Bài thơ Tây Tiến - Quang Dũng - Nội dung, tác giả, tác phẩm

1.7 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Tây Tiến Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Tây Tiến lớp 12.

Tác giả tác phẩm: Tây Tiến - Ngữ văn 12

I. Tác giả Quang Dũng

Tây Tiến - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

- Tên: Quang Dũng (1921-1988).

- Quê quán: Hà Tây, nay thuộc Hà Nội.

- Quá trình hoạt động văn học, kháng chiến.

+ Ông học đến bậc Trung học ở Hà Nội. Sau cách mạng tháng Tám ông tham gia quân đội.

+ Từ sau năm 1954, ông là Biên tập viên Nhà xuất bản Văn học.

- Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài: viết văn, làm thơ, vẽ tranh và soạn nhạc.

- Phong cách nghệ thuật: Hồn thơ phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn, tài hoa – đặc biệt là khi ông viết về người lính Tây Tiến của mình.

- Tác phẩm chính: Mây đầu ô (thơ, 1986), Thơ văn Quang Dũng (tuyển thơ văn, 1988).

II. Tìm hiểu tác phẩm Tây Tiến

1. Thể loại Tây Tiến

- Tác phẩm Tây Tiến thuộc thể loại: thơ 7 chữ.

2. Xuất xứ Tây Tiến

- Tác phẩm được trích trong Tuyển tập Quang Dũng, NXB Văn Học, Hà Nội, 1999, tr96 – 98)

3. Phương thức biểu đạt Tây Tiến

- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.

4. Bố cục bài thơ Tây Tiến

- Phần 1 (14 câu đầu): Khung cảnh thiên nhiên miền Tây và những cuộc hành quân gian khổ của đoàn quân Tây Tiến.

- Phần 2 (8 câu tiếp theo): Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân trong đêm liên hoan và cảnh sông nước miền Tây thơ mộng.

- Phần 3 (8 câu tiếp theo): Chân dung người lính Tây Tiến.

- Phần 4 (còn lại): Lời thề gắn bó với Tây Tiến và miền Tây.

5. Giá trị nội dung Tây Tiến

- Với cảm hứng lãng mạn và ngòi bút tài hoa, Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến trên cái nền thiên nhiên núi rừng miền Tây hùng vĩ, dữ dội và mĩ lệ. Hình tượng người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp lãng mạn, đậm chất bi tráng.

6. Giá trị nghệ thuật Tây Tiến

- Cảm hứng và bút pháp lãng mạn.

- Cách sử dụng ngôn từ đặc sắc: các từ chỉ địa danh, từ tượng hình, từ Hán Việt..

- Kết hợp chất nhạc và chất họa.

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Tây Tiến

Tây Tiến - Tác giả tác phẩm (mới 2023) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

1. Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng thơ mộng, trữ tình

*Chặng đường hành quân gian khổ qua nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc:

˗ Sông Mã là mạch nguồn của sự sống, chạy suốt theo các chặng hành trình của đoàn quân Tây Tiến; là chứng nhân lịch sử, gắn bó với lính Tây Tiến, chứng kiến niềm vui nỗi buồn, ghi dấu những chiến công, cả những mất mát, hi sinh…

˗ Xa rồi: cảm xúc nuối tiếc, lưu luyến, bâng khuâng…

˗ Tây Tiến ơi: lời gọi tha thiết, yêu thương, trìu mến, trong lòng nhà thơ, Tây Tiến không chỉ là tên gọi của một đơn vị quân đội mà như một thực thể sinh động, có tri giác, có cảm xúc… Câu thơ sử dụng rất nhiều âm tiết mở tạo dư âm vang vọng. Lời gọi vọng qua không gian – thời gian dội vào quá khứ, dội vào miền thẳm sâu kí ức.

˗ Nhớ được lặp lại 2 lần để nhấn mạnh khắc sâu nỗi niềm của nhà thơ. Nhớ chơi vơi: nỗi nhớ vô hình, vô định, lơ lửng giữa thinh không, làm cho lòng người day dứt, hoang mang như mất đi điểm tựa…

- Từ láy “chơi vơi”, hiệp vần “ơi” mở ra một không gian vời vợi của nối nhớ đồng thời diễn tả tinh tế một cảm xúc mơ hồ, khó định hình nhưng rất thực.

- Nhớ về Tây Tiến trước hết là nhớ rừng nhớ núi, nhớ những chặng đường mà đoàn quân đã đi qua. Điệp từ “nhớ” tô đậm cảm xúc toàn bài, không phải ngẫu nhiên mà nhan đề ban đầu của bài thơ tác giả đặt là Nhớ Tây Tiến. Nỗi nhớ trở đi trở lại trong toàn bài thơ tạo nên giọng thơ hoài niệm sâu lắng, bồi hồi. Nỗi nhớ tha thiết, niềm thương da diết mà nhà thơ dành cho miền Tây, cho đồng đội cũ của mình khi xa cách chan chứa biết bao.

* Nỗi nhớ về thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, dữ dội nhưng thơ mộng.

- Thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hoang sơ, dữ dội, khí hậu khắc nghiệt. Có những con đường hành quân chìm lấp trong mịt mù sương lạnh (Sài Khao… đêm hơi. Địa hình hiểm trở, cheo leo (Dốc lên khúc khuỷu… mưa xa khơi).   Những địa danh: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu gợi lên không khí núi rừng xa xôi, lạ lẫm, hoang sơ và bí ẩn.

- Con đường hành quân gập ghềnh, hiểm trở, đầy sự hiểm nguy: Dốc khúc khuỷu, dốc thăm thẳm, Heo hút, sương lấp. Dốc lặp 2 lần như tạo hình một khung cảnh núi non trùng điệp. Các từ láy giàu sức tạo hình (khúc khuỷu: gấp khúc đột ngột, độ gấp hẹp; thăm thẳm: sâu, hẹp, âm u, lạnh lẽo; heo hút: thưa, vắng, lạnh lẽo, âm u).

˗ Cồn mây: mây nổi thành cồn, tạo hình độ cao của núi, núi vươn đến tận trời mây, mây sà xuống mặt đất.

˗ Súng ngửi trời là một cách nói nhân hóa, rất hiệu quả trong việc tạo hình độ cao của dốc núi: núi cao gần chạm đến mây trời, khoảng cách với bầu trời chỉ trong tầm mũi súng.

– Không gian được mở ra ở nhiều chiều: chiều cao đến chiều sâu hút của những dốc núi, chiều sâu của vực thẳm, bề rộng của những thung lũng trải ra sau màn sương.

˗ Cách ngắt nhịp 4/3 của câu thơ thứ ba tạo thành một đường gấp khúc của dáng núi; ba dòng thơ liên tiếp sử dụng nhiều thanh trắc gợi sự vất vả nhọc nhằn. Những câu thơ như Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm; Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống… mang đậm chất hội họa với những đường nét rắn rỏi, góc cạnh.

˗ Ba câu thơ: Dốc lên… ngàn thước xuống được kết cấu bằng rất nhiều thanh trắc, nhiều phụ âm cuối là âm tắc góp phần khắc họa một thiên nhiên Tây Bắc trắc trở, hiểm nguy. Câu thơ đọc lên nghe nhọc nhằn như tiếng thở nặng nhọc của người lính trên đường hành quân Tây Tiến (Nguyễn Đăng Mạnh).

˗ Ngược lại câu thơ Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi sử dụng toàn bộ các thanh bằng và rất nhiều âm tiết mở đã làm dịu đi những đường nét sắc cạnh của bức họa thiên nhiên miền Tây Bắc tổ quốc. Người đọc dường như cũng cảm nhận được cảm giác nhẹ nhàng, khoan khoái của những người lính Tây Tiến – sau một chặng đường vượt núi qua đèo, đứng trên đỉnh núi, tầm mắt trải ra bốn bề, ngắm nhìn những bản làng ẩn hiện trong màn mưa…

- Thời gian được đo đếm bằng những hiểm họa đáng sợ. Vẻ hoang sơ dữ dội của thiên nhiên Tây Bắc đâu chỉ trải rộng, ngập tràn trong không gian mà còn được đo đếm qua thời gian. Thiên nhiên Tây Bắc đâu chỉ có địa hình trắc trở, gian lao mà mỗi thời khắc đều ẩn chứa những mối đe dọa, những hiểm nguy bất ngờ (Chiều chiều…cọp trêu người): Chiều chiều, đêm đêm: thời gian bất chừng, vô định, oai linh thác gầm thét, cọp trêu người: thanh âm dữ dội, mối hiểm nguy chết người.

⇒ Những từ ngữ và hình ảnh nhân hóa được nhà thơ sử dụng để tô đậm ấn tượng về một vùng núi hoang vu dữ dội. Bức tranh của núi rừng miền Tây giàu được vẽ bằng bút pháp vừa hiện thực, vừa lãng mạn, vừa giàu chất họa lại giàu chất nhạc. Nét vẽ vừa gân guốc, mạnh mẽ, dữ dội nhưng lại cũng rất mềm mại tạo nên vẻ đẹp hài hòa cho bức tranh thiên nhiên vừa dữ dội hung vĩ, vừa lãng mạn thơ mộng.

* Nỗi nhớ về đồng đội và những kỉ niệm trên đường hành quân:

- Nỗi mất mát, niềm cảm thương đồng đội hi sinh. Người lính Tây Tiến hóm hỉnh, ngang tàng, coi thường hiểm nguy, coi thường cái chết: “gục bên súng mũ bỏ quên đời”.

- Nhớ những chiều dừng chân bên bản ấm áp tình quân dân: “Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”.

- Cảnh tượng đầm ấm sau những cuộc hành quân. Cơm lên khói, thơm nếp xôi: gợi cảnh tượng thân thương, ấm cúng của gia đình.

- Đoạn thơ đầu mở ra bằng nỗi nhớ và kết lại cũng bằng nỗi nhớ. Nỗi nhớ như cuộn xoáy, đong đầy trong hồn người nay đã rời xa.

˗ Hai câu cuối của đoạn thơ này đem đến cảm giác yên bình, thanh thản, thể hiện tinh thần lạc quan của người lính.

⇒ Với sự kết hợp uyển chuyển giữa họa và nhạc, giữa bút pháp hiện thực và cảm hứng lãng mạn, 14 câu thơ trong bài Tây Tiến của Quang Dũng đã tái hiện sinh động và biểu cảm về một vùng đất hiểm trở, khắc nghiệt mà thơ mộng kỳ thú, gắn liền với chặng đường hành quân của người chiến sỹ Tây Tiến qua miền Tây. Từ những kỷ niệm hiện lên trong nỗi nhớ da diết về quá khứ, Quang Dũng đã thể hiện chân thực bức chân dung của những người lính Tây Tiến kiêu dũng và hào hoa, góp phần làm đậm thêm cảm hứng chủ đạo của bài thơ Tây Tiến.

2. Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân và vẻ đẹp thơ mộng của núi rừng

˗ Cảnh đêm liên hoan là một thế giới mĩ lệ, tràn đầy nhạc và thơ, đường nét và sắc màu:

+ Hội đuốc hoa: cách chơi chữ rất nghịch ngợm (đuốc hoa = hoa chúc) không gian rực rỡ, ngập tràn ánh sáng.

+ Bừng: ánh sáng đột ngột, chói lòa.

+ Không gian đâu chỉ có ánh sáng rực rỡ mà còn có tiếng khèn rộn ràng và những vũ điệu mê say, ngây ngất.

+ Giữa khung cảnh lung linh, mộng mị là những cô gái lộng lẫy áo xiêm, vừa e ấp, rụt rè lại vừa uyển chuyển, tình tứ trong những điệu múa (man điệu).

+ Niềm vui như dư âm lan tỏa qua không gian và thời gian (nhạc về Viên Chăn)

˗ Hình ảnh người lính:

+ Kìa em: sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng, mê say, vui sướng trước vẻ đẹp của những nàng thôn nữ yêu kiều. Tiếng gọi làm cho cảnh tượng như sống động trước mắt. Trong thời khắc ấy, những người lính đã hóa thành những người lữ khách đa tình.

+ Lính Tây Tiến còn là những chàng trai mang tâm hồn nghệ sĩ, lãng mạn, hào hoa. Nhập cuộc, hòa mình say sưa theo êm điệu dìu dặt, lính Tây Tiến đưa hồn đến với những mộng ước ngọt ngào (xây hồn thơ).

-Những kỉ niệm về tình quân dân thắm thiết qua những đêm liên hoan văn nghệ đậm màu sắc lãng mạn, trữ tình: “Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa”. Đó còn là  vẻ đẹp của con người mềm mại, uyển chuyển và cảnh vật miền Tây Bắc mờ ảo trong chiều sương trên sông nước Châu Mộc:

+ Chiều sương: không gian vắng vẻ, hoang liêu, huyền ảo trong sương mờ.

+ Hồn lau nẻo bến bờ: ngàn lau chập chờn, lay động; cảnh vật như có hồn, huyền ảo, thiêng liêng, quấn quít không muốn chia xa.

+ Dáng người trên độc mộc : gợi vẻ đẹp vừa mềm mại, duyên dáng, vừa khỏe khoắn, làm bức tranh sông nước vừa chân thực lại vừa mộng mị, liêu trai…

+ Hoa đong đưa: (nhân hóa) những bông hoa dường như cũng có linh hồn, cũng rất duyên dáng, tình tứ.

+ Có thấy, có nhớ: nhà thơ tự hỏi lòng mình với âm điệu đầy ắp bâng khuâng, lưu luyến…

˗ Hình ảnh người lính: tâm hồn lãng mạn của thi nhân, nhạy cảm, biết rung động, có sự giao cảm mãnh liệt với thiên nhiên vạn vật…

⇒ Với “cốt cách hào hoa phong nhã và một thi tài hiếm có” (Trinh Đường), ngòi bút tinh tế của Quang Dũng dường như chỉ ghi vội vài nét đơn sơ nhưng lại nắm bắt được linh hồn của tạo vật. Đoạn thơ là một sự phối hợp tài tình giữa nhạc và họa, âm thanh và màu sắc, ánh sáng và đường nét, “thi trung hữu họa” và như Xuân Diệu từng nhận xét: “Đọc Tây Tiến ta có cảm tưởng như ngậm âm nhạc trong miệng”.  Bút pháp lãng mạn, gợi tả, xúc cảm trữ tình, nỗi nhớ da diết, thể hiện tình yêu, sự gắn bó với thiên nhiên, cuộc sống, con người miền Tây.

3. Bức tượng đài bất tử của người lính Tây Tiến

– Vẻ đẹp lẫm liệt, kiêu hùng, hào hoa, lãng mạn:+ Sẵn sàng đối mặt với những khó khăn, thiếu thốn, bệnh tật: Thân hình tiều tuỵ vì sốt rét rừng của người lính Tây Tiến : không mọc tóc, xanh màu lá

+ Trong gian khổ, hình tượng người lính Tây Tiến vẫn hiện ra với dáng vẻ oai phong, lẫm liệt, vẫn toát lên cốt cách, khí phách hào hùng, mạnh mẽ: xanh màu lá, dữ oai hùm

+ Trong gian khổ nhưng: vẫn hướng về nhiệm vụ chiến đấu, vẫn “mộng qua biên giới” – mộng chiến công, khao khát lập công; vẫn “mơ Hà Nội dáng kiều thơm” – mơ về, nhớ về dáng hình kiều diễm của người thiếu nữ đất Hà thành thanh lịch. Rõ ràng, những nhọc nhằn gian khổ không làm khuất lấp đi tâm hồn lãng mạn, đa tình của người lính.

˗ Thiên nhiên khắc nghiệt đôi khi còn được nhìn bắng con mắt tinh nghịch, táo bạo của những chàng trai Hà Nội: súng ngửi trời, cọp trêu người.

˗ Miền Tây Bắc tổ quốc cũng là nơi ghi dấu những mất mát, hi sinh. Nhưng sự hi sinh ấy không chút bi thương mà trái lại rất nhẹ nhàng, thanh thản: chỉ là …dãi dầu không bước nữa / gục lên súng mũ bỏ quên đời

˗ Sau những hiểm nguy gian khó, vượt qua thử thách khốc liệt nơi rừng sâu núi thẳm, người lính Tây Tiến vẫn cháy bỏng một khát vọng về cuộc sống gian đình yên bình, đầm ấm.

– Những hình ảnh thơ thể hiện tâm hồn mộng mơ, lãng mạn của người lính – những chàng trai ra đi từ đất Hà Nội thanh lịch. Những giấc “mộng” và “mơ” ấy như tiếp thêm sức mạnh để các anh vượt gian khổ để lập nên nhiều chiến công.

⇒ Miền không gian Tây Bắc hoang sơ dữ dội được ngắm nhìn bằng con mắt của người nghệ sĩ – chiến sĩ, không vương chút cảm giác chán nản, bi thương mà trái lại là một cảnh tượng đẹp, hùng vĩ, nhiều thử thách. Cảm quan ấy còn cho thấy nghị lực kiên cường, ý chí sắt đá của những người lính trong những cuộc hành quân vệ quốc vĩ đại.

- Vẻ đẹp bi tráng:

+ Những người lính trẻ trung, hào hoa đó gửi thân mình nơi biên cương xa xôi, sẵn sàng tự nguyện hiến dâng “Đời xanh” cho Tổ Quốc mà không hề tiếc nuối.

+ Hình ảnh “áo bào thay chiếu” là cách nói sang trọng hóa sự hy sinh của người lính Tây Tiến.

+ Họ coi cái chết tựa lông hồng. Sự hy sinh ấy nhẹ nhàng, thanh thản như trở về với đất mẹ: “anh về đất”.

+ “Sông Mã gầm lên khúc độc hành” : Linh hồn người tử sĩ đó hoà cùng sông núi. Con sông Mã đã tấu lên khúc nhạc độc tấu đau thương, hùng tráng để tiễn người lính vào cõi bất tử: Âm hưởng dữ dội tô đậm cái chết bi hùng của người lính Tây Tiến.

+ Hàng loạt từ Hán Việt: Biên cương, viễn xứ, chiến trường, độc hành… gợi không khí tôn nghiêm, trang trọng khi nói về sự hi sinh của người lính Tây Tiến.

- Nhà thơ đã khắc họa thế giới tâm hồn người lính vừa có khí phách hào hùng của người tráng sĩ, vừa có chất lãng mạn, bay bổng của người nghệ sĩ. Nói về cái chết, sự mất mát, hi sinh; miêu tả những nấm mồ lãnh lẽo nơi đất khách quê người mà không mang cảm giác ủy mị, bi thương mà rất nhẹ nhàng, thanh thản…

- Cảm hứng bi tráng còn đến từ sự hòa điệu giữa thiên nhiên và con người : Sông Mã gầm lên khúc độc hành. Gầm (nhân hóa): thanh âm dự dội, chất chứa đau thương. Khúc độc hành: khúc ca bi tráng tiễn đưa linh hồn người chiến sĩ.

⇒ Đoạn thơ đậm khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn, kết hợp vận dụng sáng tạo trong miêu tả và biểu lộ cảm xúc tạo nên những câu thơ có hồn và khắc họa được vẻ đẹp bi tráng của chiến sĩ Tây Tiến. Hình ảnh người lính Tây Tiến phảng phất vẻ đẹp lãng mạn mà bi tráng của người tráng sĩ anh hùng xưa.

4. Lời thề thủy chung với Tây Tiến

– Bốn câu thơ cuối là cảm xúc của nhà thơ khi đã rời xa đơn vị:

+ Thăm thẳm: không chỉ diễn tả khoảng cách về không gian mà còn nói đến khoảng cách thời gian.

+ Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi: tuy vẫn rời xa nhưng sự gắn bó tâm hồn với Tây Tiến là vĩnh viễn. Câu thơ gợi nhớ thơ Chế Lan Viên (Khi ta ở chỉ là nơi đất ở. Khi ta đi đất đã hóa tâm hồn).

˗ Bốn câu thơ như một lời khẳng định khảng khái, dứt khoát, một lời thề son sắt thủy chung với Tây Tiến, đối với thời đại và đối với lịch sử:

– Cụm từ “người đi không hẹn ước” thể hiện tinh thần quyết ra đi không hẹn ngày về. Hình ảnh đường lên thăm thẳm gợi lên cả một chặng đường gian lao của đoàn quân Tây Tiến. Đó cũng là vẻ đẹp tinh thần của người vệ quốc quân thời kì đầu kháng chiến: một đi không trở lại, ra đi không hẹn ngày về.

+ Vẻ đẹp của người lính Tây Tiến sẽ còn mãi với thời gian, với lịch sử dân tộc, là chứng nhân đẹp đẽ của thời đại chống thực dân Pháp.

⇒ Vẻ đẹp bất tử của người lính Tây Tiến được thể hiện ở âm hưởng, giọng điệu của cả 4 dòng thơ. Chất giọng thoáng buồn pha lẫn chút bâng khuâng, song chủ đạo vẫn là giọng hào hùng đầy khí phách.

IV. Đọc tác phẩm: Tây Tiến

Tây Tiến

Quang Dũng

Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!

Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi

Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi

Mường Lát hoa về trong đêm hơi

 

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống

Nhà ai Pha Luông - mưa xa khơi

Anh bạn dãi dầu không bước nữa

Gục lên súng mũ bỏ quên đời!

Chiều chiều oai linh thác gầm thét

Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người

Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khỏi

Mai Châu mùa em thơm nếp xôi

 

Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa

Kìa em xiêm áo tự bao giờ

Khèn lên man điệu nàng e ấp

Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ

Người đi Châu Mộc chiều sương ấy

Có thấy hồn lau nẻo bến bờ

Có nhớ dáng người trên độc mộc

Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa

 

Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh

Áo bào thay chiếu, anh về đất

Sông Mã gầm lên khúc độc hành

Tây Tiến người đi không hẹn ước

Đường lên thăm thẳm một chia phôi

Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy

Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi.

Phù Lưu Chanh, 1948

 (Tuyển tập Quang Dũng, NXB Văn học, Hà Nội, 1999, tr. 96 – 98)

V. Văn mẫu

Đề bài:  Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) trình bày cảm nhận của bạn về một nét đẹp của hình tượng người lính Tây Tiến.

Bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng đã khắc họa thành công hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp hào hoa, lãng mạn. Điều đó được thể hiện ở cái nhìn háo hức, say mê với cảnh sắc đẹp đẽ của thiên nhiên và con người Tây Bắc: Cái vẻ đẹp huyền ảo của núi rừng Tây Bắc trong tâm hồn người lính trẻ là những bông hoa về trong đêm hơi của xứ Mường, là hình ảnh của những làn khói nghi ngút từ bát cơm thơm dẻo, từ những mùa em – mùa của những cánh đồng bậc thang vàng óng, trĩu hạt cùng hương thơm lúa nếp cho bát xôi thơm dẻo. Những người lính xuất thân từ Hà thành cũng háo hức và say mê vẻ đẹp của buổi chiều lãng đãng mây bay. Người lính Tây Tiến hòa mình vào làn sương chập chờn bên núi của buổi chiều sương ấy, vào những hồn lau đang phất phơ theo chiều gió nơi bến bờ. Hẳn là phải tinh thế, tâm hồn thơ mộng lắm mới nhận thấy những vẻ đẹp bình dị như thế. Vẻ đẹp hào hoa lãng mạn cũng thể hiện trong nỗi nhớ của các anh với quê hương và con người nơi các anh gắn bó. Để rồi khi đêm về, những giấc mơ về Hà Nội thương nhớ, về người con gái Hà thành thanh lịch nền nã lại dội về trong nỗi nhớ đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm. Qua đó thấy rằng, người lính Tây Tiến ngoài việc khoác lên mình sức mạnh hào hùng bi tráng, thì chất chưa sâu bên trong hình ảnh sắt đá đấy là những trái tim mềm mại, là những tâm hồn lãng mạn dành cho quê nhà nói chung và đặc biệt dáng kiều thơm trong lòng nói riêng.

Đề bài: Viết bài văn nghị luận So sánh, đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí (Chính Hữu) và Tây Tiến (Quang Dũng)

Viết về đề tài người lính trong cuộc kháng chiến Pháp, không biết đã có bao nhiêu tác phẩm truyện và bài thơ được sáng tác về chủ đề này. Trong số các tác giả nổi tiếng, có Quang Dũng và Chính Hữu. Bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí vẫn là những tác phẩm được độc giả yêu thích và được đánh giá cao. Hãy cùng nhau viết về người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhưng không chỉ là những điểm tương đồng, mà còn là những khác biệt giữa họ.

Khác biệt đầu tiên là về xuất thân. Người lính trong hai bài thơ có hoàn cảnh xuất thân khác nhau, điều này dẫn đến tính cách khác nhau.

Những chiến sĩ Tây Tiến dưới bàn tay nghệ sĩ Quang Dũng chủ yếu bắt nguồn từ tinh thần trẻ trí thức ở thủ đô Hà Nội. Họ bắt đầu cuộc hành trình với niềm tin mãnh liệt về tình yêu quê hương, hy sinh niềm hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Chính điều này làm nên tâm hồn lãng mạn của họ:

'Đêm Hà Nội vuốt mình trong giấc mơ'

Dù đối mặt với những khó khăn khốc liệt trong trận chiến, tinh thần lãng mạn không bao giờ phai mờ trong tâm hồn những lính trẻ. Họ khắc sâu hình ảnh những người phụ nữ yêu quý để làm phong phú thêm cuộc sống, tạo sự cân bằng với thực tại khốc liệt. Họ đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên, ngắm nhìn vẻ đẹp vĩ tuyến của núi rừng Tây Bắc, khẩu súng trong tay cao vút như đang chạm vào bầu trời. Và đặc biệt, những chiến sĩ này mang tâm hồn trẻ trung, hạnh phúc.

Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu không phải là những tư nhân xuất thân từ tầng lớp trí thức, mà chính họ là những con người nông dân chân chất, sống giản dị ở những làng quê bình yên:

'Quê hương tôi, đất mặn sóng biển

Làng nghèo thân thương, đá sỏi nổi bần

Tôi và anh, hai kẻ xa lạ

Chẳng hẹn nhau, phương trời kết nghĩa'

Họ là những chiến sĩ nông dân đến từ những vùng quê nghèo, đất mặn sóng biển, nơi đá sỏi nổi bần. Họ vừa mạnh mẽ, vừa tràn đầy tấm lòng nhân ái. Nếu trước đây họ chỉ quen với cuộc sống cày cấy, làm ruộng nhưng vì tình yêu quê hương, vì sự căm thù với kẻ thù, họ đã bỏ qua mọi điều để 'mặc kệ' ngôi nhà yên bình, sẵn sàng bước vào chiến trường. Bỏ lại giếng nước thơm, bỏ áo vải nâu quen thuộc, những chiến sĩ nông dân khoác lên mình bộ áo xanh quân đội, tay cầm súng bảo vệ quê hương.

Sự khác biệt thứ hai giữa những người lính trong hai bài thơ là vẻ đẹp về ngoại hình. Nhà thơ Quang Dũng miêu tả người lính Tây Tiến với vẻ đẹp ngoại hình, mặc dù họ có vẻ ốm đau nhưng không bao giờ yếu đuối:

'Binh đoàn Tây Tiến, tóc không mọc

Quân phục xanh như lá, mạnh mẽ dữ oai

Mắt trừng nhìn vượt biên giới

Đêm mơ về Hà Nội, hình ảnh kiều diễm thơm lừng'

Với điều kiện chiến tranh thiếu thốn, môi trường chiến đấu trong những khu rừng núi hoang sơ, người lính Tây Tiến xuất hiện với hình ảnh đầu không có tóc, quân phục xanh lá cây ngụy trang hoặc có thể là màu của đồng phục quân đội, thậm chí là biểu tượng xanh vì thiếu chất. Tuy nhiên, họ không hề yếu đuối, ngược lại, họ mang vẻ 'dữ oai'. Bằng ánh mắt trừng, họ truyền đạt tinh thần căm thù đối với kẻ thù, thậm chí cả khi ngủ, họ gửi đi những giấc mơ về chiến thắng ở biên giới.

Ngược lại với người lính Tây Tiến, những chiến sĩ nông dân của Chính Hữu thể hiện vẻ đẹp mộc mạc, hồn hậu với những bộ quần áo rách rưới:

'Áo anh rách vai

Quần tôi vá vài mảnh lụa

Cười buốt giá từ miệng buốt giá

Chân không đôi giày

Thương nhau, tay nắm chặt lấy bàn tay!'

Nét ngoại hình của lính nông dân không tập trung vào đặc điểm khuôn mặt mà đặt nặng vào thiếu thốn của bộ quần áo. Họ phải mặc chiếc áo vá vai rách, quần được vá lên từ những miếng lụa. Trong làn sương sớm, họ đứng gần nhau, chân không che đôi giày, miệng cười buốt giá trong bóng tối. Họ hiện lên không chỉ đơn giản mà còn ấm áp bởi tình đồng chí. Dù là rét buốt hay quần áo rách, nhưng đó chính là lý do tình đồng chí trở nên đặc biệt hơn.

Cả hai bài thơ đều thể hiện tình đồng chí đồng đội, nhưng cách mà người lính thể hiện tình đồng chí khác nhau.

Người lính Tây Tiến, những người trí thức, thể hiện tình cảm của họ một cách tinh tế. Nhà thơ không mô tả trực tiếp sự quan tâm chăm sóc, nhưng thông qua những hồi ức, cảm nhận về đồng đội, nó thể hiện sự gắn bó. Nó là một liên kết chặt chẽ đến nỗi người lính Tây Tiến sẵn lòng:

'Ai lên Tây Tiến mùa xuân kia

Chốn về Sầm Nứa chẳng bao giờ trở lại'

Trong bức tranh tình đồng chí của nhà thơ Chính Hữu, người lính nông dân miêu tả một cách trực tiếp. Đối với họ, tình đồng chí là những người không hẹn trước, đến từ những nơi xa xôi nhưng:

'Súng kề súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét, chung chăn trở thành đôi tri kỷ

Đồng chí ơi!'

Hoặc:

Nắm tay nhau, đêm nay rừng hoang mặn

Dựa gần nhau, đợi giặc tới trong sương

Súng kề súng, trăng treo trên đầu súng'

Từ những bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí, ta thấy vẻ đẹp đặc sắc của người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp được tạo nên bởi sự nghệ thuật của Quang Dũng và Chính Hữu. Dù mang những đặc điểm khác nhau, nhưng những điểm độc đáo ấy lại tạo nên một vẻ đẹp chung cho người lính Việt Nam. Dù ở đâu, là ai, hay xuất thân như thế nào, họ cùng chung lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh để mang lại hạnh phúc cho đồng bào.

Đánh giá

0

0 đánh giá