TOP 10 bài Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt 2024 SIÊU HAY

1 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt Ngữ văn 11 Kết nối tri thức, gồm 8 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi sắp tới. 

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt

Đề bài: Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong "Đôi mắt"

Dàn ý chi tiết Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt

1.Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

- Nhà văn Nam cao- một trong những cây bút xuất sắc của văn học hiện thực phê phán Việt Nam. 

 2. Thân bài

a. Nhan đề, tình huống truyện:
- Nhan đề "Đôi mắt" Nam Cao đã khéo léo gợi ra tư tưởng cũng như chủ đề chính trong truyện ngắn: Cách nhìn nhận của sống của mỗi con người thông qua đôi mắt, nhưng đôi mắt ấy không chỉ làm nhiệm vụ nhìn nhận mà nó còn là ẩn dụ cho tư tưởng, lối sống.

- Tình huống truyện:
+ Kể về chuyến viếng thăm văn sĩ Hoàng của văn sĩ Độ, người mà trước đây mới "đá" anh, và cũng "đá" nhiều người khác không hiểu vì nguyên cớ ghen ghét gì.
+ Câu chuyện đã diễn ra trong một bối cảnh Độ liên tục nghe Hoàng phàn nàn chê trách chốn làng quê và những người nông dân ít chữ làm cách mạng bằng một thái độ cực kỳ khó chịu, mỉa mai.

b. Nhân vật Hoàng:
- Quen sống cuộc sống sung túc, phong lưu thích đọc tiểu thuyết dài tập, thích nuôi chó, cũng mang tiếng nhà văn nhưng hầu như bao giờ viết được một tác phẩm nào có giá trị.
- Thường bị người ta ghét, đến nỗi tưởng chừng như văn sĩ ở Hà Nội này đều ghét anh cả, bởi cái tật hay "đá" bạn, chỉ bởi người ta tài năng hơn anh, có tác phẩm được tuyên dương khen ngợi, hoặc đơn giản là kẻ đó chơi với người có hiềm khích với anh.
- Tổng khởi nghĩa nổ ra Hoàng cũng tự vơ cho mình cái danh "theo kháng chiến", nhưng thực tế là đi chạy nạn về một làng ngụ cư, tiếp tục cuộc sống phong lưu, an nhàn của mình, bỏ ngoài những sự gợi ý về phục vụ cho cách mạng.

- Thái độ của Hoàng với người dân quê:
+ Anh chỉ thấy độc một màu đen, chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của họ, cho rằng họ là những kẻ nhiêu khê, cả đời chỉ biết tiết kiệm, không biết hưởng thụ, ít chữ, nhiều chuyện, can cái tội "đần độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện".
+ Mỉa mai, khinh ghét những kẻ dân quê, bản thân Hoàng chưa từng một lần chịu hòa nhập, tìm hiểu chung sống với họ ngày nào, bản thân anh chỉ quanh quẩn với thú vui tao nhã bên vợ con, và tìm về mấy kẻ có học thức nhưng đã hết thời để đánh tổ tôm.
+ Gọi người nông dân làm cách mạng là "thằng chủ tịch", "ông ủy ban", "bố tự vệ", "các ông thanh niên", "các bà phụ nữ",... một cách khinh miệt, coi thường.
+ Hoàng ích kỷ, thiếu nhân ái, chỉ biết "nhìn đời, nhìn người một phía", anh không thích làm cách mạng với những người anh cho là dốt nát, bần tiện, lắm giáo điều, thích tuyên truyền, thế nên anh chấp nhận làm kẻ "phản động". Trở thành kẻ lãnh đạm và thờ ơ với cách mạng.
- Sùng bái, tôn thờ quá mức một cá nhân, anh chỉ một lòng tôn sùng cụ Hồ, cho rằng nhờ chỉ duy nhất tài thao lược của cụ đã cứu rỗi cả đất nước mà hoàn toàn bỏ qua sự đồng lòng quân dân, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc kháng chiến.

c. Nhân vật Độ:
- Hiền lành và có phong thái điềm tĩnh, trong cuộc nói chuyện với Hoàng, anh phần nhiều chỉ ngồi nghe, cười lấy lệ, anh ít khi phản bác, là người bao dung, hiểu biết và có đôi mắt đa chiều.
- Tuy lời thoại ít ỏi nhưng cũng thấy được tư tưởng mà tác giả muốn truyền tải "Nghe các ông nói đến "sức mạnh quần chúng"... như họ vẫn thường thế nữa".
→ Nếu ta chỉ mãi đứng ngoài trông vào, mà không chịu xông pha, đi sâu vào đời sống, cùng chiến đấu, cùng tìm hiểu những người nông dân chất phác thật thà thì sẽ chẳng bao giờ phát hiện được những cái tốt đẹp đang tiềm ẩn bên trong những con người thô sơ, ít chữ ấy.
- Bộc lộ niềm tin của người trí thức trong cách mạng, ánh nhìn tích cực của họ đối với quần chúng nhân dân, những người đa phần ít học, nhưng có sức mạnh quật khởi, lòng hăng hái, truyền thống đánh giặc giữ nước đã ăn sâu vào máu thịt, mà không một kẻ thù nào có thể chiến thắng.
→ Tuyên ngôn về "nguồn cảm hứng mới cho văn nghệ", khuyến khích người làm nghệ thuật phải biết đi sâu, lội sâu vào đời sống nhân dân con người, vạch những cái xù xì, thô kệch để tìm những viên ngọc tiềm ẩn bên trong, ví như tấm lòng hoạt động, cống hiến hết mình cho cách mạng. Và tránh xa cái thói ích kỷ, phân biệt, miệt thị chỉ vì họ không giống mình, chỉ vì cho họ là những kẻ lỗ mãng, thất phu, không xứng được tìm hiểu tôn trọng.  

3. Kết bài

- Nêu cảm nhận chung.

TOP 10 bài Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt 2024 SIÊU HAY (ảnh 1)

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt - Mẫu 1

Chúng ta thường biết đến nhà văn Nam Cao với những tác phẩm trước cách mạng tháng Tám với những tác phẩm Chí Phèo, Đời Thừa, Tư Cách Mõ…nhiều hơn những tác phẩm sau cách mạng tháng Tám. Một tác phẩm tiêu biểu cho những sáng tác của ông sau cách mạng tháng Tám là tác phẩm Đôi Mắt. Tác phẩm được viết vào năm 1948 là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến sau khi thắng lợi tháng Tám năm 1945. Ban đầu truyện có tên là tiên sư thằng tào tháo sau đổi thành Đôi Mắt. Qua câu chuyện tác giả muốn thể hiện tầm quan trọng của cách mạng đối với cuộc sống con người.

 Mở đầu tác phẩm đó là không khí của những buổi đầu kháng chiến chống Pháp. Một không khí hồ hởi vui mừng trước sự thắng lợi của cách mạng tháng Tám thành công và sự gấp rút chuẩn bị để đấu tranh chống thực dân Pháp đuổi chúng ra khỏi bờ cõi Việt Nam. Trước sự thay đổi ấy thì những nhà chiến sĩ nghệ thuật cũng phải thay đổi những suy nghĩ của mình về sáng tác cho phù hợp với quan điểm đường lối của Đảng ở giai đoạn đó.

Câu chuyện được nhìn theo con mắt và quan điểm cá nhân của hai nhân vật Hoàng và Độ. Qua đó người đọc thấy được hai luồng nhìn nhận về những người nông dân trong cùng một bộ phận văn nghệ sĩ. Đồng thời nó thể hiện được sự đánh giá của người nghệ sĩ đối với nhân dân ta xưa. 

Thứ nhất cuộc sống và bản tính người nông dân được hiện lên qua cái nhìn của nhà văn Hoàng. Vào ngay vấn đề Nam Cao đã nói lên cuộc sống sinh hoạt và cách nhìn thái độ của nhà văn Hoàng. Nhân vật này thuộc một lớp nhà văn cũ từ thành thị tản cư về miền quê sinh sống. Ông Hoàng hiện lên với những nét của một gia đình khá giả với một con chó béc giê to như một con bê, mỗi lần nhân vật tôi đến đều phải gọi từ trước đợi cho anh Hoàng nắm giữ con chó mới được vào. Đến tướng tá của Hoàng cũng cho thấy ông có một cuộc sống  sung túc với bước đi khệnh khạng, “những khối thịt ở bên dưới nách kềnh ra và trông tủn mủn như ngắn quá”. Nó thể hiện qua cái cửa luôn luôn đóng và những lời nạt nộ. 

Ở đây ta thấy được những người nông dân qua cái nhìn của nhân vật Hoàng thật là không đẹp chút nào. Thực chất đó chính là những mặt xấu của những người nông dân thế nhưng họ cũng có những phẩm chất tốt của họ. vậy mà ở đây nhân vật Hoàng với một gia đình khá giả ki bo, chỉ biết nghĩ cho bản thân mình mà quên đi nhiệm vụ quốc gia. Đúng thế những người nông dân ấy có tính xấu như thế tuy họ chưa tốt chữ quốc ngữ thế nhưng họ vẫn cứ hiện lên thật đẹp khi mà họ vẫn tuyên truyền theo cách mạng. họ tuy dốt nát nhưng họ có ý thức dân tộc hơn chính gia đình và bản thân Hoàng.

Trái ngược với Hoàng, Độ có một cái nhìn tích cực hơn so với ông. Trong cuộc chiến tranh ấy, Độ cũng là một nhà văn anh nhìn đời bằng con mắt khách quan hơn, chân thực hơn. Anh không những thấy người nông dân hiện lên với những phẩm chất thật đẹp mà còn thật đáng yêu. Anh không thờ ơ trước những sự thay đổi của đất nước mà anh quyết tâm hiến thân cho cách mạng, lăn xả vào đời để hiến thân cho đất nước. Có thể nói anh sống vì cộng đồng vì quê hương, vì con người đất nước mình. Anh hiểu được sự cục mịch của những người nông dân nhưng cũng đồng thời thấy được sự hăng hái và tinh thần cách mạng của họ.

Qua đây ta thấy được tầm quan trọng của cách mạng đối với cuộc sống con người. Sống như những người nông dân, sống như nha văn Độ dẫu có nghèo nàn lạc hậu, dẫu có khó khăn gian khổ nhưng tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng luôn được đề cao còn sống như Hoàng thì thật đáng xấu hổ. vì anh ta chỉ biết nghĩ cho bản thân mình và nhìn vào những mặt xấu của người khác mà thôi. Anh Hoàng không bằng những người nông dân vì ít ra họ cục mịch như thế nhưng đã được giác ngộ cách mạng còn bản thân anh và gia đình thì lại chưa. Không tin tưởng vào cách mạng ta, đồng thời cũng không góp sức.

Nhà văn Nam Cao đã để lại cho chúng ta một tác phẩm thật giàu ý nghĩa, chỉ với hai con mắt nhìn chúng ta thấy được những nhược điểm và ưu điểm của nhân dân ta trong cuộc sống cũng như kháng chiến. Đồng thời qua đó ta thấy được tầm quan trọng của cách mạng đối với cuộc sống mỗi người. những người nông dân ấy ngu dốt đến đâu nhưng cũng đã biết đi theo con đường cách mạng vì chỉ có con đường ấy mới đem lại cuộc sống tốt đẹp hơn.

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt - Mẫu 2

Nam Cao là một trong những tác gia lớn của văn học hiện đại Việt Nam, có đóng góp to lớn vào kho tàng văn học dân tộc đặc biệt là trong mảng văn học hiện thực thế kỷ XX, phản ánh và phô bày nhiều mặt tối của con người và xã hội lúc bấy giờ. Nếu trước cách mạng tháng tám Nam Cao tập trung khai thác đề tài người nông dân và trí thức tiểu tư sản nghèo đói với số phận bất hạnh, bị chế độ tay sai thực dân nửa phong kiến chèn ép đến tận cùng của đớn đau, với giọng văn lạnh lùng, xót xa và bế tắc. Thì sau cách mạng, Nam Cao đã tự tìm cho mình một hướng đi mới ông bắt đầu quan tâm đến những vấn đề hiện thực khác trong xã hội, sự vận động biến đổi của con người trong thời kỳ đất nước có nhiều chuyển biến tích cực, ra sức ủng hộ cách mạng bằng một giọng văn dịu dàng và nhân văn hơn, kém đi nhiều phần gay gắt. Trong số những tác phẩm sáng tác sau cách mạng tháng tám thì Đôi mắt là một trong những tác phẩm nổi tiếng và thành công nhất của Nam Cao, với triết lý về cách nhìn nhận cuộc đời thông qua việc xây dựng hai nhân vật đối lập Hoàng và Độ.

Với nhan đề "Đôi mắt" Nam Cao đã khéo léo gợi ra tư tưởng cũng như chủ đề chính trong truyện ngắn, ấy là cách nhìn nhận của sống của mỗi con người thông qua đôi mắt, nhưng đôi mắt ấy không chỉ làm nhiệm vụ nhìn nhận mà nó còn là ẩn dụ cho tư tưởng, lối sống, những suy nghĩ chủ quan của một con người trước sự thay đổi của cuộc sống, trước những con người khác nhau. Mà ở đó đôi mắt hay chủ thể có thể lựa chọn mở thật rộng đôi mắt, tâm hồn mình để bao quát vấn đề hay chỉ khư khư, bảo thủ dùng đôi mắt kén chọn, khắc nghiệt, hẹp hòi của mình để nhìn lấy một góc sự việc rồi phán quyết. Hoàng và Độ chính là 2 kiểu người có hai đôi mắt khác nhau như vậy.

Tình huống truyện cũng là một tình huống khá đơn giản, giọng văn của Nam Cao giờ đây đã mềm mại và gần gũi hơn, ông hóa thân thành văn sĩ Độ xưng "tôi" trong tác phẩm, thong thả kể về chuyến viếng thăm của mình tới nhà ông bạn văn sĩ Hoàng, người mà trước đây mới "đá" văn sĩ Độ, và cũng "đá" nhiều người khác không hiểu vì nguyên cớ ghen ghét gì. Thế nhưng nhưng văn sĩ Độ vốn là người mềm tính, hiền lành, nên cũng cố gắng từ ngoại ô vượt cả trăm cây số tìm về khu tản cư để chơi với Hoàng. Từ đó câu chuyện đã diễn ra trong một bối cảnh Độ liên tục nghe Hoàng phàn nàn chê trách chốn làng quê và những người nông dân ít chữ làm cách mạng bằng một thái độ cực kỳ khó chịu, mỉa mai. Bản thân văn sĩ Độ thực không đồng ý với cách nghĩ của Hoàng có ý muốn khuyên giải, thế nhưng dần dà anh nhận ra không thể thay đổi được sự cố chấp của con người, nên đành ậm ừ cho qua chuyện, đồng thời từ đây anh cũng suy nghĩ ra được nhiều điều.

Với nhân vật văn sĩ Hoàng, một con người quen sống cuộc sống sung túc, phong lưu thích đọc tiểu thuyết dài tập, thích nuôi chó, cũng mang tiếng nhà văn nhưng hầu như bao giờ viết được một tác phẩm nào có giá trị. Hoàng không sống bằng nghề văn mà trái lại anh sống bằng cái nghề mà như văn sĩ Độ nói ấy là "một tay chợ đen rất tài tình". Có lẽ rằng cái danh văn sĩ chỉ đem lại cho Hoàng được ít tiếng tăm và thỏa mãn cái thú được xem là người có học rộng tài cao. Thế nhưng bản thân Hoàng lăn lộn trong giới văn chương lại thường bị người ta ghét, đến nỗi tưởng chừng như văn sĩ ở Hà Nội này đều ghét anh cả. Cũng chỉ bởi cái tật hay "đá" bạn, mà không cho người ta biết nguyên cớ, chỉ bởi người ta tài năng hơn anh, có tác phẩm được tuyên dương khen ngợi, hoặc đơn giản là kẻ đó chơi với người có hiềm khích với anh. Mà bản thân văn sĩ Độ vốn hiền lành không dưng cũng bị Hoàng "đá". Khi những cuộc khởi nghĩa lần lượt nổ ra, nhiều văn sĩ quyết tâm theo cách mạng, cống hiến cho cách mạng và được tuyên dương trên tuần báo giải phóng, duy chỉ mình Hoàng vì chỉ biết chạy nạn, không đóng góp được gì thế nên dĩ nhiên chẳng có sự khen ngợi nào. Và xuất phát từ lòng ghen tức, ấm ức Hoàng đã dùng ngòi bút của mình để làm ra một việc thật đáng khinh ghét, đê tiện anh chửi những đồng nghiệp theo kháng chiến của mình, chửi cả những người xưa nay chưa từng động chạm đến anh, "hằn học gì mỉa họ là những nhà văn vô sản và cho họ là một bọn khố rách áo ôm đã đến ngày mả phát, ăn mặc và tẩm bổ hết cả phần thiên hạ". Đất nước dần đổi mới, thay da đổi thịt, nhưng Hoàng vẫn như cũ, không chịu thay đổi, vẫn ích kỷ và quen thói ăn trên ngồi trước cho mình là bậc phong lưu, cao cả. Tổng khởi nghĩa nổ ra Hoàng cũng tự vơ cho mình cái danh "theo kháng chiến", nhưng thực tế là đi chạy nạn về một làng ngụ cư, tiếp tục cuộc sống phong lưu, an nhàn của mình, bỏ ngoài những sự gợi ý về phục vụ cho cách mạng. Tuy nhiên cuộc sống thôn dã, và những người nông dân làm cách mạng lại khiến Hoàng bực dọc, khó chịu, thế nên để xả nỗi bí bách trong người Hoàng đã xởi lởi mời văn sĩ Độ ghé chơi rồi mặc sức kể lể. Trong mắt Hoàng khi nhìn về nông thôn, anh chỉ thấy độc một màu đen, chỉ nhìn thấy những khuyết điểm của họ, cho rằng họ là những kẻ nhiêu khê, cả đời chỉ biết tiết kiệm, không biết hưởng thụ, ít chữ, nhiều chuyện, can cái tội "đần độn, lỗ mãng, ích kỷ, tham lam, bần tiện". Đó là một loạt những từ ngữ mỉa mai, khinh ghét mà Hoàng đã dành tặng cho những kẻ dân quê, trong khi bản thân Hoàng chưa từng một lần chịu hòa nhập, tìm hiểu chung sống với họ ngày nào, bản thân anh chỉ quanh quẩn với thú vui tao nhã bên vợ con, và tìm về mấy kẻ có học thức nhưng đã hết thời để đánh tổ tôm. Cả cuộc kháng chiến quyết liệt, mạnh mẽ và vang dội cũng không thể quét sạch được tâm trí Hoàng để tặng cho anh một tầm nhìn mới. Đối với Hoàng những người nông dân làm cách mạng chẳng xứng đáng được anh tôn trọng nên anh cứ mặc sức gọi họ là "thằng chủ tịch", "ông ủy ban", "bố tự vệ", "các ông thanh niên", "các bà phụ nữ",... một cách khinh miệt, coi thường. Nhưng chưa bao giờ Hoàng chịu suy nghĩ xem tại sao họ có thể được làm những chức vụ quan trọng ấy trong bộ máy dù họ ít chữ còn anh thì không. Hoàng ích kỷ, thiếu nhân ái, chỉ biết "nhìn đời, nhìn người một phía", anh không thích làm cách mạng với những người anh cho là dốt nát, bần tiện, lắm giáo điều, thích tuyên truyền, thế nên anh chấp nhận làm kẻ "phản động". Trở thành kẻ lãnh đạm và thờ ơ với cách mạng, không chịu tham gia ủng hộ bất ký một điều gì cho kháng chiến. Hoàng trở nên cô độc và càng ganh tỵ đỏ mắt khi nhìn thấy những kẻ anh khinh miệt được ủng hộ hoan nghênh, Hoàng không hiểu và mãi mãi không hiểu được lý do nào cho sự lạ ấy. Thêm vào đó bản thân Hoàng lại có sự sùng bái, tôn thờ quá mức một cá nhân giống như việc anh liên tục khen Tào Tháo hay, thì bây giờ anh lại chỉ một lòng tôn sùng cụ Hồ, cho rằng nhờ chỉ duy nhất tài thao lược của cụ đã cứu rỗi cả đất nước mà hoàn toàn bỏ qua sự đồng lòng quân dân, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc kháng chiến. Trong khi đó thực tế rằng nếu quân dân ta không có sự đồng lòng, không đóng góp sức người, sức của thì có lẽ cuộc kháng chiến đã thất bại từ những ngày đầu, không phải vì Hồ Chủ tịch không giỏi mà bởi lẽ "một cây làm chẳng nên non".

Còn đối với văn sĩ Độ, anh là một người hiền lành và có phong thái điềm tĩnh, trong cuộc nói chuyện với Hoàng, anh phần nhiều chỉ ngồi nghe, cười lấy lệ, anh ít khi phản bác. Mặc dù bản thân Độ là một tri thức nghèo, theo kháng chiến, cũng nằm trong số những kẻ mà trước đây Hoàng đã chửi rủa là bọn vô sản, khố rách áo ôm. Nếu ai đó có hỏi rằng liệu trong suốt buổi chơi ở nhà Hoàng, Độ có lúc nào thấy bực tức, khó chịu vì cái cách cư xử quá đáng và thiếu hiểu biết của Hoàng đối với những người làm cách mạng hay không. Thì xin được trả lời là có một chút, nhưng rồi sau đó Độ cũng thấu hiểu bản chất của Hoàng, rõ ràng thế giới quan khác nhau thì người ta lại càng không nên tranh luận với nhau, và càng không nên chắp nhặt mà làm gì. Độ là người bao dung, hiểu biết và có đôi mắt đa chiều như vậy đấy. Từ những lời thoại ít ỏi của anh ta cũng thấy được tư tưởng mà tác giả muốn truyền tải "Nghe các ông nói đến "sức mạnh quần chúng", tôi rất nghi ngờ. Tôi vẫn cho rằng đa số nước mình là nông dân, mà nông dân nước mình thì vạn kiếp nữa cũng chưa làm cách mạng. Cái thời Lê Lợi, Quang Trung, có lẽ đã chết hẳn rồi, chẳng bao giờ còn trở lại. Nhưng đến hồi Tổng khởi nghĩa thì tôi đã ngả ngửa người. Té ra người nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng, mà làm cách mạng hăng hái lắm. Tôi đã theo họ đi đánh phủ. Tôi đã gặp họ trong mặt trận Nam Trung Bộ. Vô số anh răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là "lựu đạn", hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh, mà lúc ra trận thì xung phong can đảm lắm. Mà không hề bận tâm đến vợ con, nhà cửa, như họ vẫn thường thế nữa". Một đoạn dài trong lời thoại của nhân vật Độ, cũng đủ để ta hiểu rằng nếu ta chỉ mãi đứng ngoài trông vào, mà không chịu xông pha, đi sâu vào đời sống, cùng chiến đấu, cùng tìm hiểu những người nông dân chất phác thật thà thì sẽ chẳng bao giờ phát hiện được những cái tốt đẹp đang tiềm ẩn bên trong những con người thô sơ, ít chữ ấy. Ở họ có vẻ đẹp của tinh thần yêu nước, yêu cách mạng, sẵn sàng hy sinh xương máu khi Tổ quốc gọi tên, họ đoàn kết với nhau làm nên sức mạnh tập thể, là tầng lớp vô sản nòng cốt làm nên chiến thắng của dân tộc. Từ đó bộc lộ niềm tin của người trí thức trong cách mạng, ánh nhìn tích cực của họ đối với quần chúng nhân dân, những người đa phần ít học, nhưng có sức mạnh quật khởi, lòng hăng hái, truyền thống đánh giặc giữ nước đã ăn sâu vào máu thịt, mà không một kẻ thù nào có thể chiến thắng. Rõ ràng ở vị trí của những tri thức thế hệ mới thì các văn sĩ phải nhận ra được rằng, nước ta vốn khởi đầu với nền văn minh lúa nước từ bao đời, giai cấp nông dân là đông đảo và mạnh mẽ nhất đã gây dựng đất nước từ thời các vua Hùng đến nay. Thì đến nay cách mạng nước ta dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh cũng là một cuộc cách mạng vô sản, vậy thử hỏi xem còn giai cấp nào xứng đáng và phù hợp hơn giai cấp nông dân trong cuộc chiến này nữa? Ai là người có ý chí hơn họ trong việc bảo vệ quê hương, giành lại tấc đất của dân tộc? Như vậy trước thời đại mới, người trí thức, người nghệ sĩ phải tự lập ra cho mình một tuyên ngôn về "nguồn cảm hứng mới cho văn nghệ", khuyến khích người làm nghệ thuật phải biết đi sâu, lội sâu vào đời sống nhân dân con người, vạch những cái xù xì, thô kệch để tìm những viên ngọc tiềm ẩn bên trong, ví như tấm lòng hoạt động, cống hiến hết mình cho cách mạng. Và tránh xa cái thói ích kỷ, phân biệt, miệt thị chỉ vì họ không giống mình, chỉ vì cho họ là những kẻ lỗ mãng, thất phu, không xứng được tìm hiểu tôn trọng.

Truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao không chỉ là tuyên ngôn của tác về cách làm nghệ thuật trong thời đại mới, mà còn đưa ra cho mỗi chúng ta một triết lý có giá trị muôn đời ấy là cách nhìn nhận vấn đề bằng đôi mắt, trái tim và nhận thức. Rõ ràng ta không nên và không thể hiểu thấu bất kỳ sự việc, con người nào trên cuộc đời bằng một cái nhìn phiến diện, chủ quan, vị kỷ và thiếu nhân ái. Mà thay vào đó chúng ta phải cất công tìm hiểu đi sâu vào từng vấn đề, khai thác từng chi tiết rồi mới có thể cho kết luận. Có thể nói rằng bằng một câu chuyện ngắn, cốt truyện đơn giản nhưng Nam Cao đã "thức tỉnh" được rất nhiều con người, chứ không riêng gì giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ và cả mai sau nữa.

TOP 10 bài Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt 2024 SIÊU HAY (ảnh 2)

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt - Mẫu 3

Trong nền văn học hiện thực Việt Nam, Nam Cao là cái tên vô cùng sáng giá. Là người đến sau so với Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng nhưng Nam Cao vẫn có những tác phẩm khẳng định tên tuổi của mình. Sau khi cách mạng tháng Tám thành công nhà văn tập trung đi vào phản ánh cách nhìn nhận của một bộ phận nhà văn về người nông dân qua tác phẩm đôi mắt.
Nhà văn Nam Cao đã xây dựng thành công hai nhân vật nhà văn là Hoàng và Độ. Nhà văn Hoàng là đàn anh của Độ. Sau đó kháng chiến nổ ra Hoàng tản cư về nông thôn sau đó mất liên lạc. Sau những tháng ngày hỏi han thì Độ biết nhà của anh Hoàng, Độ biết được nhà đàn anh này và đến thăm hỏi. Trong lần gặp mặt này hai người đã có những câu chuyện thể hiện cái nhìn của mình về người nông dân. Nhân vật Độ bước vào thì có một anh hàng xóm gọi hộ anh Hoàng. Cái cánh cửa cổng kín mít cùng con chó béc dê không ai dám vào. Ban đầu anh Hoàng phải cẩn thận nhìn xem ai mới mở cửa. Và khi nhận ra người anh em cũ anh bảo vợ xích chó lại và đưa anh vào nhà.
Còn nhân vật Độ khi nghe những nhận xét của nhà văn Hoàng về người nông dân thì anh cũng chỉ im lặng. Nhiều câu phản bác lại để bảo vệ cho người nông dân nhưng không hề gay gắt. Nói như thế không phải nhà văn ấy chịu trước cái nhận xét ấy của Hoàng mà lại Độ không thể nói cho Hoàng hiểu được, Bởi cuộc sống và suy nghĩ của Hoàng đã lệch lạc quá rồi. Những nhận xét về người nông dân quả thật không sai nhưng cái nhìn ấy là cái nhìn tiêu cực. Đọc đoạn hội thoại bình luận ta tưởng chừng như nhà văn Độ là người lép về bị lấn át không thể làm sao mà bảo vệ được quan niệm của mình được. Tuy nhiên cái tài của nhà văn Nam Cao là dù không nói người đọc vẫn thấy được cái nhìn của Độ mới là đúng. Bởi vì lối sống của Hoàng là quay lưng lại với nông dân cách mạng, bó hẹp mình lại trong cái bao an toàn. Điều đó đủ cho thấy Hoàng xa rời quần chúng cách mạng đến nhường nào. Và Hoàng không hiểu hết được những người nông dân. Hoàng nhìn người một cách phiến diện. Đó là cái nhìn hoàn toàn sai lệch.
Kết thúc tác phẩm nhà văn để cho vợ chồng Hoàng đọc chuyện Tào Tháo mà cười. Và có lẽ Hoàng khi ấy mới nhận ra rằng mình cô đơn và lạc lõng trước cuộc đời này. Và phải chăng cách Hoàng nhìn nhận về người nông dân sẽ khác?

Truyện ngắn đôi mắt của Nam Cao đã nêu lên một vấn đề nóng bỏng đó là cách nhìn của những nhà văn với người dân và cách mạng, Trong tình hình đất nước ấy nhà văn có vai trò sáng tác ra những tác phẩm khơi dậy ý chí chiến đấu và ca ngợi sức mạnh của nhân dân. Nhưng nếu có những cái nhìn sai lệch như Hoàng thì liệu rằng có những tác phẩm kia không. Vì vậy mỗi nhà văn phải có trách nhiệm nhìn nhận vấn đề một cách thấu đáo sâu sắc.

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt - Mẫu 4

Ít có nhà vãn lại trăn trở nghĩ suy về ngòi bút của mình như Nam Cao và ông đã gửi gắm những suy nghĩ đó vào tác phẩm như là những tuyên ngôn nghệ thuật của người cầm bút. Từ Trăng sáng (1943) với việc dứt khoát đứng về phía "nghệ thuật vị nhân sinh", đến Đời thừa (1943) nhấn mạnh tính sáng tạo trong ngòi bút để làm tròn sứ mạng cao quý của nghề văn, đến Đôi mắt (1948) ông lại đặt ra vấn đề cách nhìn của nhà văn trong sáng tác nghệ thuật ở thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp mà Tô Hoài đã coi đó là tuyên ngôn nghệ thuật của thế hệ nhà văn lúc bấy giờ.

Viết Đôi mắt, Nam Cao đặt ra một vấn đề bức xúc và cốt tử của nhà văn nghệ sĩ lúc bấy giờ: vấn đề cách nhìn, quan điểm. Ở đây là quan điểm đối với cuộc kháng chiến, đặc biệt là đối với nhân dân, những người đã làm nên cuộc Cách mạng tháng Tám và đang đóng vai trò chủ chốt trong cuộc kháng chiến. Không chỉ là cách nhìn, quan điểm mà nội dung tác phẩm còn đặt vấn đề sâu hơn, gốc gác hơn: Vấn đề lập trường của nhà văn đối với cuộc kháng chiến của dân tộc.

Vì sao Nam cao lại đặt ra vấn đề cách nhìn vào thời điểm ấy? và đặt ra cho ai? Đó là lớp văn nghệ sĩ trước 1945, tuy yêu nước và có tinh thần dân tộc, đi theo cách mạng, nhưng chưa thật hiểu cách mạng, hiểu nhân dân và kháng chiến. Họ còn nhiều hoài nghi, phân vân, do dự trước cuộc kháng chiến của dân tộc. Như vậy thì làm sao có thể nhìn đúng để viết đúng được, làm sao có thể phục vụ cuộc kháng chiến bằng ngòi bút của mình? Họ đang "tìm đường" và "nhận đường" cho mình. Và Nam Cao đã giúp họ "gỡ nứt" bằng truyện ngắn Đôi mắt: xác lập cho họ một chỗ đứng  và một cách nhìn để giải tỏa những băn khoăn, vướng mắc trong ngòi bút của họ.

Tuyên ngôn nghệ thuật của Đôi mắt không chỉ là vấn đề bức xúc lúc bấy giờ mà còn là vấn đề cốt tử, vĩnh hằng của văn nghệ sĩ: "thế giới quan quyết định sáng tác nghệ thuật". Có nghĩa là, cách nhìn hiện thực đúng thì sẽ đem lại những tác phẩm tốt, có ích cho đời, và ngược lại

Nam Cao đã đặt ra vấn đề cốt tử này – không phải bằng lí luận khô khan trừu tượng, mà bằng một hình tượng nghệ thuật sóng đôi hấp dẫn, sinh động với hai nhân vật có lập trường và cách nhìn đối lập nhau: Hoàng và Độ. Văn sĩ Hoàng là tiêu biểu cho loại người có cách nhìn sai lệch, phiến diện (Nam Cao gọi là "nhìn một phía") với thái độ hằn học, khinh miệt quần chúng và không tin tưởng vào cuộc kháng chiến của nhân dân: ông ta chỉ chăm chăm nhìn vào hiện tượng bên ngoài mà không thấy được bản chất tốt đẹp bên trong của người nông dân yêu nước kháng chiến. Ngược lại là Độ – nhà văn có cách nhìn đúng đắn, toàn diện (thấy được cả mặt tích cực, mặt hạn chế tồn tại, và đâu là bản chất của người nông dân) với thái độ thông cảm và tin tưởng. Trước sự việc anh nông dân vác tre đi rào làng kháng chiến, Hoàng chỉ thấy đó là một con người "ngố và nhặng xị", một con vẹt đọc thuộc lòng ba giai đoạn kháng chiến; nhưng Độ lại thấy ở anh một tấm lòng yêu nước thật hồn nhiên và vô tư.

Cách nhìn khác nhau ấy, suy cho cùng, là do chỗ đứng khác nhau của hai nhà văn quyết định, sống một cuộc sống cá nhân, ích kỉ, hưởng lạc, xa rời nhân dân, tách biệt hẳn cuộc sống kháng chiến như Hoàng thì không thể cổ cách nhìn giống như Độ – một nhà văn của nhân dân, sống hòa mình cùng quần chúng, sẵn sàng "làm anh tuyên truyền nhãi nhép" phục vụ kháng chiến. Ở văn sĩ Hoàng, cái chính là vấn đề lập trường.

Lập trường quyết định "đôi mắt", quyết định cách nhìn. Đây là cách nhìn của một nhà văn còn đứng ngoài cuộc kháng chiến của dân tộc.

Đôi mắt xứng đáng là "tuyên ngôn nghệ thuật" của một lớp văn nghệ sĩ hồi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp. Đây là tuyên ngôn về lập trường kháng chiến của nhà văn, về cách nhìn đúng đắn hiện thực để sáng tạo nghệ thuật, cũng là tuyên ngôn về khuynh hướng mỹ học mới: cái đẹp là thuộc về nhân dân lao động, những con người bình thường mà vĩ đại – nhân vật chính của nền văn học mới.

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt - Mẫu 5

Nam Cao là cây bút kiệt xuất của nền văn học hiện đại Việt Nam. Với lối hành văn sắc sảo, cái nhìn mang đậm tính hiện thực cùng tấm lòng nhân đạo cao cả, ông đã thành công tái hiện hình ảnh những người nông dân dưới ách áp bức, bóc lột của xã hội cũ. Một trong số các tác phẩm nổi bật nhất phải kể đến truyện ngắn “Đôi mắt”. 

Ngay từ nhan đề, Nam Cao đã khéo léo gợi mở cho độc giả về tư tưởng, chủ đề của tác phẩm. Mắt là bộ phận dùng để quan sát, từ đó giúp con người cảm nhận về sự vật, sự việc. Đây cũng được coi như sự ẩn dụ cho cách nhìn nhận, cho tư tưởng và lối sống riêng của từng người. Chính điều này đã góp phần hình thành nên cái “tôi” cá nhân, tạo ra nhiều giá trị riêng cho xã hội. 

Xét về tình huống truyện, ta thấy “Đôi mắt” kể lại việc nhà văn Độ đến thăm nhà của Hoàng - một người bạn cũ mà trước đó đã từng “đá” anh chẳng vì nguyên cớ gì. Xoay quanh cuộc trò chuyện giữa Độ và vợ chồng Hoàng, độc giả đã nhìn ra được hai luồng tư tưởng hoàn toàn khác nhau. Một bên là Độ với sự yêu thương, trân trọng dành cho người dân. Còn bên khác, vợ chồng Hoàng lại chê trách, phàn nàn và mỉa mai chốn làng quê với những người dân “ít chữ” làm Cách mạng. Qua đó, càng làm nổi bật hơn tính cách, suy nghĩ của từng nhân vật. 

Độ và Hoàng là hai nhà văn có luồng tư tưởng cũng như nhân sinh quan trái ngược nhau. Bằng việc khắc họa hình tượng ấy, Nam Cao đã nêu bật quan điểm của bản thân về xã hội, về con người.

Đầu tiên là Hoàng - một “văn sĩ” hầu như chưa bao giờ viết được tác phẩm nào có giá trị. Anh ta thích nuôi chó, đọc tiểu thuyết dài tập - toàn những thú vui của kẻ sung túc. Điều này có thể rất bình thường, nhưng đặt trong bối cảnh những năm kháng chiến gian khổ, người dân còn nghèo đói thì cái tính đó lại trở nên lạc quẻ, không phù hợp. Qua lời kể của nhân vật “tôi”, ta còn thấy Hoàng hay “đá” bạn một cách vô lí. Đồng thời, gán cho mình cái danh “theo kháng chiến” nhưng thực chất là đi chạy nạn, bỏ qua việc phục vụ Cách mạng. Thái độ của vợ chồng anh ta với những người dân quê cũng đầy miệt thị, mỉa mai, khinh ghét. Hoàng chỉ chăm chăm bới móc khuyết điểm của người ta, chấp nhận trở nên lãnh đạm, thờ ơ chỉ vì không muốn làm Cách mạng với những người mà anh ta coi là ít chữ, dốt nát, bần tiện, lắm giáo điều, không biết hưởng thụ,... Như vậy, ở Hoàng, độc giả chỉ thấy sự hợm hĩnh, ích kỉ. Thậm chí, anh ta còn một lòng tôn sùng tài thao lược của cụ Hồ mà bỏ qua sự đồng lòng, đoàn kết của toàn dân tộc trong kháng chiến. Tất cả đã vẽ nên bức chân dung một con người vô cùng phiến diện. 

Trái ngược lại với Hoàng là Độ. Tuy không được khắc họa quá nhiều về chân dung, tính cách nhưng độc giả vẫn cảm nhận anh là người hiền lành, điềm tĩnh, bao dung và có cái nhìn đa chiều, bao quát. Bản thân anh đã tự đi vào đời sống, cùng sát cánh bên những người nông dân “ít chữ” kia, phát hiện ra nét đẹp ẩn sâu trong vẻ ngoài thô sơ ấy. Ở Độ, ta thấy niềm tin vào quần chúng, tin vào sức mạnh tập thể. “Đôi mắt” của anh đầy sự bao dung và tình yêu thương, khác hẳn với sự miệt thị mà Hoàng thể hiện. Thái độ tích cực ấy đã bộc lộ thái độ đáng có của một người tri thức trong Cách mạng. Qua đây, Nam Cao muốn khuyến khích những người làm nghệ thuật phải biết đi sâu vào đời sống nhân dân, biết yêu thương và bao dung với con người. Hãy tìm kiếm cái đẹp, cái tốt trong những “viên ngọc thô” kia. Từ đó mài dũa họ, định hướng và dẫn dắt họ đi theo đúng con đường của Cách mạng. Đồng thời, văn sĩ - những “thư kí” của thời đại, cũng cần biết tránh xa thói ích kỉ, thái độ trịnh thượng, coi thường kẻ khác.

Bên cạnh thành công về mặt nội dung, truyện ngắn “Đôi mắt” còn mang theo nhiều nét nghệ thuật vô cùng đặc sắc. Ngòi bút Nam Cao vốn nổi tiếng sắc sảo, thâm trầm. Cách nhà văn miêu tả các nhân vật vô cùng đơn giản, không chút cầu kì nhưng mang lại hiệu quả vô cùng cao. Hoàng chủ yếu được khắc họa qua ngoại hình, lời nói, thái độ. Còn Độ ít thoại hơn, cũng chẳng được miêu tả ngoại hình. Anh chỉ hiện lên qua những dòng suy nghĩ nội tâm đầy sâu sắc. Nhưng vài nét đó cũng đủ để độc giả hiểu và nhận định về nhân vật. Bên cạnh đó, ngôn ngữ của nhà văn cũng rất chân thực, gần gũi, giúp người đọc dễ dàng tiếp cận tác phẩm hơn rất nhiều. 

Tựu chung lại, có thể khẳng định “Đôi mắt” là một trong những tác phẩm xuất sắc và giàu ý nghĩa bậc nhất trên văn đàn thời bấy giờ. Truyện vừa răn dạy con người về cách hành xử, thái độ phù hợp với cộng đồng; vừa tôn vinh vẻ đẹp, phẩm chất của những người dân nông thôn giản dị, chân chất. Qua đây, đem đến bài học đạo đức quý báu dành cho giới văn nghệ sĩ thời bấy giờ cũng như cả các thế hệ mai sau. 

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt - Mẫu 6

Trong nhật kí Ở rừng, Nam Cao kể lại rằng ông đã dùng thời gian của mấy ngày nghỉ Tết "để viết một truyện ngắn cho đỡ nhớ", truyện Tiên sư thằng Tào Tháo. Và sau đó ông đặt lại tên truyện cho giản dị và đứng đắn là Đôi mắt. Có lẽ chính Nam Cao cũng không ngờ rằng cái truyện ngắn viết cho "đỡ nhớ" ấy lại là một trong những tác phẩm thành công của văn học cách mạng buổi đầu. Ông cũng không ngờ rằng truyện ngắn ấy lại trở thành một "tuyên ngôn nghệ thuật" của thế hệ ông, thế hệ những nhà văn tiền chiến đi theo cách mạng. Sở dĩ có được những thành công đó vì ở tác phẩm này ông đã đặt ra được một vấn đề quan trọng của sáng tạo nghệ thuật.

Đó là vấn đề "đôi mắt", hay nói khác đi đó là vấn đề tầm nhìn của người nghệ sĩ.

Khi đặt tên cho truyện ngắn là Đôi mắt, ngụ ý của Nam Cao là muốn đề cập đến tầm nhìn của người nghệ sĩ trước hiện thực. Nhà văn cho rằng có tầm nhìn đúng mới lý giải đúng đắn về hiện thực. Cùng một hiện thực mà tầm nhìn khác nhau sẽ có cách lý giải, quan niệm khác nhau. Tư tưởng này của ông trong truyện ngắn không phải là những lý thuyết khô khan mà được bộc lộ qua những hình tượng sinh động. Với hai nhân vật Hoàng và Độ, ông đã lý giải, cắt nghĩa hai tầm nhìn khác nhau.

Trước hết là tầm nhìn của Hoàng. Có nhiều ý kiến đã xem Hoàng như một nhân vật hoàn toàn tiêu cực. Nhất là khi mà chính Nam Cao tô đậm một vài nét thái quá như đã cấp cho Hoàng cái lý lịch quá đen tối, có khi thù địch với phong trào giải phóng quốc gia. Thật ra, Hoàng không phải là nhân vật hoàn toàn xấu. Tính cách của nhân vật này phức tạp hơn nhiều. Anh là nhà văn bỏ Thủ đô ra vùng tự do vì không muốn hợp tác với giặc Pháp. Anh không làm gì cho kháng chiến, nhưng cũng không hề chống đối kháng chiến. Nghĩa là anh vẫn chưa phải là một "kẻ phản động" như anh đã chua chát tự nhận. Hơn thế nữa, anh vẫn là người đặt niềm tin vào chủ tịch Hồ Chí Minh, dù là niềm tin mang màu sắc anh hùng cá nhân khá rõ. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để thấy Hoàng không phải hoàn toàn là người bỏ đi.

Vậy thì lý do gì khiến anh đứng bên lề cuộc kháng chiến của dân tộc? Vấn đề có lẽ là do tầm nhìn của Hoàng bị hạn chế.

Quả đúng như vậy, Hoàng chỉ nhìn thấy một phía của bức tranh hiện thực. Dưới con mắt anh, người dân quê vừa ngu dốt, vừa lỗ mãng, ích kỉ, tham lam, lại vừa ngố vừa nhặng xị. Con mắt sắc sảo của Hoàng đã moi ra bao nhiêu tật xấu của người dân quê: "Viết chữ quốc ngữ sai vần mà lại cứ hay nói chuyện chính trị rối rít cả lên". "Đàn bà chửa mà đến nỗi cho là có lựu đạn giắt trong quần!". "Họ đánh vần xong một cái giấy ít nhất phải mất mười lăm phút, thế mà động thấy ai đi qua là hỏi giấy". Có thể nói về phương diện này, cái nhìn của Hoàng thật sắc sảo. Anh không dừng lại ở nhũng nhận xét chung chung mà bao giờ cũng nêu ra những dẫn chứng rất sinh động. Chẳng hạn để diễn tả cái tò mò, thóc mách của người dân quê Nam Cao đã để cho Hoàng nói với Độ: "Này, anh mới đến chơi mà lúc nãy tôi đã thấy có người nấp nom rồi. Ngày mai thế nào chuyện anh đến chơi tôi cũng sẽ chạy khắp làng. Họ sẽ kể rất rạch ròi tên anh, tuổi anh, anh gầy béo thế nào, có bao nhiêu nốt ruồi ở mặt, có mấy lỗ rách ở ống quần bên trái".

Những điều Hoàng nhìn thấy không phải không có. Anh không hề nói sai sự thật như chính anh đã nhiều lần thề thốt: "Tôi có bịa một tí nào tôi chết". Không ai nghi ngờ những điều anh nó. Chính Độ cũng kể ra không ít những nhược điểm của người dân quê như Hoàng.

Vậy Hoàng không đúng ở chỗ nào?

Cái nhìn không đúng của Hoàng là anh đã quen nhìn đời và nhìn người từ một phía: "Anh trông thấy anh thanh niên đọc thuộc lòng bài "ba giai đoạn" nhưng anh không trông thấy bó tre anh thanh niên vui vẻ vác đi để ngăn quân thù. Mà ngay trong cái việc anh thanh niên đọc thuộc lòng bài báo như một con vẹt biết nói kia, anh cũng chỉ nhìn thấy cái ngố bể ngoài của nó, mà không nhìn thấy cái nguyên cớ thật đẹp đẽ bên trong". Hoàng chỉ nhìn thấy người dân quê nấp nom mà không thấy tinh thần cảnh giác để ý những người lạ mặt tới làng. Bất cứ hiện tượng nào, Hoàng cũng chỉ nhìn từ một phía. Từ phía đó anh chỉ nhìn thấy người dân quê "ngu độn, lỗ mãng, tham lam, bần tiện, ích kỉ và tàn nhẫn", nghĩa là chỉ nhìn thấy thói hư, tật xấu, mà không nhìn thấy bản chất tốt đẹp bên trong.

Với cách nhìn đó, Hoàng đã tỏ ra khinh bỉ, giễu cợt mỗi khi nhắc đến người dân quê. Nôi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Nhắc tới họ "mủi anh nhăn lại như ngửi phải mùi xác chết". Từ đó anh đóng cổng suốt ngày, không dám đi đâu. Anh thà tìm đến những ông tuần, ông đốc mà anh thừa biết là cặn bã của xã hội còn hơn là hợp tác với người dân quê (Anh nghĩ có buồn không? Trí thức thì thế đấy. Còn dân thì như anh đã biết). Đây cũng là lý do tại sao Hoàng lại say mê những trang Tam quốc đến thế. Anh không tìm thấy lẽ sống ngày hiện tại, đành tiếc nuối những ngày xa xưa. Trong câu văn "tiên sư anh Tào Tháo" có sự khâm phục mà có sự tiếc nuối. Hoàng lạc lõng với cuộc kháng chiến, xa lạ với kháng chiến là điều dễ hiểu.

Với một người bạn như vậy, Độ không khỏi băn khoăn: Sao Hoàng cứ ở mãi cái làng này, với đám cặn bã của giới thượng lưu này mà không lao mình vào cuộc sống lớn của nhân dân. Nhưng rồi chính Độ cũng nhận ra: nếu vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều, càng quan sát lắm, chỉ càng thêm chua chát và chán nản mà thôi.

Ngược lại với Hoàng, Độ có đôi mắt khác, tầm nhìn khác. Không phải Độ không nhìn thấy người dân quê. Họ là những người "răng đen, mắt toét, gọi lựu đạn là "lựu đạn", hát Tiến quân ca như người buồn ngủ cầu kinh". Đã có lúc Độ gần như thất vọng vì thấy họ "phần đông dốt nát, nheo nhếch, nhát sợ, nhịn nhục một cách đáng thương". Thậm chí có khi anh đã nghi ngờ cả cái gọi là "sức mạnh quần chúng".

Về phương diện này, cái nhìn của Độ rất gần với cái nhìn của Hoàng. Nam Cao miêu tả cái nhìn của Độ gần với Hoàng như để khẳng định rằng có một cái nhìn đúng là một quá trình; mặt khác cho thấy Hoàng không đến nỗi quá xa vời mà rất gần gũi.

Nhưng điều đáng nói là Độ không dừng lại ở cái nhìn này. Anh nhìn thấy đằng sau sự nhếch nhác kia là bao nhiêu điều tốt đẹp. Anh nhìn thấy người nông dân là răng đen, mắt toét nhưng khi ra trận thì xung phong can đảm lam. Anh tưởng thời Quang Trung, Lê Lợi đã chết hẳn rồi, nhưng đến thời Tổng khởi nghĩa mới ngã ngửa người. Té ra nông dân nước mình vẫn có thể làm cách mạng hăng hái lắm. Càng gần gũi họ, anh càng nhận ra người dân quê "có nhiều cái kì lạ lắm" và họ dù sao cũng là một cái bí mật đối với chúng ta.

Từ cách nhìn này, Độ có một thái độ khác. Hoàng khinh bỉ người dân quê bao nhiêu, xa lánh họ bao nhiêu thì Độ trân trọng họ, gần gũi họ bấy nhiêu. Anh từng theo họ đi đánh phủ, từng gặp họ ở mặt trận Nam Trung bộ. Anh mải mê đi sâu vào đời sống quần chúng nhân dân, gắn bó đời mình với họ. Anh sẵn sàng làm một anh tuyên truyền viên nhãi nhép để phục vụ sự nghiệp cách mạng to lớn của dân tộc.

Nam Cao viết truyện ngắn Đôi mắt vào năm 1948. Đó là thời điểm cách mạng tháng Tám thành công chưa được bao lâu, nhân dân ta đã phải đương đầu với thực dân Pháp. Lúc này hầu hết các nhà văn tiền chiến thuộc thế hệ Nam Cao đều dí theo cách mạng. Nhưng từ chân trời cũ, bước sang chân trời mới của cách mạng, họ không tránh khỏi những nhận thức lệch lạc về cách mạng, về quần chúng nhân dân. Cho nên vấn đề nhận đường được đặt ra bức thiết đối với người nghệ sĩ. Truyện ngắn Đôi mắt đã phần nào giải quyết vấn đề này. Vì thế, nhiều người đã xem đây như một tuyên ngôn nghệ thuật của lớp văn nghệ sĩ tiền chiến đi theo cách mạng.

Vấn đề tầm nhìn của người nghệ sĩ không chỉ quan trọng đối với thời kì nhà văn viết truyện ngắn này mà vẫn còn nguyên giá trị mãi về sau. Có khi nào tầm nhìn lại không quan trọng đối với người nghệ sĩ. Để có một tầm nhìn đúng, không chỉ có một thế giới quan đúng, mà còn cần có một nhân sinh quan lành mạnh. Tầm nhìn chỉ thực sự đúng đắn khi đó là tầm nhìn của một trái tim biết hòa nhịp đập với quần chúng nhân dân, với Tổ quốc.

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt - Mẫu 7

Nam Cao, một danh tác gia của văn học Việt Nam, đã góp phần quan trọng vào di sản văn hóa dân tộc, đặc biệt trong văn học hiện thực thế kỷ XX, phản ánh sâu sắc mặt đen tối của xã hội và con người lúc đó. Sau cách mạng tháng Tám, Nam Cao dần chuyển hướng quan tâm đến các vấn đề mới trong xã hội, với một cách viết nhẹ nhàng, nhân văn hơn. Trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của ông, 'Đôi mắt' là một thành công vang dội, với thông điệp về cách nhìn nhận cuộc sống qua đôi mắt của mỗi con người.

Với tiêu đề 'Đôi mắt', Nam Cao đã tinh tế thể hiện tư tưởng về cách nhìn nhận cuộc sống thông qua đôi mắt, biểu tượng cho tư duy và cách sống của mỗi người. Từ đó, tác giả mô tả sự lựa chọn giữa mở rộng tầm nhìn, lòng nhân ái và sự hẹp hòi, định kiến của con người. Hoàng và Độ, hai nhân vật chính, là hai biểu tượng cho hai cách nhìn khác nhau về cuộc đời.

Tình huống trong truyện đơn giản nhưng lôi cuốn, Nam Cao diễn đạt bằng một giọng văn mềm mại, gần gũi hơn, khiến ông trở thành văn sĩ Độ trong tác phẩm, thân thiện kể về chuyến thăm nhà văn Hoàng. Mặc dù trước đây Hoàng từng 'đá' Độ và nhiều người khác vì ghen ghét, nhưng Độ vẫn quyết định tìm đến chơi với Hoàng từ xa. Trong bối cảnh Hoàng liên tục than phiền và chê trách làng quê cùng những người nông dân ít chữ làm cách mạng, Độ dần nhận ra khó khăn khi muốn thay đổi suy nghĩ của một người cố chấp. Anh từ bỏ ý định khuyên giải và học được nhiều bài học từ những trải nghiệm đó.

Với nhân vật văn sĩ Hoàng, một người sống cuộc sống sung túc, thích đọc tiểu thuyết dài, nuôi chó, nhưng hiếm khi viết tác phẩm có giá trị. Anh không sống bằng văn chương mà bằng nghề buôn bán, được mệnh danh là 'một tay chợ đen tài tình'. Dù mang danh văn sĩ, nhưng anh thường bị mọi người ghét bỏ, dường như ai cũng ghét anh. Mặc dù không biết nguyên nhân, chỉ vì anh thường 'đá' người khác, đặc biệt là những người tài năng hơn anh. Trong cuộc kháng chiến, nhiều văn sĩ quyết tâm ủng hộ cách mạng và được tôn vinh, nhưng Hoàng chỉ biết chạy trốn và chê trách người khác. Anh thậm chí còn chửi mắng những người anh em cùng kháng chiến. Hoàng không chịu tham gia ủng hộ kháng chiến, trở thành kẻ lạnh lùng và thờ ơ. Anh cảm thấy cô đơn và ganh tỵ khi thấy người khác được khen ngợi. Hoàng sùng bái quá mức một cá nhân nhưng không biết trân trọng sức mạnh của quần chúng. Thực tế, nếu không có sự đoàn kết của nhân dân, cuộc kháng chiến không thể thành công. Tuy nhiên, Hoàng không hiểu được điều này và vẫn tiếp tục sống trong sự ích kỷ và ghen tức.

Đối với văn sĩ Độ, anh là một người hiền lành và điềm tĩnh, thường chỉ ngồi nghe và cười lấy lệ khi nói chuyện với Hoàng. Mặc dù là tri thức nghèo, Độ cũng theo kháng chiến và đã gặp nhiều khó khăn trước sự thiếu hiểu biết của Hoàng về những người làm cách mạng. Tuy có chút bực tức, nhưng sau đó Độ cũng hiểu và tha thứ cho Hoàng, vì anh ta biết rằng mỗi người có quan điểm riêng và không nên tranh luận vô ích.

Truyện ngắn Đôi mắt của Nam Cao không chỉ là tuyên ngôn về cách làm nghệ thuật trong thời đại mới, mà còn đưa ra triết lý giá trị về cách nhìn nhận vấn đề. Ta không thể hiểu sự việc bằng một cái nhìn chủ quan và vị kỷ, mà cần phải tìm hiểu sâu và có tư duy đa chiều. Câu chuyện này đã 'thức tỉnh' được rất nhiều người, không chỉ là giới văn nghệ sĩ mà cả xã hội.

Văn sĩ Hoàng sống cuộc sống sung túc và phong lưu, nhưng không chịu tham gia kháng chiến. Anh ta thậm chí còn chửi rủa và khinh miệt những người làm cách mạng. Tuy vậy, văn sĩ Độ vẫn hiểu và tha thứ cho Hoàng, bởi anh ta nhận ra sự đa dạng và tính chất riêng biệt của từng con người.

Nam Cao là một cây bút kiệt xuất của văn học Việt Nam, với lối viết sắc sảo và cái nhìn sâu sắc vào cuộc sống. Trong truyện ngắn “Đôi mắt”, ông đã thành công tái hiện hình ảnh của những người nông dân dưới áp bức xã hội, đồng thời đề cao giá trị nhân đạo và nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc nhìn nhận vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau.

Nam Cao đã thông qua tiêu đề 'Đôi mắt' để mở ra một cách tiếp cận tinh tế đối với tư duy và chủ đề của tác phẩm. Mắt không chỉ là cơ quan quan trọng để quan sát thế giới mà còn là biểu tượng của cách nhìn nhận và triết lý sống của mỗi người. Điều này giúp tạo ra sự đa dạng và sâu sắc trong cái nhìn của mỗi người về cuộc sống và xã hội.

Trong truyện 'Đôi mắt', Nam Cao đã sử dụng tình huống cuộc đời để phản ánh sự đối lập trong tư tưởng và cách nhìn của hai nhân vật chính là Độ và Hoàng. Điều này làm nổi bật rõ hơn tính cách và suy nghĩ của từng người, đồng thời thể hiện sự đa chiều và phong phú trong xã hội.

Nhà văn Nam Cao đã khéo léo vẽ nên hai hình ảnh Độ và Hoàng - hai nhà văn có quan điểm và tư tưởng đối lập nhau. Thông qua việc phác họa những nhân vật này, ông đã truyền đạt được quan điểm của mình về xã hội và con người.

Nhân vật Hoàng trong truyện 'Đôi mắt' được tác giả xây dựng như một biểu tượng cho sự phiến diện và ích kỷ. Hành vi của Hoàng đầy miệt thị và khinh bỉ đối với người dân quê cũng như sự lạc quẻ trong tư tưởng làm nổi bật tính cách nhân vật. Như vậy, qua câu chuyện, người đọc thấy rõ sự hợm hĩnh và thiếu nhân ái trong con người Hoàng.

Đối lập với Hoàng là nhân vật Độ. Mặc dù không được mô tả nhiều về ngoại hình và tính cách, nhưng Độ vẫn để lại ấn tượng của một người hiền lành, điềm đạm, bao dung và có cái nhìn rộng lớn, bao quát. Anh ta đã tự thấu hiểu cuộc sống, đồng hành cùng những người nông dân 'ít chữ' đó, khám phá ra vẻ đẹp sâu thẳm bên trong vẻ ngoài thô sơ của họ. Tại Độ, chúng ta thấy niềm tin vào quần chúng, tin vào sức mạnh của tập thể. 'Đôi mắt' của Độ toát lên sự bao dung và lòng yêu thương, trái ngược hoàn toàn với sự miệt thị của Hoàng. Thái độ tích cực này thể hiện tư duy đúng đắn của một người tri thức trong Cách mạng. Nam Cao muốn khuyến khích những người làm nghệ thuật phải hiểu sâu hơn về cuộc sống của nhân dân, biết yêu thương và bao dung. Hãy tìm kiếm vẻ đẹp và phẩm chất trong những 'viên ngọc thô' ấy, để hướng dẫn họ theo con đường của Cách mạng. Đồng thời, những văn sĩ - những 'thư ký' của thời đại, cũng cần tránh xa thái độ ích kỷ, tự cao tự đại và khinh thường người khác.

Ngoài thành công về nội dung, truyện ngắn 'Đôi mắt' còn mang lại nhiều nét nghệ thuật đặc sắc. Ngòi bút sắc sảo, thâm trầm của Nam Cao đã tạo ra những mô tả đơn giản nhưng hiệu quả về nhân vật. Hoàng được mô tả qua ngoại hình, lời nói và thái độ, trong khi Độ ít nói hơn, nhưng suy nghĩ sâu sắc của anh ta cũng đủ để độc giả hiểu và nhận biết về anh. Ngôn ngữ chân thực, gần gũi của tác giả giúp độc giả dễ dàng tiếp cận tác phẩm.

Tổng kết lại, 'Đôi mắt' là một trong những tác phẩm nổi bật và ý nghĩa nhất trên thị trường văn học thời đó. Truyện không chỉ răn dạy về cách cư xử và thái độ phù hợp với cộng đồng mà còn tôn vinh vẻ đẹp và phẩm chất của người nông dân giản dị, chân chất. Tác phẩm này mang lại bài học đạo đức quý báu cho giới văn nghệ sĩ và các thế hệ sau này.

Sau khi tìm hiểu tổng quan về truyện ngắn 'Đôi mắt' với cả hai nhân vật đối lập là Hoàng và Độ, bạn có thể xem xét chi tiết về nhân vật Hoàng thông qua: Phân tích nhân vật Hoàng trong truyện 'Đôi mắt' của Nam Cao. Ngoài ra, bạn cũng có thể khám phá các tác phẩm khác của Nam Cao như: Phân tích truyện ngắn 'Lão Hạc', Phân tích truyện ngắn 'Chí Phèo'.

Phân tích nghệ thuật xây dựng nhân vật trong Đôi mắt - Mẫu 8

Trước Cách mạng, Nam Cao được coi là cây bút tiêu biểu, kết tinh những thành tựu của trào lưu văn học hiện thực ở giai đoạn cuối (1940 – 1945). Sau Cách mạng, với truyện ngắn Đôi mắt, Nam Cao trở thành một trong những gương mặt xuất sắc nhất của nền văn học mới những năm đầu kháng chiến chống Pháp.

Đôi mắt được sáng tác vào năm 1948. Lúc đầu nó có tên là Tiên sư thằng Tào Tháo, nhưng sau, Nam Cao đã đặt cho nó một cái tên khác "giản dị và đúng đắn: Đôi mắt" điều này đã được chính nhà văn ghi lại trong Nhật kí ở rừng. Như vậy, tác giả đã có sự lựa chọn cân nhắc kĩ lưỡng để đặt nhan đề cho tác phẩm, nhằm qua nhan dề làm nổi bật ý nghĩa tư tưởng của truyện ngắn này. Theo nhà văn Tô Hoài, có thể coi "Đôi mắt" là một "tuyên ngôn nghệ thuật" hết sức nghiêm túc vồ cách nhìn đời, nhìn người (nhất là nhìn người nông dân) của giới trí thức văn nghệ sĩ. Nội dung sâu sắc nêu trên đã được Nam Cao thể hiện bằng nghệ thuật viết văn bậc thầy. “Đôi mắt” vừa phát huy được sở trường của nhà văn trong những sáng tác trước cách mạng, vừa ít nhiều có sự cách tân mới mẻ, hấp dẫn người đọc.

Đọc truyện Đôi mắt, chúng ta không thể quên được nhân vật Hoàng và "đôi mắt" nhìn đời, nhìn người của anh ta. Về phương diện nghệ thuật..Hoàng sống động không kém gì những nhân vật Chí Phèo, hay Bá Kiến của Nam Cao trước Cách mạng, mặc dù đây thực chất là nhân vật – tư tưởng, nhân vật – vấn đề như trong lí luận văn học thường gọi.

Nam Cao chính thức để cho văn sĩ Hoàng xuất hiện sau những suy nghĩ của Độ. Hoàng có dáng dấp của người no đủ, nhàn hạ. Nếu người đọc nhớ lại cuộc sống vô cùng thiếu thốn và gian khổ của dân tộc những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, nếu chúng ta thừa nhận trong thực tế đôi khi vẫn có những nhà văn mập mạp, nhưng nhiều người vẫn thường quan niệm đã là nghệ sĩ thì thường là mảnh mai, gầy yếu, thì quả thật nhân vật Hoàng, ngay về hình thức đã lạc lõng với những người cùng giới. Nam Cao tả hình dáng của Hoàng khá tỉ mỉ, bằng giọng văn pha chút hài hước: "Anh bước đi khệnh khạng, thong thả bởi vì người anh khí to béo quá, vừa bước vừa bơi hai cánh tay kềnh kệnh ra hai bên, những khối thịt ở hai bên dưới nách kềnh ra trông tủn ngủn như ngắn quá…". Trong con mắt của Độ, tuy đi tản cư nhưng ngoại hình của Hoàng chẳng khác gì hồi còn ở Hà Nội, trừ việc trên mép Hoàng có thêm "một cái vành móng ngựa ria, như một bàn chải nhỏ". Gặp Độ, anh ta sững người ra một lúc rồi mới "lâm li kêu lên một tiếng ở trong cổ họng:

– Ối giời ơi! Anh! Quý hóa quá!"

Như vậy, chỉ qua một số chi tiết tưởng như ngẫu nhiên nhưng kì thực rất chọn lọc, Nam Cao đã tìm cho nhân vật Hoàng hiện lên khá sinh động, khá cụ thể ngay ở những trang đầu tiên của truyện ngắn này. Tiếp theo, nhà văn để cho tính cách của Hoàng tiếp tục hiện lên qua dòng hồi tưởng của Độ. Hoàng "là một nhà văn, nhưng đồng thời là một tay chợ đen rất tài tình". Giữa trận đói khủng khiếp, bạn bè "chỉ còn một dúm xương", Hoàng vẫn kiếm nổi "mấy lạng thịt bò" cho chó bécgiê ăn. Anh ta còn có tật hay "đá bạn", do tính đố kị với ai nổi hơn mình… Còn tài văn chương của nhân vật này, Nam Cao chỉ tóm gọn trong một câu qua suy nghĩ của Độ: "Có lẽ anh Hoàng biêt cái giới văn nghệ sĩ Hà Nội chửi anh nhiều quá". Bằng dòng hồi tưởng của Độ, Nam Cao cho người đọc thấy sự nhất quán trong tính cách nhân vật Hoàng và giải thích thái độ sống lạc lõng của nhân vật này trong bối cảnh những năm đầu kháng chiến chông Pháp một cách rất tự nhiên, chân thật.

Nhân vật Hoàng đặc biệt sống động thể hiện rõ bản chất và cá tính qua những trang Nam Cao để cho Độ và vợ chồng Hoàng đối thoại, bình giá về người nông dân. Thực ra, Hoàng không có ý xuyên tạc hay vu cáo người nông dân. Những hiện tượng đại khái như lúc chị dâu đẻ em chồng không cho ở trong nhà, bắt ra cái lều ngoài vườn, "viết chữ sai vần mà cứ hay nói chuyện chính trị hoàn toàn có thể xảy ra ở nông thôn, một khi tuyệt đại đa số nông dân không biết chữ, nhưng ghét Tây, ủng hộ Việt Minh. Nhà văn này cơ bản không phải là một kẻ "phản động". Điều đó khiến cho văn sĩ Độ trong câu chuyện với Hoàng, nhiều khi không những không phản bác anh ta, mà còn cung cấp thêm một số chi tiết về nhược điểm của nông dân như nhút nhát, nói ngọng, hát Tiến quân ca như buồn ngủ cầu kinh. Hoàng cũng có những nét khả thủ như dám bỏ nhà cao cửa rộng đi tản cư, tiếp đãi Độ rất niềm nở, thể hiện quan điểm một cách thẳng thắn… Nhắc tới những điều này để thấy rõ bản lĩnh nghệ thuật của Nam Cao; ông phát hiện miêu tả nhân vật này từ nhiều góc độ, không hề đơn giản một chiều (cái tốt, cái xấu đan chen vào nhau). Điều nổi bật là tuy sống gần nông dân, nhưng vợ chồng Hoàng không chịu nhìn, không chịu thấy phía cơ bản nhất của họ mà chỉ nhằm vào phía hài hước, phía đáng ghét của những người lam lũ này. Hoàng nói về nông dân một cách thật "nghệ sĩ". Tiêu biểu nhất có lẽ là đoạn Hoàng kể cho Độ nghe về chuyện người thanh niên vác tre chỉ đường cho Hoàng đến chợ huyện. Từ cách gọi tên ("ông thanh niên") đến lối miêu tả ("nghễu nghện vác bó tre đi tới") đến cách trần thuật (một thanh niên ít học thật thà không biết cách chỉ đường khiến người hỏi lúng túng không biết đi ngã nào, nhưng lại có thể đọc thuộc lòng cả một bài "dài đến năm trang giấy về cuộc trường kì kháng chiến)… Rõ ràng, đây là một nghệ sĩ có tài quan sát phát hiện rất nhanh các chi tiết đặc biệt ở đối tượng, có khiếu kể chuyện sinh động, hài hước, có năng lực lố bịch hóa những nhân vật và hiện tượng mà anh ta không ưa. Đồng thời, đây cũng là một con người vừa kiêu ngạo, vừa ích kỉ, luôn nhìn người nông dân vói con mắt của kẻ bề trên. Trong không khí sôi sục của cuộc kháng chiến, khi cả dân tộc chấp nhận mọi hi sinh gian khổ vì sự nghiệp cứu nước, thì Hoàng vẫn sống một cách an nhàn no đủ, hút thuốc lá thơm, ăn mía ướp hoa bưởi, đọc Tam Quốc, tức là vẫn hoàn toàn đứng ngoài cuộc, vô trách nhiệm, Tóm lại, từ hình dáng đến ngôn ngữ cử chỉ… nhân vật này vừa có nhừng nét riêng biệt độc đáo vừa đại diện cho một lớp người mà có lẽ ở thời nào cũng có. Đọc truyện Đôi mắt, nhiều người cứ tưởng như mình đã gặp nhân vật Hoàng ở đâu đó trong giới văn nghệ sĩ thượng lưu, trưởng giả, sống cách biệt với nhân dân, thừa sự sắc sảo, nhưng thiếu cội rễ nhân ái cần thiết. Điều này chứng tỏ sự thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình của Nam Cao.

Ngoài ra, ở truyện ngắn này, Nam Cao đã thành công trong phép tương phản. Có thể nói toàn bộ tác phẩm được hình thành dựa trên sự tương phản của hai nhân vật Độ và Hoàng. Độ, gầy yếu, xoàng xĩnh, điềm đạm, rụt rè; Hoàng béo tốt, sang trọng, sắc sảo mạnh bạo, luôn lấn lướt Độ. Hoàng chỉ nhìn thấy mặt xấu của nông dân, còn Độ đánh giá họ một cách đúng đắn với tình cảm ưu ái, đôn hậu; Hoàng không thèm cộng tác với họ, chỉ giao lưu với đám "cặn bã của giới thượng lưu trí thức" ("Một ông tuần phủ về hưu, một ông đốc học bị thải hồi,… một cụ phán già"), còn Độ lại "mê mải đi sâu vào quần chúng để học hỏi và dạy họ, đồng thời tìm những cảm hứng mới cho văn nghệ". Thực ra, bên trong vẻ "rụt rè" của Độ là một sự nhận thức vô cùng đúng đắn và sắc sảo. Độ nhìn Hoàng bằng con mắt tinh tường, anh thấu hiểu bản chất sâu xa của con người này và phê phán một cách nghiêm khắc: "Vẫn giữ đôi mắt ấy để nhìn đời thì càng đi nhiều càng quan sát lắm, người ta chỉ càng thêm chua chát và chán nản". Độ vượt Hoàng ở cách nhìn, mà trước hết ở trách nhiệm của một công dân đối với vận mệnh của đất nước. Nam Cao đã xây dựng Độ – đại diện cho những nhà văn tiến bộ để phủ nhận nhân vật Hoàng – đại diện cho một số văn nghệ sĩ cũ kĩ, lạc hậu. Sự phủ nhận này được thể hiện một cách hết sức âm thầm lặng lẽ nhưng triệt để và sâu sắc. Ở đây, bút pháp tương phản đã mang lại hiệu quả đáng kể, khắc sâu nội dung tư tưởng của thiên truyện.

Bên cạnh nghệ thuật xây dựng nhân vật và bút pháp tương phản đã nêu ở trên, ở truyện ngắn này, Nam Cao đã phát huy cao độ một trong những sở trường của cây bút hiện thực trước Cách mạng: kết hợp tài tình thái độ điềm đạm khách quan với khuynh hướng châm biếm sắc sảo, kín đáo. Tiêu biểu nhất có lẽ là đoạn Nam Cao dẫn lời nói và tả cách nói của vợ chồng Hoàng về những mặt hạn chế của nống dân. Hoàng kể về họ với giọng mỉa mai chế giễu: "Nỗi khinh bỉ của anh phì cả ra ngoài, theo cái bĩu môi dài thườn thượt. Mũi anh nhăn lại như ngửi thấy mùi xác thối". Nói đến họ là Hoàng "tức tối”, "cười gằn", "trợn mắt"…, ngay cách gọi của nhân vật này đôi với nông dân cũng đầy vẻ khinh thi, ác cầm "các ông ủy ban, các bố tự vệ", "các ông thanh niên, các bà phụ nữ"… Mặc dù cặp vợ chồng này thay nhau chế nhạo nông dân (và dường như Nam Cao đã phản ánh điều đó trung thực với thái độ khách quan lạnh lùng) nhưng qua đấy, người đọc vẫn cảm nhận được những người thiển cận, hiện lên một cách lố bịch, không phải là những người nông dân "dốt nát", "nhặng xị", "lỗ mãng, ích kĩ, tham lam, bần tiện"… mà chính là vợ chồng Hoàng sống phong lưu, nhàn hạ có vẻ rất "trí thức".

Cũng như một số tác phẩm như Chí Phèo, Đời thừa và Sống mòn trước Cách mạng; trong truyện Đôi mắt, Nam Cao chứng tỏ tài năng dựng truyện của một cây bút bậc thầy. Các chi tiết luôn được phát triển, luôn được biến hóa có vẻ như hết sức phóng túng, nhưng kì thực chúng đều tuân thủ theo một lôgíc chặt chẽ nhằm tập trung khắc họa đậm nét chủ đề tư tưởng. Chẳng hạn, ngay ở đoạn đầu, Độ đến cổng nhà Hoàng, anh định vào, nhưng liền bị anh thanh niên vội ngăn lại vì biết nhà Hoàng nuôi "con chó to và dữ lắm". Từ chi tiết này, Độ nhớ tới "những lần đến chơi nhà anh Hoàng ở Hà Nội", nhớ tới con chó "to bằng con bê" mà Hoàng nuôi. Và tiếp theo qua hồi tưởng của Độ dần dần một phần tính cách của Hoàng được miêu tả một cách hết sức tự nhiên, Thái độ ân cần, vồn vã đặc biệt của Hoàng lại khiến Độ nhớ tới tình cảm lạnh nhạt của anh ta đối với mình hồi ở Hà Nội. Tiếp theo, Độ nghĩ đến cái tật "đá bạn", nghĩ tới việc anh ta ra tờ báo với mục đích đê tiện… Có thể nói quá khứ và hiện tại của Hoàng cứ đan xen vào nhau cùng hiển hiện trên giấy chi tiết trước gọi chi tiết sau, không có chi tiết nào thừa, không có chi tiết nào khiến người dọc có thể đặt câu hỏi nghi ngờ về ý nghĩa chân thực của nó. Và dường như, toàn bộ "đôi mắt” lệch lạc của Hoàng nói riêng, và tính cách của anh ta nói chung đã được mô tả, đã được lí giải một cách hết sức chặt chẽ và nhất quán bằng những dòng hồi tưởng của Độ ở đầu truyện. Gần đây, có người nhân danh đổi mới, thanh minh cho Hoàng, trong đó phần nào có một vài chi tiết có thể chấp nhận được, nhưng nhìn chung chứng tỏ chưa hiểu đầy đủ dụng ý nghệ thuật của Nam Cao.

Ngoài ra, Đôi mắt cũng có thể coi là một truyện ngắn không có chuyện. Cốt truyện tác phẩm này thật đơn giản, xoay quanh việc Độ – một nhà văn đang làm công tác tuyên truyền kháng chiến đến nhà Hoàng – một nhà văn đàn anh, giàu có, vốn sống ở Hà Nội, nay đang cùng gia đình tản cư về nông thôn, sông gần gũi với người "nhà quê". Độ đến thăm Hoàng với mục đích vận động nhà văn này cộng tác với mình. Anh đã được gia đình Hoàng tiếp đãi cởi mở, chu đáo. Nhưng sau khi thấy được bản chất "đôi mắt" của Hoàng (thông qua cách nhìn, cách nghĩ và cách sống của nhà văn này), Độ không dám nói ra dụng ý đến thăm của mình, mà "đành giữ kín trong lòng"… Không gian và thời gian của truyện cũng rất hạn hẹp. Tuy vậy, từ những chi tiết bình thường, từ một truyện hầu như không có chuyện, bằng tài năng của mình, Nam Cao đã thể hiện được một nội dung tư tưởng sâu sắc, có giá trị khái quát rộng lớn không những đối với các nhà văn trong những năm đầu kháng chiến chống Pháp mà đối với giới nghệ sĩ sau này: "Đôi mắt" là cách nhìn đời, nhìn người và bao giờ cũng hết sức quan trọng đối với những nghệ sĩ chân chính. Phải có chỗ đứng đúng, thì mới có cách nhìn nhận đúng. Nếu như trước Cách mạng, Nam Cao hay đi vào bi kịch tâm hồn của người trí thức, mong muốn có sự thay đổi hoàn cảnh để họ được phát triển, thì nay ông đặt vấn đề trách nhiệm của trí thức trước sự nghiệp chung của dân tộc. Điều này chứng tỏ sự chuyển biến của một nhà văn lớn ở những giai đoạn khác nhau của văn học và lịch sử.

Tóm lại, truyện ngắn Đôi mắt thể hiện khá rõ nghệ thuật đặc sắc của nhà văn lớn Nam Cao. Từ việc xây dựng nhân vật điển hình đến bút pháp tương phản, từ cách xây dựng truyện đến nghệ thuật trần thuật, đến việc đặt nhan đề tác phẩm… nhà văn đều có thành công ở các mức độ khác nhau. Tất cả những điều này khiến cho ý tưởng sâu sắc của tác phẩm được khắc họa một cách sinh động hấp dẫn. Đôi mắt xứng đáng được xếp vào loại những truyện ngắn hay nhất sáng tác sau Cách mạng tháng Tám.

Đánh giá

0

0 đánh giá