Tài liệu soạn bài Ông đồ Ngữ văn lớp 7 Cánh diều hay, ngắn gọn nhất giúp học sinh nắm được nội dung chính của bài, dễ dàng chuẩn bị bài và soạn văn 7. Mời các bạn đón xem:
Soạn bài Ông đồ hay nhất
Video bài giảng Ông đồ - Cánh diều
Chuẩn bị
- Ngoài bài thơ Đêm nay Bác không ngủ của Minh Huệ, em còn biết thêm bài thơ năm chữ: Mùa xuân nho nhỏ (Thanh Hải), Trăng ơi từ đâu đến (Trần Đăng Khoa), Dưới giàn hoa thiên lý (Nguyễn Nhật Ánh),...
- Tác giả Vũ Đình Liên:
Tiểu sử:
+ Vũ Đình Liên (1913-1996)
+ Quê quán: quê gốc ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội
+ Là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới
Sự nghiệp:
+ Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học
+ Tác phẩm tiêu biểu: Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc…
+ Phong cách sáng tác: mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ hoàn vọng
Trả lời:
Tiểu sử:
+ Vũ Đình Liên (1913-1996)
+ Quê quán: quê gốc ở Hải Dương nhưng sống chủ yếu ở Hà Nội
+ Là một trong những nhà thơ lớp đầu tiên của phong trào thơ mới
Sự nghiệp:
+ Ngoài sáng tác thơ, ông còn nghiên cứu, dịch thuật, giảng dạy văn học
+ Tác phẩm tiêu biểu: Lũy tre xanh, Mùa xuân cộng sản, Hạnh phúc…
+ Phong cách sáng tác: mang nặng nỗi niềm xưa, nỗi niềm hoài cổ hoàn vọng
- Chữ Nho có gốc là chữ Hán nhưng lại được phát âm bằng tiếng Việt. Nhờ mượn chữ Hán về dùng mà chúng ta bổ sung thêm rất nhiều kho từ cho tiếng Việt
- Nghệ thuật viết chữ Nho (thư pháp): là nghệ thuật tạo hình chữ viết, thông qua thư pháp thể hiện những suy nghĩ nội tâm của người viết và giúp người viết rèn luyện sự kiên trì, tỉ mỉ, chiêm nghiệm những triết lý của cuộc sống.
Trả lời:
- Bài thơ gieo vần chân, trong mỗi khổ, tiếng cuối cùng của câu 1 vần với tiếng cuối cùng của câu 3. Tương tự, tiếng cuối cùng của câu 2 vần với tiếng cuối cùng của câu 4.
- Ngắt nhịp: 2/3, 3/2
Cảnh và người ở phần đầu bài thơ hiện lên rực rỡ đậm chất mùa xuân Tết đến: hoa đào nở rộ, phố sá đông người qua, ông đồ xuất hiện cùng mực tàu giấy đỏ đem lại niềm vui cho mọi người khi viết câu đối tết
Tài năng viết chữ của ông đồ được thể hiện ở chi tiết:
“Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài”
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”
Câu 4 trang 47 SGK Ngữ văn 7 Tập 1: Từ “Nhưng” ở dòng 9 có vai trò gì?
Trả lời:
Từ “Nhưng” ở dòng 9 có vai trò như một cánh cửa của hai thời kì trước và sau, thịnh và suy, hoàng kim - thất thế.
Hình ảnh ở khổ thơ cuối mang một nỗi buồn man mác, trống vắng khác hẳn với không khí rộn ràng vui tươi của khổ thơ đầu
Trả lời:
Bài thơ viết về ông đồ viết thư pháp thời xưa và sự lãng quên của xã hội với ông đồ. Bài thơ là tiếng nói thẳm sâu tận đáy lòng của tác giả trước sự lụi tàn của một thế hệ, một tư tưởng và một nét đẹp của cảnh cũ, người xưa
Nội dung bài thơ được trình bày theo trình tự thời gian, từ ngày xưa đến ngày nay. Qua đó thể hiện sự thay đổi và vắng bóng nghệ thuật thư pháp, vắng hình ảnh ông đồ.
- Khổ 1+2: hình ảnh ông đồ viết chữ nho ngày Tết là một hình ảnh đẹp, đem lại niềm vui cho mọi người. Ngày ấy nghệ thuật thư pháp còn được coi trọng
- Khổ 3+4: vẫn diễn tả không gian ấy, thời gian ấy, nhưng không khí khác: vắng vẻ theo từng năm, đến giờ thì hầu như không còn "người thuê viết".
=> Sự khác nhau gợi cho người đọc cảm xúc thương cảm ông đồ, ông đang bị lãng quên cùng với thú chơi câu đối một thời.
* Các biện pháp tu từ được sử dụng trong bài:
- Nhân hóa:
“Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu”
→ Giấy, mực không được động đến nên buồn sầu. Chúng cũng có tâm hồn, cảm xúc như con người.
- So sánh:
“Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay”
→ Tài năng viết chữ của ông đồ. Ông viết đẹp, nghệ thuật như phượng múa, rồng bay.
- Giấy đỏ buồn không thắm;
Mực đọng trong nghiên sầu…
- Lá vàng rơi trên giấy;
Ngoài trời mưa bụi bay
Trả lời:
Những câu thơ:
- Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu…
- Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài giời mưa bụi bay
là những câu thơ không chỉ tả cảnh. Tác giả đã dùng biện pháp nhân hoá làm cho giấy, mực, những vật vô tri cũng biết sầu buồn. Phải chăng, cái buồn của bản thân ông đồ cũng làm lây nhiễm sang cảnh vật? Lá vàng, mưa bụi thật là buồn. Lá lại rơi trên giấy không thắm, mưa bụi lại làm cho cảnh vật như nhoè mờ. Ông đồ đã bị lãng quên, càng bị khuất lấp. Những câu thơ như thế đã làm cho bài thơ tạo được cho người đọc ấn tượng và ám ảnh sâu sắc
Cùng với tục khai bút đầu năm, người Việt còn có thói quen xin chữ và cho chữ vào những ngày Tết cổ truyền của dân tộc. Đây là một việc làm mang nhiều ý nghĩa văn hóa, thể hiện sự trọng chữ nghĩa trọng tri thức và cũng là mong muốn xin được con chữ lấy may mắn, cầu một năm tài lộc, phúc thọ đầy nhà.
Nếu vẽ minh họa cho bài thơ, em sẽ vẽ hình ảnh ông đồ cặm cụi ngồi viết thư pháp.
Tóm tắt bài Ông đồ
Bài thơ “Ông đồ” được Vũ Đình Liên sáng tác vào năm 1936 khi Hán học, chữ Nho ngày càng suy tàn. Bài thơ đã khắc hoạ vẻ đẹp của cảnh cho chữ, hình tượng ông đồ xưa với bàn tay tài hoa – giá trị tinh thần truyền thống đẹp – đang dần mai một trong đời sống. Sự nuối tiếc, hoài cổ cảnh cũ người xưa.
Hình ảnh ông đồ thời kì đắc ý, sự xuất hiện quen thuộc đều đặn của ông đồ như một thói quen thường lệ thu hút sự chú ý của bao người. Ông đồ là trung tâm của mọi sự chú ý bởi những nét “phượng múa rồng bay”, người người đều “tấm tắc ngợi khen tài”. Đây là thời kì vàng son của ông đồ. Hình ảnh ông đồ tượng trưng cho một nét truyền thống văn hóa lâu đời của Việt Nam.
Đối lập với đó là hình ảnh ông đồ thời suy tàn trong khung cảnh đìu hiu, vắng vẻ, sự thay đổi của xã hội, của lòng người. Hình ảnh ông đồ ngồi đơn độc, lạc lõng giữa đường phố tập nập thể hiện nỗi niềm day dứt, vẫn ông đồ xưa, vẫn tài năng ấy xuất hiện nhưng không ai thuê viết, ngợi khen.
Bài thơ thể hiện tấm lòng đồng cảm, thương xót của tác giả đối với không chỉ ông đồ mà sâu hơn, đó là đối với cả một giá trị truyền thống của dân tộc. Tác phẩm là những câu thơ đẹp, hoài cổ, ghi lại dấu ấn và mang lại cho người đọc nhiều dư vị về cảnh cũ người xưa, những nét đẹp về văn hóa tinh thần “vang bóng một thời”.
Xem thêm các bài soạn văn lớp 7 Cánh diều hay, chi tiết khác:
Thực hành Tiếng Việt lớp 7 trang 48 Tập 1