Chuyên đề Ngữ văn 10 Soạn bài Tổ chức xây dựng kịch bản và tập diễn xuất | Chân trời sáng tạo

13.2 K

Tailieumoi.vn giới thiệu giải bài tập Chuyên đề Ngữ văn 10 Tổ chức xây dựng kịch bản và tập diễn xuất sách Chân trời sáng tạo hay, chi tiết giúp học sinh xem và so sánh lời giải từ đó biết cách làm bài tập Chuyên đề học tập Ngữ văn 10. Mời các bạn đón xem:

Giải bài tập Chuyên đề Ngữ văn 10 Soạn bài Tổ chức xây dựng kịch bản và tập diễn xuất

I. So sánh văn bản truyện Chuyện người con gái Nam Xương và kịch bản chuyển thể.

1. Đọc truyện

Chuyện người con gái Nam Xương

Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính đã thuỳ mị, nết na, lại thêm tư dung tốt đẹp. Trong làng có chàng Trương Sinh, mến vì dung hạnh, xin với mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Song Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức. Nàng cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải đến thất hoà. Cuộc sum vầy chưa được bao lâu thì xảy ra việc triều đình bắt lính đi đánh giặc Chiêm. Trương tuy con nhà hào phú nhưng không có học, nên phải ghi trong sổ lính đi vào loại đầu. Buổi ra đi mẹ chàng có dặn rằng:

- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy hội công danh từ xưa ít gặp, nhưng trong chỗ binh cách phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm để lỡ mắc vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có như thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng vì con được.

Chàng quỳ xuống đất vâng lời dạy. Nàng rót chén rượu đầy tiễn chồng mà rằng:

- Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rối. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.

Nàng nói đến đây, mọi người đều ứa hai hàng lệ. Rồi đó, tiệc tiễn vừa tàn, áo chàng đành rứt. Nước mắt cảnh vật vẫn còn như cũ, mà lòng người đã nhuộm mối tình, muôn dặm quan san!

Bấy giờ, nàng đương có mang, sau khi xa chồng vừa đầy tuần thì sinh ra một đưa con trai, đặt tên là Đản. Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bướm lượn đầy vườn, mây che kín núi, thì nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn được. Bà mẹ cũng vì nhớ con mà dần sinh ốm. Nàng hết sức thuốc than lễ bế thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn. Song bệnh tình mỗi ngày một trầm trọng, bà biết không sống được, bèn trối lại với nàng rằng:

- Ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về, mà không gắng ăn miếng cơm miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song, làm tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi không biết sống chết thế nào không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng lành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như con đã chẳng phụ mẹ.

Bà cụ nói xong thì mất. Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ của mình.

Qua năm sau, giặc ngoan cố chịu trói, việc quân kết thúc. Trương Sinh về tới nhà, được biết mẹ đã qua đời, con vừa học nói. Chàng hỏi mồ mẹ, rồi bế đứa con nhỏ đi thăm; đứa trẻ không chịu, ra đến đồng, nó quấy khóc, Sinh dỗ dành:

- Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi.

Đứa con ngây thơ nói:

- Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư! Ông lại biết nói chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.

Chàng ngạc nhiên gạn hỏi. Đứa con nhỏ nói:

- Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.

Tính chàng hay ghen, nghe con nói vậy, đinh ninh là vợ hư, mối nghi ngờ ngày càng sâu, không có gì gỡ ra được.

Về đến nhà, chàng la um lên cho hả giận. Vợ chàng khóc mà rằng:

- Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thoả tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.

Chàng vẫn không tin. Nhưng nàng hỏi chuyện kia do ai nói ra, thì lại giấu không kể lời con nói; chỉ lấy chuyện bóng gió này nọ mà mắng nhiếc nàng, và đánh đuổi đi. Họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho nàng, cũng chẳng ăn thua gì cả. Nàng bất đắc dĩ nói:

- Thiếp sở dĩ nương tựa vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.

Đoạn rồi nàng tắm gội sạch, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than rằng:

- Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ.

Nói xong nàng gieo mình xuống sông mà chết. Chàng tuy giận là nàng thất tiết, nhưng thấy nàng tự tận cũng động lòng thương, tìm vớt thây nàng, nhưng chẳng thấy tăm hơi đâu cả. Một đêm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con nói rằng:

- Cha Đản lại đến kia kìa!

Chàng hỏi đâu. Nó chỉ bóng chàng ở trên vách:

- Đây này!

Thì ra, ngày thường, ở một mình, nàng hay đùa con, trỏ bóng mình mà bảo là cha Đản. Bấy giờ chàng mới tỉnh ngộ, thấu nỗi oan của vợ, nhưng việc trót đã qua rồi!

Cùng làng với nàng, có người tên là Phan Lang, khi trước làm đầu mục ở bến đò Hoàng Giang, một đêm chiêm bao thấy người con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng. Sáng dậy, Phan Lang thấy có người phường chài đem vào biếu một con rùa mai xanh, sực nghĩ đến chuyện mộng, bèn đem thả con rùa ấy. Cuối đời Khai Đại nhà Hồ, quân Minh mượn tiếng đưa Trầm Thiêm Bình về nước, phạm vào cửa ải Chi Lăng, nhân dân trong nước, nhiều người sợ hãi phải chạy trốn ra ngoài bể, không may đắm thuyền đều chết đuối cả. Thây Phan Lang dạt vào một cái động rùa ở hải đảo, có người đàn bà là Linh Phi trông thấy nói rằng:

- Đây là vị ân nhân cứu sống ta thuở xưa.

Linh Phi bèn lấy khăn dấu mà lau, lấy thuốc thần mà đổ, một chốc Phan Lang liền tỉnh lại. Phan trông thấy cung gấm đền dao thật nguy nga lộng lẫy, mà chưa biết mình đã lọt vào cung nước của rùa thần. Linh Phi bấy giờ mình mặc áo gấm dát ngọc, chân đi giày có vân nạm vàng, cười bảo Phan Lang rằng:

- Tôi là Linh Phi trong động rùa, vợ vua biển Nam Hải, nhớ hồi còn nhỏ đi chơi ở bến sông bị người phường chài bắt được, ngẫu nhiên báo mộng, quả được nhờ ơn. Gặp gỡ ngày nay, há chẳng phải lòng trời xui khiến cho tôi có dịp đền ơn trả nghĩa?

Phi bèn đặt yến ở gác Triêu Dương để thết đãi Phan Lang. Dự tiệc hôm ấy có vô số những mĩ nhân, quần áo thướt tha, mái tóc búi xễ. Trong số đó, có một người mặt chỉ hơi điểm qua một chút son phấn trông rất giống Vũ Nương. Phan có ý nhìn trộm, nhưng không dám nhận. Tiệc xong, người đàn bà ấy nói với Phan Lang rằng:

- Tôi với ông vốn người cùng làng, cách mặt chưa bao, đã quên nhau rồi ư?

Bấy giờ Phan mới nhận đích người ấy là Vũ Nương và gạn hỏi duyên cớ. Nàng nói:

- Tôi ngày trước không may bị người vu oan, phải gieo mình xuống sông tự tử. Các nàng tiên trong cung nước thương tôi vô tội, rẽ một đường nước cho tôi thoát chết, nếu không thì đã vùi vào bụng cá, còn đâu mà gặp ông.

Phan nói:

- Nương Tử nghĩa khác Tào Nga, hờn không Tinh Vệ mà phải ôm mối hận gieo mình xuống nước. Nay thóc cũ không còn, thóc mới vừa gặt, há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư?

Vũ Nương nói:

- Tôi bị chồng ruồng rẫy, thà già ở chốn làng mây cung nước, chứ còn mặt mũi nào về nhìn thấy người ta nữa!

Phan nói:

- Nhà cửa tiên nhân của nương tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nương tử, cỏ gai rợp mắt. Nương tử dù không nghĩ đến, nhưng tiên nhân còn mong đợi nương tử thì sao?

Nghe đến đây, Vũ Nương ứa nước mắt khóc, rồi quả quyết đổi giọng mà rằng:

- Có lẽ không thể gửi hình ẩn bóng ở đây được mãi, để mang tiếng xấu xa. Phải chăng, ngựa Hồ gầm gió bắc, chim Việt đậu cành nam. Cản vì nỗi ấy, tôi tất phải tìm về có ngày.

Hôm sau, Linh Phi lấy một cái túi bằng lụa tía, đựng mười hạt minh châu, sai sứ giả Xích Hỗn đưa Phan ra khỏi nước. Vũ Nương nhân đó cũng đưa gửi một chiếc hoa vàng mà dặn:

- Nhờ nói hộ với chàng Trương, nếu còn nhớ chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây đèn thần chiếu xuống nước, tôi sẽ trở về.

Lúc đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với họ Trương. Ban đầu Trương không tin. Nhưng khi nhận được chiếc hoa vàng, chàng mới sợ hãi mà nói:

- Đây quả là vật dùng mà vợ tôi mang lúc ra đi.

Chàng bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện.

Chàng vội gọi, nàng vẫn ở giữa dòng mà nói vọng vào:

- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.

Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất.

2. Đọc kịch bản chuyển thể

Người con gái Nam Xương

(Chuyển thể từ truyện Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ)

MÀN I

BIỂN NAM HẢI

Vũ Nương, Phan Lang

Ở Nam Hải, tại yến tiệc của Linh Phi.

(Âm nhạc vui tươi, ánh sáng xanh huyền ảo.)

Vũ Nương (ngồi nhìn các cung nữ múa hát, ánh mắt xa xăm)

(Cung nữ múa hát, quần áo thướt tha xoay theo điệu nhạc. Yến tiệc kết thúc)

Vũ Nương (tiến về phía Phan Lang): - Tôi với ông là người cùng làng, không gặp chẳng bao lâu mà đã quên mặt nhau rồi ư?

Phan Lang (ngạc nhiên): – Nương tử có phải người Nam Xương, một năm trước dã gieo mình xuống Hoàng Giang tự tử không?

Vũ Nương - Chính là tôi! Phan Lang -Chắng hay nướng tủ có nỗi lòng phiền muộn chỉ, sao lại chọn con đưòng tự tận? Chốn Nam Hải xa xôi cách trở, âu cũng đã tròn một năm, nàng há lại không tưởng nhớ đến quê hương ư?

Vũ Nương (buồn rầu, ánh mắt đau khổ nhưng quả quyết): - Tôi nhất quyết rồi, nỗi oan này chẳng bao giờ được rửa sạch, tôi không thể trở về. Tôi thà gửi hình ản bóng ở chốn làng mấy cung nước này, chứ chẳng còn mặt mũi mà trở lại quê hương. Không! Tôi sẽ không quay về nơi ấy nữa!

Phan Lang (gạn hỏi): - Nương tử hãy kể cho tôi nghe nỗi oan của nàng được không?

Vũ Nương (cúi mặt, rồi lại ngước nhìn lên, trớng mắt về phía xa xăm, hồi tưởng lại quá khứ) - Tôi vốn không muốn nhớ về chuyện cũ đau lòng ấy, nhưng vì ông là chổn thân tình, tôi sẽ kể. Kim lặng trầm tư) ... Nhiều năm về trước...

(Sân khấu phun ta làn khói trắng huyền ảo, âm nhạc đa diết, ánh sáng yếu dần rồi tắt.)

MÀN II

CHIẾN TRẬN

Bóng người phụ nữ, binh lính, tướng quân…

Nhiều năm về trước…

(Hình bóng người phụ nữ ru con sau bức rèm trắng. Ánh sáng chiếu tập trung sau bức rèm. Âm nhạc hát ru.)

Bóng người phụ nữ (đung đưa ru con):

- À... ơi... Nước non lận đận một... mình...

Thân cò lên thác... ơi... à, gi... Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay…

À... ơi... Ai làm cho bể kia đầy...

À... ơi... cho ao kia cạn... À... oi... cho gầy cò con... Ơi... à... ơi... à... a... à... òi...à... a... à... ơi...

(Ánh sáng đèn sau bức rèm tắt, đèn sân khấu đỏ. Âm thanh tiếng binh đao, chiêng trống chiến trận.)

Binh lính (hớt hải chạy vào): - Cấp báo tướng quân, giặc Chiểm thất thủ, quân ta đã triệt hạ được ba cánh quân của kẻ thù. Hiện quân ta đang vây hãm giặc ở chân núi phía bắc.

Tướng quân (mỉm cười): - Tốt! Tốt! Thế giặc e khó thoát được vòng vây của ta trong trận này. Đây là cơ hội để ta đánh đuổi giặc Chiêm ra khỏi bờ cõi. Hạ lệnh tấn công!

Binh lính: - Tuấn lệnh!

(Trận chiến bắt đầu. m nhạc hào hùng nổi lên.)

Binh lính (đồng thanh hò hét): - Xông lên!!!!

(Hai bên đánh nhau, giấc Chiêm ta ta trận.).

Binh lính: (hò reo vui mừng)

(Ánh đèn sân khấu tắt. Ánh đèn sau bức rèm dần sáng mạnh chiếu rọi vào bóng người, chuyển sang âm nhạc da diết.)

Bóng người phụ nữ (bế con trước ngôi mộ, hát, giọng tha thiết): - Tiếng dịch thổi nghe chừng đồng vọng... Hàng cờ bay trong bóng... ơ... phất phơ... Dấu chàng... theo lớp mây... a... đưa... Thiếp nhìn rặng núi... ngẩn ngơ... ơ… nỗi nhà... Nếm chua cay tấm lòng mới tó, chua cay này... a... ơi... há có... vì ai... Vì chàng lệ thiết nhỏ đôi... ơ... à... ơi... Vì chàng thân thiết... lẻ loi... a... ơi... một bề.

(Trích Chinh phụ ngâm)

(Ánh sáng đèn sai rèm yếu dần cho đến khi thông người biến nhất )

MÀN III

ĐOÀN TỤ

Trương Sinh, Vũ Nương, Đản

Một năm sau, tại nhà Trường Sinh.

Trương Sinh (đi từ cổng vào, khuôn mặt đầm đìa mồ hôi) – Nương tử! Nương tử! Ta đã về! Trường Sinh của nàng đã quay trở về rồi đây.

Vũ Nương (từ trong tỉnh bước ra, nhìn thấy Trường Sinh, chạy đến): -Ôi! Trường Sinh, cuối cùng thì chàng đã bình an trở về.

Trương Sinh: (ô chầm lấy vợ, ai mìừng)

Đản (từ trong nhà đi ra): - Mẹ ơi!.

Trương Sinh (kinh ngạc sửng sốt): - Đây... Đây là ai?

Vũ Nương (quay lại nhìn đứa trẻ): - Thiếp đã định nói cho chàng. Những ngày tháng chàng đi chinh chiến nơi xa, đã có biết bao điều xảy đến với nhà ta... Xin chàng hãy lắng nghe, những điều thiếp nói... Đứa trẻ đó chính là con của chúng ta!

Trương Sinh (ngạc nhiên, đứng sừng): - Nàng nói sao. Đó là con của ta? Con của ta...? Vậy còn mẹ của ta? Sao mãi không thấy người ra đó là trở về?

Vũ Nương (cái mặt, nghẹn lời): - Xin chàng bình tĩnh và nghe thiếp nói, hệ của chúng ta... vì quá nhớ mong chàng sinh ra ốm nặng... mẹ đã mất từ một năm trước. (rơm rớm nước mắt, hướng tất cả nơi chôn mộ phân)... Mẹ đã không đợi chàng về để chúng ta cùng sum họp...

Trương Sinh (mặt biến sắc, sững sờ): - Thế là gia đình chỉ còn ba chúng ta thôi ư? Đản, lại đây với ta... Lại dây con... chúng ta cùng ra thăm bà con... Bà đang đợi cha ngoài kia... (bước đến, bể Đản trên tay, đưa tay nải cho vợ rồi ra mộ phần).

MÀN IV

NGHI NGỜ

Trường Sinh, Đản

Tại mộ phần của mẹ Trương Sinh.

(Mộ được chăm sóc chu đáo, cỏ dại được dọn dẹp sạch sẽ, tương khói nghi ngút.)

Trương Sinh (đặt Đản xuống đất, quỳ trước mộ phần, khóc thương): - Con bất hiếu chưa kịp phụng dưỡng mẹ già, người đã vội bó con mà đi. Nay con bình an trở về như lời hứa trước lúc ra đi, mà âm dương lại cách biệt. (Đản quấy khóc).

Trương Sinh (dỗ dành): - Nín đi con! Con ngoan của cha! Cha về nghe tin bà mất, cha đau khổ lắm rồi. Con đừng quấy khóc nữa. Đau lòng cha làm con ơi!

Đản (nín khóc): - Ông cũng là cha của Đản? Kì quá, sao không giống gì hết, Bình thường cha của Đản không nói, chỉ im thin thít, còn ông thì lại biết nói. Mà cha của bản chỉ đến chơi với Đản vào buổi tối thôi... (lại quấy khóc)… Đản muốn về với mẹ có Đản không thích ở đây nữa.

Trương Sinh (ngạc nhiên): Con nói sao? Con bảo cha của con chỉ dến vào buổi tối thôi ư?

Đản (hồn nhiên đáp): - Đúng rồi! Cha hay đến thăm mẹ và Đản vào buổi tối. Cha thương mẹ Đản lắm. Mẹ đi đâu thì cha sẽ đi đó. Mẹ ngồi cha cũng ngồi, mẹ đúng cha cũng đúng. Cha cũng thương Đản nữa, cha hay chơi với Đản. Vui lắm! Đản chỉ hơi buồn vì cha không khi nào bế Đản.

Trương Sinh: Kim lặng không nói, sĩ sầu nét mặt, nhất tính lên sự giận dữ)

(Âm nhạc gấp gáp, kịch tính.)

MÀN V

CHIA LI

Trường Sinh, Vũ Nương

Tại nhà Trương Sinh.

(Trương Sinh bế con quay trở về.)

Trường Sinh (sần mặt, giận dữ): - Bao năm trôi qua, ta ở chiến trường đối mặt với bao hiểm nguy, gian khổ, vâng theo lời mẹ dạy: bổng lộc vinh hoa đều nhường để tay người, chỉ mong giữ được thân này bình an trở về với gia đình... Còn nàng? Suốt bao năm dài vắng bóng ta, phải chăng nàng đã lừa dối ta điều chi? Tất cả mọi thứ phải chăng đều là sự giả dối mà nàng đã dựng lên để lừa gạt ta?

Vũ Nương - Chàng nói gì, thiếp không hiểu. Sao chàng lại nghi oan cho thiếp như thế?

Trường Sinh (mặt hầm hầm, quả quyết): Không! Ta không hề nghi oan cho nàng Mà chính những điều ta nhìn thấy, nghe thấy khiến ta khẳng định chắc chắn là như thế. Nàng đã lừa dối ta, phụ bạc lời hẹn ước.

Vũ Nương (van nài lức nở): - Thiếp xin chàng, xin hãy tin thiếp Thiếp không phải là kẻ gian dối, lừa lọc tình yêu của chàng. Suốt bao năm nay tiếp một mình vò võ nuôi con, chăm sóc mẹ già,... chưa một lần nào thiếu dám nghĩ đến việc phụ bạc lời hẹn ước của hai ta... Xin chàng... thiếp tha thiết xin chàng xin đừng kết tội thiếp như thế! (nắm cánh tay Trương Sinh).

Trường Sinh (hất tay ra, quay mặt đi): - Thôi, không cần giải thích nữa! Vô ích! Vô ích cả thôi... Ta đã biết cả rồi... Giờ đây ta mới thấy được bộ mặt gian dối của nàng... Ôi, chính trái tim ta đây còn bị bóp nghẹt khi nhận ra sự phản bội... Nàng đi đi!... Đi cho khuất mắt ta... Ta không muốn nhìn thấy nàng thêm một lần nào nữa. Đi!...

Vũ Nương - Chàng oi! Xin hãy nghe thiếp.

Trương Sinh: Đừng nói thêm lời nào nữa. Ta bảo nàng đi đi!

Vũ Nương - Trời ơi! Ai thấu cho nỗi oan này... (đầm đìa nước mắt)...

(Âm nhạc gấp gáp, kịch tính.)

(Vũ Nương đau khổ bước đi.)

MÀN VI

GIẢI OAN

Đản, Trương Sinh, bóng người phụ nữ

Nhà Trường Sinh vào buổi tối.

(Ánh sáng sân khấu mờ. Ánh sáng sau bức rèm sáng rọi rõ bóng người – bóng Trương Sinh.)

Đản (reo lên): - A! Cha của Đản lại đến thăm Đản kìa!

Trương Sinh (ngạc nhiên): - Cha của con đâu?

Đản (chỉ cào bóng của Trương Sinh): - Đây, cha của Đản lại đến thăm Đản này. (Chiếc bóng của Trương Sinh lượn lờ hoá thành bóng người phụ nữ đang "l con.)

Bóng người phụ nữ – À ơi... Con cò mà đi ăn đến, đậu phải cảnh mềm lộn cổ a... xuống ao. Ông oi ông vớt tôi nao, tôi có lòng nào ông hãy xáo à... măng, à... hi...

À ơi... có xáo thì xáo nước trong, đừng xáo nước đục a... đau lòng cò con à... a... à... ơi... à... a...à... oi...

(Chiếc bóng lại lượn lờ, hoá thành bóng người phụ nữ đứng trước bến Hoàng Giang) Bóng người phụ nữ À... ơi.. cánh cò... lận đận... bao đêm...

Nuôi con tròn nghĩa... oi... à... ơi... lênh đênh... muộn phiền...

À... ơi... bể kia... thăm thẳm... cao dày...

Cúi xin chứng giám... ơi... à... ơi... À á... oi... lòng này thấu chăng.

Ngủ đi... oán hận... xót xa...à... ơi...

Cho quên đi hết... ơi à... ơi... đắng cay... muộn sầu.

À... a...à... ơi... à..a... à... ơi...

Trường Sinh (sửng sốt nhìn vào chiếc bóng, sực tỉnh, ôn nhật dau khố): – Trời ơi! Ta đã nghi oan cho nàng rồi!

(Bóng người nhảy xuống nước)

Trương Sinh (nhìn theo bóng người): - Không!... (khóc nức nở)…

(Âm nhạc nhỏ dần, đèn sân khấu mờ dần).

MÀN VII

TRỞ VỀ

Vũ Nương, Phan Lang

Ở Nam Hải,

(Âm nhạc vui tươi, ánh sáng xanh huyền ảo.)

Vũ Nương (quay lại nhìn Phan Lang): – Tôi đã đến bến Hoàng Giang, dùng cái chết để thần linh chứng giám cho tấm lòng trinh bạch của mình. May nhờ các nàng tiên cõi nước, vì động lòng thương xót, đã rẽ nước giúp tôi thoát chết, nên ôngmới có thể nhìn thấy tôi ở nơi đây.

Phan Lang (lắng nghe, động lòng thương xót): - Tất cả âu cũng là một sự hiểu lầm, Nương tử thực sự không có ý định trở về ư? Nhà cửa, mổ phần tiên nhân của nương tử đã xanh cây um tùm. Dù không để tầm đi chăng nữa thì vẫn còn chồng, còn con đang ngày đêm ngóng đợi. Nương tử có chắc không còn lưu luyến gì nữa ư?

Vũ Nương (bỗng rơm rớm nước mắt): - Thú thật với ông, không lúc nào tôi nguôi nỗi nhớ con. Đứa con bé bỏng của tôi... Suốt một thời gian dài, nó thiếu tình cảm của cha... nay lại chịu cảnh vắng sự chở che của mẹ. Đêm nào tôi cũng mơ lại được vỗ về hát ru cho con ngủ... (im lặng, thổn thức)... Nhưng, tôi nghĩ lại rồi ông ạ,... chắc có lẽ tôi sẽ tìm ngày trở về... Thân tôi cũng đã xong rồi, dù gì thì cũng đã sống trọn đạo của một kiếp người, chỉ là... tôi còn day dứt mãi, trước khi ra đi chưa kịp

nhìn mặt con (lấy trong áo một chiếc hoa vàng đưa cho Phan Lang). Phiền ông nói hộ với chàng: nếu còn chút tình xưa nghĩa cũ, xin lập một đàn giải oan bên cạnh bờ sông. Khi ấy tôi sẽ trở về.

Phan Lang - Được! Tôi sẽ gửi tin vật này cho chàng Trương. Xin các biệt!

(Phan Lang cầm chiếc hoa vàng, từ biệt Vũ Nương, rời biển Nam Hải.)

MÀN VII

ĐOẠN KẾT

Trường Sinh, Vũ Nương

Tại bến Hoàng Giang

(Trường Sinh đắt con đứng trước đàn giải oan, thắp ngọn đèn chiết xuống nước.)

Trường Sinh - Nương tử! Nàng có nghe thấu được lời la? Ta đã hiểu thấu được nỗi oan của nàng. Biết bao năm qua ta sống trong dần vặt, còn thiếu vắng tình thương của mẹ. Xin nàng.. vì tình xưa nghĩa của hãy quay trở về để gia đình đoàn tụ.

(Ánh sống xanh chớp tắt, p lên sàn sân khấu, tiếng sóng nước, Vũ Nương xuất hiện cái đoàn người ăn mặc rực rỡ.)

Vũ Nương - ThiếP đa lạ nghĩa tình của chàng. Nhưng là... giữa chúng ta đã hết duyên hết nợ, kiếp trần gian của thiết cũng kết thúc lâu rồi... thiếp không thể trở về được nữa. Hơn nữa, ân nghĩa của đức Linh Phi thiết phải báo đền, có hồn xiêu phách lạc cũng không thể dứt bỏ... (nhìn con rơm rớm lệ)... Nếu còn thương cho số kiếp của thiếp, chàng hãy ở lại dương thế thay thiếp chăm lo cho con của chúng ta...

(Ánh sáng xanh mờ dần rồi biến mất. Vũ Nương cùng đoàn người biến mất trong làn khói.)

Trương Sinh (gọi với theo): - Kia! Nương tử! Nương tử.

(Trường Sinh ôm con nhìn về hình bóng của Vũ Nương, cho đến khi người khtuất hẳn.)

(Âm nhạc tha thiết càng lên, tiếng sóng nước nhỏ dần.)

(Nhóm biên soạn)

Câu hỏi 1 (trang 65 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): So sánh truyện Chuyện người con gái Nam Xương và kịch bản Người con gái Nam Xương qua các nội dung sau (làm theo mẫu):

Soạn bài Tổ chức xây dựng kịch bản và tập diễn xuất | Chuyên đề học tập Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo

Từ kết quả so sánh, hãy rút ra một số lưu ý về cách thức chuyển thể một tác phẩm văn học thành kịch bản.

Trả lời:

- Kết quả so sánh:

Nội dung so sánh

Truyện

Kịch bản

Mức độ thay đổi

Số lượng nhân vật

Vũ Nương, Trương Sinh, Đản, người mẹ, Linh Phi, Phan Lang

Vũ Nương, Trương Sinh, bé Đản, Linh Phi, Phan Lang, binh lính, tướng quân

Không nhiều

Xung đột

Chiếc bóng trên tường

Chiếc bóng trên tường

Không thay đổi

Cách dẫn dắt và giải quyết xung đột

Mâu thuẫn – Xung đột – Giải quyết xung đột

Mâu thuẫn – Xung đột – Giải quyết xung đột

Không thay đổi

Trình tự xuất hiện của các sự kiện

Xuất hiện lần lượt

Đảo trật tự các sự kiện (Vũ Nương ở dưới nước, kể lại câu chuyện quá khứ của mình..)

Nhiều

Ngôn ngữ

Ngôn ngữ truyện

Ngôn ngữ kịch

Nhiều

Kết thúc

Vũ Nương gieo mình xuống bến Hoàng Giang

Vũ Nương gieo mình xuống bến Hoàng Giang

Không thay đổi

 

 

 

- Lưu ý về cách thức chuyển thể một tác phẩm văn học thành kịch bản:

+ Có thể thêm/bớt nhân vật nhưng phải đảm bảo các tuyến nhân vật chính.

+ Thay đổi trình tự các sự kiện, kết thúc.

+ Ngôn ngữ phải mang đậm tính cá thể, gần gũi với đời thường.

Mức độ cải biên nhiều hay ít phụ thuộc vào mục đích và ý đồ nghệ thuật của người biên kịch.

Câu hỏi 2 (trang 65 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): Cách biểu thị và các chỉ dẫn sân khấu trong văn bản kịch Người con gái Nam Xương có gì giống và khác so với màn VII, kịch bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt? Sự so sánh trên mang lại cho bạn thu hoạch gì về quy cách trình bày một văn bản kịch?

Trả lời:

Một số điểm giống và khác nhau:

- Giống nhau: Gợi ý về diễn xuất, bố trí sân khấu, mô tả không gian, thời gian,…

- Khác nhau:

+ Tên kịch bản

+ Thể loại

+ Tên tác phẩm văn học được chuyển thể sang kịch bản sân khấu đặt ở đầu kịch bản…

" Quy cách trình bày một kịch bản: ghi nhan đề kịch bản, tiêu đề các màn, lời hướng dẫn diễn xuất, gợi ý âm thanh, ánh sáng, bố trí sân khấu,…

Câu hỏi 3 (trang 65 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): Trong kịch bản Người con gái Nam Xương, câu chuyện về nỗi oan của Vũ Thị Thiết được kể lại bằng cách nào? Theo bạn, đó có phải là một cải biên đáng ghi nhận của kịch bản này?

Trả lời:

Những đoạn trần thuật trong truyện được cải biên thành những lời hát ru kết hợp múa, gợi ý bố trí sân khấu, âm nhạc, ánh sáng,… trong kịch bản sân khấu. Điều này tạo nên sự sống động, hấp dẫn, thu hút sự chú ý của người xem, truyền tải thông điệp của kịch bản,…

Câu hỏi 4 (trang 65 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): Dựa vào đoạn kết văn bản Chuyện người con gái Nam Xương (từ câu “Lúc đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với họ Trương” đến hết truyện), bạn hãy viết một màn kết khác, sát hơn với kết thúc trong văn bản truyện so với đoạn kết trong kịch bản trên.

Trả lời:

- Xác định số lượng nhân vật và viết lời thoại, gợi ý diễn xuất cho các nhân vật trong màn kết, bao gồm: Phan Lang, Trương Sinh, Vũ Nương,…

- Nội dung kịch bản bám sát kết thúc văn bản truyện:

+ Lúc đến nhà, Phan đem chuyện kể lại với Trương Sinh.

+ Ban đầu Trương không tin nhưng sau khi nhận được chiếc hoa vàng, Trương bèn theo lời, lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng Giang.

+ Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa giữa dòng, theo sau có cờ tán, võng lọng,… tạ từ rồi biến mất.

II. Quy trình xây dựng kịch bản sân khấu và tập diễn xuất.

1. Hình thành ý tưởng.

- Đây là bước đầu tiên vô cùng quan trọng, bạn nên lựa chọn một tác phẩm văn học, nhân vật văn học hoặc một trích đoạn trong tác phẩm văn học mà mình yêu thích để chuyển thể sang kịch bản sân khấu. Điều này sẽ kích thích hứng thú sáng tạo và mang lại nguồn cảm hứng học tập. Tiếp theo, bạn phải xác định rõ mục đích, thông điệp muốn truyền tải đến khán, thính giả.

- Phác họa ý tưởng sân khấu để hiện thực hóa mục đích, thông điệp của mình: Bạn có thể phát huy tính sáng tạo bằng cách thêm/ bớt tuyến nhân vật; thay đổi kết thúc; đối thoại với nhân vật, hoặc tác giả; đảo trật tự kết cấu của tác phẩm; lồng ghép hai hay nhiều tác phẩm văn học cùng đề tài, tư tưởng,..

- Sau khi phác họa xong ý tưởng sân khấu, bạn cần lựa chọn hình thức biểu diễn trực tiếp (trình diễn trên sân khấu) hay gián tiếp (qua các phương tiện truyền thông: video, clip,…). Việc lựa chọn hình thức nghệ thuật phụ thuộc vào hai tiêu chí: thứ nhất là đối tượng khán giả mà bạn muốn hướng đến (trẻ em, người lớn,…); thứ hai là thiết bị, phương tiện, đạo cụ,…. mà bạn có thể phục vụ cho vở diễn.

2. Lập dàn ý cho kịch bản.

Để lập dàn ý cho kịch bản của mình, bạn hãy tự hỏi:

- Nhan đề kịch bản là gì?

- Kịch bản sân khấu sẽ bao gồm mấy màn/cảnh/hồi?

- Những sự kiện ở các màn/cảnh/hồi được sắp xếp theo trình tự nào?

- Màn/cảnh/hồi nào đảm nhiệm vai trò nút thắt mâu thuẫn, xung đột?

- Màn/cảnh/hồi nào đảm nhiệm vai trò gỡ nút thắt mâu thuẫn, xung đột?

- Thông điệp mà bạn muốn truyền tải đến người xem là gì?

- Dự trù những đạo cụ nào, hình dung cách sắp xếp bố cục sân khấu như thế nào để làm nổi bật thông điệp?

3. Viết kịch bản sân khấu.

Việc triển khai dàn ý trên thành kịch bản chi tiết phụ thuộc vào hình thức nghệ thuật mà bạn lựa chọn. Mỗi loại hình nghệ thuật sẽ có đặc trưng khác nhau trong quá trình biểu diễn. Tuy nhiên nhìn chung, kịch bản của các loại hình sân khấu thường phải ghi rõ:

- Nhan đề kịch bản, thể loại, tên tác giả và tác phẩm văn học mà bạn chuyển thể sang kịch bản sân khấu.

- Đề mục các màn/cảnh/hồi theo bố cục kịch bản.

- Thời gian, địa điểm diễn ra câu chuyện/ sự việc; những chỉ dẫn ngắn gọn về hành động, cử chỉ, biểu cảm, ngữ điệu,… của các nhân vật; gợi ý âm thanh, hình ảnh (nếu có).

Đặc biệt, ngôn ngữ chính của kịch bản phải là các lời thoại. Lời thoại cần đáp ứng được các yêu cầu của kịch bản sân khấu như:

- Thể hiện rõ tính cách, tâm lí, trạng thái cảm xúc,… của nhân vật.

- Có tính hành động, tính khẩu ngữ.

- Kết hợp nhuần nhuyễn giữa độc thoại, đối thoại, bàng thoại.

- Phù hợp để trình diễn.

4. Tập diễn xuất và chỉnh sửa kịch bản.

- Đây là giai đoạn hiện thực hóa kịch bản sân khấu. Bạn cần chú ý những phần gợi ý về hành vi, giọng nói, sắc thái biểu cảm với các lời thoại/ lượt thoại trong kịch bản; sử dụng ngữ điệu, cử chỉ, nét mặt,… để thể hiện tâm trạng, cảm xúc của nhân vật (buồn, vui, hạnh phúc, đau khổ, tuyệt vọng, ngạc nhiên,…)

- Bạn cần thể hiện lời thoại rõ ràng, mạch lạc, phù hợp với diễn biến tâm trạng của nhân vật.

- Quá trình tập dượt nảy sinh ra những ý tưởng mới, bạn cần ghi chép lại để chỉnh sửa và hoàn thiện kịch bản.

III. Thực hành xây dựng kịch bản sân khấu và tập diễn xuất.

1. Bài tập thực hành viết kịch bản sân khấu.

Bài tập 1 (trang 67 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): - Lập dàn ý cho kịch bản chuyển thể từ một trong những tác phẩm văn học sau:

Sự tích Hồ Gươm, Bánh chưng, bánh giầy (Ngữ văn 6, tập một, bộ sách Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2021): lưu ý hai sự kiện chính là mượn gươm và trả gươm trong Sự tích Hồ Gươm và chuỗi sự kiện các hoàng tử đua tranh dự thi làm mâm cỗ, Lang Liêu được thần báo mộng; sự hài lòng truyền ngôi cho Lang Liêu của Vua Hùng.

Đất rừng phương Nam - Đoàn Giỏi, Giang - Bảo Ninh, Buổi học cuối cùng - An-phông-xơ Đô-đê, Lời má năm xưa - Trần Bảo Định,… (Ngữ văn 10, tập hai, bộ sách Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022)

+ Một tác phẩm văn học do bạn lựa chọn.

- Sử dụng bảng kiểm dưới đây để tự kiểm tra kĩ năng lập dàn ý cho kịch bản văn học của bạn:

Soạn bài Tổ chức xây dựng kịch bản và tập diễn xuất | Chuyên đề học tập Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo

Soạn bài Tổ chức xây dựng kịch bản và tập diễn xuất | Chuyên đề học tập Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo

Trả lời:

Mở bài: Giới thiệu được tác phẩm Sự tích Hồ Gươm.

Thân bài:

- Nhan đề kịch bản: Sự tích Hồ Gươm

- Kịch bản sân khấu gồm: 2 cảnh

+ Cảnh mượn gươm

+ Cảnh trả gươm

- Những sự kiện ở các cảnh được sắp xếp theo trình tự thời gian.

- Cảnh Lê Lợi nhận được gươm thần đảm nhiệm vai trò nút thắt mâu thuẫn, xung đột. Lê Lợi nhận được lưỡi gươm thông qua Lê Thận - một thành viên của nghĩa quân Lam Sơn (trước đó làm nghề đánh cá, đã kéo lưới được một lưỡi gươm) và trực tiếp lấy chuôi gươm trên ngọn cây đa. Sau đó, Lê Lợi tra lưỡi gươm vào chuôi thì vừa như in. Lê Thận đã tự nguyện dâng thanh gươm cho Lê Lợi.

- Cảnh cuộc chiến kết thúc, trao trả gươm đảm nhiệm vai trò gỡ nút thắt mâu thuẫn, xung đột.

- Thông điệp muốn truyền tải đến người xem:

+ Ca ngợi người anh hùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn đã có công giết giặc, cứu nước.

+ Giải thích tên gọi của một di tích lịch sử - văn hóa Hồ Gươm.

+ Khẳng định sức mạnh của chính nghĩa…

- Dự trù những đạo cụ, hình dung cách sắp xếp bố cục sân khấu để làm nổi bật thông điệp.

+ Đạo cụ: Lưỡi gươm, chuôi gươm, rùa Vàng, lưới đánh cá, phục trang nhân vật,…

+ Bố cục sân khấu: Trên sông nước, trong nhà, giữa hồ,… (tái hiện được không gian, thời gian đặc trưng trong truyền thuyết)

Kết bài: Khẳng định lại thông điệp thông qua tác phẩm vừa chuyển thể.

Bài tập 2 (trang 68 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): - Hãy viết các lời chỉ dẫn sân khấu (hướng dẫn về diễn xuất cho diễn viên), chỉnh sửa các lời thoại trong trích đoạn dưới đây (nếu cần), đặt nhan đề, ghi các thông tin chỉ dẫn cần thiết,… để có một màn kịch phù hợp với yêu cầu trình diễn:

“Nhà Mtao Mxây cột sàn hiên đẽo hình mặt trăng, đầu cầu thang đều đẽo hình chim ngói. Ngôi nhà của lão tù trưởng nhà giàu này quả là đẹp thật. Cầu thang rộng một lá chiếu, người nối đuôi nhau lên xuống mà khiêng một ché đuê vẫn không sợ chật.

Đăm Săn: - Ơ diêng, ơ diêng, xuống đây! Ta thách người đọ dao với ta đấy!

Mtao Mxây: - Ta không xuống đâu diêng ơi! Tay ta đang còn bận ôm vợ (của) hai chúng ta ở trên nhà này cơ mà.

Đăm Săn: - Xuống, diêng! Xuống, diêng! Ngươi không xuống ư? Ta sẽ lấy cái sàn hiện của nhà ngươi ta bổ đôi, ta sẽ lấy cái cầu thang của nhà người chẻ ra kéo lửa, ta hun cái nhà của ngươi cho mà xem!

Mtao Mxây: - Khoan, diêng, khoan! Để ta xuống. Ngươi không được đâm ta khi ta đang đi xuống đó, nghe!

Đăm Săn: - Sao ta lại đâm ngươi khi đang đi xuống nhỉ? Ngươi xem, đến cả con lợn nái của nhà ngươi dưới đất, ta còn không thèm đâm nữa là!

Mtao Mxây: - Ta sợ ngươi đâm ta khi ta đang đi lắm.

Đăm Săn: - Sao ta lại đâm ngươi khi ngươi đang đi nhỉ? Ngươi xem, đến con trâu của nhà ngươi trong chuồng, ta cũng không thèm đâm nữa là!

Thế là Mtao Mxây phải đi ra. Bà con xem, khiên hắn tròn như đầu cú. Gươm hắn óng ánh như cái cầu vồng. Trông hắn dữ tợn như một vị thần. Hắn đóng một cái khố sọc gấp bó múi, mặc một cái áo dày nút, đi từ nhà trong ra nhà ngoài, dáng tần ngần do dự, mỗi bước mỗi đắn đo, giữa một đám đông mịt mù như trong sương sớm.

Đăm Săn: - Ngươi múa trước đi, ơ diêng!

Mtao Mxây: - Ngươi mới là người múa trước, ơ diêng! Ta như gà làng mới mọc cựa kliê, như gà mới mọc cựa êchăm, chưa ai dẫm phải mà đã gãy mất cánh.

Đăm Săn: - Ngươi cứ múa đi, ơ diêng!

Mtao Mxây rung khiên múa vậy. Khiên hắn kêu lạch xạch như quả mướp khô. Hắn múa một mình, Đăm Săn không nhúc nhích.

Đăm Săn: - Ngươi múa một mình, múa kêu lạch xạch như quả mướp khô. Miếng múa ấy ngươi học ai vậy? Ngươi múa chơi đấy phải không, diêng?

Mtao Mxây: - Ta học ai à? Có cậu, ta học cậu. Có bác, ta học bác. Có thần Rồng, ta học thần Rồng.

Đăm Săn: - Thế ư? Ta thì đâu có cậu mà học cậu, đâu có bác mà học bác. Chỉ có hai ta đây, ngươi múa đi ta xem nào!

Mtao Mxây: - Thế ngươi không biết ta đây là một người đã quen đi đánh thiên hạ, bắt tù binh, xéo nát đất đai thiên hạ hay sao?

Đăm Săn: - Vậy thì ngươi hãy xem ta đây!

Đăm Săn vung khiên múa. Một lần xốc tới, chàng vượt một đồi tranh. Một lần xốc tới nữa, chàng vượt một đồi lồ ô. Chàng chạy vun vút qua phía đông, vun vút qua phía tây. Còn Mtao Mxây thì bước cao bước thấp, chạy hết bãi tây sang bãi đông. Hắn vung đao chém phập một cái, nhưng chỉ vừa trúng một cái chão cột trâu.

Đăm Săn: - Sao ngươi lại chém cái chão cột trâu? Còn khoeo chân ta, ngươi dành làm gì?

Đến lúc này, Mtao Mxây bảo Hơ Nhị quăng cho hắn một miếng trầu, nhưng Đăm Săn đã đớp được miếng trầu. Chàng nhai trầu, sức chàng tăng lên gấp bội.

Đăm Săn: - Bớ diêng, bây giờ ngươi lại chạy, ta đuổi coi!

Thế là Đăm Săn lại múa. Chàng múa trên cao, gió như bão. Chàng múa dưới thấp, gió như lốc. Chòi lẫm đổ lăn lóc. Cây cối chết rụi. Khi chàng múa dưới thấp, vang lên tiếng đĩa khiên đồng. Khi chàng múa trên cao, vang lên tiếng đĩa khiên kênh. Khi chàng múa chạy nước kiệu, quả núi ba lần rạn nứt, ba đồi tranh bật rễ bay tung. Cây giáo thần, cây giáo dính đầy những oan hồn của chàng, nhằm đùi Mtao Mxây phóng tới, nhưng không thủng. Chàng đâm vào người Mtao Mxây, cũng không thủng.

Đến lúc này, Đăm Săn đã thấm mệt. Chàng vừa chạy vừa ngủ, mộng thấy ông Trời.

Đăm Săn: - Ôi chao! Chết mất thôi, ông ơi! Cháu đâm mãi mà không thủng hắn!

Ông Trời: - Thế ư, cháu? Vậy thì cháu lấy một cái chày mòn ném vào vành tai hắn là được.

Đăm Săn bừng tỉnh, chộp ngay một cái chày mòn, ném trúng vành tai kẻ địch. Cái giáp của Mtao Mxây tức thì rơi loảng xoảng. Mtao Mxây tháo chạy. Hắn tránh quanh chuồng lợn, Đăm Săn phá tan chuồng lợn. Hắn tránh quanh chuồng trâu, Đăm Săn phá tan chuồng trâu. Cuối cùng hắn ngã lăn quay ra đất.”

(Ngữ văn 10, Tập một, bộ sách Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022)

- Sử dụng bảng kiểm dưới đây để tự kiểm tra kĩ năng viết lời thoại, chỉ dẫn sân khấu và hoàn tất kịch bản văn học của bạn:

Soạn bài Tổ chức xây dựng kịch bản và tập diễn xuất | Chuyên đề học tập Ngữ văn 10 Chân trời sáng tạo

Trả lời:

- Đối với lời thoại của nhân vật: ghi chỉ dẫn sân khấu hướng dẫn hành vi, giọng nói, sắc thái biểu cảm,… của nhân vật tương ứng với từng lời thoại/ lượt lời.

- Đối với các đoạn miêu tả/kể, HS cần:

+ Chuyển đổi thành các chỉ dẫn không gian, thời gian; chú thích gợi ý bố trí sân khấu, sự xuất hiện/biến mất của nhân vật/nhóm nhân vật,…

+ Chuyển đổi thành các lời bàng thoại.

Bài tập 3 (trang 70 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): - Bạn hãy thực hiện các công việc tương tự Bài tập 2 để chuyển một trong hai văn bản Gặp Ka-ríp và Xi-laĐăm Săn đi chinh phục Nữ thần Mặt Trời (Ngữ văn 10, Tập một, bộ sách Chân trời sáng tạo, NXB Giáo dục Việt Nam, 2022) thành một kịch bản văn học.

- Sử dụng mẫu bảng kiểm ở Bài tập 2 để tự kiểm tra kĩ năng viết lời thoại, chỉ dẫn sân khấu và hoàn tất kịch bản văn học của bạn.

Trả lời:

- Đối với văn bản Đăm Săn đi chinh phục Nữ thần Mặt Trời, HS thực hiện tương tự Bài tập 2.

Đối với văn bản Gặp Ka-ríp và Xi-la, khi chuyển sang kịch bản sân khấu, HS cần lưu ý:

+ Xác định số lượng nhân vật, sự việc,… trong VB; bổ sung lời thoại/lượt thoại và chỉ dẫn sân khấu cho các nhân vật chưa có lời thoại.

+ Chỉnh sửa và bổ sung lời thoại (có sẵn) của các nhân vật, đính kèm chỉ dẫn sân khấu tương ứng.

+ Chuyển đổi các đoạn miêu tả/ kể thành những chỉ dẫn về diễn xuất/ bài trí sân khấu hoặc lời bàng thoại.

Bài tập 4 (trang 71 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): - Hãy viết và hoàn tất kịch bản văn học theo dàn ý đã có khi bạn thực hiện Bài tập 1.

- Sử dụng mẫu bảng kiểm ở Bài tập 2 để tự kiểm tra kĩ năng viết lời thoại, chỉ dẫn sân khấu và hoàn tất kịch bản văn học của bạn.

Trả lời:

Bài viết tham khảo

MÀN I

MƯỢN GƯƠM

(Vào thời ấy, giặc Minh đặt ách đô hộ ở nước Nam. Chúng coi dân ta như cỏ rác, làm nhiều điều bạo ngược làm cho thiên hạ căm giận đến tận xương tủy. Bấy giờ, ở vùng Lam Sơn nghĩa quân đã nổi dậy chống lại chúng, nhưng buổi đầu thế lực còn non yếu nên nhiều lần bị giặc đánh cho tan tác. Thấy vậy, đức Long quân quyết định cho họ mượn thanh gươm thần để họ giết giặc).

Lê Thận

Trên một bến vắng ở Thanh Hóa, buổi đêm.

Lê Thận (thả lưới): - Mong hôm nay được mẻ cá nặng.

(kéo lưới): - Ôi nặng phết đấy nhỉ! Chắc nay trời thương ta, cho ta cá to rồi.

(thò tay bắt cá): - Một thanh sắt ư? Ta lại mừng hụt mất rồi. Thử chỗ khác xem nào. (Chàng vứt luôn xuống nước rồi lại thả câu ở một chỗ khác).

Lê Thận (kéo lưới): - Lần này cũng nặng tay, mong là có con cá to một chút.

(thò tay vớt lên): - Sao thanh sắt vừa rồi lại chui vào lưới mình thế này?

(Chàng lại nhặt lên và ném xuống sông. Lần thứ ba vẫn là thanh sắt ấy mắc vào lưới).

Lê Thận (lẩm bẩm): - Quái lạ! Đã vứt đi rồi mà nó vẫn mắc lại lưới được.

(ghé mồi lửa lại nhìn xem, reo lên): - Ha ha! Một lưỡi gươm!

(Về sau Thận gia nhập quân đoàn khởi nghĩa Lam Sơn. Chàng đã mấy lần vào sinh ra tử ở nơi trận mạc để diệt lũ cướp nước).

Lê Thận, Lê Lợi, một số người tùy tòng

Nhà Lê Thận

(Trong gian nhà tối om, thanh sắt hôm đó chợt sáng quắc lên ở một xó nhà).

Lê Lợi (đến gần chỗ thanh sắt đang phát sáng, cầm lấy xem): - Trên lưỡi gươm này có chữ "Thuận Thiên" được khắc sâu.

Lê Lợi (quay ra Lê Thận): - Là do nhà ngươi khắc lên phải không?

(Lê Thận kể lại đầu đuôi câu chuyện nhặt được thanh sắt. Song tất cả mọi người đều không biết đó là báu vật).

(Một hôm bị giặc đuổi, Lê Lợi và các tướng chạy tháo thân mỗi người một ngả. Lê Lợi bỗng thấy ánh sáng trên ngọn cây đa. Ông trèo lên mới biết đó là cái chuôi gươm nạm ngọc. Nhớ tới lưỡi gươm ở nhà Lê Thận, Lê Lợi rút lấy chuôi gươm giắt vào lưng).

Ba ngày sau

Lê Thận, Lê Lợi, một số người tùy tòng, tướng lĩnh

Căn cứ nghĩa quân

(Lê Lợi kể lại chuyện bắt được chuôi gươm cho mọi người nghe).

Tướng lĩnh (xôn xao): - Vậy sao chúng ta không thử tra gươm vào chuôi xem sao?

(Lê Thận tra gươm vào chuôi thấy vừa như in).

Lê Thận (nâng gươm lên ngang đầu nói với chủ tướng): - Đây là Trời có ý phó thác cho minh công làm việc lớn. Chúng tôi nguyện đem xương thịt của mình theo minh công, cùng với thanh gươm thần này để báo đền Tổ quốc!

(Từ đó khí thế của nghĩa quân ngày một tăng. Trong tay Lê Lợi, thanh gươm thần tung hoàng trên mọi trận địa và làm cho quân Minh bạt vía. Chẳng mấy chốc tiếng tăm của quân Lam Sơn lan khắp nơi. Họ không phải trốn tránh trong rừng nữa mà xông xáo đi tìm giặc. Họ không phải ăn uống khổ cực như trước nữa, đã có những kho lương thực của giặc mới cướp được tiếp tế cho họ. Gươm thần đã mở đường cho họ đánh tràn ra mãi cho đến lúc không còn bóng một tên giặc nào trên đất nước).

MÀN II

TRẢ GƯƠM

Một năm sau

Lê Lợi, Rùa Vàng, một số người tùy tòng, tướng lĩnh

Trên hồ Tả Vọng

(Lê Lợi - bấy giờ đã là một vị thiên tử - cưỡi thuyền rồng dạo quanh hồ Tả-vọng trước kinh thành. Nhân dịp đó, Long Quân sai Rùa Vàng lên đòi lại thanh gươm thần. Khi chiếc thuyền chèo ra giữa hồ thì tự nhiên có một con rùa lớn nhô đầu và mai lên khỏi làn nước xanh).

Lê Lợi (ra lệnh): Cho thuyền đi chậm lại. (đứng ở mạn thuyền, thấy lưỡi gươm thần đeo bên người tự nhiên động đậy).

Rùa Vàng (nhô thêm nữa, tiến sát về phía thuyền vua, đứng nổi lên trên mặt nước và nói): - Xin bệ hạ hoàn gươm lại cho Long Quân!

(Lê Lợi nâng gươm hướng về phía Rùa Vàng. Nhanh như cắt, rùa há miệng đớp lấy thanh gươm và lặn xuống nước. Cho đến khi gươm và rùa lặn xuống, người ta vẫn thấy có vệt sáng le lói dưới mặt nước hồ xanh.

Và từ đó, hồ bắt đầu được mang tên là Hồ Gươm hay hồ Hoàn Kiếm).

2. Bài tập thực hành diễn xuất.

Bài tập 1 (trang 71 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): Phân biệt đọc diễn cảm và diễn xuất bằng giọng nói. Cho ví dụ bằng cách làm mẫu (có phân biệt đọc diễn cảm và diễn xuất bằng giọng nói) một vài câu thoại trong kịch bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt, hoặc trong màn kịch mà bạn tạo ra sau khi thực hiện bài tập thực hành viết số 2.

Trả lời:

- Đối với câu thoại thể hiện tâm trạng tức giận của nhân vật, HS điều chỉnh tông giọng, tốc độ nói nhanh, gấp gáp, dứt khoát, sử dụng cường độ, ngữ điệu để nhấn vào các từ ngữ quan trọng,…

- Đối với câu thoại thể hiện sự luyến tiếc của nhân vật, HS cần hạ tông giọng trầm, tốc độ nói chậm, kéo dài âm lượng, kết hợp với các điểm dừng trong câu thoại, kèm theo tiếng thở dài,…

- Chú ý đến độ tuổi, giới tính của nhân vật để có thể điều chỉnh giọng nói phù hợp, chẳng hạn, khi diễn xuất câu thoại của nhân vật là trẻ em, cần chỉnh tông giọng cao, trong trẻo,…; ngược lại, khi diễn xuất câu thoại của nhân vật là người lớn tuổi, cần chọn tông giọng trầm, khàn đục hơn,…

- HS dù thể hiện tâm trạng, cảm xúc của nhân vật thuộc giới tính, độ tuổi nào, cũng cần thể hiện rõ ràng, rành mạch lời thoại, không làm méo tiếng hoặc nuốt chữ,…

- HS có thể tự thực hành thêm bằng cách thu âm và nghe lại, tự điều chỉnh, rút kinh nghiệm.

Bài tập 2 (trang 71 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): Phân biệt đối thoại và độc thoại trong diễn xuất ngôn ngữ kịch. Cho ví dụ bằng cách diễn thử (có phân biệt đối thoại và độc thoại) một vài câu câu thoại trong kịch bản Hồn Trương Ba, da hàng thịt, hoặc trong màn kịch mà bạn tạo ra sau khi thực hiện bài tập thực hành viết số 2.

Trả lời:

- Diễn lời độc thoại: HS tập trung vào câu thoại, chú ý vận dụng hiệu quả phương tiện phi ngôn ngữ (ánh mắt, cử chỉ, nét mặt,…) để thể hiện cao trào cảm xúc của nhân vật trong phân đoạn ấy.

- Diễn lời đối thoại: bên cạnh việc thể hiện được diễn biến tâm trạng của nhân vật, HS phải định hướng được cách di chuyển, thực hiện các hành động biểu cảm khuôn mặt để tương tác với bạn diễn, biết ngừng ở các lượt lời/ lời thoại khi cần thiết.

Bài tập 3 (trang 71 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): Nghiên cứu kịch bản, trải nghiệm vở diễn Hồn Trương Ba, da hàng thịt (tập trung lớp VII, có ghi chép và phân tích nhân vật, ngôn ngữ vai diễn). Kết hợp cặp đôi với một bạn trong lớp, lần lượt thay nhau tập diễn xuất các cặp vai trong màn kịch này:

Hồn Trương Ba và xác hàng thịt

Hồn Trương Ba và vợ Trương Ba

Hồn Trương Ba và Đế Thích

Trả lời:

- Đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba với Xác hàng thịt:

+ Đối với nhân vật Hồn Trương Ba: giọng nói, ánh mắt, hành động, cử chỉ,… chuyển đổi từ mạnh mẽ, quyết liệt,… sang bất lực, buông xuôi, chán nản,…

+ Đối với nhân vật Xác hàng thịt: giọng nói, ánh mắt, hành động, cử chỉ,… thể hiện thái độ mỉa mai, đắc thắng,…

- Đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và vợ Trương Ba:

+ Đối với nhân vật Hồn Trương Ba: giọng nói, ánh mắt, hành động, cử chỉ,… thể hiện được tâm trạng bế tắc, đau buồn,…

+ Đối với nhân vật vợ Trương Ba: giọng nói, ánh mắt, hành động, cử chỉ,… thể hiện được tâm trạng thất vọng, buồn chán,…

- Đoạn đối thoại giữa Hồn Trương Ba và Đế Thích:

+ Đối với nhân vật Hồn Trương Ba: giọng nói, ánh mắt, hành động, cử chỉ,… thể hiện được thái độ quyết liệt, dứt khoát,…

+ Đối với nhân vật Đế Thích: giọng nói, ánh mắt, hành động, cử chỉ,… thể hiện được thái độ ngạc nhiên,…

Lưu ý: Khi chờ đợi tới lượt lời của mình, cần sử dụng phương tiện phi ngôn ngữ để tương tác, kết nối với bạn diễn.

Bài tập 4 (trang 71 sách Chuyên đề học tập Ngữ văn 10): Lập nhóm diễn viên, chọn người đạo diễn, phân vai và tập diễn xuất một màn kịch tự biên tự diễn hoặc màn kịch của tác giả chuyên nghiệp mà các bạn trong nhóm yêu thích và cho là khả thi.

Trả lời:

Lựa chọn một màn trong kịch bản của tác giả chuyên nghiệp hoặc tự biên tự diễn một màn kịch. GV cần kiểm duyệt trước kịch bản mà HS sẽ biểu diễn trước lớp (nếu HS tự viết kịch bản thì GV cần kiểm tra chất lượng kịch bản); gợi ý trang phục biểu diễn và đạo cụ cần thiết.

Lưu ý:

- Mức độ hiểu rõ nhân vật khi diễn xuất sẽ quyết định mức độ thành công của vai diễn, do vậy, để có thể diễn xuất tốt, HS cần đọc kĩ tác phẩm văn học và kịch bản sân khấu để nắm được diễn biến tâm lí, đặc trưng tính cách của từng nhân vật.

- Đối với nhân vật chính:

+ Nếu lựa chọn kịch bản chuyển thể từ sử thi hoặc truyền thuyết, nhân vật chính là người anh hùng, trong quá trình diễn xuất không nên đặt nặng vào diễn xuất nội tâm, đồng thời chú ý tập trung vào giọng nói, hành động,… để thể hiện khí chất của người anh hùng cộng đồng.

+ Nếu lựa chọn kịch bản chuyển thể từ truyện trung đại, hiện đại,… nhân vật chính là con người đời thường, trong quá trình diễn xuất, cần tập trung vào những chuyển biến nội tâm phức tạp của các nhân vật.

- Đối với nhân vật phụ: Lời thoại và biểu đạt cảm xúc phải phù hợp với tính cách của nhân vật; tương tác với nhân vật chính.

- …

Đánh giá

0

0 đánh giá