Văn bản Ra-ma buộc tội - Nội dung, tác giả, tác phẩm

4.4 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Ra-ma buộc tội Ngữ văn lớp 10 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Ra-ma buộc tội lớp 10.

Ra-ma buộc tội - Ngữ văn lớp 10

1. Văn bản Ra-ma buộc tội

Gia-na-ki (Janaki) khiêm nhường đúng trước Ra-ma. Ra-ma nói: “Hỡi phu nhân cao quý! Ta đưa nàng tới đây sau khi đã đánh bại kẻ thù. Ta đã làm tất cả bằng khả năng của mình. Ta đã trả thù kẻ lăng nhục ta và con giận của ta đã hả. Ngày hôm nay, ai nấy đều đã được chứng kiến tài nghệ của ta. Ta đã làm tròn lời hứa, và giờ đây không còn gì vướng mắc với chính mình. Nàng đã bị gã Rắc-sa-xa (Rakshasa) tâm địa xảo trá bắt cóc khi vắng mặt ta, đó là do số phận nàng xui nên, nhưng ta đã gỡ cho nàng khỏi điều vu khống. Kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra để trả thù là kẻ tầm thường. Ngày hôm nay, việc chàng Ha-nu-man hảo hán vượt biển cả đã kết thúc thành công; việc đốt phá Lan-ka (Lanka) và những kì tích khác đã đem lại vinh quang. Ngày hôm nay, tài nghệ và những lời khuyên sáng suốt của Vi-phi-sa-na (Viphisana) đã hoàn toàn được chứng tỏ; cả những cố gắng của chàng cũng thành công tốt đẹp, chàng đã từ bỏ người anh bất hảo của mình, ủng hộ đại nghĩa của ta và nương tựa vào ta”.

Nghe những lời đó, Gia-na-ki mở tròn đôi mắt đẫm lệ. Thấy người đẹp khuôn mặt bông sen với những cuộn tóc lượn sóng đứng trước mặt mình, lòng Ra-ma đau như dao cắt. Nhưng vì sợ tai tiếng, chàng bèn nói với nàng trước mặt những người khác: “Để trả thù sự lăng nhục, ta đã làm những gì mà một con người phải làm: ta đã tiêu diệt Ra-va-na. Cũng như đại đạo sĩ A-ga-xti-a (Agaxtia) nhờ công sám hối khổ hạnh đã giải thoát cho các xứ phương Nam khỏi nỗi kinh khiếp đối với In-van (Ilvala) và Va-ta-pi (Vatapi)3, ta cũng giải thoát cho cõi thế gian này khỏi mối lo sợ Ra-va-na. Phải biết chắc điều này: chẳng phải vì nàng mà ta đã đánh thắng kẻ thù với sự giúp đỡ của bạn bè. Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, để xoá bỏ vết ô nhục, để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ lùng lẫy tiếng tăm của ta. Ta làm điều đó chính là để chứng tỏ ta không thuộc về một gia đình bình thường. Nay ta phải nghi ngờ tư cách của nàng vì nàng đã lưu lại lâu trong nhà một kẻ xa lạ. Giờ đây, nàng đang đứng trước mặt ta, nhưng trông thấy nàng, ta không chịu nổi, chẳng khác nào ánh sáng đối với người bị đau mắt. Vậy ta nói cho nàng hay, nàng muốn đi đâu tuỳ nàng, ta không ưng có nàng nữa. Người đã sinh trong một gia đình cao quý có thể nào lại lấy về một người vợ từng sống trong nhà kẻ khác, đơn giản chỉ vì mụ ta là một vật để yêu đương? Nàng đã bị quấy nhiễu khi ở trong vạt áo của Ra-va-na, đôi mắt tội lỗi của hắn đã hau háu nhìn khắp người nàng, vậy làm sao ta có thể nhận nàng về khi nghĩ tới gia đình cao quý đã sinh ra ta?

Nay mục đích cứu nàng đã đạt được rồi, ta không cần đến nàng nữa. Nàng muốn đi đâu tuỳ ý. Hỡi phu nhân cao quý! Ta nói rõ cho nàng hay, chẳng chút quanh co, ngập ngừng: nàng có thể để tâm đến Lắc-ma-na(Laksmana), Bha-ra-ta(Bharata),Xa-tru-na(Xatruna), Xu-gri-va (Xugriva), hay nếu nàng thích, nàng có thể đi theo Vi-phi-sa-na cũng được,...

Thấy nàng yêu kiều xinh đẹp, lại có được nàng trong nhà hắn, Ra-va-na đâu có chịu đựng được lâu”.

Nghe những lời giận dữ đó của Ra-ma, Gia-na-ki đau đón đến nghẹt thở, như một cây dây leo bị vòi voi quật nát. Nghe những lời tố cáo chưa từng có, trước mặt đồng đủ mọi người, Gia-na-ki xấu hổ cho số kiếp của nàng. Nàng muốn tự chôn vùi cả hình hài thân xác của mình. Mỗi lời nói của Ra-ma xuyên vào trái tim nàng như một mũi tên. Nước mắt nàng đổ ra như suối. Lấy tà áo lau nước mắt, rồi bằng giọng nghẹn ngào, nức nở, nàng nói: “Cớ sao chàng lại dùng những lời lẽ gay gắt khó tả như vậy đối với thiếp, giống như một kẻ thấp hèn chửi mắng một con mụ thấp hèn? Thiếp đâu phải là người như chàng tưởng! Thiếp có thể lấy tư cách của thiếp ra mà thề, hãy tin vào danh dự của thiếp. Suy từ hành vi của loại phụ nữ thấp hèn, chàng đã ngờ vực tất cả giới phụ nữ, nhưng như thế đâu có phải. Nếu chàng có hiểu biết thiếp chút đỉnh thì xin hãy từ bỏ mối ngờ vực không căn cứ đó đi.

Chàng xem, Ra-va-na đã đụng tới thiếp khi mà thiếp đang chết ngất đi, làm thế nào tránh được? Về điều đó, chỉ có số mệnh của thiếp là đáng bị chê trách, nhưng những gì nằm trong vòng kiểm soát của thiếp, túc trái tim thiếp đây, là thuộc về chàng. Thiếp có thể làm gì với cái thân thiếp đây, bởi nó có thể phụ thuộc vào kẻ khác, khi thiếp hoàn toàn ở dưới quyền lực của hắn. Thiếp còn gì là thanh danh, nếu như chàng vẫn chưa hiểu được thiếp qua tình yêu của thiếp và qua tiếp xúc với tâm hồn của thiếp. Hồi chàng phái Ha-nu-man tới dò tin túc về thiếp, cớ sao chàng không gửi cho thiếp lời nhắn nhủ chàng từ bỏ thiếp? Nếu thế thì thiếp đã kết liễu đời mình ngay trước mặt chàng Va-nara (Vanara) đó rồi. Mà sự thể đã như vậy, thì chàng chẳng cần phải mạo hiểm để có thể nguy hại đến thân mình; và các bạn hữu của chàng đã khỏi phải chịu đựng những phiền muộn, đau khổ. Hỡi Đức vua! Như một người thấp hèn bị cơn giận giày vò, Người đang nghĩ về thiếp như một phụ nữ tầm thường. Tên thiếp là Gia-na-ki, bởi vì thiếp có liên quan đến lễ tế sinh của nhà vua Gia-na-ka chứ không phải vì thiếp sinh ra trong gia đình đó; chỉ có nữ thần Đất là mẹ của thiếp thôi. Vì không thể suy xét cho đúng đắn, chàng đã không hiểu được bản chất của thiếp. Chàng không nghĩ đến vì sao hồi còn thanh niên chàng đã cưới thiếp. Tình yêu của thiếp, lòng trung thành của thiếp nay xem ra hoàn toàn vô ích!”.

Nói dứt lời, Gia-na-ki và khóc. Nàng nói với Lắc-ma-na lúc này đang buồn bã và suy nghĩ ủ ê: “Hỡi Lắc-ma-na, em hãy chuẩn bị cho chị một giàn hoả thiêu. Với nông nỗi đáng buồn hiện nay, đó là phương thúc duy nhất cho chị. Chị không muốn sống sau những lời tố cáo lầm lạc như vậy. Chồng chị không hài lòng về chị, chàng đã ruồng rẫy chị trước mặt mọi người. Giờ thì chị sẽ từ bỏ tấm thân này cho ngọn lửa”.

Cố nén cơn giận, Lắc-ma-nanhìn Ra-ma, và qua nét mặt, cử chỉ của người anh, Lắc-ma-na đoán được động cơ của anh. Chàng chuẩn bị một giàn hoả thiêu cho Xi-ta. Vào lúc đó, chẳng có ai trong đám bạn hữu dám nói gì với Ra-ma, hoặc nhìn vào chàng lúc đó nom chàng khủng khiếp như thần Chết vậy.

Ra-ma vẫn ngồi, mắt dán xuống đất, Xi-ta lượn quanh chàng rồi bước tới giàn lửa. Sau khi cúi lạy chư thần, đấng Bra-ma(Brahma), nàng thưa với thần Lửa A-nhi (Agni):

“Nếu con trước sau một lòng một dạ với Ra-ma thì cúi xin thần hãy tìm cách bảo vệ con. Ra-ma đã coi một phụ nữ trinh tiết như một kẻ gian dối, nhưng nếu con trong trắng, xin thần A-nhi phù hộ cho con”.

Nói dứt lời, Gia-na-ki lượn quanh giàn thiêu rồi dũng cảm bước vào ngọn lửa. Ai nấy, già cũng như trẻ, đau lòng đứt ruột xem nàng Gia-na-ki đứng trong giàn hoả. Trước mặt mọi người, trang tuyệt thế giai nhân đó nạp mình cho lửa. Các bậc thánh, các chư thần nhìn Gia-na-ki bước vào lửa, chẳng khác một lễ vật trong lễ tế sinh.

Thấy nàng như vậy, như một thiên thần bị đuổi khỏi trời do một thần chú nguyền rủa, các phụ nữ bật ra tiếng kêu khóc thảm thương. Cả loài Rắc-sa-xa lẫn loài Va-na-ra cùng kêu khóc vang trời trước cảnh tượng đó.

2. Một số đặc điểm chung về sử thi Ấn Độ

- Sử thi Ấn Độ ra đời sớm (khoảng 800 năm TCN) là bức tranh rộng lớn, phản ánh hiện thực đời sống, tư tưởng của nhân dân Ấn Độ cổ đại.

- Ca ngợi những chiến công hiển hách, khí phách hào hùng của những anh hùng, mẫu người lý tưởng của nhân dân Ấn Độ.

3. Sử thi Ra-ma-ya-na

a. Giới thiệu chung

- Là một trong hai bộ sử thi nổi tiếng của Ấn Độ và thế giới.

- Ra-ma-ya-na hình thành vào khoảng thế kỉ IV-III trước Công nguyên, được bổ sung, trau chuốt bởi nhiều thế hệ tu sĩ - thi nhân và đạt đến hình thức hoàn thiện cuối cùng nhờ đạo sĩ Van–mi–ki.

- Người Ấn Độ xem Ra-ma-ya-na như Kinh Thánh và tin rằng: “Chừng nào sông chưa cạn, đá chưa mòn thì Ra-ma-ya-na còn làm say mê lòng người và cứu họ ra khỏi vòng tội lỗi.”

- Tác phẩm gồm 24000 câu thơ đôi (một câu thơ đôi gồm hai dòng thơ).

b. Tóm tắt Ra-ma buộc tội

        Ra-ma-ya-na là câu chuyện về những kì tích của Ra-ma, hoàng tử trưởng của nhà vua Đa-xa-ra-tha. Khi Đa-xa-ra-tha muốn truyền ngôi báu cho Ra-ma, thì do lòng đố kị, thứ phi Ka-kê-i nhắc lại một ân huệ cũ, buộc nhà vua đày ải Ra-ma vào rừng 14 năm, trao vương quốc cho con trai bà là Bha-ra-ta. Ra-ma vâng lệnh. Vợ chàng, Xi-ta cùng người em trai thân thiết nhất của chàng, Lắc-ma-na, tình nguyện theo Ra-ma chịu lưu đày. Khi thời hạn lưu đày sắp hết thì xảy ra một tai biến lớn. Quỷ Ra-va-na đã dùng mưu bắt cóc Xi-ta, cuốn nàng trong vạt áo, bay về đảo Lan-ka. Mất Xi-ta, Ra-ma đau buồn khôn xiết. Trên đường đi tìm Xi-ta, Ra-ma gặp và giúp đỡ vua khỉ Xu-gri-va chống lại người anh trai bất công, giành lại vợ và vương quốc. Do đó, chàng được vua khỉ Xu-gri-va, tướng khỉ Ha-nu-man cùng đoàn quân khỉ giúp sức vượt biển, tấn công đảo Lan-ka. Sau cùng, Ra-ma hạ thủ Ra-va-na trong giao tranh, giải cứu Xi-ta. Vợ chồng gặp lại nhau, nhưng nghi ngờ Xi-ta không còn trọn vẹn danh tiết sau những ngày tháng trong tay quỷ, Ra-ma tuyên bố từ bỏ nàng. Xi-ta thanh minh không được, đành bước lên giàn hỏa thiêu. Chứng giám đức hạnh của Xi-ta quay trở về kinh đô, cai quản đất nước, khiến cho muôn dân được sống trong thái bình, thịnh trị.

4. Đoạn trích Ra-ma buộc tội

- Nằm ở khúc ca thứ 6, chương 79

- Đoạn trích kể lại những chi tiết sau khi chiến thắng quỷ vương Ra-va-na, cứu Xi-ta, nhưng vì danh dự và lòng ghen tuông, Ra-ma đã nghi ngờ sự trong sạch của Xi - ta và tuyên bố ruồng bỏ nàng. Xi-ta đã bảo vệ danh dự bằng cách nhảy vào giàn hoả thiêu (theo cách tự thanh minh của người Ấn Độ cổ).

- Bố cục

- Phần 1: từ đầu đến “Ra-va-na đâu có chịu được lâu”: cơn giận dữ và diễn biến tâm trạng của Ra-ma.

- Phần 2: còn lại: Tự khẳng định mình và diễn biến tâm trạng của Xi-ta.

5. Tìm hiểu chi tiết

a. Diễn biến tâm trạng của Ra-ma

* Cuộc gặp gỡ giữa Ra-ma và Xi-ta:

+ Xi-ta phải đứng trước mọi người trong cộng đồng như một bị cáo

+ Ra-ma ngự trên ngôi như một vị thủ lĩnh, một viên quan tòa có quyền kết án

=> Đây không phải là một cuộc đoàn tụ mừng rỡ đầy yêu thương giữa hai vợ chồng sau những ngày gian truân, xa cách; mà là một “phiên tòa” thật sự gay gắt và căng thẳng.

* Tâm trạng của Ra-ma

- Ra-ma nói với tất cả mọi người để:

+ Khẳng định chiến thắng và tài nghệ của mình

+ Tuyên dương công trạng những người đã giúp đỡ mình – những người bạn hảo hán

=> Lời lẽ rành mạch, trịnh trọng, tự hào, lạnh lùng

=> Nói trước mọi người --> thể hiện tính công khai của sử thi

- Xưng hô với Xi-ta: "ta" – "phu nhân cao quý" => cách xưng hô trịnh trọng, oai nghiêm của quân vương nhưng thiếu yêu thương, thân mật như lẽ thường

- Nhấn mạnh mục đích chiến đấu:

+ “Kẻ nào bị quân thù lăng nhục mà không đem tài nghệ của mình ra để trả thù là kẻ tầm thường.”

+ “Ta làm điều đó vì nhân phẩm của ta, xóa bỏ vết ô nhục để bảo vệ uy tín và danh dự của dòng họ lừng lẫy tiếng tăm.”

-> Mục đích: không phải vì Xi-ta mà vì danh dự, phẩm giá và nghĩa vụ-> Ra-ma là một hoàng tử, một quốc vương mẫu mực.

- Ra-ma còn bộc lộ nghi ngờ trinh tiết của Xi-ta vì:

+ “Nàng đã lưu lại lâu trong nhà một kẻ xa lạ”

+ “Nàng bị quấy nhiễu trong vạt áo của Ra-va-na”

+ “Đôi mắt tội lỗi... đã hau háu nhìn khắp người nàng”

=> Đó là thái độ của một người ghen tuông, ích kỉ 

- Ra-ma đã lăng nhục Xi-ta trước mặt mọi người, không nhận nàng làm vợ, ruồng rẫy và đuổi nàng:

+ “Ta không cần đến nàng nữa”

+ “Nàng muốn đi đến đâu tùy ý”

=> Buông ra những lời tàn nhẫn, gay gắt, xúc phạm Xi-ta thô bạo trước mặt mọi người.

- Vì uy tín, danh dự của gia đình, dòng họ quyền quý cao sang, vì vinh quang chiến thắng, vì niềm tự hào của cả cộng đồng,... tất cả không cho phép Ra-ma chấp nhận bất cứ một sự mờ ám nào có thể làm tổn hại đến danh dự.

- Đồng thời nó cũng thể hiện sự ghen tuông trong lòng chàng, đã làm cho một vị quân vương trở nên thiếu bình tĩnh và mất đi sự sáng suốt.

- Mặt khác: “Thấy người đẹp với gương mặt bông sen, với những cuộn tóc lượn sóng đứng trước mặt mình, lòng Ra-ma đau như dao cắt” => Sự mâu thuẫn trong một con người (với tư cách là một người chồng, Ra-ma cảm thấy đau đớn và thương xót vợ mình; nhưng trên cương vị là một vị hoàng tử của một đất nước thì Ra-ma coi trọng danh dự)

=> Ra-ma tuy là một vị thần nhưng vẫn mang những đặc điểm của con người trần tục: yêu hết mình nhưng cũng ích kỉ, ghen tuông cực độ; có lúc oai phong lẫm liệt những cũng có lúc tầm thường, nhỏ nhen, ích kỉ; có lúc cương quyết, rắn rỏi nhưng cũng có lúc mềm yếu. Bản chất thiện-ác; sáng-tối; tốt-xấu luôn luôn tương phản trong tính cách của Ra-ma.

- Khi Xi-ta bước lên giàn hỏa thiêu:

+ Ra-ma: câm lặng, không nói “mắt dán xuống đất, lúc đó nom chàng khủng khiếp như thần chết vậy.”

-> Một tâm lý phức tạp, giằng xé trong con người Ra-ma: một mặt là anh hùng, thủ lĩnh cao thượng; còn lại là một con người nhỏ bé, tầm thường, mềm yếu.

-> Hoàn cảnh của Ra-ma thật ngặt nghèo, đòi hỏi chàng phải có sự lựa chọn quyết liệt: tình yêu hay danh dự-> chàng quyết định chọn danh dự

=> Như vậy, tác giả đã miêu tả một cách tinh tế, chân thực về thái độ ghen tuông, ngờ vực của Ra-ma – một vị thần thánh, một bậc quân vương, nhưng cũng có đủ mọi cung bậc tình cảm của một con người trần tục. Những nét tính cách đó đã làm cho Ra-ma dù là một nhân vật sử thi, nhưng vẫn không hề công thức, ước lệ mà tràn đầy tính sinh động, cụ thể, hấp dẫn.

b. Diễn biến tâm trạng của Xi-ta

- Hoàn cảnh: xa chồng + quỷ vương dụ dỗ -> đấu tranh để giữ trinh tiết, lòng thủy chung

-> Được giải cứu, nàng rất vui và hạnh phúc

- Trước những lời buộc tội của Ra-ma, Xi-ta kinh ngạc, đau đớn, tủi nhục “như một cây leo bị vòi voi quật nát” -> đau khổ đến tột cùng vì danh dự bị xúc phạm.

- Xi-ta dùng lời lẽ, đúng mực để thanh minh cho mình, đem tình yêu làm bằng chứng thuyết phục:

+ Xi-ta lên án hành vi ứng xử tầm thường và nhận thức kiểu đánh đồng thiếu suy xét và thiếu cơ sở của Ra-ma: “Cớ sao chàng lại... đâu có phải.”

+ Đem tư cách, danh dự để đảm bảo

+ Khẳng định lòng chung thủy của mình và thái độ vô tình của Ra-ma

+ Nhấn mạnh nguồn gốc bản thân: dòng họ cao quý và gợi lại lý do Ra-ma cưới mình vì tự nguyện và vì tình yêu.

-> Tâm trạng Xi-ta biến chuyển từ mừng rỡ đến ngạc nhiên, tin yêu đến thất vọng.

- Trong nỗi đau khổ tuyệt vọng Xi-ta đã trở nên mạnh mẽ, bình tĩnh và chín chắn hơn: hành động bước vào giàn thiêu thể hiện sự dứt khoát “nếu con... cho con”, cầu khẩn thần Anhi chứng giám-> thể hiện lòng chung thủy và sự trinh tiết của mình.

-> Tác giả đã khắc họa một Xi-ta trong sáng, chân thực, toàn vẹn, đáng ngưỡng mộ, là mẫu người phụ nữ lý tưởng đáng ngưỡng mộ của thời đại

c. Giá trị nội dung của Ra-ma buộc tội

      Đoạn trích Ra-ma buộc tội đặt các nhân vật vào tình thế thử thách ngặt nghèo đòi hỏi sự lựa chọn quyết liệt, bộc lộ sâu sắc bản chất con người. Ra-ma vào sinh ra tử, chiến đấu với yêu quỷ để giành lại người vợ yêu quý nhưng cũng dám hi sinh tình yêu vì danh dự, bổn phận của một người anh hùng, một đức vua mẫu mực. Như một người vợ lý tưởng xứng đáng với Ra-ma, Xi-ta cũng sẵn sàng đem thân mình thử lửa để chứng minh tình yêu và đức hạnh thủy chung.

d. Giá trị nghệ thuật của Ra-ma buộc tội

- Xây dựng nhân vật lý tưởng với tâm lý, tính cách, triết lý và hành động

- Sử dụng hình ảnh, điển tích, ngôn ngữ miêu tả và đối thoại, giọng điệu, xung đột kịch tính, giàu yếu tố sử thi.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 10 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Thần trụ trời

Tác giả - tác phẩm: Ra – ma buộc tội (Trích sử thi Ra-ma-ya-na – Van-mi-ki)

Tác giả - tác phẩm: Cảm xúc mùa thu – Bài 1 (Đỗ Phủ)

Tác giả - tác phẩm: Tự tình – Bài 2 (Hồ Xuân Hương)

Tác giả - tác phẩm: Câu cá mùa thu (Nguyễn Khuyến)

Đánh giá

0

0 đánh giá