Văn bản Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư - Nội dung, tác giả, tác phẩm

13 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư Ngữ văn lớp 10 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư lớp 10.

Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư - Ngữ văn lớp 10

I. Tác giả Chu Văn Sơn

1. Tiểu sử

- (1962 - 2019), là nhà nghiên cứu văn học Việt Nam hiện đại

- Quê ở Đông Hương, thành phố Thanh Hóa, ông học trường cấp 3 chuyên Hàm Rồng, từng đoạt giải đặc biệt trong kì thi chọn học sinh giỏi Văn toàn quốc

- Ông giảng dạy tại trường Đại học sư phạm Hà Nội, ngoài ra còn là nhà văn, nhà lý luận, nhà phê bình văn học xuất sắc,...

2. Sự nghiệp văn học

a. Phong cách sáng tác

- Say mê cái đẹp là bản năng trong hành trình tìm cảm hứng sáng tác của ông

- Là người có tư duy văn học rất mới, đầy nhạy cảm. Với Chu Văn Sơn, văn chương là thế giới muôn màu, là điệu hồn muôn điệu của những âm thanh cuộc sống đã được người nghệ sĩ tài năng phát hiện căn chỉnh xếp đặt ngôn từ đúng giọng điệu, đúng thang bậc tần suất để phát ra thứ âm thanh bằng ngôn ngữ rung động quyến rũ lòng người

- Trong sáng tác, xuất phát từ quan điểm nhận thức về cái đẹp, say cái đẹp đến khát khao, Chu Văn Sơn như con ong cần mẫn hút nhụy hương để kết tinh cho đời một thứ văn chương mà chúng ta không bao giờ quên, đó là tinh hoa của trời đất, tinh hoa của tạo hóa  ban tặng con người

b. Các tác phẩm chính

     Những tác phẩm nổi tiếng đã được xuất bản của ông gồm có:

- Ba đỉnh cao thơ mới: Xuân Diệu, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử (2005)

- Thơ - điệu hồn và cấu trúc (2007)

- Tự tình cùng cái đẹp (2019)

II. Tìm hiểu tác phẩm Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư

1. Xuất xứ

     Tác phẩm được in trong tập Thơ - điệu hồn và cấu trúc của Chu Văn Sơn

2. Bố cục Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư

Văn bản Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư được chia thành 4 phần:

- Phần 1: đoạn 1+ 2 +3: dẫn dắt về cái hay của mùa thu trong thơ ca và nét đặc sắc trong bài thơ Tiếng thu của Lưu Trọng Lư

- Phần 2: đoạn 4+5: tính hòa âm ngôn từ thể hiện trong âm điệu (đoạn 4+5), bố cục (đoạn 6) và vần nhịp (đoạn 7+8) của bài thơ

- Phần 3: đoạn 9+10+11: so sánh, liên hệ giữa âm thanh của mùa thu trong thơ Lưu Trọng Lư với âm thanh của mùa thu trong thơ Nguyễn Đình Thi

- Phần 4: đoạn 12+13: tính hòa âm ngôn từ thể hiện trọng âm hưởng tiết tấu của bài thơ và những cảm xúc, nỗi xôn xao của tác giả khi đọc những ngôn từ thi vị và đẹp đẽ ấy

3. Giá trị nội dung của Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư

- Văn bản thể hiện được những giá trị tiêu biểu và xuất sắc trong việc sử dụng ngôn từ của Lưu Trọng Lư thể hiện trong tác phẩm Tiếng thu ở nhiều phương diện như bố cục, âm điệu, âm hưởng, tiết tấu, vần nhịp,...

- Bên cạnh giá trị của bài thơ, tác giả cũng chỉ ra được tài năng của Lưu Trọng Lư trong sáng tác thơ ca, sử dụng và vận dụng ngôn từ để cho thấy được cái hồn, cái đẹp của ngôn từ

- Văn bản thể hiện sự ngợi ca, trân trọng và ngưỡng mộ của tác giả Chu Văn Sơn với nhà thơ Lưu Trọng Lư, cho thấy sự yêu quý và tình cảm của ông đối với những người có tài, vận dụng được sức mạnh của ngôn từ trong sáng tác

4. Giá trị nghệ thuật của Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư

- Văn bản trình bày các luận điểm rõ ràng, chi tiết, thuyết phục, có tính liên kết

- Các luận điểm bổ sung và hỗ trợ cho nhau, có luận cứ và dẫn chứng đi kèm, tạo nên một hệ thống luận điểm logic, có sức thuyết phục cao

- Giọng văn rành mạch, lưu loát, phù hợp với bài văn nghị luận nhưng vẫn ẩn chứa cảm xúc, truyền cảm hứng và có tác động mạnh mẽ tới người đọc.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu của Lưu Trọng Lư

1. Trình tự của bài viết

- Trình tự bài viết đi từ “tiếng thơ” đến “tiếng thu”

- Theo tác giả, “tiếng thu” trong bài thơ của Lưu Trọng Lư là cả một bản hoà âm vừa mơ hồ vừa hiển hiện của bao nỗi xôn xao ngấm ngầm trong lòng tạo vật đang hoà điệu với nỗi xôn xao huyền diệu của hồn thi nhân

2. Cách tổ chức và triển khai ý tưởng trong bài viết

- Bài thơ được tổ chức và triển khai vô cùng chặt chẽ, hợp lý. Mở đầu, tác giả dẫn dắt vào bài “Tiếng thu” của Lưu Trọng Lư, sau đó so sánh quan niệm về thiên nhiên xôn xao và tĩng lặng của những bậc thi nhân xưa và những nhà Thơ mới, từ đó làm nổi bật hồn thơ của Lưu Trọng Lư. Tiếp theo, tác giả đưa ra nhận định khái quát về tiếng thu và phân tích các khía cạnh của “tiếng thơ” và “tiếng thu”, từ đó chỉ ra sự hài hoà, gắn kết giữa “tiếng thơ”, “tiếng thu”. Kết thúc bài viết, tác giả đánh giá về giá trị của bài thơ.

3. Sự khác biệt lớn nhất trong cách miêu tả thiên nhiên của Thơ mới so với thơ cổ điển

- Sự khác biệt lớn nhất là: thơ cổ điển miêu tả thiên nhiên ở trạng thái tĩnh, yên bình, thanh vắng. Thơ mới miêu tả thiên nhiên ở trạng thái xôn xao.

- Nguyên nhân: Các nhà thơ cổ điển nhìn thiên nhiên bằng cách nhìn chiêm nghiệm, vốn xem tĩnh là gốc của động, là gốc của sự vận động trong tạo vật. Các nhà Thơ mới muốn dò la cái sự sống tiềm tàng chất chứa bên trong lòng tạo vật.

IV. Đọc tác phẩm: Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng thu 

Từng có câu: “Thu là thơ của đất trời, thơ là thu của lòng người”. Có thể còn ai đó hoài nghi cái chân lí này của người xưa. Nhưng nếu một lần đọc những bài như Tiếng thu của Lưu Trọng Lư thì nỗi hoài nghi vấn vơ gia dễ dàng tan biến. “Hồn thơ” và “hồn thư” ở đây đã đồng vọng mà thành Tiếng thu

Tiếng thu

Em không online mùa thu 

dưới trăng mờ thổn thức

Em không nợ rạo rực 

hình ảnh kẻ chinh phu

trong lòng người cô phụ?

 

Em không rừng thu 

lạ thu kêu xào xạc

con nai vàng ngơ ngác

đạp trên lá nàng khô?

Con người cổ điển vốn xem tĩnh là gốc của động, là gốc của sự vận động trong tạo vật. Cho nên người ta đã có cả một quan niệm triết học và mĩ học về cái tĩnh. Tĩnh được xem là trạng thái vĩnh viễn, là nét đẹp vĩnh hằng của tạo vật thiên nhiên trường cứu không di dịch này. Vì thế, bước vào thơ thiên nhiên xưa là bước vào một thiên nhiên tĩnh lặng, miên viễn. Yên bình, thanh vắng trở thành một đặc tính của vẻ đẹp thiên nhiên trong nghệ thuật cổ điển. Ấy là cái tĩnh đầy an nhiên minh triết của thi nhân xưa.

Thơ mới không thế! Nếu như gom toàn bộ Thơ mới lại để mà lắng nghe, thì cái âm hưởng đặc trưng nhất vang lên từ đáy hồn Thơ mới chính là tiếng XÔN XAO. Các thi sĩ Thơ mới ít nhìn thiên nhiên bằng cái nhìn chiêm nghiệm. Họ muốn vào đô la cái sự sống tiềm tàng chất chứa bên trong lòng tạo vật. Bằng mối liên hệ tương ứng vi diệu giữa tâm hồn cá nhân và tâm hồn tạo vật, họ đã khám phá ra sự sống bí mật đầy xôn xao trong lòng thiên nhiên. Bên trong mọi tạo vật kia chất chứa bao biến thái tỉnh vi và bí mật. Bên trong mỗi tạo vật là cả một thế giới riêng vừa mơ hồ vừa hiển hiện mà người ta chỉ nắm bắt được bằng thi cảm: thế giới huyễn diệu! Nó là cái cựa mình của nụ hoa, là tiếng thở dài của lá, là nôi rạo rực của nhuy phấn, tiếng đập cánh của những giấc mơ, tiếng rung của những đường trắng, là tiếng ngân của những làn ánh sáng, là sự hổn hển nước mây, là sự run rẩy bâng khuâng của thứ nắng lỡ thì,... Thế giới Thơ mới là vạn vật lên men say, là tạo vật ở trạng thái thăng hoa. Vì thế mà XÔN XAO đã thành điệu hồn riêng của Thơ mới.

Tiếng thu không phải là một âm thanh riêng rẽ nào, cũng không phải là một tập hợp giản đơn nôm na của nôi thốn thức trong đất trời, nôi rạo rực trong lòng người và tiếng xạc xào của lá rừng. Tiếng  là một điệu huyền. Tiếng thu là cả một bản hoà âm vừa mở hồ vừa hiển hiện của bao nỗi xôn xao ngấm ngầm trong lòng tạo vật đang hoà điệu với nội xôn xao huyền diệu của hồn thi nhân.

Có lẽ bởi sự cộng hưởng ấy mà “bản hoà âm mùa thu” đã tìm thấy cho mình một “bản hoà âm ngôn từ” trong những nét đặc sắc nhất của thi phẩm này: âm điệu.  Tiếng thu đã được ký thác vào một cấu trúc ngôn từ chứa chan tính nhạc. Nghe trong tổng thể, thậm chí còn thấy bài thơ từ tựa một ca khúc. Sao lại né tránh, lại xem nhẹ việc cảm thụ phương diện âm nhạc của Tiếng thu? Bên cạnh câu “Thi trung hữu hoạ”, người xưa chẳng đã từng nói “Thi trung hữu nhạc” đó thôi! Vả chăng áng thơ ca chân chính nào cũng xâm chiếm tâm hồn người đọc trước hết bằng âm điệu của nó. Âm điệu thơ bao giờ cũng là sự cất cánh, sự hiển hiện của cái ta gọi là hồn thơ. Nghe được âm điệu riêng thì xem như đã cảm nhập được cái hồn, cái thân của thơ rồi vậy. Mà ở đây, đường như nhạc lại là cái hình thức của Tiếng Mu, là cái chân dung của thi phẩm. Xem nhẹ điều này chẳng phải là bỏ qua phần hồn mà chỉ chú trọng đến phần thân xác của thơ hay sao? Điều cốt yếu là cảm nhận nhạc tính trong sự hòa điệu giữa TIẾNG THU và TIẾNG THƠ thế nào thôi!

Có thể khi in, bài thơ được sắp xếp thành khổ, cũng có thể in liền không chia khổ. Những điều này không có ý nghĩa quyết định, nó chỉ thuần túy là sự trình bày bề ngoài. Cấu trúc ngôn từ tự nó đã chia bài thơ thành ba phần nội dung, tương ứng với ba câu hỏi. Và như thế, dù muốn hay không, tự nó cũng hình thành ba khổ, bất chấp sự tán đồng hay phản bác của người phân tích. Ba phần nội dung hợp thành một chỉnh thể theo kết cấu rất âm nhạc. độ Chúng ta đều biết “lặp lại” và “phát triển“ là một quy luật rất thông thường của âm nhạc. Âm nhạc của ngôn từ cũng không nằm ngoài quy luật ấy. Tiếng fÏr quả là một chỉnh thể chặt chẽ và nhuần nhuyễn, đẹp nhÌn một giai điệu tru. Có thể ví với một giai điệu, bởi sự hòa nhập tự nhiên hài hoà giữa “vần” và “nhịp”. Tiếng thu hiệp vần bằng cả hai hệ thống: vần bằng (mùa thu - trăng mờ - chính phụ - rừng thu - nàng khô) và vần trắc (thổn thức - rạo rực - xào xạc - ngơ ngác),... Vần điệu nhờ vậy vừa giàu có vừa nhất quán. Bởi “bằng” cũng chỉ một vần (vần u), “trắc” cũng chỉ một vần (vần ức - ac). Sức quyến rũ của bài thơ, trước hết, nằm ở sự quyện hoà của hai chuỗi vần bằng và vần trắc này. Còn nhịp điệu có lẽ được tạo ra trước hết bởi thể loại. Bài thơ thuộc thể ngữ ngôn, gồm chín câu, mỗi câu năm chữ, tạo ra bước nhịp lớn đều đặn, em đêm suốt toàn bài. Ba khổ thơ, khổ nào cũng mở đầu bằng cụm từ Em không nghe, tạo nên điệp khúc rõ rệt. Đúng hơn là như một khúc thức gồm ba lời. Khúc thức không chỉ lặp lại mà còn phát triển. Ba khổ thì khổ một: 2 đồng, khổ hai: 3 đòng, và khổ ba: 4 đồng. Sự gia tăng tương ứng với từng mảng nội dung, từng bước đẩy cảm xúc lên cao trào.

Người viết vừa phân tách, mô tả cấu trúc ngôn từ mang tính nhạc của thi phẩm này. Nhưng điều đó phỏng có ích gì nếu như không làm vang lên được cái “tiếng thu”?

Có phải vào mùa thu là mùa nhạy cảm nhất trong năm? Có phải vào mùa thu ngay cả những người vô tâm nhất cũng có thể nghe thấy những rung động tỉnh vi của trời đất? Lưu Trọng Lư đang muốn chia sẻ, muốn tìm kiếm sự đồng điệu, hay đang muốn phô bày những cảm nhận huyền diệu mình mới nghe được trong hư hoảng qua một thoáng nghiêng tai thi sĩ? Ba khổ thơ nói đến ba thứ tiếng của mùa thu. Chẳng biết là ngẫu nhiên hay được sắp đặt một cách tỉnh vi, nhuần nhị mà ba “tiếng” ấy lần lượt cất lên theo một trật tự phát triển từ tiếng thổn thức của mùa thu dưới ánh trăng mờ, đến tiếng rạo rực của lòng người cô phụ, đến tiếng lá thu kêu xào xạc - nghĩa là từ xa đến gần, từ mơ hồ đến cụ thể, từ toàn thể đến cá thể, từ cảnh vật đến nhân vật, từ hình sắc đến thanh âm, từ bề sâu đến bề ngoài, từ kín khuất đến phát lộ. Nhưng lắng kĩ mà xem, thực ra thốn thức và rạo rực chưa thực là âm thanh. Những tiếng ấy hiện hữu mà mơ hồ. Toàn bài chỉ có duy nhất một từ tượng thanh: xào xạc. Vậy Tiếng tu là bao gồm cả những tiếng có thể nghe được một cách trực quan cả những tiếng chỉ nhận được bằng linh cảm, thi cảm. Nhưng trong ba tiếng trên đường như chứa đựng một tương quan khác. Thổn thức và rạo rực là những âm nền còn xào xạc là âm nổi: Phải chăng nồi thốn thức của tạo vật, nổi rạo rực của lòng người đã cộng hưởng thành nồi xôn xao mênh mang đang rung lên bên trong lòng trời đất này. Còn tiếng xào xạc kia chỉ là sự phát lộ thành tiếng ra bên ngoài của nôi xôn xao ngấm ngầm đó thôi? Hồn thu bàng bạc trong toàn bài nhưng nó hiện hình sống động nhất là ở cái tiếng xào xạc ấy. Nghe cái tiếng thu này, ta để nhớ đến một tiếng thu khác của Nguyễn Đình Thi về sau này:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may.

(Đất nước)

Xao xác và xào xạc thực chỉ là một âm thôi, khác nào nhÌn một nốt nhạc chơi ở hai cung khác nhau. Ấy thế mà không thể thay thế được. Xao xác đanh và cao, gợi được tiếng lá quét mình trên đường phố, nó là cái hơi thu phố phường. Còn xào xạc lại trầm và đục, trong không khí này, đã gợi được vẻ âm u và huyền bí của rừng già:

Em không nghe rừng thu

lá thu kêu xào xạc,

Tiếng thổn thức của đất trời còn mơ hồ, tiếng rạo rực của lòng người cô phụ có phần rõ rệt hơn! Có thể em không nghe! Nhưng còn tiếng xào xạc gần gũi thế, lẽ nào em không nghe? Cấu trúc lời thơ vừa lặp lại vừa phát triển như thế khiến cho tiếng thu ngày một xốn xang hơn và lòng thi nhân (người cất lên tiếng hỏi tìm sự đồng điệu) cũng ngày một khắc khoải hơn!

Sự hòa điệu giữa tiếng thu và tiếng thơ còn tỏ ra tỉnh tế hơn trong âm hưởng của nó. Toàn bài có thể ngắt thành 18 tiết tấu, thì số tiết tấu bằng là 11, còn tiết tấu trắc là 7. Bằng chiếm ưu thế. Toàn bài có 49 âm thì có tới 30 âm bằng, âm trắc chỉ có 19. Bằng cũng chiếm tru thết Lại nữa, toàn bài có những cầu hoàn toàn viết bởi âm bằng: “Em không nghe mùa thu”, “ Em không nghe rừng thu”. Vậy là âm điệu chung đã nghiêng hẳn về bằng. Bởi thế chúng ta thấy Tiếng thu có một điệu êm đầm, thanh thoát mà tiêu tao. Cái nên bằng của âm hưởng đường như mang trong nó cái không khí âm u bàng bạc, mơ màng cái nhịp rung trầm trong lòng cõi thu mênh mông. Những điều độc đáo chưa phải ở phần bằng, mà ở phần trắc. Đáng kể nhất là những vần chân thuộc về âm trắc. Chúng đều là những từ láy. Bản thân từ láy đã gợi được sự điệp âm, sự nhấn nhá, luyến láy. Chúng lại đi liền thành chuôi càng làm cho sắc thái ngân luyến vang vọng hơn, lên cao hơn. Khác nào trên cái nền bằng thanh tĩnh mơ màng của đất trời chợt ngân lên những Tiếng tru. Khác nào trên cái nên mơ hồ những thốn thức rạo rực xốn xang vô hình thấy động lên một tiếng xạc xào của lá! Sự tương phản bằng trắc ấy lại chính là sự hài hoà, sự hài thanh để cho Tiếng từ thành một bản hoà âm đó vậy?

Tôi cứ nghĩ, Lưu Trọng Lư chính là chú nai kia, bởi cái nghiêng tai ngơ ngác thi sĩ của nó. Nó ngơ ngác vì không nghe ra hay vì tiếng thu quá đỗi lạ lùng. Nó chỉ nghe có một tiếng lá thu kêu xào xạc thôi, mà đằng sau tiếng xào xạc kia là biết bao rạo rực, thốn thức của đất trời. Chỉ có một tín hiệu duy nhất là tiếng xào xạc những cái âm thanh của lá rừng thực đã là vị sứ giả của cái vương - quốc - thú huyền bí, là phát ngôn chính thức và hàm súc của Tiếng thu. Ấn sau tiếng xào xạc là cả một giao hưởng vô hình của những nổi xôn xao huyền diệu. Đó vừa là trạng thái của thiên nhiên tạo vật, vừa là điệu hồn của thị sĩ và của thời đại cộng hưởng trong một cấu trúc ngôn từ thị ca tỉnh ví và đẹp đẽ.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 10 Kết nối tri thức hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Mùa xuân chín

Tác giả - tác phẩm: Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư

Tác giả - tác phẩm: Hiền tài là nguyên khí của quốc gia

Tác giả - tác phẩm: Yêu và đồng cảm

Tác giả - tác phẩm: Chữ bầu lên nhà thơ

Đánh giá

0

0 đánh giá