Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau) Ngữ văn 12 Cánh diều, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.
Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau)
Đề bài: Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau).
Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau) - Mẫu 1
Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh hai tác phẩm thơ “Tràng giang” của Huy Cận và “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử ạ.
Nhận xét về Thơ Mới, trong tuyển tập Thi nhân Việt Nam, Hoài Thanh viết: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngẩn ngơ buồn trở về hồn ta cùng Huy cận. Cả trời thực, trời mộng vẫn neo neo theo hồn ta”. Nỗi buồn, cái tôi đó gặp nhau bởi những tâm hồn đồng điệu. Đặc biệt là những nhà thơ lấy thiên nhiên làm chủ đạo. Phong trào Thơ Mới (1930 – 1945) cũng vậy, nó đưa tình cảm mênh mang trong “Tràng giang” của Huy Cận đến với nỗi niềm hẫng hụt, chơi vơi trong “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
Được biết đến là những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới (1939 – 1945), Hàn Mặc Tử và Huy Cận đã có một vị trí khá tốt trong thi đàn văn học Việt Nam. Hàn Mặc Tử với cuộc đời bi thương, hồn thơ phong phú, kì lạ và có cái “điên” của riêng mình. Ông luôn bộc lộ một tình yêu đau đớn hướng về trần thế. “Đây thôn Vĩ Dạ” là tác phẩm xuất sắc thể hiện tấm lòng tha thiết với cuộc sống của thi nhân. Còn Huy Cận – hồn thơ cổ điển, giàu suy tưởng và triết lí, nổi bật về cảm hứng thiên nhiên. “Tràng Giang” là một bài thơ xuất sắc thể hiện nỗi buồn sầu trước tạo vật mênh mông, hoang vắng, u buồn và luôn mang một tình yêu thầm kín đáo với quê hương, đất nước.
Bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” là bức thư của Hàn Mặc Tử gửi một cô gái mang tên Kim Cúc, là tiếng lòng, là lời mời, là nỗi nhớ nhung của anh chàng thi sĩ. Bài thơ được ra đời trong thời gian Hàn Mạc Tử đang bệnh nặng, nên nỗi buồn dường như còn phảng phất trong từng câu, từng chữ. Mở đầu bài thơ dường như là lời chào mời, trách móc nhẹ nhàng thông qua câu hỏi tu từ đa sắc thái và đa nghĩa.
Sao anh không về chơi thôn Vĩ
Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc
Lá trúc che ngang mặt chữ điền
“Sao anh không về chơi”, chữ “về chơi” gợi lên cảm giác gần gũi, gắn bó, thân thiết và có sự trách yêu chàng trai của mình. Thôn Vĩ nằm cạnh bờ sông Hương là địa danh đẹp của xứ Huế mộng mơ với khung cảnh “sắc nước nghiêng trời”. Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp của thôn Vĩ dần dần hiện ra dưới ngòi bút tinh tế của người thi sĩ. Điệp từ “nắng” hiện lên khiến ta cảm thấy ánh nắng tinh khôi, trong trẻo của buổi sáng mai tinh khiết, nhẹ nhàng làm cho không gian ở vùng quê trở nên lung linh, yên bình hơn. Không gian dường như cao và xanh hơn nhờ anh nắng ban mai. “Vườn ai” như ám chỉ một khu vườn nhà “ai” đó mà chỉ có “ai” mới biết. Thật tinh tế, kín đáo mà sâu sắc. Hàn Mặc Tử đã dùng biện pháp so sánh để miêu tả màu xanh - “xanh như ngọc”. Một bể ngọc xanh tươi, trong trẻo, mát lành và căng tràn sức sống. Giữa khung cảnh thiên nhiên nên thơ và trữ tình đó bỗng có thấp thoáng nơi đâu bóng dáng con người. Có một sự bí ẩn nào đó che đi sau lá trúc… Trúc là loại cây thường biểu tượng cho người quân tử, còn gương mặt chữ điền là gương mặt phúc hậu, tròn đầy. Có lẽ có một vị khách bí ẩn nào đó đã ghé về thôn Vĩ nhưng “ai” không hay biết. Đang một màu xanh mát bỗng nhiên mọi thứ trở nên chùn lại…
Gió theo lối gió mây đường mây
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay
Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay.
Gió và mây thường sẽ quyện vào nhau, nhưng ở đây, lại là “gió theo lối gió, mây đường mây”. Dường như có một sự chia lìa đến não nề và đau lòng. Hình ảnh “hoa bắp lay” nhẹ nhàng và rơi rụng xuống “dòng nước buồn” khiến cho người đọc có cảm giác có cái gì đó đang vỡ tan ra. Cảnh vật dường như mang trong mình một linh hồn của con người, nó có những nỗi buồn thật đẹp. Hay bởi lẽ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ? (Nguyễn Du). Nỗi buồn này mang dư vị rất riêng, rất là “buồn thiu”, buồn đến não nề, tê tái. Như vậy, thi nhân đã mượn hình ảnh thiên nhiên để nói đến nỗi lòng của mình hiện tại ư?
Tiếp theo, thuyền và trăng luôn là cảm hứng của thơ ca. Hàn Mạc Tử đã khéo léo mượn hình ảnh thuyền và trăng để nói lên nỗi lòng của chính mình. Đến đây, người đọc dường như cảm nhận được một điều gì đó mơ hồ, kì ảo. Không phải là một con sông bình thường mà là dòng “sông trăng” rất nên thơ, kì ảo và huyền diệu. Có lẽ đây là một đêm trăng đẹp, một đêm trăng tròn đầy và viên mãn nhất. Câu hỏi tu từ vang lên ở cuối khổ thơ nhưng không ai trả lời. Một từ “kịp” khiến cho câu thơ trở nên hối hả và gấp gáp hơn bao giờ hết. “Kịp” trở về để làm gì? Là kịp yêu kịp thương hay là kịp gặp gỡ?
Có lẽ vì nỗi nhớ quá lớn, quá đầy nên hình ảnh “khách đường xa” đã lạc bước vào giấc mơ của người thi sĩ “Mơ khách đường xa khách đường xa”. Đúng vậy, nó vừa gần nhưng cũng lại vừa thật xa, thật không thể chạm đến được như câu “gần ngay trước mắt, xa tận chân trời”. Đó cũng chính là sự ngóng trông, đợi chờ mòn mỏi của thi nhân cho mối tình của mình. Khổ thơ cuối với gam màu trắng chủ đạo lại càng tăng thêm tính mơ hồ, kì ảo của bài thơ. Hàn Mặc Tử băn khoăn không biết mối tình của mình và cô gái xứ Huế sẽ đi đến đâu, liệu rằng tình người ta có còn đậm đà “Ai biết tình ai có đậm đà” như lời người hứa hay không?
Nhìn chung, “Đây thôn Vĩ Dạ” là bài thơ tao nhã, xinh xắn, lần theo một mối tình đơn phương và thuần khiết, ta cảm thấy được một thế giới tâm hồn tha thiết yêu người, yêu cảnh, yêu đời. Dù có gặp bi kịch nhưng vẫn không thôi hi vọng.
“Thơ đi từ cái hiện thực đến cái ảo ảnh, từ cái ảo ảnh đến cái huyền diệu, từ cái huyền diệu đến cái chiêm bao. Bao trùm cả bài thơ là một thế giới mơ.” Có lẽ quan niệm đó được thể hiện rõ trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ”.
Tràng Giang là bài thơ được sáng tác vào năm 1939, in lần đầu tiên trên báo "Ngày nay" sau đó in trong tập "Lửa thiêng" - tập thơ đầu tay của Huy Cận. Ngay khi đọc tên bài thơ, ta có thể hình dung được tâm tư và tình cảm mà tác giả gửi gắm trong bài. Bài thơ với tựa đề hiện ra một con sông dài, mênh mông, bát ngát. Tuy nhiên, ẩn sau hình ảnh sông dài còn là những mảnh đời bấp bênh, trôi nổi, u sầu. Câu đề từ "Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài" tiếp tục khẳng định nỗi niềm u uất, không biết tỏ cùng ai của nhân vật trữ tình trước không gian bao la của dòng sông.
Khổ đầu tiên đến với người đọc bằng hình ảnh con sông buồn, chất chứa những nỗi niềm khó tả:
"Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp
Con thuyền xuôi mái nước song song
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả
Củi một cành khô lạc mấy dòng."
Vừa mới đọc khổ đầu tiên, người đọc thấy được không khí u sầu, buồn bã thông qua các từ "buồn", "sầu", "lạc cành khô". Nếu như câu thứ nhất gợi lên những vòng sóng đang loang ra và lan xa, xô đuổi nhau đến tận chân trời, thì câu thứ hai lại vẽ ra những luồng nước chảy song song, rong đuổi về phía cuối trời. Nhưng chỉ cần một gợn sóng ấy thì Tràng giang đã "buồn điệp điệp". Từ láy hoàn toàn "điệp điệp" như diễn tả nỗi buồn chồng chất lên nhau, hết lớp này đến lớp khác. Hình ảnh con thuyền "xuôi mái nước song song" lại gợi về cảm giác đơn độc trên dòng nước mênh mông vô tận.
Hai câu thơ kết hợp lại làm cho không gian vừa mở ra theo bề rộng, vừa vươn ra theo chiều dài. Trong câu thơ thứ ba, "thuyền" và "nước" vốn dĩ là hai hình ảnh gắn bó, khăng khít với nhau… Thế nhưng dưới con mắt của nhân vật trữ tình thì lúc này là hai hình ảnh ấy không còn song hành với nhau nữa. Với nghệ "một" - "mấy" như nhấn mạnh hơn sự cô độc của củi trên dòng sông. Như vậy, chỉ với khổ thơ đầu tiên tác giả đã vẽ nên bức tranh thiên nhiên buồn và ảm đạm. Nét bút kết hợp giữa cổ điển và hiện đại giúp người ta đọc rõ hơn về tâm trạng của kẻ thi sĩ. Khổ thơ thứ hai vẽ nên lại là khung cảnh buồn nhưng mang nét đìu hiu và thiếu sức sống:
"Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu."
Chỉ cần qua vài nét chấm phá của nhà thơ đã hiện lên bức tranh quê ảm đạm, thiếu sức sống. Với cách dùng từ ngữ đặc sắc của Huy Cận, ông đã gợi lên một khoảng không vũ trụ sâu thăm thẳm, ở đó cũng là lúc nỗi buồn, nỗi cô đơn của nhà thơ dâng lên cao, trở nên vô cùng vô tận. Một góc nhìn đầy thú vị và mới mẻ. Toàn cảnh khổ hai là một gam màu cô đơn, vắng vẻ, sầu muội; đối lập với hình ảnh cảnh vật thưa thớt là không gian mênh mông, nhấn mạnh hơn nỗi u sầu vạn cổ:
"Bèo dạt về đâu hàng nối hàng
Mênh mông không một chuyến đò ngang
Không cầu gợi chút niềm thân mật
Lặng lẽ bờ xanh tiếp bãi vàng."
Khổ thơ cuối là ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca truyền thống và thơ ca hiện đại: là sự kết hợp những nét cổ điển trong thơ Đường với cái tôi cá nhân xuất hiện trong phong trào thơ mới. Với việc sử dụng nhuần nhuyễn những từ láy và những câu đảo ngữ, Huy Cận đã thành công trong việc miêu tả cảm xúc vũ trụ. Điều này thể hiện qua vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên, sự thơ mộng nhưng không quên thấm đượm nỗi buồn tâm trạng của người thi sĩ. Đó chính là “nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước” (Huy Cận). Nỗi buồn đó được khơi nguồn từ con tim ra ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim, lặng lẽ mà sâu nặng, yên tĩnh mà mãnh liệt vô cùng:
“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”
(Ê chề - Huy Cận)
Đặc sắc nghệ thuật trong "Tràng giang" trước hết phải nói tới sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa yếu tố Cổ điển (thơ Đường thi) và yếu tố thơ mới. Trong bài thơ tác giả sử dụng nhiều từ Hán Việt như tràng giang, bến cô liêu,...cùng với đó là đề tài thiên nhiên cổ kính, hoang sơ, cái tôi bé nhỏ trước thiên nhiên mênh mông mang đậm yếu tố Đường thi. Yếu tố thơ mới được thể hiện thông qua cái tôi giàu cảm xúc, hình ảnh sinh động giàu sức gợi. Bên cạnh đó việc sử dụng các từ láy, phép đối cũng góp phần làm rõ hơn sự bé nhỏ của con người trước vũ trụ rộng lớn.
Với "Tràng giang", Huy Cận không chỉ mang đến bức tranh thiên nhiên rộng lớn, mênh mông mà qua đó tác giả còn nhấn mạnh sự cô đơn của "cái tôi" trước ngân hà rộng lớn. Sự đối lập này phần nào nói lên tình cảnh lẻ loi, sự trôi nổi của những kiếp người. Đồng thời tác giả bộc lộ nỗi niềm nhớ quê hương, tình cảm thiết tha với đất nước của mình.
Thông qua hai bài thơ ta thấy được sự đồng điệu, gặp gỡ của hai thi nhân đó là miêu tả bức tranh thiên nhiên trời - nước, cảnh vật. Qua đó bộc lộ nỗi buồn và tình yêu của mình đối với tạo vật thiên nhiên và cuộc sống. Hơn thế nữa, cả hai đều sử dụng rất nhuần nhuyễn thể thơ thất ngôn điêu luyện, kết hợp tả cảnh ngụ tình và miêu tả trực tiếp.
Tuy nhiên chỉ gặp nhau ở một tư tưởng nhất định, mỗi bài thơ của mỗi tác giả đều có một nét hay, nét đẹp riêng. “Đây thôn Vĩ Dạ” là viết về nỗi buồn của một người khát khao được sống, được yêu và thiết tha gắn bó với cõi đời, cõi người nhưng lại cảm thấy mong manh và vô vọng; bài thơ được viết từ những thi liệu trực quan từ trải nghiệm của chính mình. Còn “Tràng Giang” là nỗi buồn rợn ngợp trước tạo vật mênh mông, hoang vắng cùng mặc cảm của thi nhân, của nhân vật trữ tình khi đứng trên quê hương; bài thơ thành công bởi những thi liệu cổ điển từ trong thơ Đường.
Như vậy, thiên nhiên chính là tình yêu, là nguồn cảm hứng bất tận đối với người thi nhân. So sánh Tràng Giang và Đây thôn Vĩ Dạ ta có thể thấy được điều đó qua từng câu từng chữ trong bài.
Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.
Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau) - Mẫu 2
Em chào cô và các bạn! Em xin phép trình bày bài viết của mình về vấn đề so sánh nét đặc sắc nội dung và nghệ thuật trong bài thơ Việt Bắc Tố Hữu và Bài thơ của một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao.
Nhà thơ Tố Hữu được mệnh danh là lá cờ đầu cho phong trào thơ ca cách mạng Việt Nam. Những vần thơ của ông luôn mang nặng tình yêu Tổ quốc. Ta bắt gặp tình yêu ấy trong Bài thơ của một người yêu nước mình của Trần Vàng Sao. Hai bài thơ tuy chung đề tài và một nguồn cảm hứng nhưng vẫn ánh lên những nét riêng độc đáo.
Hai bài thơ đều thể hiện tình cảm keo sơn gắn bó giữa con người, là tình cảm thiết tha, mặn nồng với quê hương, đất nước. Đặc biệt ở Trần Vàng Sao, ông đã mang đến một thứ keo sơn kỳ lạ để kết nối những bình diện tưởng chừng đối lập hòa quyện vào nhau, làm cho tình yêu nước không còn xa vời, cao siêu mà trở nên gần gũi.
Bên cạnh tình yêu đất nước nồng nàn, sâu lắng, ta bắt gặp hình tượng người mẹ Việt Nam tỏa sáng trong những vần thơ êm dịu. Trong “Việt Bắc” đó là hình ảnh “người mẹ nắng cháy lưng”,vất vả gian khổ để chắt chiu từng hạt bắp. Còn trong “Bài thơ của một người yêu nước mình” là hình ảnh điển hình cho bao người mẹ Việt tảo tần “áo rách” và thương con vô bờ bến, thầm lặng hy sinh. Đều viết về người mẹ nhưng trong “Việt Bắc” là tình thân mến của các chiến sĩ cách mạng dành cho người mẹ Việt Nam, còn trong “Bài thơ của một người yêu nước mình”, ấy là tình mẫu tử thiêng liêng, niềm thương xót của một đứa con giành cho mẹ của mình. Dù có khác nhau là vậy nhưng cả hai tác phẩm đã xây dựng lên hình ảnh người phụ nữ Việt Nam chịu thương, chịu khó, tần tảo, cống hiến cho Tổ Quốc.
Nét riêng và độc đáo của hai bài thơ thể hiện ở chính âm hưởng của nó. Nếu trong “Việt Bắc” bài thơ là một khúc ca đẹp trong bản tình ca Việt Bắc, thì “Bài thơ của một người yêu nước mình” lại mang một âm hưởng ngược lại, đó là nỗi niềm thương nhớ về dòng kí ức đã qua của một tuổi thơ mang nhiều nỗi suy tư sâu lắng. Bên cạnh đó, xét về mặt thể loại,“Việt bắc” là thể lục bát truyền thống với cách gieo vần đặc trưng đã làm cho đoạn thơ mang âm điệu ngọt ngào, êm ái, mang tính dân tộc đậm đà. Với Trần Vàng Sao, ông đưa đến thể loại thơ tự do với việc sử dụng những dòng thơ liền mạch, không có dấu câu, như để thể hiện mạch nguồn cảm xúc trào dâng khi viết về đất nước.
Sự khác biệt giữa hai đoạn thơ có lẽ đến từ chính bối cảnh sáng tác nên nó. Đối với “Việt bắc” được sáng tác khi miền Bắc nước ta được giải phóng, điều đó đã tạo nên âm hưởng vui tươi, lạc quan cho bài thơ. Ngược lại, “Bài thơ của một người yêu nước mình” được sáng tác vào năm 1967, khi đất nước ta vẫn chưa được thống nhất, nhân dân miền Nam đang lầm than, vì vậy trong những vần thơ ta cảm nhận được âm hưởng đau thương, một nỗi buồn man mác.
Qua hai bài thơ đã mang đến dòng cảm xúc sâu lắng về tình yêu thương, hơi ấm con người và lòng yêu nước nồng nàn trong tác giả. Đó là những tình cảm rất đỗi chân thành, là tình cảm gắn bó sâu sắc, chân tình giữa tâm hồn người con Việt với quê hương, đất nước.
Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau) - Mẫu 3
Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh hai tác phẩm thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử và “Vội vàng” của Xuân Diệu ạ.
Nhà thơ Trần Đăng Khoa trong sự nghiệp sáng tác đã từng quan niệm “thơ hay là thơ giản dị xúc động và ám ảnh”. Đúng như vậy cũng như bao môn nghệ thuật khác, thơ ca giúp con người trải nghiệm cuộc sống với những cung bậc tình cảm sâu sắc và một thế giới nghệ thuật độc đáo. Một bài thơ, một đoạn thơ hay chỉ một vần thơ hay luôn là những dòng cảm xúc đầy sức gợi cảm ơn sâu những câu những chữ đặc sắc, mới mẻ và gần gũi. Nó cuốn hút giữa chân độc giả với một sức mê hoặc đến lạ thường, có lẽ vậy nên trong bài thơ sổ tay thơ nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết.
“Câu thơ hay như người con gái đẹp,
Ở đâu đi đâu cũng lấy được chồng”.
Minh chứng rõ nhất cho điều đó chính là sáng tác của các nhà thơ mới tiêu biểu là bài thơ “Vội vàng” của Xuân Diệu và “Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử.
Lamartine đã từng tâm sự “Thế nào là thơ Nó không chỉ là một nghệ thuật nó là sự giải thoát của lòng tôi”. Thơ chính là thể loại văn học được viết lên bằng cảm xúc mãnh liệt của người nghệ sĩ, dưới một hình thức nghệ thuật phù hợp. Câu thơ hay tức là câu thơ có sức hấp dẫn lôi cuốn và gợi trong lòng độc giả những rung động sâu xa không cần lý giải gì nhiều. Chế Lan Viên đã đưa ra một hình ảnh so sánh khiến người đọc cảm nhận được mọi điều đó. “Câu thơ hay như người con gái đẹp”, sự so sánh đã chỉ ra chuẩn mực của thơ. Nếu như vẻ đẹp của người con gái là sự dung hòa giữa cái đẹp ngoại hình và cái đẹp tâm hồn, thì “thơ hay” là thơ mang vẻ đẹp độc đáo về hình thức và mang nhiều ý nghĩa về nội dung. Chính vì vậy nên “ở đâu, Đi đâu cũng lấy được chồng”. Chế Lan Viên đã khẳng định bao giờ và ở đâu nhưng những vần thơ hay sẽ vẫn luôn nhận được sự yêu thích, tìm được tiếng nói tri âm, như vậy từ ý thơ trên Chế Lan Viên đã đưa ra được yếu tố tiên quyết đem đến sự thành công của một thi phẩm, sức sống của thi phẩm đó trong lòng độc giả chính là cái đẹp hình thức và nội dung thước đo muôn đời của một tác phẩm thơ hay.
Ý kiến của Chế Lan Viên quả thực là một nhận định đúng đắn. Bởi nó xuất phát từ đặc trưng của thơ và quy luật tiếp nhận thơ ca. Thơ xuất phát từ tình cảm, cảm xúc là tiếng nói của trái tim, là sự rung động mạnh mẽ của thi sĩ trước cuộc đời. Nếu không có cảm xúc nhà thơ không thể sáng tạo nên những vần thơ hay ngôn tử sẽ là những xác chữ làm vô hồn trên trang giấy. Nói như Ngô Thì Nhậm “ hãy xúc động hơn thơ Cho ngọn bút có thần”. Còn Xuân Diệu lại khẳng định “ thơ hay lời thơ chín đỏ trong cảm xúc”. Văn học phản ánh cuộc sống con người, với thơ ca nó không chỉ là hiện thực ngoài kia mà là những tình cảm cảm xúc bên trong tâm hồn của nhà thơ bởi “thơ là người thư kí trung thành của trái tim”. Tuy nhiên không phải tình cảm nào cũng làm nên thơ những thứ tình cảm nhạt nhẽo vô vị cưỡng ép bắt buộc không thể làm nên thơ. Tình cảm của người nghệ sĩ phải mãnh liệt nhất, thôi thúc họ cầm bút sáng tạo đó mới chính là những vần thơ cao quý. Mặt khác, người đọc tìm đến với thơ là đi tìm tiếng nói tri ân tri kỷ, là giao phó tình cảm cảm xúc là một “ hồn điệu đi tìm những hồn đồng điệu” vì vậy nội dung tư tưởng cũng như tình cảm cảm xúc mãnh liệt mới có thể lôi cuốn người đọc, ngược lại thơ sẽ thiếu sức sống đánh mất đi chức năng cao quý của nó. Và để làm nên một bài thơ hay không thể thiếu được sự công phu, tinh tế trong nghệ thuật biểu hiện, hay nói cách khác đó chính là một hình thức nghệ thuật độc đáo cuốn hút bởi một tác phẩm nghệ thuật chân chính bao “giờ cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung”. đáp ứng được những điều đó thì chắc chắn đó là một thi phẩm hay đẹp và mang đầy ý nghĩa. “Vội vàng” của Xuân Diệu và “ Đây Thôn Vĩ Dạ” của Hàn Mặc Tử xứng đáng là những bài thơ hay một người con gái đẹp về cả bên ngoài hình thức và bể sâu tâm hồn.
Xuất hiện trong phong trào thơ mới, Xuân Diệu được biết đến là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới, với một phong cách độc đáo đặc biệt từng câu từng chữ mà ông viết ra xứng đáng là “người con gái đẹp”. Bằng cặp mắt xanh non biếc rờn, cùng với cảm xúc dạt dào Xuân Diệu đã lay động trái tim người đọc bằng những ca từ về tình yêu về mùa xuân trần thế. “Vội Vàng” là một trong những thi phẩm như vậy, ấn tượng đầu tiên của độc giả về bài thơ là mạch cảm xúc sôi nổi, mãnh liệt tuôn trào với một tình yêu cuộc sống đến ta thiết của thi sĩ muốn “ tắt nắng”, “ buộc gió” để lưu lại mãi hương sắc của cuộc sống trần gian.
“Tôi muốn tắt nắng đi, cho màu đừng nhạt mất,
Tôi muốn buộc gió lại cho hương đừng bay đi”.
Ước muốn thật táo bạo, mạnh mẽ thậm chí còn có phần ngông cuồng của thi sĩ. Nhà thơ muốn tắt nắng cho màu sắc đừng phai mờ, muốn buộc gió cho hương hoa đừng bay đi, nhà thơ muốn tước đoạt quyền của tạo hóa của ông trời. Nhưng suy cho cùng thì ước muốn đó lại bắt nguồn từ chính tình yêu cuộc sống tha thiết đến, mãnh liệt.
Xuân Diệu yêu cuộc sống, yêu thiên nhiên nhìn thế giới như một khu vườn trên mặt đất với cảm xúc say mê bằng cặp mắt tinh tế xanh non biếc rờn mọi cái đẹp đều như được thu nhỏ trong từng câu từng chữ có lẽ đây chính là nguyên nhân để Xuân Diệu có những ao ước táo bạo như trên.
“Của ong bướm này đây tuần tháng mật,
Này đây hoa của đồng nội xanh rì,
Này đây lá của cành tơ phơ phất,
Của yến oanh,
Này đây khúc tình si,
Và này đầy ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi buổi sớm thần vui hằng gõ cửa”.
Mùa xuân ong bướm đi tìm mật, phất phơ với đôi cánh mỏng vui vẻ như đang ở tuần trăng mật của con người vậy Xuân Diệu lại nhìn đến những nhành hoa nhỏ nhắn đẹp đẽ đang bung nở trên một tấm thảm xanh gì nơi đồng nội mát mẻ. Rồi nhà thơ lại bị thu hút bởi những cành cây non tơ vừa mới nhú ra khỏi cành. Nó như đang đu đưa trước gió để tận hưởng mọi vẻ đẹp của mùa xuân trên cái nền đầy màu xanh mát lạnh ấy, đâu đó cất lên tiếng hót vang như dàn nhạc của chim Yến oanh làm cho cảnh đẹp này còn đẹp hơn nữa, còn sống động hơn nữa. Mùa xuân đến còn đem theo thứ ánh nắng ấm áp như cặp môi, đôi mi của người con gái làm cho nhà thơ như đang sống trong tiên cảnh phải thốt lên rằng.
“Tháng giêng ngon như một cặp môi gần”.
Mùa xuân là mùa đẹp nhất trong năm, tháng giêng là tháng đẹp nhất của mùa xuân. Xuân Diệu đã nhìn đã cảm nhận được tất cả những tinh tui đẹp đẽ nhất trưa nay người ta cứ tưởng cõi tiên phải ở nơi xa, nhưng Xuân Diệu qua đây đã cho mọi người thấy rằng cõi tiên ở ngay trên mặt đất nơi chúng ta đang sống. Điều quan trọng là mỗi người có cảm nhận được điều đó hay không.
Người con gái đẹp, cũng có lúc vui vẻ tràn đầy sức sống, cũng như một câu thơ hay có lúc thăng hoa nhưng cũng có lúc suy tư chiêm nhiệm. Bên cạnh những câu thơ hay về niềm vui trước cuộc sống của mùa xuân thì vội vàng còn là sự nuối tiếc trước thời gian chảy trôi không ngừng trong khi tuổi xuân đời người lại hữu hạn ngắn ngủi.
“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất,
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi răng Xuân văn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thăm lại”.
Nếu như người xưa cho rằng thời gian là tuần hoàn Đông qua, Xuân tới, quá trẻ sang già, hết kiếp này sang kiếp khác đó là điều đương nhiên. Nhưng đối với Xuân Diệu, ông nhìn sao thời gian trôi trẩy tuyến tính, một đi không trở lại đời người hữu hạn so với thời gian vô hạn đã gắn Tuổi Trẻ của con người so với nó lại càng ngắn ngủi hơn Xuân Diệu đã lấy tuổi trẻ làm thước đo của thời gian khiến người đọc như cảm thấy rơi vào sự suy tư lo lắng. Thời gian cứ trôi vạn vật cứ xa dần với cuộc sống. Nếu như trên coi là bức tranh mùa xuân xanh non, tình tứ thì bây giờ sự nhắn lại bao trùm khắp cảnh vật.
“Mùi tháng năm đều thắm vì chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt,
Cơn gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi,
Chim rộn ràng bỗng dứt tiếng reo thi,
Phải chăng hờn độ phai tàn sắp sửa,
Chẳng bao giờ tôi chẳng bao giờ nữa”.
Đoạn thơ như là tiếng than, tiếng thở dài sự nuối tiếc lo lắng về sự chảy trôi của thời gian, lan cả ra những thứ vô tri vô giác. Xuân Diệu như đang cảm nhận được tất cả đều sợ sệt trước sự tuyến tính vô tình của thời gian.
Cảnh vật thì lúc nào cũng đẹp nhưng thời gian cứ không ngừng trôi, con người không thể mãi mãi níu giữ thời gian mà chỉ đành phải chấp nhận. Thế nhưng không phải là không có cách, không phải là bất lực buông xuôi, để khống chế được điều đó Xuân Diệu đã khao khát giao cảm trực tiếp và tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp của cuộc sống trần thế. Chỉ có như vậy con người mới có thể sống vui sống hạnh phúc chỉ có nhanh vội vàng thì cái đẹp mới không bị trôi đi lãng phí.
“ Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn,
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều,
Và non nước và cây và cỏ dại,
Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi,
Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi”.
Đầu tiên để ôm, để tận hưởng trọn vẹn được cuộc sống, sau đó là “siết”, để đi sâu kỹ càng, tiếp đó là “thâu” để say đắm, tràn ngập Xuân Diệu không đơn thuần chỉ nhìn cái bên ngoài mà còn phải cảm cái bên trong cho đến khi đã đẩy chếnh choáng, no nê. Nhưng vậy thôi vẫn chưa đủ cái khoái cảm cái bộc lộ trực tiếp mãnh liệt nhất của Xuân Diệu chính là “cắn”. Có người từng nhận xét Xuân Diệu hưởng thụ thiên nhiên như “hưởng thụ ái tỉnh”. Điều đó quả không sai và qua đây ta đã thấy rõ sự cảm nhận đó thật khác lạ mới mẻ táo bạo đến mãnh liệt.
Người con gái đẹp bên cạnh tâm hồn đẹp còn là cái đẹp về hình thức, nó cũng như Thơ. Thơ hay và thơ phải có cái đặc sắc về hình thức, bên cạnh cái ý nghĩa của nội dung và thiết tha ở tình cảm. Cái đẹp ở hình thức mà không được bộc lộ thì có mà gửi gắm được nội dung đến với người đọc. vội vàng quả thực là người con gái đẹp bởi không chỉ hàm chứa Nội dung sâu sắc mà còn có hình thức phù hợp đặc sắc. Điều đó thể hiện trước hết ở việc lựa chọn thể thơ tự do, với các dòng thơ dài ngắn không đều nhịp, thơ thay đổi linh hoạt phù hợp diễn tả cảm xúc sôi nổi dâng trào của thi sĩ. Hơn nữa bài thơ được cấu trúc theo lối triết luận vừa có sự hấp dẫn của cảm xúc mãnh liệt cháy bỏng, vừa logic chặt chẽ. Cuối cùng ngôn ngữ thơ vừa chính xác vừa mới mẻ táo bạo sử dụng nhiều động từ mạnh, các tính từ miêu tả kết hợp với các biện pháp tu từ như so sánh, điệp từ liệt kê, bút pháp tương giao làm nên vẻ hoàn thiện, hoàn mỹ của bài thơ.
Nếu như Xuân Diệu là nhà thơ có phong cách sống yêu đời thiết tha luôn vui tươi, tình tứ thì đến với Hàn Mặc Tử lại là một nhà thơ của sự đau buồn điên loạn. Cuộc đời ngắn ngủi nhưng Hàn Mặc Tử đã để lại cho đời biết bao bài thơ hay càng độc càng bị lôi cuốn càng bị thu hút đến không ngờ. Trong số những bài thơ đó thì “Đây Thôn Vĩ Dạ”, có thể được xếp vào nhóm đầu vào những thi phẩm hay nhất của ông. Cảm xúc bao trùm bài thơ là tình yêu đến với mảnh đất con người xứ Huế, nỗi buồn mặc cảm chia ly xa cách và ước mong được đồng cảm sẻ chia đây chính là cái đẹp bên trong của người con gái, là cái ẩn ý của một bài thơ. Những cảm xúc mãnh liệt cao đẹp ấy được thể hiện ở ba khổ thơ với những sắc thái cụ thể.
Đến với khổ thơ thứ nhất đó là nỗi day dứt khi chưa về thăm thôn Vĩ. Đoạn thơ mở đầu bằng một câu thơ tu từ khá đặc biệt.
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Mang biểu hiện là một câu hỏi nhưng tính chất của nó lại rất đa nghĩa. Đó còn có thể là lời mời lời trách móc của một cô gái trách chàng trai hay của chính anh trách anh. Nhưng dù sao đi chăng nữa nó vẫn là nỗi lòng da diết nhớ đến một miền quê xinh đẹp mình đã từng gắn bó thôn Vĩ. Chữ về với một cảm giác thân thuộc, trong khi đó chữ chơi lại gợi sự gần gũi đến thân thiết. Tất cả gợi lên được mảnh đất là máu và xương, là một phần không thể tách rời trong trái tim người nghệ sĩ. Phải chăng chính vì gắn bó như vậy, nên chỉ qua hai nét vẽ thôn Vĩ dường như đã hiện ra toàn diện trước mắt người đọc.
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên,
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”.
Thôn Vĩ nổi tiếng với những hàng cau thẳng tắp xanh tốt bốn mùa vào mỗi buổi sớm mai nắng dịu nhẹ chiếu lên thân cau càng khiến cho thôn Vĩ trở nên đẹp hơn, thơ mộng hơn. Không như vậy hình ảnh Vĩ Dạ được hiện lên còn quá cảnh vườn tược trần đầy màu xanh và sức sống. Sớm mai cũng là lúc xương dài ở cái nơi mưa nhiều nắng nhiều này. Chính vì vậy khi những giọt sương còn đọng trên lá, được ánh nắng chiếu vào khiến nó long lanh như màu ngọc bích gây ấn tượng mạnh với thi sĩ. Ông cha ta từng nói “yêu nhau yêu cả đường đi”. Vĩ Dạ vốn là mảnh đất của người con gái Hàn Mặc Tử, tình yêu Hoàng Cúc. Khi yêu nhau rồi dù nó có xấu thì trong tâm trí người kia vẫn là đẹp, huống gì Vĩ Dạ đã rất đẹp rồi thì vào tâm trí Hàn Mặc Tử nó không chỉ là đẹp mà còn thơ mộng và rất đỗi thiêng liêng. Không những cảnh Vĩ Dạ đẹp mà người Vĩ Dạ cũng rất đẹp.
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền.”
Nét mặt đó hiện lên với bao nhiêu phúc hậu chân thật làm say đắm trái tim thi nhân. Hơn nữa con người nơi đây cũng rất chăm chỉ, bởi vậy mới có cảnh vườn tược xanh tốt thế kia.
Nếu như khổ thơ thứ nhất cái đẹp bộc lộ ở cảnh đẹp, người đẹp thì sang khổ thơ thứ hai cái đẹp bộc lộ ở tâm trạng. Đó là sự đau đau về thời khắc gặp gỡ còn kịp. Tâm trạng đó được mở đầu bằng hai câu thơ “Tả cảnh, ngụ tình”.
“Gió theo lối gió mây đường mây,
Dòng nước buồn thiu hoa bắp lay”.
Xưa nay gió, mây cùng lối thế mà giờ đây gió đi một hướng, mây theo một nẻo gợi cảm giác chia ly. Bên cạnh dòng sông buồn thiu là sự đu đưa của hoa bắp lay, gửi một cái gì đó mong manh, yếu ớt. Dường như tâm trạng thi nhân lúc này vừa buồn, vừa đau đớn, thất vọng để rồi từ đó là sự đau đáu hi vọng.
“Thuyền ai chờ bến sông trăng đó,
Có chở trăng về kịp tối nay”.
Sông trăng nghe như gì đó rất huyền ảo và thơ mộng, đối với người bình thường Trăng không về tối nay còn có tối mai, tối khác, còn đối với Hàn Mặc Tử Trăng không về tối nay thì quả thực là đã muộn, đã lỡ. Nhà thơ đau đáu đến khuôn nuôi nên khi đọc hai câu thơ đó tâm trạng người đọc cũng đồng cảm đến ray rứt, bồn chồn.
Cuối cùng đến với khổ thơ thứ ba đó chính là hoài nghi về sự bền chặt của tình người, tình đời Hàn Mặc Tử cách ly với đời nhưng luôn một lòng nhớ về Hoàng Cúc về mảnh đất Vĩ Dạ nhỏ bé thân thương.
“Mở khách đường xa khách đường xa,
Áo em trắng quá nhìn không ra”.
Giờ đây trong tâm trí của thi nhân còn có thể mơ được thôi. Mà càng mơ thì càng nhạt nhòa, giống màu áo trắng ẩn hiện trong mây trời sương khói. Khoảng cách ngày càng xa dần, con người ngày càng tiếc nuối với tình người, tình đời. “Em” lẽ nào chính là Hoàng Cúc chính là người để lại dấu ấn trong lòng thi nhân để rồi Hàn Mặc Tử đã viết:
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh,
Ai biết tình ai có đậm đà”.
Ở đây là Vĩ Dạ vùng đất mưa nhiều nắng nhiều hay là nơi Hàn Mặc Tử đang ở nhưng dù ở đâu thì đều khó nhận ra, khó nhìn được. Trong tâm trí thì nhân lúc bây giờ hắn đang bị vây bùa bởi những làn sương bất hạnh của cuộc đời. Bên ngoài cảnh vật liệu buồn thì chắc rằng lòng người càng không thể vui hơn. Nhưng trông chính lúc con người thế này Hàn Mạc Tử có thể có những suy nghĩ tình cảm chân thành và đúng đắn. Có lẽ vậy trăng lên Hàn Mặc Tử qua dòng thơ cuối cùng đã khẳng định chắc chắn rằng dù người xứ Huế, người Vĩ Dạ giờ đây có tình cảm thế nào với nhà thơ nhưng nhà thơ vẫn luôn nhớ về mảnh đất và con người nơi đây đến thắm thiết, khôn nguôi.
Bên cạnh nội dung đặc sắc với một tình cảm đậm đà thì Đây Thôn Vĩ Dạ còn là người con gái đẹp về cả bề ngoài hình thức.
Bài thơ được tổ chức làm ba khổ thơ dưới hình thức ba câu hỏi đầy day dứt băn khoăn ngôn ngữ được sử dụng giản dị chính xác tinh tế gợi cảm có nhiều lớp từ cực tả. Bút pháp bài thơ vừa cổ điển vừa hiện đại vừa tả thực vừa gợi tả mang màu sắc tượng trưng siêu thực cùng với các biện pháp nghệ thuật so sánh nhân hóa điệp từ được sử dụng thích hợp tạo nên vẻ đẹp hoàn mỹ của bài thơ.
Vội vàng và Đây Thôn Vĩ Dạ của thực là hai bài thơ hay là hai người con gái đẹp cả xác lẫn tâm. Cả hai bài thơ đều là tiếng nói mãnh liệt của Cảm Xúc con tim và được thể hiện qua một hình thức phù hợp gây ấn tượng với độc giả. Cũng qua hai bài thơ ta càng hiểu thêm được về ý kiến của Chế Lan Viên nó không chỉ là thước đo đánh giá bài thơ mà còn là đặt ra yêu cầu sáng tác đối với nhà thơ và tiếp nhận đối với người đọc. Đối với người cầm bút luôn phải sống thật sâu với cuộc đời phải có cảm xúc mãnh liệt và thể hiện bằng một lớp vỏ độc đáo. Đối với độc giả tìm đến với Thơ cần lấy hồn ta để hiểu hồn người phải thấy cái đẹp ở thơ qua từng câu từng chữ.
Người Trung Hoa xưa đã nhận xét thơ hay như người con gái đẹp cái để làm quen là nhan sắc nhưng cái để sống với nhau lâu dài là Đức Hạnh. Chứ nghĩa là nhan sắc của thơ tấm lòng mộc là Đức hạnh của thơ.
Dường như ý kiến trên rất giống với nhận định của Chế Lan Viên. Thơ hay bao giờ cũng để lại được ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi người vội vàng của Xuân Diệu và Đây Thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử xứng đáng là minh chứng tiêu biểu cho điều đó. Không những có để ngoài tiêu biểu đẹp đẽ độc đáo mà ý thơ cũng rất chân thật mãnh liệt. Có lẽ chính vì vậy giá trị của bài thơ sẽ còn tồn tại mãi đến với người đọc cả hôm nay và mai sau.
Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.
Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau) - Mẫu 4
Xin chào thầy cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh hai tác phẩm thơ “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải và “Sang thu” của Hữu Thỉnh ạ.
Từ văn học trung đại cho đến văn học hiện đại, từ thơ cổ cho đến thơ mới, vẻ đẹp thiên nhiên bốn mùa của quê hương đã trở thành những hình ảnh khó phai mờ trong các tác phẩm của nhà văn, nhà thơ. Chúng ta thấy hình ảnh quê hương hiện ra ở thơ vô cùng thân mật, gần gũi, đáng yêu và đầy quen thuộc, gợi bao cảm xúc đẹp đẽ của con người…
Quê hương chúng ta vốn có vẻ đẹp dân dã, bình dị của sự sống mơn mởn. Quê hương cao cả và thiêng liêng, thân thuộc và bình dị, chúng ta có thể bắt gặp trong bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ“ của Thanh Hải hay “Sang thu” của Hữu Thỉnh.
Viết về quê hương, đất nước thì mỗi nhà thơ lại có một cảm nhận riêng. Nếu hình ảnh đất nước trong bài “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải được soi chiếu qua lăng kính mùa xuân thì “Sang thu” của Hữu Thỉnh – quê hương, đất nước lại được soi chiếu qua bức tranh giao mùa cuối hạ sang thu… Thật phong phú, đa dạng mà không kém phần thú vị.
Thanh Hải viết bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” khi đất nước vừa thoát khỏi chiến tranh không lâu, bản thân nhà thơ cũng ở tình trạng sức khỏe hiểm nghèo, nhưng cả cuộc đời gắn bó với quê hương xứ sở làm sao không có những cảm xúc lúc đi xa. Hình ảnh quê hương, đất nước hiện lên qua cảnh sắc mùa xuân – thiên nhiên xứ Huế tinh khôi, trong trẻo, đầy sức sống. Mùa xuân của thiên nhiên cũng là mùa xuân của đất nước con người:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Thanh Hải đưa ta về với thiên nhiên tạo hoá đất trời. Sau những ngày đông lạnh lẽo, thiên nhiên lại được khoác một tấm áo tươi non, ấm áp của mùa xuân. Mùa xuân đến, báo hiệu bằng những cảnh sắc thiên nhiên quen thuộc : dòng sông xanh, bông hoa tím biếc và chim chiền chiện. Mùa xuân đã hiện diện trên toàn cảnh, trên tạo vật : đất trời, hoa lá, chim muông…. Tô điểm sắc màu cho không gian ấy, có màu xanh cây cỏ, xanh của dòng sông, màu tím của hoa và cả màu của mây trời:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Cảnh sắc thiên nhiên ấy không chỉ đẹp mà còn sinh động. Từ “mọc” đặt ở đầu câu thơ vang lên như một điểm nhấn, một sự phát hiện đầy cảm xúc của nhà thơ. Hai câu thơ đầu vẽ nên một không gian mùa xuân rộng mở tươi tắn với hình ảnh một dòng sông xanh trong chảy hiền hoà. Cái màu xanh ấy phản ánh được màu xanh của bầu trời, của cây cối hai bên bờ, cái màu xanh quen thuộc mà ta có thể gặp ở bất kì một con sông nào ở dải đất miền Trung. Nổi bật trên nền xanh lơ của dòng sông là hình ảnh “một bông hoa tím biếc”, một hình ảnh thân thuộc của cánh lục bình hay hoa súng mà ta thường gặp ở các ao hồ sông nước của làng quê mà ta từng gặp trong những vần thơ của khác:
“Con sông nhỏ tuổi thơ ta tắm
Vẫn còn đây nước chẳng đổi dòng
Hoa lục bình tím cả bờ sông…”
(Lê Anh Xuân)
Màu tím biếc ấy không lẫn vào đâu được với sắc màu tím Huế thân thương- vốn là nét đặc trưng của những cô gái đất kinh kỳ với sông Hương núi Ngự. Màu xanh của nước hài hoà với màu tím biếc của bông hoa tạo nên một nét chấm phá nhẹ nhàng mà sống động. Bức tranh xuân còn được điểm xuyết thêm bằng âm thanh rộn rã, tưng bừng của con chim chiền chiện hót vang trời. Tiếng hót của chim, đường nét uốn lượn quanh co của con sông, màu tím biếc của bông hoa vẽ nên một bức tranh mùa xuân đầy sức sống mãnh liệt trên quê hương tác giả.
Trước vẻ đẹp ấy, nhà thơ ngất ngây sung sướng không ngăn được dòng cảm xúc. Những từ cảm thán “Ơi”, “Hót chi” vang lên là tiếng lòng nao nức say sưa của nhà thơ khi lần đầu tiên phát hiện vẻ đẹp đơn sơ mà say đắm của cảnh vật quê hương.
“Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Cụm từ “giọt long lanh” gợi lên những liên tưởng phong phú và đầy thi vị. Nó có thể là giọt sương lấp lánh qua kẽ lá trong buổi sớm mùa xuân tươi đẹp, có thể là giọt nắng rọi sáng bên thềm, có thể giọt mưa xuân đang rơi…Theo mạch liên tưởng của bài thơ “giọt long lanh” còn là giọt âm thanh đổ hồi của con chim chiền chiện… Hình ảnh có tính chất tượng trưng “tôi đưa tay tôi hứng” là thái độ yêu thương, trân trọng của nhà thơ trước vẻ đẹp của đất trời. Nghệ thuật ví ngầm, chuyển đổi cảm giác quả đã đạt tới mức tinh tế đáng khâm phục. Hai câu thơ đã biểu hiện niềm say sưa, ngây ngất, xốn xang, rạo rực của nhà thơ trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời lúc vào xuân. Chắc hẳn trong lòng thi sĩ đang dạt dào tình yêu quê hương, đất nước, tình yêu cuộc đời.
Tạm rời xa mùa xuân của Thanh Hải ta tìm đến với cái tình non sông đất nước được khơi nguồn từ cảnh sắc thiên nhiên trong bài “Sang thu” của Hữu Thỉnh. Thi sĩ bộc bạch tình yêu đất nước ở nhiều cung bậc. Hữu Thỉnh với cái nhìn thật tinh tường, một cảm nhận thật sắc nét đã vẽ lại bức tranh in dấu sự chuyển mình của đất trời qua bài thơ “Sang Thu”. Sang thu của Hữu Thỉnh giúp ta chiêm ngưỡng lại những giây phút giao mùa tinh tế đầy ý vị mà bấy lâu nay ta hững hờ. Đó là lúc hồn ta run lên những cảm nhận dung dị. Hình ảnh đất nước quê hương còn được nhà thơ phác họa qua phút giao thừa cuối hạ sang thu thật tinh tế và sâu sắc. Bắt đầu từ một khu vườn ngoại ô của vùng đồng bằng Bắc Bộ:
Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se,
Không phải là sắc “mơ phai” hay hình ảnh “con nai vàng ngơ ngác” mà là hương ổi thân quen nơi vườn mẹ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ.Hương vị đơn sơ, mộc mạc, đồng nội, rất quen thuộc của quê hương. Câu thơ có hương vị ấm nồng của chớm thu ở một miền quê nhỏ. Vì sao tín hiệu đầu tiên để tác giả nhận ra mùa thu là “hương ổi” mà không phải là các hương vị khác? Mùi hương quê nhà mộc mạc “phả” trong gió thoảng bay trong không gian. Tất cả đến với tác giả nhẹ nhàng, mà đột ngột quá, thu về với đất trời quê hương, với lòng người mà không hề báo trước. Cảm giác bất chợt đến với nhà thơ: “bỗng nhận ra” - một sự bất ngờ mà như đã chờ đợi sẵn từ lâu lắm. Câu thơ không chỉ tả mà còn gợi liên tưởng đến màu vàng ươm, hương thơm lựng, vị giòn, ngọt, chua chua nơi đầu lưỡi của trái ổi vườn quê. Câu thơ ngắn mà có cả gió cả hương. Hương là hương ổi, gió là gió se. Đây là những nét riêng của mùa thu vùng đồi trung du miền Bắc. Gợi được như vậy hẳn cái tình quê của Hữu Thỉnh phải đậm đà lắm. Nhận ra hương ổi giống như một sự phát hiện nhưng ở đây là phát hiện ra mùi hương vẫn vương vấn mà bấy lâu nay con người hờ hững. chính vì sự phát hiện ra cái gần gũi xung quanh mình cho nên con người mới có cảm giác ngỡ ngàng đôi chút bối rối ấy.
Và không chỉ có thế, cả sương thu như cũng chứa đầy tâm trạng, thong thả, chùng chình giăng mắc trên khắp nẻo đường thôn:
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về.
Một hình ảnh đầy ấn tượng. Sương được cảm nhận như một thực thể hữu hình có sự vận động – một sự vận động chậm rãi. Sương thu đã được nhân hoá, hai chữ “chùng chình” diễn tả rất thơ bước đi chầm chậm của mùa thu. Đâu chỉ có thế, cái hay của từ láy “chùng chình” còn là gợi tâm trạng. Sương dềnh dàng hay lòng người đang tư lự, hay tâm trạng của tác giả cũng “chùng chình”? Nếu ở câu thơ đầu tiên nhà thơ “bỗng nhận ra” thu về khá bất ngờ và đột ngột thì sau khi cảm nhận sương thu, gió thu, thi sĩ vẫn ngỡ ngàng thốt lên lời thầm thì như tự hỏi: Hình như thu đã về? Tâm hồn thi sĩ nắm bắt những biến chuyển nhẹ nhàng, mong manh của tạo vật trong phút giao mùa cũng êm đềm, bâng khuâng như bước đi nhỏ nhẹ của mùa thu.
Không gian nghệ thuật của bức tranh thu được mở rộng hơn, cái bỡ ngỡ ban đầu vụt tan biến đi nhường chỗ cho những rung cảm mãnh liệt trước không gian thu vời vợi:
Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Sông nước đầy nên mới “dềnh dàng” nhẹ trôi như cố tình chậm lại, những đàn chim vội vã bay về phương nam… Cái “dềnh dàng” của dòng sông là phút hiếm hoi sau lúc gập ghềnh leo thác nhọc nhằn rồi lại ồ ạt xối xả dưới những cơn mưa rào mùa hạ. Từ “được lúc" diễn tả cái hiếm hoi thưa thớt. Đã lâu lắm rồi con sông mới có dịp nghỉ ngơi thanh thản như thế. Nhưng cơn gió heo may lạnh lẽo đầu mùa tràn về khiến đàn chim phải bắt đầu vội vã bay về phương nam tránh rét. Phép đối và nghệ thuật tương phản giữa hai câu thơ (dềnh dàng đối lập với vội vã) đã được tác giả gửi gắm vào đó một triết lý: cuộc đời không có giây phút nào phẳng lặng êm đềm, sự sống vẫn chuyển không ngừng, chính vì thế con người phải biết cách chuẩn bị đầy đủ để ứng phó và theo kịp mạch chảy của dòng đời.
Không gian đất trời lại tiếp tục được mở thêm một tầng mới. Không gian thu thư thái, hữu tình và chứa chan thi vị, đặc biệt là hình ảnh:
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu.
Câu thơ giúp ta hình dung về đám mây mỏng nhẹ, trắng xốp, kéo dài như tấm khăn voan duyên dáng của người thiếu nữ thảnh thơi, nhẹ nhàng “vắt nửa mình sang thu”. Đám mây mùa hạ là hình ảnh độc đáo, thể hiện trí liên tưởng phong phú của tác giả. Dường như đám mây mùa thu còn vương nắng hạ nên nhà thơ mới có liên tưởng sáng tạo đến thế. Câu thơ có tính tạo hình không gian nhưng lại có ý nghĩa diễn tả sự vận động của thời gian: thu bắt đầu sang, hạ chưa qua hết, mùa thu vừa chớm, rất nhẹ, rất dịu, rất êm, mơ hồ như cả đất trời đang rùng mình thay áo mới. Trong khoảnh khắc giao mùa, đám mây trên bầu trời cao đã trở thành ranh giới giữa mùa hạ với mùa thu. Từ “vắt” mang hiệu quả diễn đạt rất lớn. Nó làm cho đám mây kia có khả năng nối liền giữa hai mùa thiên nhiên hay nói đúng hơn là mùa hạ và mùa thu đang chênh vênh giữa một đám mây. Từ cái giây phút giao mùa vô hình trừu tượng, tác giả đã biến thành sự vật hữu hình cụ thể để người đọc cảm nhận rõ hơn về tín hiệu của mùa thu.
Hình ảnh thơ đẹp, ngôn từ tinh tế, giọng thơ êm đềm và những rung động man mác, bâng khuâng của tác giả trong buổi giao mùa đã tạo nên một dấu ấn không dễ phai mờ trong lòng bao độc giả. Có lẽ vì vậy mà sau khi đọc “Sang thu” của Hữu Thỉnh ta càng thấy yêu hơn mùa thu thiết tha, nồng hậu của quê nhà.
Mỗi nhà thơ có cảm nhận riêng về cảnh sắc thiên nhiên, những chiêm nghiệm, những suy nghĩ về cuộc đời, về con người, tình người trong cuộc sống nhưng thật cảm động và kính phục biết bao khi đọc những vần thơ đầy xúc động với hình ảnh thiên nhiên gợi lên thật đẹp. Hai bài thơ để lại trong lòng bao thế hệ bạn đọc những cảm xúc sâu lắng, khó phai mờ và vẫn sẽ tiếp tục trường tồn cùng với những bước đi lên của đất nước, gợi nhắc cho những thế hệ trẻ tình yêu quê hương đất nước, niềm khát khao được sống, được cống hiến cho đất nước, cho dù đó là những cống hiến giản dị, nhỏ bé nhưng đầy ý nghĩa.
Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Em cảm ơn thầy cô và các bạn đã chú ý lắng nghe.
Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau) - Mẫu 5
Chào thầy/cô cùng toàn thể các bạn. Tôi tên Nguyễn Văn A. Sau đây tôi xin được trình bày bài so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ: Sóng – Xuân Quỳnh và Việt Bắc – Tố Hữu
Trong cuộc đời mỗi con người, ai cũng có ít nhất một niềm thương, nỗi nhớ. Niềm thương, nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong ta tạo nên những rung động mãnh liệt trong cảm xúc. Với các thi nhân, cảm xúc lại là yếu tố vô cùng quan trọng. Nó giúp cho các nhà thơ làm nên những thi phẩm say đắm lòng người. Tiếng nói từ trái tim sẽ đến được với trái tim. Đoạn thơ:
"Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi, mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu.”
trích trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu và đoạn thơ:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.”
trích trong bài thơ “Sóng“ của Xuân Quỳnh là những vần thơ dạt dào cảm xúc như thế.
Nhà thơ Tố Hữu và nhà thơ Xuân Quỳnh là hai nhà thơ lớn của văn học Việt Nam hiện đại được nhiều bạn yêu thơ mến mộ. Nếu nhà thơ Tố Hữu là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam thì Xuân Quỳnh được mệnh danh là nữ hoàng của thơ tình.
Mỗi tác giả đã tạo ra thơ của mình với mỗi vẻ đẹp riêng. Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình, chính trị; mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu mang giọng điệu ngọt ngào, tâm tình tha thiết, giọng của tình thương mến; đậm đà tính dân tộc. Thơ Xuân Quỳnh lại in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết, luôn khát vọng về một hạnh phúc đời thường.
Bài thơ “Việt Bắc” viết về cách mạng, còn bài thơ “Sóng” hướng tới đề tài tình yêu lứa đôi.
Tháng 10/1954, những người kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tình lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc” in trong tập thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ trích trong bài Việt Bắc là lời người ra đi đáp lại người ở lại.
Bốn câu thơ giống như một lời thề nguyền, lời khẳng định gắn bó thủy chung trước sau như một mà những cán bộ cách mạng miền xuôi muốn gửi tới đồng bào Việt Bắc. Lời thơ óng ả, dịu dàng, tình tứ và lối xưng hô thân mật, ngọt ngào của ca dao, dân ca “mình - ta” được sử dụng một cách linh hoạt. Nỗi nhớ của người cách mạng về quê hương Việt Bắc giống như nỗi nhớ của những đôi lứa yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền đôi, quấn quýt không muốn rời xa của “ta” và “mình”, vừa khéo léo khẳng định tấm lòng của “ta” cũng như “mình”. Tình cảm của người về với Việt Bắc là thứ tình cảm thắm thiết, mặn mà, gắn chặt trong tim, ghim chặt trong lòng. Tình cảm ấy còn được khẳng định bằng một hình ảnh thơ so sánh “Nguồn bao nhiêu nước, nghĩa tình bấy nhiêu”. Trong tiềm thức của người Việt Nam nước trong nguồn là dòng nước không bao giờ vơi cạn, chảy bất tận. Ý thơ trở nên sâu sắc hơn khi tác giả sử dụng cặp từ so sánh tăng tiến “bao nhiêu,… bấy nhiêu”. Đó là sự so sánh giữa một cái vô tận với một cái bất tận.
Bài thơ “Sóng” được sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bài thơ được viết khi Xuân Quỳnh còn trẻ khoảng 25 tuổi nhưng đã trải qua không ít những thăng trầm, đổ vỡ trong tình yêu.
Ở khổ thơ trên “Sóng” được khám phá theo chiều rộng của không gian ở hai miền “xuôi”, “ngược”. Sóng dù xuôi về hướng Bắc, dù ngược về phương Nam thì cuối cùng vẫn hướng về bờ:
“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương.”
Thông thường người ta hay nói xuôi Nam, ngược Bắc nhưng ở đây Xuân Quỳnh lại nói xuôi Bắc, ngược Nam, dường như cái lô-gic của lí trí thông thường đã bị lu mờ, chỉ còn lại hai miền xuôi ngược để trăn trở tìm nhau, để khao khát bên nhau. Cách nói ấy cũng khiến người đọc hình dung về những gian nan, cách trở mà trái tim yêu phải vượt qua.
Con “sóng” kia muôn đời thao thức để khắc khoải xuôi ngược tìm bờ thì em cũng chỉ duy nhất hướng về “phương anh”. Đây là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh khi đưa khái niệm không gian để nói về mức độ thủy chung, bốn phương Đông - Tây - Nam - Bắc là của vũ trụ này, chỉ có duy nhất nơi anh là phương trời của em. Giữa cuộc đời rộng lớn, thơ anh vẫn mới là bến bờ hạnh phúc, là nơi duy nhất em tìm về. Ý thơ bộc bạch rất thật, sáng lên vẻ đẹp của tình yêu chung thủy. Hóa ra ở trung tâm nỗi nhớ là anh nên dẫu có đi về phương nào thì em cũng hướng về phương anh. Câu thơ giống như một lời nguyện thề thủy chung, da diết, đằm thắm.
Nếu ở khổ 5 nhân vật trữ tình bộc bạch "lòng em nhớ đến anh” thì ở đây cảm xúc đã dâng lên một bậc “Nơi nào em cũng nghĩ”. “Nghĩ” có cả yêu thương, mong nhớ, có cả phấp phỏng lo âu, hờn ghen, giận dỗi. Anh trở thành ý nghĩ thường xuyên, thường trực trong lòng, canh cánh trong lòng. “Nhớ” là tình cảm, cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên thì “nghĩ” là sự suy tư, chín chắn, sâu sắc. Người con gái khẳng định sự duy nhất, tuyệt đối gắn bó thủy chung trong tình yêu.
Khổ thơ cho ta thấy tình yêu của người phụ nữ, sự thủy chung son sắt duy nhất. Nhân vật trữ tình đã trực tiếp thể hiện cảm xúc của mình. Khẳng định tình yêu thủy chung cũng là khao khát, là khát vọng người yêu thương phải xứng đáng với mình.
Cả hai đoạn thơ đều là những rung động, những xúc cảm nhớ thương của một tình yêu con người, đất nước trong lòng người bởi một tình cảm đẹp, sự thủy chung son sắt không đổi thay. Trên phương diện nghệ thuật, cả hai đoạn thơ đều là những ngôn từ giản dị nhưng lại giàu giá trị nghệ thuật. Giọng thơ trữ tình tha thiết nhưng cũng khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn, đinh ninh như một lời thề.
Tình cảm trong đoạn thơ Việt Bắc là tình cảm lớn lao, tình cảm cách mạng, tình cảm chính trị. Nỗi nhớ ấy gắn liền với cuộc chia ly của người cán bộ cách mạng rời căn cứ địa kháng chiến để trở về thủ đô. Chủ thể của nỗi nhớ là những con người kháng chiến nhớ những kỉ niệm với quê hương Việt Bắc, đồng bào Việt Bắc ân tình đùm bọc, cưu mang trong suốt những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến. Còn tình cảm trong “Sóng” là tình yêu đôi lứa, cảm xúc của chủ thể trữ tình “em”, một phụ nữ đang yêu vừa gián tiếp, vừa trực tiếp. “Sóng” là hóa thân mà cũng là phân thân của chủ thể trữ tình. “Sóng” là ẩn dụ để diễn tả nỗi nhớ. Sắc thái của nỗi nhớ trong đoạn thơ chỉ duy nhất hướng về một nơi ở phương anh một cách chung thủy, sắt son.
Đoạn thơ “Việt Bắc” sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc. Giọng điệu ngọt ngào như một khúc trữ tình sâu lắng, da diết. Sóng - đoạn thơ sử dụng thể thơ năm chữ và ẩn dụ nghệ thuật sóng. Thể thơ và nhịp điệu thơ đã gợi hình hài và nhịp điệu bất tận vào ra của những con sóng nỗi nhớ tình yêu. Nhờ nghệ thuật ẩn dụ, nỗi lòng của người phụ nữ khi yêu được thể hiện chân thành, nữ tính, duyên dáng mà không kém phần mãnh liệt, sâu sắc.
Vẻ đẹp trong thơ Tố Hữu luôn gắn với ca dao đậm đà, còn Xuân Quỳnh thì mãnh liệt, nồng nàn. Từ hai nỗi nhớ được thể hiện trong đoạn thơ, người đọc không chỉ cảm nhận được đặc sắc của hai giọng điệu thơ mà cũng thấy được vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam yêu thương đằm thắm, dịu dàng mà mãnh liệt, tình nghĩa thủy chung, son sắt.
Trên đây là phần trình bày của tôi về việc so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ: Sóng – Xuân Quỳnh và Việt Bắc – Tố Hữu. Hi vọng nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. Cảm ơn mọi người đã chú ý lắng nghe.
Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau) - Mẫu 6
Kính thưa các thầy cô giáo, các bạn học sinh!
Hôm nay, em xin trình bày bài so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ: "Đây thôn Vĩ Dạ" (Hàn Mặc Tử) và "Tây Tiến" (Quang Dũng) để tham gia buổi toạ đàm với chủ đề "Những sắc điệu phong phú của thi ca".
I. Giới thiệu:
- "Đây thôn Vĩ Dạ" của Hàn Mặc Tử là một trong những bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ ca "say đắm, nồng nàn" của ông. Bài thơ được sáng tác vào năm 1938, khi tác giả đang phải điều trị bệnh phong tại Bệnh viện Quy Nhơn.
- "Tây Tiến" của Quang Dũng là một trong những bài thơ hay nhất về người lính Tây Tiến trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Bài thơ được sáng tác vào năm 1948, khi tác giả đã rời đơn vị Tây Tiến để nhận nhiệm vụ mới.
II. So sánh:
1. Về nội dung:
- "Đây thôn Vĩ Dạ":
+ Bức tranh thơ mộng, huyền ảo của xứ Huế: dòng sông Hương êm đềm, những vầng trăng lung linh, những bông hoa khẽ khàng nở.
+ Nỗi niềm tâm sự của thi nhân trước cảnh đẹp quê hương: khát khao yêu thương, sự hòa hợp với thiên nhiên và con người, nỗi buồn sầu, cô đơn, u hoài.
- "Tây Tiến":
+ Vẻ đẹp hùng vĩ, tráng lệ của núi rừng Tây Bắc: những con dốc cao, những thác nước dữ dội, những cánh rừng nguyên sinh bạt ngàn.
+ Hình ảnh người lính Tây Tiến với khí phách anh hùng: dũng cảm, gan dạ, lạc quan, yêu đời, đồng chí, đồng đội gắn bó.
2. Về nghệ thuật:
- "Đây thôn Vĩ Dạ":
+ Ngôn ngữ thơ giàu sức gợi cảm, sử dụng nhiều phép tu từ như ẩn dụ, so sánh, nhân hóa.
+ Hình ảnh thơ tinh tế, sáng tạo, mang đậm dấu ấn cá nhân của tác giả.
+ Giọng điệu thơ du dương, bâng khuâng, thể hiện tâm trạng của thi nhân.
- "Tây Tiến":
+ Ngôn ngữ thơ giàu sức biểu cảm, sử dụng nhiều phép tu từ như so sánh, nhân hóa, ẩn dụ.
+ Hình ảnh thơ hùng tráng, khoáng đạt, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên và con người Tây Bắc.
+ Giọng điệu thơ hào hùng, bi tráng, thể hiện niềm tự hào và sự tiếc thương của tác giả.
III. Đánh giá:
- Hai tác phẩm đều là những bài thơ hay, tiêu biểu cho phong cách sáng tác của hai tác giả.
- Mỗi tác phẩm đều mang vẻ đẹp riêng, thể hiện tình yêu quê hương đất nước theo cách riêng của mình.
- "Đây thôn Vĩ Dạ" thể hiện tình yêu quê hương xứ Huế da diết, nồng nàn của Hàn Mặc Tử.
- "Tây Tiến" thể hiện tình yêu quê hương Tây Bắc và hình ảnh người lính Tây Tiến với khí phách anh hùng của Quang Dũng.
IV. Kết luận:
- Hai tác phẩm "Đây thôn Vĩ Dạ" và "Tây Tiến" là những viên ngọc quý trong kho tàng thi ca Việt Nam.
- Hai tác phẩm đã góp phần làm phong phú thêm những sắc điệu của thi ca Việt Nam.
Cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn học sinh đã lắng nghe!
Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau) - Mẫu 7
Chào thầy/ cô và các bạn. Hôm nay, em xin trình bày phần so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ mà để lại cho em rất nhiều ấn tượng.
Như mọi người đã biết, tình yêu là đề tài muôn thuở của văn chương. Tình yêu là một loại tình cảm đặc biệt trong tâm hồn mỗi người. Sự sống của tình yêu là nỗi nhớ. Nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái và nhiều cung bậc. Những sắc thái và cung bậc ấy được thể hiện rất đẹp qua hai trích đoạn trong Tương tư của Nguyễn Bính và Việt Bắc của Tố Hữu. Nguyễn Bính thì bày tỏ nỗi nhớ nhung trong tình yêu đôi lứa, Tố Hữu thì bày tỏ nỗi niềm da diết khôn nguôi với quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình.
Cũng như các nhà thơ lãng mạn cùng thời, Nguyễn Bính say mê với đề tài tình yêu, nhưng tình yêu trong thơ Nguyễn Bính có một lối nói riêng. “Cái tôi” trong thơ Nguyễn Bính không nổi lên mà tan hoà vào không gian đồng quê bằng biện pháp ẩn dụ nhân hoá như trong ca dao:
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người
Gió mưa là bệnh của giời,
Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”
Tâm trạng tương tư của chàng trai quê được bộc lộ trong bài thơ “Tương tư" thành những nhớ mong da diết, trĩu nặng. Nỗi niềm ấy được xem như một quy luật tự nhiên không thể cưỡng lại, một thứ “tâm bệnh” khó chữa của người đang yêu. Niềm mong nhớ gắn liền với khung cảnh làng quê khiến cho cả không gian như cũng nhuốm đầy nỗi tương tư.
Từ nỗi nhớ người yêu luôn thường trực, cháy bỏng trong lòng, cái tôi trữ tình suy ngẫm, liên tưởng, nhận diện nỗi nhớ. Người ta thường nói nỗi nhớ là sự sống của tình yêu, còn Nguyễn Bính thì quy kết thành bệnh. Cái bệnh kinh niên sinh ra từ tâm lí của con người, không ai nói mình yêu mà không nhớ, nhớ mà không yêu. Yêu là nhớ, đó là quy luật. Quy luật của lòng người cũng như quy luật của tự nhiên: “Gió mưa là bệnh của giời/ Tương tư là bệnh của tôi yêu nàng”. Trời đất không thể không có gió mưa, sống không thể “không nhớ, không thương một kẻ nào”. Một sự thừa nhận thành thật, ý vị khẳng định tính tất yếu của thiên nhiên cũng như của tình yêu – lòng người.
Về nghệ thuật, nhà thơ sử dụng các hình ảnh sóng đôi: Đông - Đoài, gió - mưa, tôi - nàng… tô đậm khát vọng lứa đôi. Thể thơ lục bát cùng với các hình thức diễn đạt, cách dùng địa danh quen thuộc của ca dao dân ca khiến đoạn thơ có vẻ đẹp dung dị, duyên dáng dễ đi vào lòng người. Chất chân quê của hồn thơ Nguyễn Bính được biểu hiện rất tài tình, khiến đọc lên người ta cứ ngỡ ca dao chứ không phải thơ hiện đại, và mỗi người đều mượn nó để nói hộ lòng mình. Đó chẳng phải là những câu thơ bất hủ đó sao!
Thể thơ lục bát thấm đượm phong vị ca dao. Chất liệu ngôn từ trong bài “Tương tư" rất chân quê với những địa danh, thành ngữ gần gũi, cách tổ chức lời thơ độc đáo, sử dụng nhuần nhuyễn nhiều biện pháp tu từ: hoán dụ, nhân hoá, đối sánh, tăng tiến, khoa trương.
Như trên đã nói, tình yêu trong mỗi con người là một xúc cảm tuyệt vời, nỗi nhớ trong tình yêu cũng đa sắc thái, nhiều cung bậc. Nếu Nguyễn Bính giãi bày nỗi nhớ trong tình yêu đôi lứa thì Tố Hữu trong đoạn thơ này lại diễn tả niềm da diết khôn nguôi với Việt Bắc - quê hương cách mạng biết bao nghĩa tình:
“Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đỉnh núi nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về”
Suốt mười lăm năm “Từ khi kháng Nhật thuở còn Việt Minh” cho đến lúc cuộc kháng Pháp vĩ đại thắng lợi, cán bộ, chiến sĩ cách mạng đã gắn bó cùng đồng bào Việt Bắc đánh giặc “Bát cơm chấm muối, mối thù nặng vai… Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng’’, nay chiến thắng trở về xuôi làm sao có thể quên những kỉ niệm sâu nặng như thế!
Tố Hữu đã diễn tả nỗi niềm thương nhớ day dứt, khôn nguôi của người đi kẻ ở cũng thường trực, da diết như trong nỗi nhớ của tình yêu đôi lứa vậy. Nhưng nỗi nhớ không dành riêng cho một đối tượng mà nỗi nhớ dành cho tất cả đồng bào và thiên nhiên Việt Bắc. Nỗi nhớ giăng mắc khắp không gian, lung linh bao kỉ niệm: Nhớ những đêm trăng treo trên đầu núi, những buổi chiều nắng toả vàng rộng khắp trên nương, những bản làng ảo mờ trong sương khói, đặc biệt là bóng dáng của “người thương đi về”quây quần bên bếp lửa mỗi đêm đông, cảnh – người quyện hoà thanh bình, yên ả, ấm áp.
“Việt Bắc" của Tố Hữu đã thể hiện nỗi nhớ đằm thắm, sâu nặng của người cán bộ kháng chiến dành cho Việt Bắc, trong đó chan hòa tình nghĩa riêng chung. Hiện lên trong nỗi nhớ ấy là hình ảnh chiến khu Việt Bắc thân thương, với cảnh vật bình dị mà thơ mộng, với nhịp sống đơn sơ mà êm đềm, đầm ấm. Thể thơ lục bát kết hợp nhuần nhuyễn chất cổ điển và chất dân gian, nhịp điệu linh hoạt uyển chuyển, âm hưởng tha thiết, ngọt ngào. Hình ảnh thơ giản dị mà gợi cảm, cách ví von quen thuộc mà vẫn độc đáo, cách tổ chức lời thơ với phép tiểu đối, phép điệp cân xứng, khéo léo đã khiến cho độc giả vô cùng ấn tượng bởi những giá trị mà bài thơ mang lại.
Tuy ra đời ở hai thời điểm khác nhau nhưng hai bài thơ đều đều thể hiện nỗi nhớ da diết, sâu nặng, sử dụng thể thơ lục bát điêu luyện.
Song, bên cạnh đó, dù viết cùng về một đề tài nhưng giữa hai bài thơ vẫn có những điểm khác biệt. Bài thơ “Tương tư” là nỗi nhớ của tình yêu lứa đôi, gắn với không gian làng quê Bắc Bộ, vừa bày tỏ vừa “lí sự” về tương tư, với cách đối sánh táo bạo còn nỗi nhớ được thể hiện trong bài “Việt Bắc” là nỗi nhớ của tình cảm cách mạng, gắn với không gian núi rừng Việt Bắc, nghiêng hẳn về bộc bạch tâm tình, với cách ví von duyên dáng.
Thơ là tiếng tơ lòng, mỗi khi rung động trước thiên nhiên, đất nước, con người, tiếng tơ ấy lại cất lên tiếng hát của tâm hồn làm xúc động biết bao người đọc. Cảm ơn các nhà thơ đã cho ta biết yêu, biết rung động trước cái đẹp của cuộc đời qua những trang thơ.
Trên đây là toàn bộ bài thuyết trình của em, cảm ơn thầy/ cô và các bạn đã lắng nghe. Em mong nhận được góp ý của thầy cô và các bạn về bài trình bày của mình. Em xin cảm ơn ạ!
Trình bày ý kiến so sánh, đánh giá hai bài thơ (hoặc hai đoạn thơ ở hai bài thơ khác nhau) - Mẫu 8
Xin chào tất cả mọi người,
Hôm nay, tôi xin được chia sẻ với các bạn về đề tài "Những sắc điệu phong phú của thi ca" thông qua việc so sánh và đánh giá hai tác phẩm thơ đặc sắc. Hai tác phẩm này mang đến những trải nghiệm văn học độc đáo và phong phú, và tôi tin rằng chúng sẽ mang đến cho chúng ta những cảm nhận thú vị.
Tác phẩm thứ nhất mà tôi muốn đề cập là [tên tác phẩm thứ nhất]. Đây là một tác phẩm thơ đặc sắc của [tên tác giả]. Ngôn ngữ trong tác phẩm này rất trau chuốt và tinh tế, sử dụng các từ ngữ cao cấp và hình ảnh tượng trưng để tạo nên một không gian thơ mộng và sâu lắng. Cấu trúc câu thơ cũng được xây dựng chặt chẽ và mang tính sáng tạo, tạo nên sự hài hòa và nhịp nhàng trong sắc điệu của tác phẩm. Ý nghĩa của tác phẩm cũng rất sâu sắc và tác giả đã thành công trong việc truyền đạt những tình cảm, suy tư và triết lý của mình thông qua những từ ngữ tinh tế.
Tác phẩm thứ hai mà tôi muốn giới thiệu là [tên tác phẩm thứ hai. Đây cũng là một tác phẩm thơ đáng chú ý của [tên tác giả]. Tuy nhiên, so với tác phẩm thứ nhất, tác phẩm này có một phong cách và sắc điệu khác biệt. Ngôn ngữ trong tác phẩm này có sự phóng khoáng hơn, sử dụng những từ ngữ dân dã, tươi sáng và thường ngày để tạo nên một không gian thơ tự nhiên và gần gũi. Cấu trúc câu thơ cũng có tính linh hoạt và đa dạng, tạo nên sự độc đáo và đặc trưng cho tác phẩm. Ý nghĩa của tác phẩm này cũng rất sâu sắc, tác giả đã thành công trong việc tạo ra một sự kết nối giữa văn hóa và cuộc sống hàng ngày thông qua những hình ảnh và tình cảm độc đáo.
Xem thêm các bài soạn văn lớp 12 Cánh diều hay, chi tiết khác: