cũng có những kỷ niệm về mái trường, thầy cô và bè bạn, với tôi kỷ niệm ấy gắn với cây bàng ở sân trường có lẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh về cây bàng này.
Các bạn đã bao giờ tự hỏi về tổ tiên của loài bàng có từ đâu chưa? Tôi thì luôn thắc mắc và đi tìm câu trả lời. Theo như nghiên cứu của một số nhà khoa học bàng là một loài cây thân gỗ lớn sinh sống ở vùng nhiệt đới, thuộc họ Trâm Bầu. Nguồn gốc của loài này hiện vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi, nó có thể có nguồn gốc từ Ấn Độ, bán đảo Mã Lai hay New Guinea. Đến nay, cây bàng ngày càng trở nên phổ biến với nhiều nơi. Ở Việt Nam cũng thế, bàng được trồng cũng khá nhiều và phổ biến. Bàng là loại cây thân gỗ, thường sống ở vùng nhiệt đới. Nước ta với khí hậu nhiệt đới gió mùa đặc trưng rất thích hợp cho bàng phát triển. Bàng được trồng ở khắp mọi nơi đặc biệt là ở các trường học. Bàng là loài cây có thể mọc cao tới 35 m, với tán lá mọc thẳng, đối xứng và các cành nằm ngang. Thân cây to, sần sùi nứt nẻ vì trải qua bao phong ba bão táp phải đối mặt với nắng mưa, dãi dầu vì sương gió. Khi cây già hơn thì tán lá của nó trở nên phẳng hơn để tạo thành hình dáng giống như cái bát trải rộng. Lá to, dài khoảng 15–25 cm và rộng 10–14 cm, hình trứng, xanh sẫm và bóng. Đây là loài cây có lá sớm rụng về mùa khô; trước khi rụng thì các lá chuyển màu thành màu đỏ ánh hồng hay nâu vàng, do các sắc tố. Lá bàng thay đổi theo các mùa trong năm. Nhìn vào lá bàng người ta có thể biết được đây là mùa nào. Rễ bàng ăn sâu xuống lòng đất hút chất dinh dưỡng để nuôi cây trưởng thành và phát triển. Nhiều người ít để ý đến hoa bàng, nhưng nó lại cũng rất đẹp. Hoa đơn tính cùng gốc, với các hoa đực và hoa cái mọc trên cùng một cây. Cả hai loại hoa có đường kính khoảng 1 cm, có màu trắng hơi xanh, không lộ rõ, không có cánh hoa, chúng mọc trên các nách lá hoặc ở đầu cành. Hoa bàng rụng và mọc thành quả. Quả thuộc loại quả hạch , khi non có màu xanh lục, sau đó ngả sang màu vàng và cuối cùng có màu đỏ khi chín, chứa một hạt.
Các bạn đã biết gì về tác dụng của cây bàng chưa. Hãy cùng tôi tìm hiểu về những tác dụng của nó nhé. Nhất là đối với những học sinh, bàng là loài cây che bóng mát cho cả sân trường, các bạn có thể trò chuyện, tâm sự ngồi nghỉ giải lao dưới bóng cây. Không những thế, bàng còn như người bạn để chia sẻ niềm vui nỗi buồn, dù không biết nói nhưng cũng phần nào nguôi đi rất nhiều. Hay nó cũng là chốn nghỉ chân của các bác nông dân đi làm đồng về. Bàng được trồng trong khu vực nhiệt đới như là một loại cây cảnh hay để lấy bóng râm nhờ tán lá lớn và rậm. Quả ăn được và có vị hơi chua. Hạt bàng thì dùng làm nguyên liệu để chế biến thành mứt. Gỗ có màu đỏ, rắn chắc và chống thấm nước khá tốt. Lá bàng vào mùa hè còn dùng để quạt như quạt mo rất mát. Bàng còn có tác dụng dùng để chữa bệnh mà í tai biết đến. Vỏ thân cây bàng được sử dụng trong ngành y học cổ truyền. Người ta dùng các lá bàng làm thuốc chữa các bệnh liên quan đến gan,sốt, viêm loét thậm chí còn dùng để chữa một số bệnh ung thư. Không những thế bàng còn đi vào thơ ca nhạc họa một cách rất tự nhiên, bàng gắn với những kỉ niệm của tuổi học trò, những bài hát rất hay:
Mùa đông áo đỏ
Mùa hạ áo xanh
Cây bàng khi mở hội
Là chim đến vây quanh…’’
Cây bàng cứ thế trở thành loài cây gần gũi và gắn bó thân thiết với con người. Cây bàng mãi là người bạn tri kỉ thân thiết của tôi, luôn đồng hành cùng tôi trong những năm tháng cắp sách tới trường.
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về cây bàng
- Là cây bóng mát, gắn liền với tuổi thơ, tuổi học trò.
- Cây bàng nhiều lần đi vào thơ ca, nhạc họa
2. Thân bài
2.1. Nguồn gốc
- Là một loài cây thân gỗ lớn sinh sống chủ yếu ở vùng nhiệt đới, thuộc họ Trâm bầu.
- Không ai biết được nguồn gốc chính xác của cây bàng, có giả thiết cho rằng nó có nguồn gốc từ Ấn Độ, bán đảo Mã Lai
2.2. Đặc điểm
- Cây bàng trưởng thành có thân to, rộng, nhiều nhánh có màu nâu, nhẵn.
- Cành lá xum xuê như chiếc ô khổng lồ. Lá bàng có màu xanh bóng, mùa lá rụng thì chuyển sang đỏ, những chồi mới có màu xanh non.
- Hoa nở vào mùa hè, hoa có đường kính khoảng 1 cm, có màu trắng hơi xanh, không lộ rõ, không có cánh hoa; chúng mọc trên các nách lá hoặc ở đầu cành.
- Rễ cắm sâu vào lòng đất, những đám rễ già trồi trên mặt đất như những con rắn
- Quả thuộc loại quả hạch, khi non có màu xanh lục, sau đó ngả sang màu vàng và cuối cùng có màu đỏ khi chín, chứa một hạt.
2.3. Cách trồng và chăm sóc
- Cây bàng được trồng bằng phương pháp ươm hạt của cây, chỉ cần vùi trong đất ẩm một thời gian sau cây sẽ nảy mầm.
- Cây bàng dễ sống, ta không cần chăm sóc quá nhiều chỉ cần tưới nước hàng ngày và lựa chọn đất phù hợp, cung cấp đủ dinh dưỡng cho cây phát triển sau này
2.4. Giá trị
- Bàng là loài cây cho gỗ, dùng để làm bàn ghế, giường tủ,…
- Cây bàng gắn bó thân thiết với những kỉ niệm tuổi học trò
- Cây bàng có nhiều ở công viên, trường học, vỉa hè,…để cho bóng mát.
- Cây bàng còn giúp hút khí độc hại, khói bụi làm cho bầu không khí thêm trong lành, mát mẻ hơn.
- Lá bàng và vỏ thân cây bàng được sử dụng nhiều trong y học, chữa được các bệnh về đường tiêu hóa, sốt, ngăn ung thư…
- Cây bàng còn xuất hiện trong hội họa, âm nhạc, thơ ca
→ Trong bài hát: Câu hát “Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ…”.
→ Cây bàng xuất hiện trong thơ ca
2.5. Giá trị
- Có nhiều vai trò, lợi ích cả về vật chất, tinh thần.
- Cây bàng đã sống trong tiềm thức của con người Việt Nam từ bao đời
3. Kết bài
- Khẳng định lại ý nghĩa, giá trị của cây bàng.
- Thể hiện tình cảm của bản thân về loài cây này.
Các bài mẫu khác:
Ở quê tôi, ai đi xa trở về có lẽ cũng sẽ nhớ về cây bàng ở đầu làng. Chẳng biết nó có từ bao giờ, chỉ biết từ thời ông bà tôi nó đã sừng sững ở đó. Cây bàng gắn liền với tuổi thơ tôi, gắn với nỗi niềm của những người con xa xứ bởi đó là dấu ấn quê hương đậm đà mà không phải nơi đâu cũng có. Vì tò mò nên không ít lần tôi đã tự hỏi cây bàng từ đâu mà có? Nó có những đặc trưng, giá trị như thế nào? Chính những băn khoăn, thắc mắc ấy đã thôi thúc tôi đi tìm hiểu về loài cây này.
Cây bàng có từ bao giờ? Câu hỏi tưởng như đơn giản nhưng không phải ai cũng biết bởi hiện nay, nguồn gốc của cây bàng vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi. Theo một số tài liệu, cây bàng là một loài thân gỗ lớn sinh sống chủ yếu ở vùng nhiệt đới, thuộc họ Trâm bầu. Có giả thiết cho rằng nó có nguồn gốc từ Ấn Độ, bán đảo Mã Lai sau đó nhanh chóng lan sang các nước khác và giờ đây nó trở thành loài cây phổ biến, quen thuộc ở Việt Nam. Với mỗi chúng ta, cây bàng có lẽ chẳng còn xa lạ gì. Ở góc sân trường, ở nơi đầu hẻm, trên núi, trong rừng…đi bất cứ nơi đâu chúng ta cũng có thể dễ dàng nhìn thấy cây bàng. Bởi lẽ, bàng là loài cây thân gỗ, ưa khí hậu vùng nhiệt đới, rất thích hợp để sinh trưởng và phát triển ở Việt Nam. Thân cây bàng màu nâu nhẵn, cao, mọc thẳng trông rất vững chãi. Cành lá xum xuê, chia thành nhiều nhánh như chiếc ô khổng lồ. Rễ bàng cắm sâu vào lòng đất để hút chất dinh dưỡng, có những đám rễ già trồi trên như những con rắn khổng lồ. Sắc lá bàng thay đổi theo mùa giống như một người con gái xinh đẹp trong tà áo mới. Mùa xuân, cây bàng chồi ra những mầm lá non mơn mởn, e ấp, rụt rè trong làn mưa bụi. Mùa hè, lá bàng xanh mướt tràn trề sức sống, lá to dài khoảng 15–25 cm và rộng 10–14 cm, hình trứng. Mùa thu lá bàng chuyển sang sắc đỏ ánh hồng do các sắc tố lá có sự chuyển hóa. Đông sang cũng là lúc lá bàng rụng hết trơ ra những cành khẳng khiu. Hoa bàng nở vào mùa hè, mỗi bông hoa có đường kính khoảng 1 cm, có màu trắng hơi xanh. Đặc biệt, hoa bàng không có cánh chúng mọc trên các nách lá hoặc ở đầu cành. Sau khi đơm hoa, cây bàng bắt đầu kết trái. Quả thuộc loại quả hạch, khi non có màu xanh lục, sau đó ngả sang màu vàng và cuối cùng có màu đỏ khi chín, bên trong quả bàng có nhân màu trắng.
Cây bàng ưa khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa của nước ta nên cách trồng và chăm sóc cây không quá cầu kì, phức tạp. Bàng được trồng bằng phương pháp ươm hạt của cây, chỉ cần vùi trong đất ẩm một thời gian sau cây sẽ nảy mầm. Chúng cũng rất dễ sống, chẳng đòi hỏi chúng ta phải chăm sóc nhiều chỉ cần tưới đủ nước, cấp đủ ánh sáng và lựa chọn đất phù hợp cây sẽ tự mình vươn lên, khỏe mạnh, cao lớn. Từ rất lâu, cây bàng đã sống trong tiềm thức, ăn đời ở kiếp cùng con người Việt Nam. Hình ảnh cây bàng ở vùng nông thôn Bắc Bộ trở nên gần gũi, quen thuộc hơn bao giờ hết. Những người con xa xứ trở về, nhìn từ xa thấy bóng bàng cao lớn, sừng sững giống như nhìn thấy bóng dáng, linh hồn quê hương, những người nông dân đi làm đồng về nghỉ ngơi dưới gốc bàng, những đứa trẻ trăn trâu ngày ngày đuổi bắt, bắt bi ở đó. Không chỉ vậy, đối với những cô cậu học trò, cây bàng giống như một người bạn chứng kiến bao kỉ niệm, bao nỗi niềm buồn vui. Cùng với cây phượng, cây bàng cũng được xem là loài cây gắn với tuổi học trò. Bàng còn là loài cây cho gỗ, gỗ bàng được dùng để làm bàn ghế, giường tủ,…đem lại giá trị kinh tế cho người dân. Những tán bàng xum xuê xanh mướt còn giúp hút khí độc hại, khói bụi làm cho bầu không khí thêm trong lành, mát mẻ hơn. Đặc biệt, một công dụng không phải ai cũng biết tới của cây bàng đó chính là dùng làm thuốc. Lá bàng và vỏ thân cây bàng được sử dụng nhiều trong y học, chữa được các bệnh về đường tiêu hóa, sốt, ngăn ung thư,…
Không chỉ gắn bó mật thiết trong cuộc sống, sinh họa của con người, cây bàng còn đem đến những giá trị tinh thần khi không ít lần trở thành niềm cảm hứng trong thơ ca, âm nhạc, hội họa. Người họa sĩ sẽ rất ít khi bỏ qua hình ảnh cây bàng mỗi khi phác họa về bức tranh quê hương. Câu hát “Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ…”cũng đã chạm vào trái tim, khắc ghi ấn tượng trong long người nghe. Cây bàng cũng xuất hiện trong thơ ca với những vần thơ đậm chất trữ tình:
Cây bàng lá nõn xanh ngời
Ngày ngày chim đến tìm mồi chíp chiu
Đường xa gánh nặng sớm chiều
Kê cái đòn gánh bao nhiêu người ngồi
(Cây bàng – Trần Đăng Khoa)
Cây bàng có ý nghĩa quan trọng trong đời sống của con người. Nó là loài cây gần gũi, gắn bó thân thiết với đời sống, sinh hoạt của nhân dân. Là loài cây có nhiều giá trị, ở nơi đâu cây bàng cũng luôn được yêu quý, chăm sóc, bảo vệ. Đối với riêng tôi, cây bàng có gắn với những nỗi niềm riêng thật đặc biệt. Là người bạn tuổi thơ, là địa chỉ tôi tìm đến để san sẻ niềm vui, nỗi buồn. Lớn lên rồi, tôi được đi nhiều nơi, hà hầu hết nơi nào tôi ghé chân qua cũng có hình bóng của những cây bàng. Cũng vẫn là cây bàng thân thuộc, vẫn bình dị với những nguồn gốc, đặc điểm, giá trị như thế, nhưng với tôi cây bàng nơi đầu làng chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt trong trái tim. Tôi sẽ luôn yêu và nhớ về nó.
Cùng với cây phượng vĩ, cây bằng lăng, cây bàng cũng được xem là loài cây gắn liền với tuổi học trò. Còn nhớ, bao vui buồn tuổi thơ, bao kỉ niệm bên mái trường đều được gửi lại dưới gốc bàng thân thuộc. Cây bàng giống như người bạn tri kỉ của nhiều thế hệ học trò, thế nhưng nguồn gốc của nó ra sao, đặc điểm, giá trị của cây bàng thế nào không phải ai cũng biết.
Đã bao giờ bạn tự hỏi “cây bàng từ đâu mà có” chưa? Tôi thì luôn băn khoăn thắc mắc và đi tìm câu trả lời. Theo một số giả thiết, cây bàng có nguồn gốc từ Ấn Độ, bán đảo Mã Lai, thế nhưng thực hư về nguồn gốc chính xác của nó thì vẫn đang là một vấn đề gây tranh cãi. Cây bàng là loại cây thân gỗ, thuộc họ Trâm Bầu, sinh sống chủ yếu ở vùng nhiệt đới. Cho nên, khi quá cảnh về Việt Nam, cây bàng đã thích nghi rất tốt với khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa của nước ta.
Sống trong điều kiện khí hậu thuận lợi nên cây bàng rất dễ trồng và chăm sóc. Cây được trồng bằng cách ươm hạt. Khi trái bàng già, người ta vùi sâu trong đất ẩm một thời gian sau cây sẽ nảy mầm. Từ khi ươm hạt đến lúc cây trưởng thành ta không cần chăm sóc quá nhiều chỉ cần tưới nước, cung cấp chất dinh dưỡng, phun thuốc trừ sâu cho cây là chúng có thể sinh trưởng phát triển tốt. Bàng là loại cây chịu nắng vì thế không được trồng trong bóng râm. Bởi vậy, hình ảnh những cây bàng vươn mình trong nắng, đứng sừng sững, hiên ngang đón chịu nắng gió đã trở nên quen thuộc với mỗi chúng ta.
Từ rất lâu, cây bàng đi vào cuộc sống của con người như một lẽ tự nhiên, bình dị. Nhắc tới cây bàng có lẽ ai ai cũng sẽ hình dung ra được đặc điểm, hình dáng của nó. Bàng là loài cây mọc cao, mọc thẳng, thân cây to lớn, có màu nâu sẫm, sần sùi nứt nẻ. Từ thân cây sẽ tỏa ra thành nhiều cành đối xứng nằm ngang giống như khung của những chiếc ô khổng lồ. Lá bàng to, dài khoảng 20 cm. Tùy theo từng mùa mà sắc tố trên lá có sự thay đổi. Nhờ màu lá mà chúng ta có thể nhận ra được các mùa trong năm. Mùa xuân, cây trồi ra những mầm lá non xanh mơn mởn tràn trề nhựa sống. Hạ về, vòm lá lại khoác lên mình tấm áo xanh mướt, căng bóng, mịn màng. Thu sang, cây bàng lộng lẫy trong màu lá đỏ. Rồi đến mùa đông, lớp lá ấy được trút bỏ hết như một sự lột xác để chuẩn bị cho diện mạo mới. Lá bàng thay đổi theo mùa nên người ta hay ví nó như một nàng công chúa kiều diễm, điệu đà không ngừng làm mới mình để đuổi theo màu thời gian. Rễ cây bàng ăn sâu vào lòng đất mẹ để hút chất dinh dưỡng nuôi cây. Bàng là loại hoa đơn tính cùng gốc, hoa đực, hoa cái mọc trên cùng một cây. Người ta ít để ý đến hoa bàng bởi nó không rực rỡ, lộng lẫy như những loài hoa khác Nó có màu trắng hơi xanh, không lộ rõ cánh hoa, nhưng nếu nhìn kĩ, ta sẽ cảm nhận được vẻ đẹp tinh khôi, giản dị của những bông hoa bàng ấy. Đặc biệt, tuổi thơ của chúng tôi gắn liền với những trái bàng. Quả bàng thuộc loại quả hạch, bên trong có nhân màu trắng. Khi non, quả bàng có màu xanh, đến lúc chín thì chuyển sang màu đỏ vàng. Còn nhớ mỗi mùa hè, chúng tôi thường rủ nhau đi hái những trái bàng chín ăn. Vị ngọt ngọt, chan chát của nó đến giờ tôi vẫn còn nhớ.
Cây bàng bình dị là thế, ấy vậy mà nó đã đem đến cho con người biết bao lợi ích. Cây bàng có thể được trồng làm cảnh, những nhà sành chơi cây hầu hết đều có trong vườn một cây bàng được tỉa tót rất công phu, tỉ mỉ. Nhưng phổ biến hơn, bàng được trồng để lấy bóng râm. Ở mỗi con đường, hè phố, công viên, sân trường…không khó để ta bắt gặp một cây bàng. Tán bàng rộng đem lại bóng mát, giúp điều hòa không khí, giảm nguy cơ ô nhiễm môi trường. Dưới gốc bàng người nông dân thường ngồi hóng mát, nghỉ ngơi mỗi khi đi làm về. Đặc biệt, cây bàng có ý nghĩa trọng đối với tuổi học trò. Cây bàng che bóng cho cả sân trường, là nơi lũ bạn chúng tôi trò chuyện, đọc sách, chơi bi,.. trong mỗi giờ giải lao. Bao tâm sự, nỗi niềm học trò cũng được gửi gắm nơi cây bàng ấy. Hè hè, lũ trẻ chúng tôi thường rủ nhau đi hái quả bàng ăn. Quả bàng có vị chua chua, nhân bàng ngậy ngậy còn được dùng làm nguyên liệu chế biến mứt. Gỗ bàng chắc chắn, có khả năng thấm nước tốt nên thường được dùng để làm bàn ghế, giường tủ phục vụ đời sống sinh hoạt của con người. Đặc biệt, một công dụng ít ai biết tới của cây bàng đó là dung làm thuốc trong đông y. Lá bàng có thể chữa được bệnh tiêu chảy, những bệnh về gan và ngăn ngừa ung thư.
Đặc biệt, cây bàng nhiều lần đi vào thế giới nghệ thuật trở thành món ăn tinh thần của con người. Hình ảnh cây bàng không ít lần xuất hiện trong những ca từ của bài hát. Mỗi khúc ca ngân vang đều chứa đựng tình cảm của người nghệ sĩ: “Cây bàng ơi… Toả bóng tháng năm dài, dưới vòm lá, tuổi thơ dễ thương bao mơ mộng đẹp, rồi một sớm lớn khôn nhặt chiếc lá mà lòng nghĩ suy…”. Cây bàng cũng là niềm cảm hứng sáng tác của bao thi sĩ:
A bàng tốt lắm
Bàng che cho em
Nhưng ai che bàng
Cho bàng khỏi nắng!
(Cây bàng – Xuân Quỳnh)
Hiểu về nguồn gốc, đặc điểm, giá trị của cây bàng khiến chúng ta càng thêm yêu và trân trọng nó. Mai đây dù có đi đến nơi đâu thì cây bàng vẫn sẽ là hình ảnh đẹp khắc sâu trong tim mỗi người. Cũng giống như phượng vĩ, cây bàng luôn là bóng mát thân thuộc gắn với những kĩ niệm sân trường.
Không biết tự bao giờ, cây bàng trước cửa lớp đã trở nên vô cùng thân thương đối với tôi. Tôi đã ngắm cây bàng ấy trong suốt cả bốn mùa. Mùa nào, bàng cũng có một vẻ đẹp riêng. Không biết có phải thế không hay do tình yêu tôi dành cho loài cây này mà tôi thấy bàng mùa nào cũng đẹp.
Khi những tiếng ve đầu tiên bắt đầu ngân lên báo hiệu mùa hè đến, cũng là lúc dòng nhựa chảy trong bàng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dòng nhựa ấy tiếp sức để những chiếc lá bàng mới ngày nào còn bé bỏng non nớt, giờ đã xanh ngắt xòe ra to. Thì ra, bàng đã phải làm việc siêng năng suốt ba mùa để bây giờ xòe tán xanh che mát cho chúng tôi. Bàng cũng thật hào phòng khi thỉnh thoảng nhờ chị gió gửi cho mấy chiếc lá để làm quạt. Cũng chính lúc này, bàng nở những chùm hoa trắng muốt, nhỏ li ti. Mỗi làn gió nhè nhẹ thoảng qua là có cả thảm hoa bàng lại trải đều quanh gốc, vương đầy trên mái tóc dài Óng ả của các nữ sinh. Bàng đẹp và bọn con gái chúng tôi hình như cũng đẹp hơn khi điểm hoa bàng trên tóc.
Sau ba tháng hè xa cách các bạn học sinh, bàng rạng rỡ hẳn lên khi thu về. Nắng thu vàng dịu ngọt xuyên qua từng mặt lá làm gương mặt bàng sáng bóng lên. Ai thấy mình đẹp mà chẳng vui, Bàng vui vì thấy mình đẹp. Mà hình như còn được nghe lại tiếng nói, tiếng cười xôn xao của các bạn học trò tinh nghịch, dễ thương. Bàng xôn xao cùng chúng tôi trong mỗi ngày học mới, bàng chia sẻ cùng chúng tôi bao buồn vui của tuổi học trò. Còn nhớ, một lần không làm bài tập, thầy giáo đã phạt tôi thật nặng. Tôi buồn quá, giờ chơi lân la đến gốc bàng. Bất ngờ, bàng gửi tặng tôi một trận mưa hoa. Cảm xúc trào dâng, tôi viết liền một bài thơ. Ai có ngờ đâu, bài thơ ấy trong cuộc thi sáng tác trẻ lại giành ,cho tôi giải A. Tôi lại thầm cảm ơn bàng. Nhờ có bàng mà tôi hiểu rằng cuộc sống thật là một chuỗi những buồn vui như thế!
Thu qua, đông lại. Mùa đông lá bàng chuyển màu sẫm nâu. Rồi một buổi sáng tôi thấy cây bàng rực lên màu đỏ như lửa. Ngọn lửa khổng lồ ấy cháy đỏ suốt mấy tuần. Tôi đứng dưới gốc bàng, thấy mình sưởi ấm. Có lẽ cây bàng đã tự đốt mình để chống lại giá rét mùa đông? Rồi gió bấc thổi qua, những chiếc lá màu lửa rụng xuống. Sau khi cởi bỏ tấm áo rực rỡ của mình, bàng chỉ còn lại tấm thân sần sùi với những cành khẳng khiu đứng trơ trọi giữa gió mưa. Bàng thu mình ngủ ngon lành trong tiếng ru của gió. Cây bàng cứ đứng vậy chống đỡ cả mùa đông. Để xuân về, bàng lại vươn mình bừng dậy… Mùa xuân về, thời tiết trở nên ấm áp, và cây bàng nhú ra muôn vạn lộc non. Hầu như suốt mùa đông, cây bàng đã giấu trong nó tiềm tàng màu xanh non của sự sống. Cây bàng đón xuân nhiệt thành, say đắm. Có lẽ, nó hiểu rằng nó cũng phải góp chút ít tinh túy của mình để làm nên sức dào dạt của đất trời.
Tôi lặng đi khi nghĩ đến ngày mai phải chia tay mái trường, phải chia tay cả bàng nữa. Còn bây giờ, tôi và bàng vẫn cứ là bạn thân. Sớm nay, trời thật đẹp. Bàng vẫn đang giơ tay đón chào tôi đến lớp. Tôi yêu bàng nhiều lắm, nhiều lắm.
Tuổi thơ tôi gắn bó với cây bàng cổ thụ. Tôi nhớ những lần trốn nắng, trú mưa trong sự chở che hào phóng của tán bàng, những lần thưởng thức mùi vị ngọt chát hấp dẫn của quả bàng chín, những lần nhấm nháp vị bùi bùi khó tả của nhân quả bàng…
Hồi năm bảy tuổi cho đến khi đủ mười tám tuổi để nhập ngũ, dù đã đi ngược về xuôi, vào Nam ra Bắc, nhưng tôi chưa từng nhìn thấy một cây bàng nào từng trải và to lớn như cây bàng phố tôi. Thân nó to, phải hai, ba vòng tay người lớn mới ôm xuể. Còn tán nó rộng, che kín cả một cái sân lớn diện tích cả trăm mét vuông. Sinh thời bác tôi bảo: Cây bàng lớn này dễ thường đã sống cả trăm năm, đáng được gọi là cây bàng cổ thụ.
Tôi nhớ những lần trốn nắng, trú mưa trong sự chở che hào phóng của tán bàng, những lần thưởng thức mùi vị ngọt chát hấp dẫn của quả bàng chín, những lần nhấm nháp vị bùi bùi khó tả của nhân quả bàng và nhớ cả những lần đi bắt ve, những lần chơi trốn tìm hớ hênh quanh gốc bàng. Tất cả cho tôi hình dung về một khái niệm bàng của riêng đám trẻ phố tôi.
Tôi thích nhất là vào tiết rét lộc vào cữ tháng 2 âm lịch, theo cách phân chia mùa đông của các cụ nhà ta: Tháng giêng rét đài, tháng hai rét lộc, tháng ba cộc rét. Vào thời điểm ấy, những lộc bàng râm ran như thể đang mời mọc nhau, mời gọi nhau mọc, mời gọi nhau lớn cho kịp phủ kín cành vào đầu mùa hạ có thể nói: Lá bàng (cũng giống như một số cây khác thuộc họ nhà xoan) có biểu hiện rõ nhất về sự chuyển mùa, nếu như có một ai đó chịu khó quan sát sự phát triển và tàn lụi lẫn sự đổi thay màu lá của nó.
Có lẽ vì thế mà từ bao đời nay, đám trẻ hay lưu luyến mấy câu trong lời một vài bài hát: Mùa đông lá đỏ, mùa hạ lá xanh…như một điệp khúc chào đón mùa hè quay trở lại (sau này tôi mới biết đây là phần mở đầu trong ca từ một ca khúc của nhạc sĩ Hoàng Vân viết cho thiếu nhi vào những năm 60, 70 của thế kỷ trước).
Có một nhà thơ, trong khi nhìn ngắm mùa đông, nhìn ngắm màu đỏ của lá bàng mà đã viết được một bài thơ thật xúc động: Vẫn gió bấc căm căm
Vẫn mơ hồ mưa bụi
Vẫn những lá bàng uốn cong mình mà cháy
Đỏ như khi phải từ biệt bầu trời
Anh chẳng biết thế nào để yêu em thêm nữa
Khi mùa đông tới gần…
Nhưng đến năm tôi hai mươi ba tuổi thì cây bàng cổ thụ ấy không còn nữa. Vì lấy đất dành cho sự mưu sinh, người ta đã triệt hạ nó. Sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về đứng trên mảnh đất từng gắn bó với cây bàng cổ thụ mà lòng không khỏi xót xa, tiếc nuối. Trong lòng tôi tự dưng thấy trống trải thiếu thốn…
Bây giờ, cứ mỗi khi nhìn thấy lá bàng đỏ rực lên sau khi hoàn tất chức phận của mình, để mà rụng về gốc, trong buổi giao mùa, tôi lại nao nao nhớ cây bàng cổ thụ. Cũng phải, vì nó là một phần kỷ niệm không thể thiếu trong khoảng trời thơ ấu và đáng nhớ của chúng tôi.
Không biết tự bao giờ, cây bàng trước cửa lớp đã trở nên vô cùng thân thương đối với tôi. Tôi đã ngắm cây bàng ấy trong suốt cả bốn mùa. Mùa nào, bàng cũng có một vẻ đẹp riêng. Không biết có phải thế không hay do tình yêu tôi dành cho loài cây này mà tôi thấy bàng mùa nào cũng đẹp.
Khi những tiếng ve đầu tiên bắt đầu ngân lên báo hiệu mùa hè đến, cũng là lúc dòng nhựa chảy trong bàng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Dòng nhựa ấy tiếp sức để những chiếc lá bàng mới ngày nào còn bé bỏng non nớt, giờ đã xanh ngắt xòe ra to. Thì ra, bàng đã phải làm việc siêng năng suốt ba mùa để bây giờ xòe tán xanh che mát cho chúng tôi.
Bàng cũng thật hào phòng khi thỉnh thoảng nhờ chị gió gửi cho mấy chiếc lá để làm quạt. Cũng chính lúc này, bàng nở những chùm hoa trắng muốt, nhỏ li ti. Mỗi làn gió nhè nhẹ thoảng qua là có cả thảm hoa bàng lại trải đều quanh gốc, vương đầy trên mái tóc dài Óng ả của các nữ sinh.
Bàng đẹp và bọn con gái chúng tôi hình như cũng đẹp hơn khi điểm hoa bàng trên tóc.Sau ba tháng hè xa cách các bạn học sinh, bàng rạng rỡ hẳn lên khi thu về. Nắng thu vàng dịu ngọt xuyên qua từng mặt lá làm gương mặt bàng sáng bóng lên. Ai thấy mình đẹp mà chẳng vui, Bàng vui vì thấy mình đẹp. Mà hình như còn được nghe lại tiếng nói, tiếng cưới xôn xao của các bạn học trò tinh nghịch, dễ thương.
Bàng xôn xao cùng chúng tôi trong mỗi ngày học mới, bàng chia sẻ cùng chúng tôi bao buồn vui của tuổi học trò. Còn nhớ, một lần không làm bài tập, thầy giáo đã phạt tôi thật nặng. Tôi buồn quá, giờ chơi lân la đến gốc bàng. Bất ngờ, bàng gửi tặng tôi một trận mưa hoa. Cảm xúc trào dâng, tôi viết liền một bài thơ. Ai có ngờ đâu, bài thơ ấy trong cuộc thi sáng tác trẻ lại giành ,cho tôi giải A. Tôi lại thầm cám ơn bàng. Nhờ có bàng mà tôi hiểu rằng cuộc sống thật là một chuỗi những buồn vui như thế!
Thu qua, đông lại. Mùa đông lá bàng chuyển màu sẫm nâu. Rồi một buổi sáng tôi thấy cây bàng rực lên màu đỏ như lửa. Ngọn lửa khổng lồ ấy cháy đỏ suốt mấy tuần. Tôi đứng dưới gốc bàng, thấy mình sưởi ấm. Có lẽ cây bàng đã tự đốt mình để chống lại giá rét mùa đông?
Rồi gió bấc thổi qua, những chiếc lá màu lửa rụng xuống. Sau khi cởi bỏ tấm áo rực rỡ của mình, bàng chỉ còn lại tấm thân sần sùi với những cành khẳng khiu đứng trơ trọi giữa gió mưa. Bàng thu mình ngủ ngon lành trong tiếng ru của gió. Cây bàng cứ đứng vậy chống đỡ cả mùa đông. Để xuân về, bàng lại vươn mình bừng dậy…
Mùa xuân về, thời tiết trở nên ấm áp, và cây bàng nhú ra muôn vạn lộc non. Hầu như suốt mùa đông, cây bàng đã giấu trong nó tiềm tàng màu xanh non của sự sống. Cây bàng đón xuân nhiệt thành, say đắm. Có lẽ, nó hiểu rằng nó cũng phải góp chút ít tinh túy của mình để làm nên sức dào dạt của đất trời.
Tôi lặng đi khi nghĩ đến ngày mai phải chia tay mái trường, phải chia tay cả bàng nữa. Còn bây giờ, tôi và bàng vẫn cứ là bạn thân. Sớm nay, trời thật đẹp. Bàng vẫn đang giơ tay đón chào tôi đến lớp. Tôi yêu bàng nhiều lắm, nhiều lắm.
Nhìn từ xa, cây bàng như một chiếc ô khổng lồ nhiều tầng xòe tán chùm bóng mát cả một khoảng sân trường rộng cho chúng tôi vui chơi giải trí sau mỗi giờ học căng thẳng. Lại gần cây bàng tròn, thẳng màu nâu sẫm như dãi giầu qua nhiều năm tháng. Cây bàng là một loại cây rất nhạy cảm với sự thay đổi của bốn mùa. Nhìn lá bàng người ta có thể nhận biết chính xác các mùa trong năm.
Vào mùa thu, khi tiết trời se lạnh những chiếc lá bàng to như hai bàn tay người lớn vốn mầu xanh đâm chuyển sang màu vàng gạch quăn dần mép lá rồi vồng lên như hình mo cau. Lúc này nó đó biến sang màu đỏ tía và khi những chị gió thu tinh nghịch thổi đến nó vội vã bứt ra khỏi cành chao liệng giữa không trung i hệt những cánh tay vẫy chào tạm biệt nơi đã sinh ra mình. Nhìn những chiếc lá bàng nằm trải dài trên sân trường trông mới tuyệt làm sao!
Cứ thế, những chiếc lá bàng chuyển dần màu sắc cho đến khi những cơn gió lạnh buốt từ phương Bắc tràn về thì cây bàng không còn một chiếc lá nào nữa. Còn lại những cành trơ trụi trông có vẻ khẳng khiu gồng mình chịu đựng cái rét lạnh buốt của mùa đông nhưng trong những cành khẳng khiu ấy vẫn tràn trề nhựa sống.
Rồi tiết trời như ấm lại, xuân đã về. Chỉ một tuần thôi thì những chồi non xanh li ti đã điểm hết những cành to, cành nhỏ. Thoáng cái đã thấy màu xanh non bao phủ lấy toàn thân cây và chuyển dần sang màu xanh đậm. Những chiếc lá của tầng thấp, tầng cao phát triển nhanh đến kì lạ. Từ bé bằng bàn tay trẻ nhỏ mà nay đã phè phè như cái quạt mo.
Cho đến khi mùa hạ về, lá vàng rợp mát cả một khoảng sân và đây là thời điểm mà tụi nhỏ chúng tôi tụm năm tụm bẩy vui đùa nhảy nhót hết sức thỏa mái vào những giờ chơi dưới gốc bàng mát rượi thân yêu này. Bàng còn là nơi gọi chim về tụ hội ca hát nhảy múa trong vòm lá. Càng tô điểm cho cây vẻ đẹp mĩ miều.
Tụi nhỏ chúng tôi yêu cây bàng này lắm bởi nó đã gắn bó với ngôi trường tôi. Nó còn là nơi chứng kiến bao kỉ niệm vui buồn của chúng tôi. Dù mai này có phải xa mái trường, xa cây bàng yêu dấu này thì hình ảnh về cây bàng mãi mãi in đâm trong tâm trí tôi.
Bàng (danh pháp khoa học: Terminalia catappa) là một loài cây thân gỗ lớn sinh sống ở vùng nhiệt đới, thuộc họ Trâm bầu (Combretaceae). Nguồn gốc của loài này hiện vẫn đang là vấn đề gây tranh cãi, nó có thể có nguồn gốc từ Ấn Độ, bán đảo Mã Lai hay New Guinea.
Loài cây này có thể mọc cao tới 35 m, với tán lá mọc thẳng, đối xứng và các cành nằm ngang. Khi cây già hơn thì tán lá của nó trở nên phẳng hơn để tạo thành hình dáng giống như cái bát trải rộng. Lá to, dài khoảng 15-25 cm và rộng 10-14 cm, hình trứng, xanh sẫm và bóng.
Đây là loài cây có lá sớm rụng về mùa khô; trước khi rụng thì các lá chuyển màu thành màu đỏ ánh hồng hay nâu vàng, do các sắc tố như violaxanthin, lutein hay zeaxanthin. Hoa đơn tính cùng gốc, với các hoa đực và hoa cái mọc trên cùng một cây.
Cả hai loại hoa có đường kính khoảng 1 cm, có màu trắng hơi xanh, không lộ rõ, không có cánh hoa; chúng mọc trên các nách lá hoặc ở đầu cành. Quả thuộc loại quả hạch dài 5-7 cm và rộng 3-5,5 cm, khi non có màu xanh lục, sau đó ngả sang màu vàng và cuối cùng có màu đỏ khi chín, chứa một hạt.
Bàng được trồng trong khu vực nhiệt đới như là một loại cây cảnh hay để lấy bóng râm nhờ tán lá lớn và rậm. Quả ăn được và có vị hơi chua. Gỗ có màu đỏ, rắn chắc và chống thấm nước khá tốt; tại Polynesia người ta dùng nó để đóng các loại canoe (xuồng gỗ).
Quả bàng: Lá chứa một số flavonoid (chẳng hạn kaempferol hay quercetin) cũng như các chất tanin (như punicalagin, punicalagin, tercatin), các chất saponin và phytosterol. Do chứa nhiều hóa chất nên lá và vỏ thân cây bàng còn được sử dụng trong nhiều nền y học cổ truyền khác nhau vào một số mục đích. Chẳng hạn, tại Đài Loan người ta dùng các lá rụng làm thuốc chữa một số bệnh liên quan tới gan.
Tại Suriname, chè được làm từ lá bàng được dùng để chữa các bệnh như lỵ và tiêu chảy. Người ta cũng cho rằng lá bàng có chứa các chất ngăn cản ung thư (mặc dù không thấy chúng thể hiện khả năng chống ung thư) và các đặc trưng chống ôxy hóa cũng như chống phá hủy bộ nhiễm sắc thể.
Cây bàng trường tôi
‘‘ Mùa đông áo đỏ
Mùa hạ áo xanh
Cây bàng khi mở hội
Là chim đến vây quanh...’’
Lời hát ấy - bao giờ cũng ngân vang trong lòng tôi - mỗi lúc đến trường - nhìn lên cây bàng quen thuộc, thân thương. Cây bàng trường tôi, tuổi còn non trẻ lắm, thân vươn thẳng, xòe ba tán lá tròn xoe như những chiếc ô chồng lên nhau trông thật ngộ nghĩnh.
Nó lớn nhanh - rất nhanh. Lần đầu tiên, trông thấy nó, nó chỉ mới một tầng lá xanh, mà nay đã lớn bổng lên, chồng thêm nhiều tán lá mới. Thật tuyệt vời! Mỗi mùa, cây bàng có một dáng vẻ riêng - đặc biệt - không thể trộn lẫn với bất kỳ loài cây nào.
Mùa hè, những chiếc lá trưởng thành xanh thẫm, đan nhau tỏa bóng rợp mát một góc sân. Những bông hoa nho nhỏ - đơn sơ - giản dị - khiêm tốn chen lẫn trong những tán lá xanh. Giờ chơi, gốc bàng là nơi lý tưởng nhất để các em học sinh quây quần trò chuyện. Dưới ánh nắng gay gắt mùa hè, bóng mát cây bàng mới tuyệt vời làm sao. Cây bàng như xòe muôn vàn cánh tay thân thiện che chở cho các em tránh nắng hè... Rồi đến ngày những cây phượng nở bừng sắc đỏ.
Sân trường lặng ngắt, vắng tiếng cười đùa, hò reo quen thuộc. Cây bàng như ủ rũ, như buồn nhớ. Nó đứng bơ vơ, lặng lẽ trong sân trường, trông cô độc làm sao!... Khi tiếng trống khai trường giục giã, một năm học mới bắt đầu. Cây bàng như khởi sắc, hân hoan.
Nó đong đưa những chiếc lá xanh thẫm, xen lẫn vài chiếc lá ươm vàng, tô điểm thêm những chiếc lá đã bắt đầu ngả sang đo đỏ. Nó như khoác chiếc áo mới - màu xanh lốm đốm vàng, đỏ, vẫy muôn nghìn cánh tay chào đón những dáng hình quen thuộc và, chen lẫn trong tán lá đầy màu sắc ấy, lấp ló những trái bàng, vàng mơ - ngòn ngọt - bùi bùi..
Rồi những cơn gió lạnh se se - mùa đông đến rồi. Cây bàng rực đỏ một màu. Rồi những chiếc lá đỏ ấy lần lượt xa cành. Khi chia tay với cây mẹ thân yêu, những chiếc lá kia có bồi hồi luyến tiếc? Riêng tôi, vẫn cứ thích ép những chiếc lá bàng đỏ ấy, mỗi chiếc mỗi sắc màu riêng. Cùng là màu đỏ, nhưng chiếc đỏ sậm, chiếc đỏ sâm sẫm, cái đỏ hồng tươi, cái đo đỏ chen lẫn vàng thẫm...
Quan sát sự thay đổi sắc màu dần dần của chúng mà thấy bùi ngùi khó tả. Rồi đến lúc thân cây trơ trụi, vươn những cánh tay khẳng khiu lên bầu trời xám xịt màu chì, mưa giăng mưa, gió đan gió, cây bàng trường tôi vẫn sừng sững giữa trời.. Rồi thật bất ngờ, cây bung những chồi xanh non biêng biếc, một màu xanh non tơ, tràn đầy sức sống - báo hiệu mùa xuân.
Tôi yêu thích nhất màu xanh nõn ấy. Nó cho tôi biết bao niềm tin yêu và hy vọng vào cuộc sống vẫn cứ tiếp diễn mãi không ngừng - cho dù có gặp bao nỗi gian nan hay thất vọng. Ơi! Màu xanh cuộc sống. Sức sống ấy như trỗi dậy sau giấc ngủ dài mùa đông. Mùa xuân sân trường như sáng bừng lên bởi dáng vẻ tươi mới đầy sức sống ấy. Những chiếc lá mượt mà reo vui, chào đón một năm mới bắt đầu, tràn trề ước mơ, hy vọng...
Chắc hẳn mỗi người học trò nào cũng có những kỷ niệm về mái trường, thầy cô và bè bạn, với tôi kỷ niệm ấy gắn với cây bàng ở sân trường có lẽ không bao giờ tôi quên được hình ảnh về cây bàng này.
Từ xa nhìn lại, cây bàng như chiếc ô xanh kỳ lạ. Rễ cây nổi lên mặt đất như những con rồng đang uốn lượn. nhưng đẹp nhất vẫn là lá bàng. những ngày cuối đông lá bàng chuyển từ màu lục già sang màu vàng rồi chuyển sang màu đỏ thật lộng lẫy, không sót một chiếc lá nào. Bây giờ, cây bàng nổi bật với những chiếc lá đỏ như đồng giữa bầu trời lạnh lẽo mùa đông khiến ta cảm thấy ấm áp. Chỉ cần một cơn gió nhẹ thoáng qua đã làm chiếc lá bàng rơi xuống.
Lúc ấy, trông những chiếc lá bàng thật giống những chiếc máy bay., rơi đột ngột từ trên cao xuống bị gió thổi làm cho lảo đảo, lảo đảo mấy vòng rồi cuối cùng đã hạ cánh xuống mặt đất. Những chiếc máy bay hạ cánh chồng lên nhau như một chiếc thảm rực rỡ khiến cho những cành bàng trở nên trơ trụi. Để rồi màu xuân đến, lộc non tràn đầy trên những cành khô khốc ngày nào.
Những lộc non ấy xanh biếc một màu xanh đến kỳ lạ, xanh tươi đẹp đến nỗi người vội vã đến mấy cũng phải dừng lại đôi chút để ngắm lá bàng. Và dường như trong mỗi cành lộc non như ẩn chứa cái gì đó vô cùng mạnh mẽ, một sức sống mãnh liệt, tràn đầy sức sống. Đến mùa hạ, lá bàng đã rắn rỏi hơn cả, chiếc lá to dần lên thật dày, xanh um mát rượi. Ánh sáng xuyên qua giờ chỉ còn là màu ngọc bích.
Chính vì lẽ đó mà chúng em rất thích được ngồi dưới tán lá bàng đọc truyện, chơi nhảy dây, đá cầu… Mùa thu đến, hoa bàng đã nở rộ xinh xinh như những ngôi sao tí hon rồi dần trở thành những quả bàng vàng ươm, thơm lừng và ngọt lịm, nhân ăn bùi bùi như lạc.
Thời gian thấm thoát trôi qua cũng đã năm năm rồi, sắp phải xa mái trường tiểu học Cát Linh yêu dấu, sắp phải xa bạn bè xa cây bàng nhưng có lẽ suốt đời này em sẽ không bao giờ quên và mãi khắc ghi vào trong tim hình ảnh cây bàng với những kỉ niệm bạn bè của thuở nào.
Bạn bè tôi thích cây phượng vĩ rắn rỏi, với màu hoa đỏ rực rỡ, tả cây sấu già, tả cây dâu da. Tôi chọn cây bàng ấy: nhỏ, gầy guộc và cô đơn.
Mùa xuân, mầm lá nhú lên, rồi lớn dần, lớn dần. Hè đến, những chiếc lá to, xanh bóng, che được một khoảng sân. Một khoảng sân rất nhỏ. Mùa thu, lá chuyển vàng. Mùa đông, lá đỏ rồi lìa cành. Lá đến rồi lá đi. Chỉ còn cây bàng vẫn đứng đấy. Cô đơn và trơ trụi.
10 năm trước, tôi thêm mắm thêm muối vào bài văn tả cây bàng của mình. Đại ý, cây bàng ấy là nơi tôi và bạn bè thường hay chơi đùa quanh cây bàng, tán lá che rợp cả một góc sân, chúng tôi vẫn ngồi dưới gốc cây để truy bài trong những chiều hè nóng nực,…
Thật ra, chỉ có nó và tôi, tôi và nó trong những buổi chiều muộn ở lại trường chờ mẹ họp hội đồng. Tôi đã nhìn thấy, ngắm nghía nhiều cây bàng. Cây bàng ở gần nhà tôi - cái cây tôi chứng kiến từ lúc nó còn là cây non, đến lúc nó cao bằng tôi, và bây giờ khi nó trở thành cây bàng to lớn với ba bốn tầng lá.
Cây bàng ở trường đại học, rất gần với ô cửa sổ lớp tôi, thỉnh thoảng tôi vẫn nhìn vẩn vơ ra ngoài cửa sổ, nhìn những tia nắng mùa thu lọt qua tán lá. Nhưng tôi nhớ cây bàng ở trường tiểu học. Cây bàng nhỏ bé, gầy guộc nơi cuối sân trường.
Đã rất lâu rồi, tôi không viết một bài văn. Đã rất lâu rồi, tôi chưa trở về trường tiểu học.
Nó còn đấy không? Cây bàng cô đơn của tôi.
Cây Bàng Cuối Thu
Thu đi trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Lìa cành theo gió lá luồn qua song
Hai tay ôm lá vào lòng
Than ôi chiếc lá cuối cùng là đây!
Quạnh hiu như tấm thân này
Lại âm thầm sống những ngày gió mưa…(Nguyễn Bính)
Suốt những năm học, tôi đã quen với hình ảnh cằn cỗi của cây bàng. Tôi đã rất nhiều lần đứng dưới cây, tự hỏi bàng có gì đặc biệt đến thế? Bàng không bao giờ giữ nguyên một dáng vẻ! Có lẽ sự thay đổi suốt bốn mùa làm nên điều đặc biệt chăng?
Mùa thu, lá bàng thả đầy sân trường, lộ ra những trái bàng xanh và có hình dáng như con thoi. Thoắt cái, quả bàng đã có sắc vàng, nhẹ nhàng và không phô trương. Tôi chưa bao giờ ăn quả bàng, nhưng nghe nói nó có vị ngọt và chát, vỏ quả bàng cứng cáp, nhưng tôi vẫn có thể ngửi thấy mùi thơm nhè nhẹ.
Đông về, cây bàng trần trụi, cô đơn. Đâu rồi tán lá bàng xum xuê? Cây bàng giơ những cánh tay gầy guộc. Nhìn bàng, tôi cảm thấy chạnh lòng. Khi những cơn gió lạnh thổi qua, liệu bàng có run? Bàng có lạnh không, với thân thể gầy guộc như thế? Nhưng bên trong cơ thể săn gầy ấy lại là một dòng nhựa sống mãnh liệt. Để xuân đến, cây bàng bừng tỉnh, đâm chồi nảy lộc.
Từ những nách cành, nhú ra những những chồi non xanh mơn mởn, nhỏ xinh như những ngón tay em bé. Chồi nụ như những đốm lửa xanh thắp nến trên cây trông thật thích mắt. Mỗi ngày ngắm cây bàng, tôi lại thấy nó thay đổi chút ít. Cho đến khi những chồi nụ nở thành lá, tôi nhận ra đã sang hè.
Hè. Những chiếc lá bàng to bằng bàn tay ken vòm thành chiếc ô xanh khổng lồ che mát cho chúng tôi khi học thể dục dưới nắng. Những bông hoa bàng màu trắng ngời như những ngôi sao từ trên trời rơi xuống.
Tôi còn nhớ khi mới bước vào trường, cây bàng thả xuống đầu tôi một quả bàng như một lời chào tinh nghịch với người bạn mới. Khi tôi buồn, cây cũng buồn cùng tôi. Cây dịu dàng thả xuống vai tôi những chiếc lá, vài bông hoa. Với tôi, cây bàng như một người anh hiền lành, chất phác. Anh không biết tặng tôi những món quà giá trị vật chất, mà chỉ ngô nghê tặng tôi những gì anh có.
Cây bàng cũng có mặt trong những loài cây “thu về”. Đó là những loài cây đẹp nhất khe khẽ dắt mùa vào thu. Tôi nhớ đến câu hát “Hà Nội mùa thu, cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ…”. Cây bàng của tôi đã trở thành một nét thu Hà Nội. Không thể tưởng tượng nổi nếu sân trường tôi bỗng thiếu bóng cây bàng… Sẽ như thế nào nhỉ? Sẽ là nỗi trống trải và nhớ đến khắc khoải mất thôi…
Giờ thì tôi đã hiểu tại sao cây bàng lại đặc biệt đến thế! Không có vẻ đẹp tuyệt vời cũng không có hương thơm quý phái. Cây bàng đặc biệt theo cách riêng của nó. Không thể nhầm lẫn với bất cứ cây nào khác…
Khi sắp hết một đời lá, cây thường trả cái màu xanh cho trời đất để tìm đến với hanh hao vàng. Từ vàng nhạt màu nắng non đến vàng thẫm ưu tư rồi nhẹ nhàng tạm biệt cành theo gió trở về cõi vĩnh hằng. Bởi thế, người ta nghĩ đến thu, nhớ đến mùa thu người ta nhớ đến màu vàng định mệnh.
Nhưng có một loài cây không chịu tuân theo sự sắp đặt của tạo hóa. Nó không tìm về với màu vàng nguyên thủy của lá thu, cũng không tìm về với thu để rụng lá. Nó tìm về với màu đỏ và dừng lại vài ngày trên gam màu ấy trước khi rụng. Lúc những cơn gió đông lạnh buốt len khắp. Đó là cây bàng, thứ cây người ta trồng nhiều trên sân trường để lấy bóng mát cho lũ học trò. Thứ cây gần gũi với học trò chỉ sau phượng.
Trời lạnh dài suốt tháng chạp, bàng bắt đầu chuyển màu cũng vào những ngày cuối đông ấy. Từ màu lục già sẫm, bàng ghé một chút nhìn màu vàng rồi chuyển mình sang màu đỏ. Trong cuộc chuyển mình ấy, bàng cho ta cảm giác bất ngờ đầy thú vị. Giữa trời đông xám lạnh, bàng đem đến sắc đỏ lộng lẫy. Cả cây không sót một chiếc lá nào màu xanh, sắc đỏ như ngọn lửa bừng sáng, ấm nồng những ngày đông giá rét.
Ta yêu cái màu đỏ rực nồng nàn ấy như yêu cái nồng nàn mãnh liệt của con người đất Việt. Rồi lá đỏ rơi, lá đỏ tạm biệt cây để trở về với hư vô khi đã đi trọn một đời lá, khi đã làm xong phần việc mà tạo hóa giao cho khi sinh ra nó. Tạm biệt cây để lại nhường chỗ cho một lứa lá mới, một thế hệ mới.
Không cố hữu, không tranh giành, những chiếc lá đỏ ấy thanh thản vì biết rằng, suốt một năm qua, nó đã cần mẫn xòe tán, che mát cho bao cô cậu học trò. Nó cũng đã chứng kiến bao buồn vui, bao kỉ niệm, vui cùng, buồn cùng học trò. Nó thấy mình đã thật sự có ích nên ra đi mà không còn phải vấn vương hay tự trách thân tiếc nuối. Lá rụng đến tận cùng, không còn một chiếc nào trên cây.
Dáng bàng được xem là đẹp nhất. Ngay cả lúc này, khi chỉ còn trơ lại những cành khô khốc nó vẫn kiêu hãnh vươn mình, xòe bàn tay gầy guộc lên trời cao như chờ đợi để đón nhận quà tặng của thời gian. Vốn không hào phóng nhưng lúc này bà mẹ thời gian lại mở lòng thơm thảo với bàng. Những cây khác phải đợi suốt cả một mùa đông dằng dặc lạnh mới được ban chồi non thì bàng được ưu ái hơn hẳn.
Chỉ sau cái hành động quyết liệt, rũ đến tận cùng, tận ngọn những chiếc lá đỏ của mùa thu, một thời gian không dài lộc đã về trên bàn tay gầy xòe rộng của bàng. Không chỉ riêng một mình lá lạ khác khi rụng, búp bàng cũng thế. Dáng mọc thẳng đứng trên cành, nhanh đến ngỡ ngàng như là vừa qua một đêm thôi, ai đã thả ngàn vạn búp lá nhỏ khắp các cành cây.
Xanh biếc, chi chít. Những búp non ấy xoay thành tán tròn quanh thân cây. Bàng lại vươn mình, kiêu sa khoe dáng, khoe sắc. Rồi búp non lớn nhanh thành lá, lá đứng thẳng và cao chừng gang tay nhưng chưa xòe ra mà cuộn tròn, vểnh lên như tai chú thỏ mỗi khi dỏng lên nghe ngóng.
Bàng thật lạ phải không? Nhưng chưa hết đâu. Nếu để ý bạn sẽ thấy, khi lứa lộc đầu tiên ấy bắt đầu xoè thành những chiếc lá nhỏ bàng sẽ cho ta lứa lộc nối tiếp. Lứa lộc thứ hai của bàng có màu hồng thẫm. Bàng bây giờ khoác một chiếc áo màu lục non, điểm những chấm hồng thẫm đó. Nó lại kiêu hãnh vươn mình.
Và nếu ta bận bịu, ta mải mê với công việc, ta quên không để ý cây mỗi ngày thì chỉ mười, mười lăm ngày sau, chợt nhớ đến cây, nhìn đến cây ta phải thốt lên tiếng xuýt xoa, ngỡ ngàng. Lá đã xòe kín, tán đã như chiếc ô xanh khổng lồ, và hơn hết, ta có cảm giác như nó vẫn y như thế từ năm ngoái, năm kia và từ bao giờ không biết nữa. Đứng sừng sững như vĩnh hằng cùng thời gian, như bình thản trước mọi sự đổi thay.
Nắng hè tưng bừng khắp nơi. Bàng càng có cơ hội thể hiện mình với các cô cậu học trò. Lá bàng như mời, như vẫy gọi, như khiêu khích cái khát vọng vươn lên mãnh liệt của tuổi trẻ mà những ngày tháng học trò mới là sự bắt đầu. Trong tán lá bàng xanh mơn mướt ấy sự sống và ước mơ ăm ắp trào dâng, chảy không vơi cạn.
Nào các bạn trẻ, hãy đồng hành với màu xanh hy vọng ấy đến tận cùng của ước mơ. Và ngày mai, trong bộn bề kí ức của tuổi học trò bạn sẽ thấy có thấp thoáng tán lá xanh bền bỉ của bàng. Thấy cuộc đời mình đẹp hơn khi mỗi ngày ta biết vươn mình lớn dậy, sống mãnh liệt và có ích như cây bàng tưởng như vô tri kia.
Nhắc đến Hà Nội là nhắc đến cánh hoa đào Nhật Tân tươi thắm, đến bát canh sấu ngày hè làm dịu mát cái nắng gắt gay, đến hương hoa sữa dịu dàng, vương vấn từng bước chân trên phố. Và, đã là người Hà Nội, có lẽ tuổi thơ ai cũng ít nhất từng một lần nếm thử vị thơm bùi của quả bàng khi gió lạnh se se…
Không hiểu sao, tôi lại yêu nhất cây bàng vào mùa thu, khi nắng thu vàng dịu như mật ngọt làm sáng bóng lên từng mặt lá. Ai thấy mình đẹp mà chẳng vui. Cây bàng thay áo đẹp cũng vui. Bàng xôn xao dõi theo bước chân em bé cắp sách tới trường ngày khai giảng, biết khi chiều về, thể nào em bé cũng tới gốc cây, chăm chú tìm giữa tán lá những đốm sáng vàng. Quả bàng đấy! Trong bàn tay thơ bé, trái bàng nhỏ xinh đã ngọt ngào tỏa hương…
Tiết trời đã sang đông. Từng đợt gió lạnh làm con người phải co lại trong chiếc áo ấm. Bàng thì ngược lại, cứ nhẩn nha thả từng chiếc lá xuống như em bé chơi đếm ngón tay. Những chiếc lá từ lúc ở trên cành đã kiêu hãnh đón luồng gió lạnh từ phương Bắc tràn về, tự thấy mình khô se đi rồi dứt khoát bứt cuống mà nhẹ nhõm rơi xuống.
Bấy nhiêu lá là bấy nhiêu áo cho Mẹ đất đang ấp ủ những mầm non. Sau khi cởi bỏ tấm áo đẹp của mình, bàng chỉ còn tấm thân sần sùi với những cành khẳng khiu. Bàng thu mình ngủ ngon lành trong tiếng ru của gió. Cứ ngủ ngon nhé bàng, để xuân về rồi vươn mình bừng dậy!…
Một giấc đêm của ta qua nhanh bao nhiêu thì giấc ngủ đông của bàng cũng chóng hết bấy nhiêu. Mọi người đều mong chờ cái thời khắc thiêng liêng khi mùa xuân mang theo hi vọng gõ cửa từng nhà. Cô bé nhặt trái bàng hôm nào xúng xính trong bộ quần áo mới, mang một chữ “Lộc” thắm đỏ dán lên cây. Cô bé yêu cây bàng, bé có thấy cây bàng đang vươn lên hãnh diện hay không?
Có đấy, vì ngày nào cô bé cũng ra đây tâm sự với cây bàng, để một ngày mừng rỡ reo vui: Cây bàng có chồi non rồi? Đúng đấy, nhờ chữ “Lộc” của cô bé, bàng đang khoe những cái chồi nhỏ xíu đầy cành. Cũng như chúng ta chứng kiến một em bé ra đời sau bao khó khăn của người mẹ thôi. Cảm giác vui sướng nhẹ nhõm này, chẳng phải ai cũng được biết đâu. Giữa mùa xuân cả đất trời tràn một màu xanh ngọc bích, làm nên sắc màu ấy, bàng cũng góp phần.
Rồi những hạt mưa phùn lắc rắc nhường chỗ cho nắng gắt, cơn giông chiều. Cô bé ráo riết chuẩn bị cho kì thi cuối năm nên chẳng mấy khi đến chơi với bàng nữa. Bàng buồn hiu. Những chồi non đã khỏe khoắn vươn ra xoè tán, khoác chiếc áo mới cho bàng.
Sau mỗi lần tắm dưới những giọt nước trĩu nặng mát lành của cơn mưa rào, những chiếc lá lại càng sáng bóng hơn, xanh mướt một màu. Nhưng bàng còn đẹp với ai, khi hầu hết con người bây giờ sống như máy, vội vã đi, hối hả về họ đắm chìm trong khói bụi cuộc sống, nhưng chẳng bao giờ dừng chân để xem cây cối bên đường đã thay đổi thế nào.
Bàng thấy tiếc cho họ. Sao họ không như bàng đây, lim dim mắt nghỉ ngơi giữa tiếng dế, tiếng ve râm ran. Trong bàng đang rạo rực tuôn chảy dòng nhựa sống được những cái rễ chắc khoẻ cắm sâu vào lòng đất cần cù đưa lên. Bàng hào phóng gửi tặng dòng nhựa đó cho những chú ve nhỏ và được đền đáp bằng dàn đồng ca suốt cả một mùa hè…
Một ngày của bàng bằng một năm đời người. Từ một mầm cây nhỏ, bàng đã lớn, đã thấy, đã nghe, đã chứng kiến bao điều trong cuộc sống… Cô bé nhặt trái bàng ngày nào giờ đã trưởng thành. Đôi lúc trở lại góc phố xưa, cô vẫn ngước đôi mắt ướt nhìn lên tán bàng. Bàng lại nghiêng tán toả bóng vỗ về cô…
Cứ thế, bao thế hệ người Hà Nội sinh ra, lớn lên. Còn bàng, bàng vẫn đứng đấy, mỗi mùa thu về lại thả những quả vàng cho những cô bé và xòe tán chở che cho những đứa trẻ lang thang không mái ấm…
Trong các loài cây trên đất nước Việt Nam, cây nào cũng có vẻ đẹp và ý nghĩa riêng của có. Nhưng với tôi, có lẽ cây bàng là người bạn vô cùng thân thiết. Tôi yêu bàng như một sinh thể sống bởi bàng là chứng nhân cho biết bao kỉ niệm vui buồn thời thơ ấu của tôi.
Từ khi biết nô đùa, chạy nhảy cùng lũ bạn gần nhà, tôi đã thấy cây bàng đứng sừng sững ở đầu làng gần khu chợ nhỏ từ bao giờ. Nhìn từ xa, cây bàng như một chiếc ô khổng lồ. Thân cây to, nổi lên những u, những cục sần sùi. Bà tôi bảo đó là mắt của bàng. Rễ cây bám sâu vào trong lòng đất vững vàng qua mưa gió.
Các bạn cùng lứa tuổi với tôi thường ngắm màu đỏ của hoa phượng để đón chờ hè tới. Nhưng tôi lại thích ngắm sự đổi thay kì diệu của những mầm chồi non của bàng chuyển dần thành lá – với tôi, đó là sự báo hiệu của ngày hè. Mùa hè, bàng khoác trên mình chiếc áo màu xanh.
Những tán lá như những chiếc lọng xanh mát rượi che đi cái nắng oi ả trong buổi trưa hè. Dưới gốc bàng là cả một kho cổ tích của lũ trẻ con xóm nhỏ. Bọn trẻ chúng tôi thường lấy lá bàng làm những chú trâu chọi, nghênh nghênh đôi sừng nhọn hoắt, sáp vào nhau trong tiếng hò reo náo nhiệt. Những đêm trăng sáng mất điện, chúng tôi lại rủ nhau chơi trò “rồng rắn” quanh gốc bàng cổ thật vui…
Gốc bàng xù xì, rễ tỏa ra nhiều phía nên bao nhiêu sinh lực bàng dành hết cho lá, cho cành, cho những chùm hoa trắng nhỏ li ti kết thành trái. Bàng hứng nắng trên đầu để gốc mát quanh năm, để ánh nắng trưa hè lọc qua lung linh huyền ảo. Trong tán lá bàng xanh ấy là thế giới riêng của những chú chim sẻ, chim sâu bé nhỏ. Đứng dưới gốc bàng nghe tiếng kêu lích chích của chúng rộ lên thật vui tai.
Tạm biệt mùa hè, bàng đón thu sang với làn sương mỏng cùng ánh nắng thu hanh hao để những chiếc lá xanh của mình chuyển dần sang màu vàng. Rồi một ngày gió heo may se lạnh, những cơn mưa thưa dần, đó cũng là lúc quanh gốc bàng đã lác đác rụng những quả bàng chín. Lũ trẻ xóm tôi, cứ đi học về là lại đến bên cây bàng tìm hái bàng để ăn. Với chúng tôi, bàng chín là một món đặc sản ngon tuyệt.
Bàng chín ăn có vị ngòn ngọt, chua chua, hơi chan chát… Nếu ai đã cầm trái bàng chín trên tay, chắc chắn sẽ không thể nào quên được mùi thơm dịu tỏa ra từ lớp vỏ vàng bóng. Đập vỡ hạt ra bạn sẽ thấy nhân trái bàng màu trắng đục, ăn thơm béo lạ thường. Phải chăng rễ bàng đã phải cần mẫn, vất vả chắt chiu màu mỡ trong lòng đất mẹ để chúng tôi có được những trái, nhân ngon, ngọt lành đến vậy!
Lá bàng từ màu vàng nhạt, sậm dần rồi chuyển sang nhuộm màu đỏ sẫm. Đó là lúc bàng gửi những tấm thiệp hồng đầu đông cho con người, cho cây cỏ. Từng cơn gió bấc thổi mạnh, lá bàng lìa khỏi cành bay vào không gian như nuối tiếc điều gì đó rồi nhẹ nhàng đáp xuống cỏ.
Đông đã đến thật rồi! Bàng trút lá, cành cây trơ trụi khẳng khiu giữa mùa đông buốt giá. Nhiều hôm mưa phùn, gió bấc, tôi thấy thương cây bàng vô cùng và thầm hỏi: “Bàng ơi, trời lạnh lắm, bạn có rét nhiều không?”. Lá bàng khô rơi xào xạc trên lối mòn như trả lời: “Cám ơn bạn, mình không sao đâu. Thu qua, đông tới, và rồi xuân sẽ lại sang, chúng tôi quen rồi bạn ạ!”
Giã từ những ngày đông giá rét, xuân về, cây bàng khoác lên mình những đốm lửa màu xanh. Rồi những đốm lửa màu xanh ấy cứ lớn dần, lớn dần,… Bàng cựa mình rung rinh hé mắt nhìn bầu trời xanh thẳm. Và kì diệu thay, chỉ vài ba hôm không để ý, bàng đã hoàn toàn đổi khác với tấm áo choàng xanh non tươi mới. Cây xòe rộng tán, đung đưa lá cành vẫy gọi chim chóc trở về tụ họp hót ríu ran. Lũ trẻ con chúng tôi lại nô đùa vui vẻ dưới gốc bàng, ngước lên nhìn cây bàng đổi thay sắc áo và mong đợi một mùa hè với bao kỉ niệm tuyệt vời…
Cây bàng thân thuộc, gắn bó với tuổi thơ, với lứa tuổi học trò. Thời gian dần trôi, cây bàng vẫn đứng đó ở đầu xóm nhỏ, xoè tán rộng che nắng che mưa cho bao thế hệ con người. Có ai lớn lên, đi xa còn nhớ về cây bàng? Còn tôi, mỗi khi cầm trái bàng chín trên tay lại nghe như có tiếng ai đó trong gió vọng về: “Bạn ơi, cuộc đời này đẹp lắm!” Đó là tiếng của đất, của trời, hay là tiếng của cây bàng cổ thụ thân yêu?…
Tôi biết đến cây bàng là vào năm lớp một khi bước vào ngôi trường tiểu học, cây bàng trên sân với những chiếc lá thật to, cành cây vươn ra gần như che đi cái nắng chói chang đang chiếu rọi. Cũng chẳng hiểu vì sao cây bàng lại thường được trồng trên sân trường đến thế có lẽ vì những đặc điểm của cây phù hợp với trường học.
Cây bàng như nhìn tôi lớn lên, cho dù là ngôi trường nào, cấp một, cấp hai hay cấp ba thì cây bàng vẫn luôn có mặt trên sân trường như để lưu giữ lại những kỉ niệm học trò, kỉ niệm thời trẻ con tinh nghịch của tôi vậy. Cây bàng mang trong mình một nét đẹp riêng biệt mà cho dù ở bất cứ mùa nào thì nét đẹp đó vẫn luôn hiện hữu.
Vào cuối mùa hạ đầu mùa thu cũng là khoảng thời gian mà tôi cũng như tất cả học sinh cắp sách đến trường sau một khoảng thời gian nghỉ hè dài, tôi vẫn nhớ hình ảnh lưu lại trong tâm trí tôi khi đó là cây bàng nằm ở một góc sân trường dưới cái nắng đã bớt đi phần nào gay gắt , những chiếc lá khẽ lay nhẹ chắc do cơn gió nào đó vừa đi qua, nhìn cây bàng lúc đó thật đẹp và cũng là vì nằm ngay phía góc sân trường đó cũng là lớp tôi.
Cây bàng đứng đó lay nhẹ như thể chào đón sự trở lại của chúng tôi sau những ngày tháng nghỉ hè không gặp. Rồi cũng chẳng biết từ lúc nào trên sân trường là những chiếc lá màu vàng úa của lá bàng, chiếc lá to nhưng đã ngã màu héo úa. Nhìn thấy những chiếc lá trên sân tôi mới nhận ra từ lúc nào cây bàng đã khoác trên mình chiếc áo màu vàng úa thay cho màu xanh đầy sức sống lúc đầu mùa, tuy vậy cây bàng vẫn đẹp, một nét đẹp buồn khiến cho người nhìn vào đó cũng chẳng vui nổi.
Rồi từng cơn gió cứ thế dần mạnh hơn, lạnh buốt kéo theo những chiếc lá bàng rơi rụng đầy cả một khoảng sân trường, gió cùng cái lạnh kéo theo mùa đông đến, cô cậu học trò khoác trên mình những chiếc áo ấm, trên cổ là chiếc khăn len ấm áp, nhìn ai cũng giống như những chú gấu bông ấm áp chỉ có mỗi cây bàng vẫn lặng lẽ đứng đó chẳng mặc thêm áo, chẳng ấm áp và cũng chẳng còn lá.
Giờ đây cây bàng khô cằn già cỗi khẳng khiu với những cành cây khô gầy nhưng cây lại vô cùng kiên cường chống chọi lại cái giá lạnh đó trong mùa mưa bão để rồi khi mùa đông qua đi, cây bàng lại tràn trề nhựa sống với những chồi non xanh mơn mởn gợi cho ta vô vàn sức sống, chồi non tựa như một sự hồi sinh phép màu, trong làn hơi sương lạnh kèm theo đó là cơn mưa bụi những chồi non vươn mình lớn dậy mạnh mẽ đầy nhiệt huyết giữa mùa xuân.
Một năm bốn mùa trôi qua thật nhanh, trải qua bao sóng gió thăng trầm thì cây bàng vẫn đứng đó như một người cô người thầy chờ đợi sự trưởng thành của học trò vậy, mùa hạ đến, mùa của sự chia tay của nỗi buồn nhưng cây bàng lại như che dấu đi nỗi niềm ấy ra sức vươn mình che chở cho các cô cậu học trò những ngày cuối hạ với tán lá xanh non đang dần chuyển màu đậm hơn, dày hơn, đâu đó là những quả bàng rơi rụng kèm theo đó là một vài bông hoa rơi nhẹ trên sân trường như thể chia tay chúng học trò vậy.
Dưới gốc cây bàng ấy học trò chúng tôi đã có không biết bao nhiêu là kỉ niệm đẹp, là những hôm chơi đuổi bắt nhờ cây làm lá chắn, là những hôm cùng nhau ôn bài dưới tán cây ấy, là những lúc đọc sách dưới góc cây nhờ những cơn gió nhẹ lật hộ trang sách,... từng kỉ niệm một điều in sâu trong tiềm thức, những kỉ niệm đó nhẹ nhàng bình yên và đẹp đến lạ.
Thời gian qua đi những cô cậu học trò cũng dần lớn, rồi đến lúc cũng rời xa mái trường thân yêu để đến với những ước mơ của bản thân, rồi sẽ phải chia tay những cây bàng góc lớp, chụp lại những khoảnh khắc đẹp nhất cũng là chụp lại cây bàng lớp học như để kỉ niệm một thời tuổi thơ vô cùng tươi đẹp một thuở học trò chợt nhớ chợt quên, một thuở học trò khi nhớ lại những giọt nước mắt sẽ rơi nhưng rồi đâu đó lại là những tiếng cười.
“Dừa xanh đứng sừng sững giữa trời
Đem thân mình hiến cho đời thủy chung”
Cây dừa cứ thế tự nhiên đi vào thơ ca văn chương. Dừa xanh đã trở thành loài cây quen thuộc, gắn bó với người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân miền trong.
Nguồn gốc của cây dừa này không ai rõ, nhưng một số học giả cho rằng nó có nguồn gốc từ Đông Nam Châu Á và cũng có người cho rằng chúng có nguồn gốc từ miền tây bắc Nam Mỹ. Dừa phát triển tốt trên đất pha cát và có khả năng chống chịu mặn tốt cũng như nó ưa thích các nơi sinh sống có nhiều nắng và mưa. Vì vậy chúng đã trở thành người dân định cư không thể thiếu trên những bờ biển vùng nhiệt đới. Chúng gần như không thể sống được ở những vùng có nhiệt độ khắc nghiệt như Địa Trung Hải. Ở Việt Nam dừa xuất hiện nhiều ở các tỉnh miền Trung như Bến Tre, Cà Mau, Bình Định.
Thân dừa cao có những đốt như hổ vằn, thường có màu nâu sậm, đường kính khoảng 45cm, cây dừa khỏe cao đến 25m. Còn thân dừa lùn có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Mỗi cây dừa đều gồm: thân, lá, hoa, buồng, trái. Với những loại dừa cảnh, thân dừa thường có màu xanh, nhiều đốt, đốt trên cùng là nơi xuất phát những phiến lá ôm lấy thân rồi tỏa ra. Lá dừa to, có màu xanh, gồm nhiều tàu, khi già lá sẽ vàng dần rồi héo và có màu hơi nâu. Hoa dừa có màu trắng, nhỏ, kết thành chùm. Cây dừa ra hoa rồi kết trái, quả dừa có lớp vỏ dày bên ngoài. Bên trong mỗi lớp vỏ cứng là cùi dừa và nước dừa. Quả dừa khi mọc sẽ kết thành buồng, mỗi cây có rất nhiều buồng và mỗi buồng dừa có nhiều quả, trung bình mỗi buồng từ mười đến mười lăm trái dừa, có buồng lại có hơn mười lăm trái.
Họ hàng nhà dừa rất phong phú và đa dạng. Kể đến như dừa xiêm: là loại có quả nhỏ, có màu xanh, nước dừa rất ngọt, thường dùng để uống. Dừa bị thì trái thường to, vỏ màu xanh đậm, thường được dùng trong chế biến thực phẩm. Dừa nếp lại có trái vàng xanh mơn mởn. Hay dừa sáp là loại có cơm dừa vừa xốp, vừa mềm mại lại dẻo như bột đã được nhào sệt, đồng thời lại có màu vàng đục như sáp. Mỗi loại dừa sẽ có cách sử dụng khác nhau tùy theo nhu cầu người dùng.
Dừa có nhiều công dụng. Người ta lấy thân dừa làm cột, làm kèo xây nhà, hoặc sáng tạo ra các mặt hàng thủ công mỹ nghệ khác hoặc làm chén đũa… Bông dừa tươi được hái xuống để cắm trang trí vừa tươi mát lại vừa duyên dáng và độc đáo. Bông dừa già cắt khúc kết lại với nhau làm thành giỏ hoa, chụp đèn treo tường là một trong những mặt hàng thẩm mỹ cao. Đọt dừa non hay còn gọi là củ hủ dừa là một thứ thức ăn dân giã mà lạ miệng. Có thể làm gỏi, xào rất thích hợp với người ăn chay. Trên thân dừa có những con đuông dừa sinh sống. Do ăn đọt dừa non nên đuông dừa béo múp míp. Người ta chế biến đuông dừa thành nhiều món ăn khoái khẩu và bổ dưỡng. Và nó trở thành đặc sản kỳ lạ của nhiều nước có trồng dừa.
Tuy nhiên kết tinh đẹp nhất của cây dừa với tất cả những gì tinh túy lại là trái dừa. Trái dừa tươi được chắt ra lấy nước giải khát, có công năng hạ nhiệt, tốt cho hệ tiêu hoá, có thể dùng trong băng bó vết thương. Ngoài ra nước dừa dùng để chế biến món ăn kho cá, kho thịt, thắng nước màu, thổi xôi. Phần cùi dừa dùng để làm mứt, cơm dừa dày được xay nhuyễn, vắt nước cốt làm kẹo dừa, dầu dừa, làm xà phòng. Bã dừa dùng làm bánh dầu, để bón phân hoặc làm thức ăn cho gia súc. Phần vỏ cứng của trái dừa được sử dụng làm than hoạt tính, chất đốt hoặc làm các mặt hàng thủ công mỹ nghệ rất được ưa chuộng ở các nước phương Tây. Xơ dừa được đánh tơi ra dùng làm thảm, làm nệm, làm dép đặc trị cho những người bệnh thấp khớp hoặc bện làm dây thừng, lưới bọc các bờ kè chống sạt lở ven sông.
Ngoài ra cây dừa còn có tác dụng to lớn với nghệ thuật văn chương khi hình ảnh cây dừa trở thành hình ảnh quen thuộc có giá trị với những thi sĩ.
“Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: “Dừa có tự bao giờ? ”
(Dừa ơi)
Hay:
“Ai đứng như bóng dừa, tóc dài bay trong gió
Có phải người còn đó là con gái của Bến Tre…”
(Dáng đứng Bến Tre)
Trải dài khắp dải đất miền Trung của Việt Nam, những hàng dừa xanh vẫn đứng rì rào trong gió. Cây dừa không chỉ quen thuộc với cuộc sống con người Việt Nam mà còn trở thành một phần kinh tế của những con người nơi đây.
Nghe tiếng gió rì rào cùng sóng biển, nghe tiếng xào xạc bên bờ. Kìa những cây dừa xếp hàng dài trên bãi cát trắng. Một loài cây đã quá quen thuộc và trở thành hình ảnh gần gũi xuất hiện trong những bức tranh miền biển
Dừa là một loại cây đã xuất hiện từ lâu. Nguồn gốc của cây dừa bắt nguồn từ đâu vẫn còn là một điều gây nên tranh cãi. Dừa là cây có thân cao khỏe màu xanh sẫm hoặc ngả nâu thẫm , ước chừng chiều cao của thân cây là 20 mét đến 25 mét, thân dừa có những nốt vằn đặc trưng, đường kính của cây khoảng 45 cm đến 50 cm. Lá cây dừa dài, to có màu xanh tươi và có nhiều tàu xòe ra, khi già lá dừa sẽ ngả vàng và có màu nâu. Hoa dừa nhỏ xíu màu trắng muốt mọc từng chùm, từng chùm nổi bật. Quả dừa mọc ra từ hoa, quả hình tròn, có màu xanh vỏ cứng và dày, bên trong có cùi dừa trắng thơm ngậy và nước dừa màu trắng đục. Nước dừa thường được lấy uống để giải khát trong mùa hè. Thường những quả dừa không đơn độc, chúng mọc thành buồng, một buồng có từ 10 đến 15 quả.
Những cây dừa thường sinh sống ở những nơi có khí hậu nhiệt đới, phát triển ở những vùng đất khô cắn, có đất pha cát. Trái nước với nơi sinh sống thiếu nước thì dừa có một sức sống mãnh liệt và chống chịu cao. Vì thế chúng hay được trồng ở các nơi ven biển vừa đẹp, vừa chống lại được bão gió. Dừa được phân bố ở khu vực Châu á và Thái Bình Dương trên thế giới và được trồng từ Quảng Ngãi rải rác khắp nơi đến tận Mũi Cà Mau, đặc biệt được trồng nhiều ở Bình Định và Bến Tre trên mảnh đất Việt Nam.
Dừa cũng như bao cây khác, chúng được phân ra nhiều loại: dừa xiêm,dừa bị, dừa lửa, dừa sáp, dừa nếp, dừa dâu. Tất cả loại dừa đều có công dụng khác nhau như những quả dừa xiêm dù trái nhỏ nhưng nước rất ngọt thường được bổ ra và uống. Dừa bị trái to, cùi dày thường được dùng để chế biến thực phẩm. Ngoài ra những dừa còn được dùng trong nhiều việc như kho cá, kho thịt. Cùi dừa được nạo ra làm kẹo hay mứt, hoặc xay nhuyễn, thái sợi để nấu xôi. Dầu dừa được dùng làm dầu ăn hoặc để làm đẹp cho các chị em phụ nữ, xơ dừa được dùng để làm dây thừng, còn những thân dừa cao to thường dùng để dựng cột nhà hoặc làm chiếc cầu nhỏ bắc qua kênh rạch.
Như vậy cây dừa được trồng không chỉ làm đẹp cho cuộc sống con người mà nó còn mang lại nhiều lợi ích cả về mặt kinh tế. Loài cây xanh tươi ấy gắn bó với người dân như một người bạn thân thiết từ bao đời.
Nhắc đến Việt Nam là người ta nhớ ngay đến một quốc gia với muôn ngàn hoa trái. Trong rất nhiều những loài cây có giá trị từ Bắc xuống Nam dọc đất nước, có một loài cây thẳng, giản dị, một loài cây quen thuộc với người dân miền biển Việt Nam - cây dừa:
“Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: Dừa có tự bao giờ?”
(Dừa ơi)
Dừa được biết đến là một loài cây cùng họ với cây cau. Hiện nay, nguồn gốc chính thức của dừa vẫn chưa được khẳng định chính xác. Một số giả thiết cho rằng dừa có nguồn gốc ở khu vực Đông nam Á, cũng có giả thiết cho rằng dừa có nguồn gốc Nam Mỹ.
Đặc điểm cấu tạo của cây dừa không quá phức tạp, đó là một loài cây thân trụ đứng và cao, mọc thẳng và không phân cành, phân nhánh. Lá dừa trực tiếp mọc ra từ thân chính, gồm hai phần: cuống lá và chét lá. Mỗi tàu dừa có độ dài từ 5 - 6m. Trung bình một cây dừa có khoảng dao động từ 32 - 35 lá. Cây dừa cũng có hoa. Hoa có màu trắng mọc ra từ nách lá, nở thành từng cụm, cả hoa cái và hoa đực đều nằm trên một cụm hoa. Rễ dừa thuộc kiểu rễ chùm, khi dừa mới ra rễ, rễ thường có màu trắng, nhưng trong quá trình sinh trưởng, rễ sẽ có màu nâu, rễ dừa mọc sâu và khỏe. Quả dừa có vỏ cứng, nhẵn và xanh mượt mà, bên trong là một lớp xơ màu hơi nâu, tiếp đến là lớp gáo dừa cứng chắc. Trong cùng là lớp cùi dừa trắng ngần, thơm nhẹ, có màu trắng trong khi quả dừa còn non và chuyển sang trắng đục khi dừa già. Cùi dừa bao chứa nước dừa thanh thanh, ngọt nhẹ.
Dừa là loài cây có khả năng sinh trưởng mạnh mẽ, chịu mặn tốt và phát triển thuận lợi trên đất pha cát, ưa những nơi sinh sống có nhiều ánh sáng với lượng mưa vừa phải. Bởi những đặc điểm sinh trưởng trên nên dừa được trồng nhiều ở những vùng khí hậu nhiệt đới ẩm. Ở nước ta, khu vực Đồng bằng sông Cửu Long có điều kiện về khí hậu và đất đai thuận lợi cho sự sinh trưởng và phát triển của dừa. Ngoài ra, dừa còn được canh tác nhiều tại các tỉnh miền Trung và Bến Tre.
Người ta thường phân chia dừa thành hai loại dựa trên đặc điểm sinh cấu tạo và khả năng sinh trưởng. Đó là dừa lùn, đây là giống cây cao khoảng dưới 10m, thời gian kết trái dao động trong khoảng 3 tới 5 năm, dừa trái nhỏ, cùi mỏng. Dừa sức sống kém hơn, dễ bị sâu bệnh. Một số tiểu loại của dừa lùn phổ biến là dừa Tam Quan hay dừa Xiêm. Loại thứ hai chính là dừa cao. Giống dừa cao có chiều cao dao động trên 10m cho tới khoảng 20m, thời gian ra trái muộn hơn giống dừa lùn, trong khoảng từ 5 đến 7 năm. Dừa có khả năng sinh trưởng và phát triển tốt hơn, dừa trái lớn với cùi dày. Một số loại nhỏ của giống dừa cao là dừa Sáp hay dừa Lửa.
Dừa là loại cây mang giá trị cao đối với đời sống con người. Thân dừa thường được dùng làm đồ gỗ mỹ nghệ hay vật liệu cho các công trình xây dựng: cầu. Lá dừa dùng làm mái che hay một số đồ thủ công như giỏ đan, tranh, chổi dừa khô có thể dùng làm chất đốt. Nước dừa chứa nhiều chất chống oxy hóa và vitamin, dùng làm nước giải khát. Nước cốt dừa có thể dùng làm gia vị trong các món giải nhiệt như chè hay trong một số món ăn: thịt kho. Gáo dừa có thể dùng chế tạo nhạc cụ thủ công hay đơn giản là làm gáo múc nước. Xơ dừa dùng bện dây thừng hay làm thảm, khảm thuyền, cũng có thể dùng làm phân bón. Vỏ dừa có thể được dùng làm than củi. Rễ dừa có thể dùng làm thuốc nhuộm hay thuốc sát trùng.
Dường như không chỉ mang giá trị kinh tế, dừa đã thực sự để lại ý nghĩa trong đời sống con người, đặc biệt là người dân Bến Tre. Loài cây ấy đã trở thành một loài cây thân thuộc, một người bạn che chở và hiền lành. Dừa từ rất lâu cũng đã trở thành một nguồn cảm hứng bất tận trong văn chương:
“Cây dừa xanh tỏa nhiều tàu
Dang tay đón gió gật đầu gọi trăng
Thân dừa bạc phếch tháng năm
Quả dừa - đàn lợn con nằm trên cao”
(Cây dừa, Trần Đăng Khoa)
Hay như:
“Thân dừa găm vết đạn
Nước ngọt. Bọc cùi thơm
Cái ăn và cái mặc
Treo chung với trái vườn”
(Bóng dừa)
Không chỉ là nguồn cảm hứng cho văn chương, dừa còn là chất liệu cho nhiều bài hát: “Hát về cây dừa quê tôi” (Hoài Thanh) và rất nhiều những bức tranh nghệ thuật.
Dừa là loài cây có sức sống tốt nên kĩ thuật chăm sóc không quá phức tạp, dừa không kén đất, tuy nhiên nên trồng dừa ở những khu vực gần kênh rạch, nên chọn những giống dừa có chiều cao khoảng 0,3 m. Ngoài ra cũng cần chú ý việc bón lót cho cây. Cần che chắn cho dừa trong ba tháng đầu tiên, quan tâm, cung cấp đủ nước cho dừa, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh.
Dừa tồn tại trong tâm thức của người dân Việt Nam, đặc biệt là người dân vùng Bến Tre như một loại cây lành tính và quen thuộc, thân thương như người bạn. Bởi thế, mỗi người cần có ý thức giữ gìn bảo vệ loài cây giàu giá trị ấy.
Những hoa thơm trái ngọt mà thiên nhiên tạo hóa diệu kì đã ban tặng cho đất nước Việt Nam xinh đẹp của chúng ta không thể thiếu đi chuối- một loại quả thơm ngon dẻo ngọt và rất được ưa dùng.
Cây Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và là một loài cây ưa nước nên khi đến thăm những vùng quê ta sẽ bắt gặp những bụi chuối mọc hàng ngàn bên cạnh bờ ao, suối. Cây chuối được trồng chủ yếu để lấy trái, và ở mức độ ít hơn là lấy thân và để trang trí. Chuối có gốc tròn, rễ chùm nằm ở bên dưới. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì, từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối xanh, mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối có một buồng chuối, mọc ở tít phần cao nhất của thân cây, bên dưới mặt những tán lá to rộng. Mỗi buồng phải có tới trăm quả chi chít nhau hoặc hơn thế nữa. Quả chuối ra thành nải treo, mỗi tầng (gọi là nải) có tới hai mươi quả quả, và mỗi buồng có ba đến hai mươi nải như thế. Quả chuối có nhiều hình dạng tuỳ thuộc vào từng loại khác nhau Chuối là loại cây có thân ngầm. Phần thân chính nằm dưới đất gọi là củ chuối. Phía trên chỉ là một thân giả mọc thẳng đứng và tròn, được tạo thành từ nhiều lớp bẹ xếp khít vào nhau, bên trong hơi xốp, bề mặt trơn bóng và nhẵn. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Ban đầu, những chiếc nõn chuối còn xanh non, sau đó lá xòe ra có màu xanh đậm hơn. Khi già, lá ngả dần về màu vàng đất, rũ xuống để nhường chỗ cho lá tươi. Khi cây chuối trưởng thành, nó bắt đầu trổ buồng. Mỗi cây chuối đều có một buồng, mỗi buồng gồm nhiều nải mỗi nải có nhiều quả. Buồng chuối mọc từ hoa từ thân ra. Giữa tán lá xanh mát, hoa chuối như ngọn lửa hồng chiếu sáng cả vòm lá xanh. Hoa sắp thành hai hàng theo kiểu xoắn tạo thành nải chuối. Sau đó những chiếc bẹ rụng dần là lúc những nải chuối con xuất hiện. Khi chuối còn xanh thì có màu xanh đậm còn khi chín thì ngả sang màu vàng.
Trong đời sống nhân dân Việt Nam, chuối là một loại cây hữu dụng từ thân, lá đến hoa, quả. Quả chuối cung cấp hàm lượng đường cần thiết cho cơ thể hoạt động. Chuối ăn dễ tiêu hóa, vừa sáng mắt lại tốt cho da, làm cho làn da luôn sáng mịn. Thân chuối có thể làm thức ăn cho trâu, bò, lợn rất tốt. Thân chuối non cùng củ chuối có thể thái ra ăn kèm với ốc, lươn để khử tanh rất tốt, lại có thể làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Lá chuối có thể dùng để gói bánh, gói xôi... khi phơi khô có thể làm chất đốt. Người ta có thể dùng hoa chuối đã nở hết buồng để làm nộm hoặc để luộc. Chuối là thức quả để thắp hương trong các ngày lễ, tết. Trong ngày rằm hoặc mùng một, người ta dùng chuối chín. Đây còn là loại quả không thể thiếu trong mâm ngũ quả ngày Tết. Chuối là loại cây khá dễ sống ưa đất phù sa, đất bãi ven sông. Quá trình sinh trưởng của một cây chuối không dài khoảng một năm. Mỗi cây chuối chỉ một lần trổ buồng, sau khi thu hoạch người ta chặt cây đào gốc lên để cho cây con phát triển. Một cây chuối mẹ có thể đẻ nhiều cây chuối con rồi đẻ nhiều cây chuối cháu, sinh trưởng rất nhanh. Vì dễ trồng lại nhanh cho quả nên chuối được người nông dân ưa chuộng. Nếu không may chuối bị sâu có thể cắt bỏ lá sâu, bắt sâu. Nếu chuối ra buồng cần phải chống cho cây khỏi đổ. Khi thu hoạch cần phải nhẹ nhàng tránh rơi gãy.
Bên cạnh những loại cây gần gũi như trầu, cau, dừa… thì chuối còn tượng trưng cho sự bình dị, thanh bình của làng quê. Cây chuối có từ ngàn đời. Nó dâng hiến tất cả những gì đẹp đẽ nhất của mình cho con người. Cây chuối là nét đẹp thanh bình của thiên nhiên, của đất mẹ, của nông thôn Việt Nam.
Đất nước Việt Nam ta được thiên nhiên ban tặng cho rất nhiều loại trái cây thơm ngon. Mỗi loài mang một hương vị khác nhau, một hình dáng khác nhau. Và có lẽ về sự dẻo thơm thì chuối là loại quả thơm ngon nhất trong số tất cả các loại hoa quả. Ngoài ra, cây chuối còn rất nhiều tác dụng trong đời sống Việt Nam.
Chuối được trồng rất nhiều ở nông thôn và rất ưa nước nên người ta thường trồng bên ao hồ rất xanh và tươi tốt; còn ở rừng, bên những khe suối hay thung lũng, chuối mọc thành rừng bạt ngàn, vô tận. Chuối phát triển rất nhanh. Chuối có gốc tròn như đầu người, lớn dần theo thời gian, có rễ chùm nằm dưới mặt đất. Thân chuối thuôn, thẳng, có màu xanh rì là do từng lớp lá mọc đè lên nhau thành từng lớp, từng lớp, bao trùm cái ruột rỗng bên trong. Lá chuối mọc thành từng tàu, to bản. Mỗi cây chuối đều cho một buồng chuối. Có buồng chuối trăm quả và nhiều hơn thế. Không thiếu những buồng chuối dài từ ngọn cầy uốn trĩu xuống tận gốc cây. Chuối chặt theo nải. Quả chuối có nhiều hình dạng tuỳ thuộc vào từng loại khác nhau. Ví dụ: chuối ta có dáng thuôn dài, vỏ xanh; còn chuối tiêu quả căng tròn, vỏ mỏng, thịt dày, vỏ vàng. Ngoài ra còn có chuối hương, chuối ngự. chuối sứ, chuối mường...
Trong đời sống vật chất của con người Việt Nam thì chuối là một loài cây hữu dụng từ thân đến lá, từ gốc đến hoa, quả. Thân chuối rỗng nên người xưa hay dùng thay phao, ngoài ra còn làm thức ăn cho gia súc. Lá chuối tươi rửa sạch dùng để gói xôi, bánh giầy, bánh cốm, bánh chưng... và một trò chơi dân gian mà trẻ con hay chơi là cưỡi ngựa. Lá chuối khô cũng dùng để gói bánh gai hay cuộn chặt thay nút chai khá tốt. Bắp chuối thì chẻ ngọn nhỏ làm nộm, tương tự với nõn chuối làm rau sống hay ăn kèm với bún ốc, bún riêu. Trái chuối xanh hay được nấu cùng các thức ăn có vị tanh như ốc, lươn,... vừa khử tanh lại vừa làm cho món ăn thêm ngon, thêm đa dạng. Trái chuối chín là một thức quả được nhiều người ưa chuộng.
Cây chuối cho ta thật nhiều công dụng, không chỉ trong đời sống vật chất mà còn ở đời sống tinh thần: cây chuối là biểu tượng cho làng quê Việt Nam. Nải chuối chín không thể thiếu trong các mâm cúng trời, đất, tổ tiên. Cây chuối gắn liền với cuộc sống nông thôn, với đất nước, dân tộc ta.
Cây chuối gắn bó từ bao đời nay và đã dâng hiến tất cả cho con người Việt Nam, từ đời sống vật chất cho tới đời sống tinh thần. Cây chuối là niềm tự hào không chỉ của thiên nhiên, của đất mẹ mà còn của nông dân Việt Nam; cây chuối sẽ mãi là hình ảnh đẹp trong lòng mọi người.
Đi khắp các làng quê Việt Nam, đọng trong lòng chúng ta là hình ảnh những buồng chuối tươi mơn mởn, sai trĩu những quả thơm. Nói đến cây chuối, đã là người Việt Nam thì không ai là không biết. Cây chuối đã tồn tại cùng con người như một người bạn thân thiết. Có thể nói, cây chuối đã trở thành một thứ không thể thiếu trong đời sống người Việt Nam từ xưa tới nay.
Chuối có tới năm bảy loại, nào là chuối hương, chuối ngự, chuối sứ, chuối mường, chuối tiêu... Mỗi loại chuối đều có hương vị thơm ngon riêng, tạo ra nét đặc biệt không thể lẫn với những loại khác. Thế nhưng các loại chuối đều mang vẻ bên ngoài giống nhau. Thân cây tròn, thấp, trơn bóng, to bằng cả cái cột đình. Lá cây xanh non, dài, to bản và các gân đối xứng nhau. Thế nhưng lá chuối khô lại có màu nâu, giòn và cứng. Bắp chuối có màu đỏ, thuôn dài, còn gọi là hoa chuối. Nõn chuối xanh non, mịn và mòng. Mỗi cây chuối trưởng thành đều có thể cho ta một buồng chuối. Tuỳ theo từng loại, có loại cho hàng trăm quả một buồng, có cả loại mỗi buồng cho cả nghìn quả. Nhiều cây còn trĩu trịt quả từ ngọn xuống gốc.
Để có đươc vai trò quan trọng như hiện nay trong đời sống của người Việt Nam, chuối đã "cống hiến" cho đời sống vật chất không biết bao nhiêu. Thân cây thái nhỏ ra có thể làm thức ăn cho lợn rất tốt. Còn lá cây thì giúp ta trong các việc như là để gói xôi, gói bánh rất tiện lợi và dễ kiếm. Lá chuôi khô có thể dùng làm chất đốt, để quấn bánh gai hoặc ở nông thôn, ta còn thấy lá chuối khô còn quấn nhỏ làm nút chai rượu. Không chỉ thế, hoa chuối còn dùng để làm nộm (nộm hoa chuối). Món nộm hoa chuối đươc rất nhiều người ưa thích, đặc biệt là sinh viên vì nó vừa ngon lại vừa rẻ. Chỉ cần nhìn thấy thôi cũng đủ khiến cho ta cảm thấy thèm thuồng. Thái một ít nõn chuối ra cho vào đĩa rau muống xanh mướt là ta đã có một đĩa rau vừa ngon miệng vừa đẹp mắt. Quả chuối có lẽ là nhiều công dụng nhất. Các chị, các cô, các bà hay ăn chuối vì trong chuối có chứa nhiều chất vitamin rất tốt cho một làn da mịn màng. Và chủ yếu chuối thường dùng để ăn nhiều hơn vì nó rất ngon. Người ta còn thường dùng chuối thắp hương như một lễ vật dâng cho thần linh để thể hiện lòng tôn kính. Chính vì vậy, chuối là một loại trái cây rất được ưa thích tại Việt Nam và cả một vài nước khác.
Cây chuối trong đời sống vật chất của người Việt Nam cũng khá quan trọng, nhất là trong hoàn cảnh kinh tế còn nhiều eo hẹp. Ở nông thôn, mỗi khi chuối chín, người ta hay cắt ra thành từng nải để đem bán, những nải chuối đó đều rất rẻ nên nhiều người mua. Còn trong đời sống văn hoá của người Việt, cây chuối cũng như bưởi hay hồng, nó cũng là một trong năm loại quả dâng lên tổ tiên, nhất là các dịp lễ Tết. Trong tâm thức của mỗi người, cây chuối là một loài cây tượng trưng cho sự thanh bình của làng quê, nhất là thời thơ ấu.
Cây chuối từ lâu đã đóng vai trò lớn trong cuộc sống của người Việt Nam. Đối với mỗi người, cây chuối đã trở thành một loài cây vô cùng gần gũi, thân thiết.