Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ Ngữ văn 12 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
Đề bài: Viết bài văn nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ.
Dàn ý Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ
Mở bài: Giói thiệu ngắn gọn về hai bài thơ và nêu cơ sở lựa chọn để so sánh, đánh giá.
Thân bài:
Có nhiều cách trình bày nội dung so sánh, đánh giá. Người viết cẩn linh hoạt trong việc lựa chọn cách trình bày phù hợp với hiểu biết và hứng thú của bản thân, điểu này sẽ góp phần quan trọng vào thành công của bài viết. Có thể triển khai các nội dung so sánh, đánh giá theo những cách sau:
- Cách 1: Lân lượt phân tích từng bài thơ, sau đó chỉ ra điểm tương đồng, sự gặp gỡ và những điểm khác biệt, lí giải nguyên nhân của sự tuơng đồng và khác biệt đó; đồng thời đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ. Cách này dễ làm nhưng nhiều khi bị trùng lặp ý và mục đích so sánh không được làm nổi bật.
- Cách 2: Phân tích bài thơ thứ nhất theo các phương diện đã xác định, khi phân tích bài thơ thứ hai sẽ so sánh với bài thơ thứ nhất theo từng phuơng diện và lí giải nguyên nhân của những điểm tương đồng và khác biệt giữa hai bài thơ, từ đó, đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ. Cách này cũng dễ thực hiện và tránh bị trùng lặp, thể hiện được ý so sánh, nhưng mạch so sánh khi trình bày bài thơ thứ nhất dễ bị chìm.
- Cách 3: So sánh lần lượt các phương diện đã lựa chọn đối với hai bài thơ, chỉ ra điểm tương đồng và khác biệt; lí giải nguyên nhân sự tương đồng và khác biệt đó; đánh giá về giá trị và đóng góp của mỗi bài thơ từ các nội dung so sánh. Cách này làm nổi bật được tính chất so sánh nhưng dễ làm mờ tính liền mạch, chỉnh thể của mỗi bài thơ, đòi hỏi nguời viết phải có khả năng tư duy tổng hợp và lập luận chặt chẽ, có sự tinh nhạy trong phát hiện vấn để.
Kết bài: Khẳng địnhý nghĩa của việc so sánh, đánh giá; nêu cảm nhận và ấn tượng của bản thân về các bài thơ.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - Mẫu 1
So sánh, đánh giá hình tượng người lính trong Đồng chí (Chính Hữu) và Bài thơ về tiểu đội xe không kính (Phạm Tiến Duật)
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ cầm súng bảo vệ Tổ quốc có một vị trí hết sức quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật tiêu biểu trong nhiều tác phẩm mà còn là biểu tượng đẹp nhất của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở những mũi nhọn của cuộc kháng chiến để kịp thời ghi lại một cách chân thực và sinh động hiện thực chiến đấu của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ trong những năm đầu đánh Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời đánh Mĩ đã được phản ánh khá rõ nét với những vẻ đẹp khác nhau. Chúng ta có thể thấy rõ điều đó qua bài thơ Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật.
Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu sáng tác năm 1948, in trong tập Đầu súng trăng treo. Hình ảnh người nông dân cầm súng được miêu tả trong bài thơ với vẻ đẹp mộc mạc, bình dị nhưng cũng thật lãng mạn, bay bổng. Là những nông dân quanh năm lam lũ với con trâu, mảnh ruộng, nghe theo tiếng gọi cứu nước, các anh đã tình nguyện từ giã quê hương đi chiến đấu. Phần đông chưa biết chữ, vào quân đội mới bắt đầu học i tờ nhưng họ lại rất giàu lòng yêu nước. Họ hiểu đơn giản mà rất đúng đắn rằng: chiến đấu để bảo vệ tự do cho dân tộc cũng là bảo vệ mảnh vườn, thửa ruộng, mái ấm gia đình. Quyền sống thiết thực của mỗi con người đã thôi thúc họ hành động.Cuộc đời chiến sĩ gian nan, vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định phẩm chất cao đẹp của những người nông dân mặc áo lính. Từ bốn phương trời, không hẹn mà nên, họ gặp nhau, trở thành đồng đội, đồng chí của nhau. Sinh ra và lớn lên từ những vùng quê nghèo khổ, cơ cực, các anh mang bản chất hồn nhiên, chất phác của người lao động. Đi chiến đấu chống xâm lăng, các anh để lại sau lưng lũy tre, mảnh ruộng quen thuộc và mái tranh nghèo cùng với những người thân.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.”
Mặc kệ là lối nói tự nhiên, mộc mạc của người nông dân, bày tỏ thái độ dứt khoát trọng việc nước hơn việc nhà. Dứt khoát thế nhưng không khỏi nhớ tới quê hương, làng mạc, gia đình. Nỗi nhớ của các chiến sĩ đơn giản và cụ thể: ruộng nương, giếng nước, gốc đa, mái tranh... gắn liền với nơi chôn nhau cắt rốn là những miền quê nghèo khó. Trong môi trường quân đội, các anh gắn bó, chia sẻ vui buồn, gian khổ, sông chết với nhau. Còn gì chân thành hơn, tin tưởng hơn cái siết tay của đồng đội truyền hơi ấm và sức mạnh cho nhau lúc gian nan, nguy hiểm?Buổi đầu kháng chiến, quân và dân ta đánh giặc gần như với hai bàn tay trắng. Bộ đội có gì mặc nấy, có gì dùng nấy, đâu được trang bị đầy đủ như bây giờ. Đẹp biết mấy là nụ cười lạc quan của người chiến sĩ. Cười trong buốt giá là thái độ coi thường khó khăn, gian khổ, là niềm tin vững chắc vào ngày mai chiến thắng. Bài thơ kết thúc bằng một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng rất sâu sắc:
“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”
Đó là hình ảnh đơn sơ mà tuyệt vời thi vị về anh Vệ quốc thời kì đầu kháng chiến, đồng thời cũng là lời ngợi ca tình đồng chí thiêng liêng giữa những con người đang kề vai sát cánh bảo vệ Tổ quốc, đem lại cuộc sống thanh bình cho dân tộc. Nếu bài thơ Đồng chí là hình ảnh của người lính Cụ Hồ trong kháng chiến chống Pháp thì Bài thơ về tiểu đội xe không kính là hình ảnh của người lính Giải phóng trong kháng chiến chống Mĩ gian khổ và quyết liệt.Người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn vô cùng dũng cảm, có sức chịu đựng gian khổ tuyệt vời nhưng cũng tràn đầy tinh thần lạc quan cách mạng. Xe lăn bánh cũng có nghĩa là người chiến sĩ lái xe bắt đầu bước vào trận đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ trong gang tấc nhưng họ vẫn giữ vững tư thế hiên ngang, tự tin hiếm có.Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, các chiến sĩ lái xe của ta thường ở thế bị động. Vậy dựa vào đâu mà họ ra trận với phong thái ung dung như vậy? Chỗ dựa tinh thần lớn lao nhất chính là niềm tin tất thắng vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, là tình cảm tất cả vì miền Nam ruột thịt, là chân lí "Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ" mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc khảng khái tuyên ngôn. Họ hiểu rằng chiến trường và đồng đội đang cần vũ khí, lương thực, thuốc men... để đủ sức đánh trả quân thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do thiêng liêng của Tổ quốc, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Ai đã từng một lần đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời kì chống Mĩ mới thấu hiểu những gian khổ, hiểm nguy của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh hiểm trở. Mùa mưa, mưa như thác đổ. Mùa khô, xe chạy bụi bay mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì bom đạn giặc Mĩ liên tục trút xuống những đoàn xe nối nhau ra mặt trận. Xe có kính người lái xe đã vất vả, xe không có kính lại càng vất vả biết chừng nào!Đoàn xe chạy tạo nên những cơn lốc bụi mù trời. Xe không kính, gió lùa mạnh vào cabin khiến người lái xe tưởng như nhìn thấy gió và bụi. Gió làm cay mắt, chảy nước mắt mà lại nói là gió vào xoa mắt đắng thì quả là độc đáo và hóm hỉnh. Dường như các chàng lái xe ngạo nghễ thách thức cái khí hậu khắc nghiệt của rừng núi Trường Sơn. Không còn lớp kính ngăn cách, con người và thiên nhiên như gần gũi hơn, do đó mà tác động của cảnh vật đối với sự cảm nhận của con người tăng lên gấp bội; sao trời ban đêm, cánh chim ban ngày như sa, như ùa vào buồng lái. Xe lao lên phía trước, con đường lùi lại phía sau, người lái xe có cảm giác nhìn thấy con đường chạy thẳng vào tim. Câu thơ chứa đựng một ý nghĩa sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam chính là đích đến của trái tim người lính.
Mỗi vất vả, gian nan đều được nhà thơ Phạm Tiến Duật miêu tả bằng những hình ảnh chân thực, giản dị nhưng để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Gian khổ tột cùng nhưng hào hùng cũng tột bực. Đó là chất lạc quan thanh thản của một dân tộc, chất dũng cảm thuộc về bản chất con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, phớt đời, pha chút ngang tàng, rất lính. Đoạn kết của bài thơ thật đẹp. Chất hiện thực nghiệt ngã và lãng mạn bay bổng hòa quyện với nhau:
“Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,
Chỉ cần trong xe có một trái tim.”
Càng gần thắng lợi, càng nhiều gian nan, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh ác liệt in dấu rõ ràng trên những chiếc xe vận tải quân sự: không kính, không đèn, không mui, thùng xe đầy vết xước do bom đạn giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam - tiền tuyến lớn đang thôi thúc, vẫy gọi bởi trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm công dân trước vận mệnh của đất nước, dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu thơ cuối là một hoán dụ nghệ thuật rất có ý nghĩa, đã tôn vinh tầm vóc những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao giá trị nội dung, nghệ thuật của bài thơ. Tinh thần dũng cảm, thái độ thanh thản, lạc quan của những chiến sĩ lái xe trong mưa bom, bão đạn xứng đáng tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng cách mạng của tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời đánh Mĩ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ tự sự nhưng đậm chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh những chiến sĩ lái xe bằng tấm lòng cảm phục và mến thương sâu sắc. Họ là những con người tự nguyện dấn thân, vui trong gian khổ, chấp nhận hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên nhưng giàu sức gợi cảm, hình ảnh sáng tạo độc đáo, nhịp thơ tự do, phóng khoáng... Tất cả những yếu tố đó làm nên cái hay, cái đẹp của bài thơ. Song điều quý giá nhất vẫn là cái tình, là sự hóa thân của tác giả vào nhân vật để tìm tòi, phát hiện ra những hạt ngọc long lanh trong tâm hồn thế hệ trẻ anh hùng của một dân tộc anh hùng.
Hai bài thơ của hai nhà thơ chiến sĩ được sáng tác trong hai hoàn cảnh, thời điểm khác nhau nhưng cùng chung bút pháp lãng mạn và hiện thực và đều nhằm mục đích ca ngợi vẻ đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh giữ nước. Xuyên suốt mỗi bài thơ là cái tình, là trách nhiệm công dân của người chiến sĩ trước vận mệnh đất nước. Tự nguyện dấn thân, chấp nhận gian khổ, hi sinh, trước sau giữ vững chí khí anh hùng và quyết tâm chiến đấu... đó là những nét đẹp nổi bật của hình tượng người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu và Phạm Tiến Duật.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - Mẫu 2
So sánh bức tranh mùa thu của 2 bài thơ: Đây mùa thu tới - Xuân Diệu và Đất nước - Nguyễn Đình Thi.
Văn học từ muôn đời xưa, cho đến muôn đời sau bao giờ cũng viết về con người. Dù chỉ tả một làn mây dòng suối, cành lá, tiếng chim, thì cũng nhằm nói về con người. Cho nên thiên nhiên trong văn học là những bức tranh tâm trạng. Người buồn thì cảnh buồn, người vui thì cảnh vui. Qua hai bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và Đất nước của Nguyễn Đình Thi, chúng ta cũng có thể thấy rõ điều đó.
Mùa thu từ bao đời nay và sẽ mãi mãi là nguồn thi hứng, là đề tài hấp dẫn đối với các thi nhân. Các nhà thơ nổi tiếng thế giới cũng như Việt Nam như Huy-gô, Rim-bô, Véc-len, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tản Đà đều đã có những bài thơ rất đặc sắc dành cho mùa thu. Nhưng không vì thế mà thơ viết về mùa thu trở nên mòn sáo, đơn điệu. Bởi cảnh thu thời nào cũng vậy, nhưng lòng người thì mỗi thời mỗi khác. Vì thế cảnh sắc mùa thu trong mỗi bài thơ đều có những vẻ đẹp riêng độc đáo. Chính trạng thái cảm xúc của thi nhân đã quy định cảnh sắc mùa thu trong thơ.
Bài Đây mùa thu tới là một bài thơ hay về mùa thu của Xuân Diệu trước cách mạng. Bài Đất nước (1948-1955) của Nguyễn Đình Thi không phải là bài thơ viết về mùa thu, nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Hai bài thơ viết trong hai giai đoạn lịch sử khác nhau, thể hiện hai trạng thái cảm xúc khác nhau của nhà thơ trước mùa thu.
Cảnh sắc mùa thu trong bài Đây mùa thu tới thấm một nỗi buồn. Đó là cái buồn muôn thuở, nhưng cũng là cái buồn của thời đại, cái buồn của riêng “thơ mới”. Buồn vì cái lạnh len lỏi đâu đây gợi nỗi cô đơn, buồn vì sự chia lìa từ hoa cỏ, chim muông đến con người. Buồn vì một nỗi nhớ nhung ngẩn ngơ phảng phất trong không gian và trong lòng người. (Bài thơ mở đầu bằng hình ảnh rặng liễu buồn như những cô gái xoã tóc chịu tang, cùng hàng ngàn dòng lệ hàng nối hàng tuôn rơi. Các khổ thơ tiếp theo tác giả tái hiện cảnh hoa, lá rụng, cành cây khô gầy, vầng trăng bơ vơ. Sương mờ không khí trời u uất... tất cả những hình ảnh ấy gợi lên sự chia ly, tàn tạ, phai nhạt làm nổi rõ nỗi buồn cô đơn).
Cảnh thu buồn hiu hắt bi thương nhưng vẫn có cái gì đó dịu nhẹ, trẻ trung và rất đẹp. Bởi cảnh thu ngoài việc được so sánh với một hình ảnh độc đáo, còn được Xuân Diệu miêu tả với vẻ đẹp thơ mộng duyên dáng, tươi Bằng với tấm “áo mơ phai dệt lá vàng” vừa thực vừa ảo. Sắc vàng mùa thu đã làm sáng cả không gian.
Như vậy mùa thu bên cạnh cái vẻ đìu hiu buồn, một cái buồn rất đẹp của cảnh vật, vẫn chứa đựng bên trong một sức sống trẻ trung. Ấy là cái chất trẻ trung được phát hiện bằng con mắt “xanh non” của tác giả là cái sức sống của tuổi trẻ và tình yêu xốn xao trong cảnh vật.
Cảnh thu rất đẹp mà buồn vì lòng người lúc ấy còn buồn bã. Nỗi buồn của Xuân Diệu cũng là nỗi buồn của cả một thế hệ trí thức tiểu tư sản đương thời “yêu đời nhưng đau đời” (Huy Cận) chưa tìm được lối ra. Nỗi buồn ấy chính là tấm lòng thiết tha yêu đời, thiết tha giao cảm với đời.
Đang trong tâm trạng ấy cho nên nhà thơ rất nhạy cảm trước khung cảnh đất trời chuyển vào thu:
Đây mùa thu tới, mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng
Câu thơ cất lên như một tiếng reo khẽ, vồ vập, khi chợt nhận ra vẻ đẹp bất ngờ của mùa thu. Phải có tấm lòng yêu đời thì giữa cảnh thu buồn bã, nhà thơ mới có thể đón nhận được một niềm vui nho nhỏ như thế. Sự nhạy cảm của hồn thơ Xuân Diệu còn được thể hiện qua cách cảm nhận của mùa thu. Nếu trong phần mở đầu, tác giả phát hiện cảnh thu bằng thị giác để tái hiện sắc thu thì đến phần giữa bài thơ tác giả đã thâm nhập vào bên trong cảnh vật để cảm nhận tinh tế bằng cảm giác của mình: Cành lá run rẩy, sắc lá đổi màu, nhành cây ớn lạnh đến tận xương khô, rét mướt luồn trong gió. Cuối cùng nhà thơ gửi gắm tâm trạng của mình qua nỗi lòng của người thiếu nữ. “Tựa cửa nhìn xa nghĩ ngợi gì”, một nỗi nhớ thương ngơ ngác mặc dù cô thiếu nữ không nói, nhưng rõ ràng đó là tư thế suy tư của người muốn đón nhận, của tâm trạng đang hướng về cuộc đời.
Tóm lại: cảnh thu, lòng người trước mùa thu có buồn bã cô đơn, nhưng không quá tuyệt vọng mà vẫn tươi trẻ. Toát lên từ toàn bộ bài thơ cảnh thu là vẻ đẹp của một nỗi buồn. Đó là nỗi buồn đầy cảm xúc của cái tôi cô đơn biểu hiện một niềm yêu đời, khát khao giao cảm với đời của nhà thơ Xuân Diệu.
Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi là bài thơ về “Đất nước rũ bùn đứng dậy sáng loà” qua cuộc kháng chiến 9 năm (1946-1954) nhưng cảm hứng đất nước lại bắt đầu từ cảm hứng mùa thu. Mở đầu là hình ảnh mùa thu “Sáng mát trong như sáng năm xưa”, “Gió thổi mùa thu hương cốm mới”. Đó là cảnh sắc thân thuộc của mùa thu Việt Nam muôn đời. Cảnh thu trong sáng, vui tươi. Đoạn thơ tiếp theo, tác giả khắc hoạ cảnh thu Hà Nội ra đi vì nghĩa lớn. Đó là cảnh thu với vẻ đẹp thơ mộng mà xao xác buồn, buồn vì tưởng như thiếu hẳn bóng người. Buồn vì niềm bâng khuâng lưu luyến của sự chia ly “Người ra đi đầu không ngoảnh lại” nhưng thực ra thì chẳng muốn rời:
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy
Còn mùa thu hiện tại là mùa thu sau Cách mạng tháng Tám mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, lúc này đang là chiến khu tự do, căn cứ địa của kháng chiến chống Pháp, nơi Bác Hồ, Chính phủ kháng chiến đang điều khiển cuộc chiến tranh thần thánh của dân tộc. Nguyễn Đình Thi đã đến với mùa thu này bằng một niềm vui tràn ngập, niềm vui của người tự thấy mình được tự do, dân tộc được tự do, ít ra là ở chiến khu này. Đang trong tâm trạng vui, nên tác giả thấy cảnh thu hiện lên với vẻ đẹp tươi sáng, đầy sức sống, đầy âm thanh màu sắc rộn rã, tươi vui. Bầu trời như thay áo mới, cảnh vật như hồi sinh, những âm thanh của cảnh vật và cuộc sống con người cũng ríu ran ríu rít đầy niềm vui.
Và không gian mùa thu như trải dài, mở rộng theo những con đường, dòng sông, đồng lúa, cánh rừng trùng điệp của đất nước.
Cảm hứng của Nguyễn Đình Thi trong bài Đất nước là cảm hứng tự hào làm chủ của một nghệ sĩ đang tham gia trực tiếp vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc độc lập tự do. Trong đoạn thơ nói về mùa thu Hà Nội 1946, tác giả có thể hiện tâm trạng buồn nhưng đó là nỗi buồn của một người tha thiết yêu quê hương mà phải tạm biệt quê hương lên đường vì nghĩa lớn. Nỗi buồn này khác nỗi buồn của Xuân Diệu.
Cảm hứng chủ đạo của nhà thơ vẫn là niềm vui, niềm tự hào về đất nước giang sơn gấm vóc, về độc lập chủ quyền vì vậy đoạn thơ viết về mùa thu chiến khu Việt Bắc vang lên sang sảng tự hào đầy kiêu hãnh.
Cùng viết về mùa thu mà Xuân Diệu chỉ thấy một mùa thu rất đẹp mà rất buồn. Còn Nguyễn Đình Thi lại tiếp nhận một mùa thu trong trẻo, đầy âm thanh, màu sắc, đầy niềm vui, sức sống của cảnh vật và con người. Điều đó, xét cho cùng có nguyên nhân thời đại chi phối hồn thơ. Chính cảm xúc về thời đại đã quy định cảm hứng, qui định tình thu của nhà thơ và từ cảm hứng, tình thơ của nhà thơ lại qui định cảnh sắc mùa thu trong thơ.
Trước cách mạng, Xuân Diệu sống trong cảnh ngộ của người dân nô lệ. Nỗi buồn của người dân mất nước đã tạo nên cách nhìn, cách cảm của thi nhân trước mùa thu. Từ sau cách mạng Xuân Diệu đã đến với đất nước bằng niềm vui, niềm tự hào nên cảnh thu cũng đã thay đổi.
Ba năm qua nay lại mùa thu tới
Mỗi lần thu tới lại mùa thu tới
Thu từ nay không thu thảm thu sầu
Mà thu sướng nhuộm màu xuân mát mát
Lá biếc xanh xanh
Trời thu bát ngát
Da tươi thịt thắm
Nở lại cùng sương
Ảnh mấy bay như múa khúc nghê thường
Nắng hạ giọng nói những điều dịu sáng.
Còn Nguyễn Đình Thi viết bài Đất nước sau cách mạng lúc nhà thơ đã là một người dân tự do, cùng nhân dân làm chủ đất nước. Thời đại mới, đã tạo nên cảm hứng mới cho nhà thơ. Vì vậy, cảnh thu trong cách nhìn, cánh cảm nhận của nhà thơ trở nên trong trẻo, tươi sáng, tràn đầy sức sống niềm vui.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - Mẫu 3
So sánh Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm và Đất nước - Nguyễn Đình Thi
Đất nước từ lâu đã trở thành hình tượng tiêu biểu xuyên suốt nền văn học Việt Nam. Trong hành trình dựng nước và giữ nước, có rất nhiều nhà thơ, nhà văn đã chọn đất nước làm chủ đề sáng tác. Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi là hai trong số đó. Hai bài thơ cùng tên Đất nước của họ đã đem lại cho người đọc những cảm nhận mới mẻ, đầy đủ, trọn vẹn và sâu sắc về đất nước
Hai tác phẩm cùng ra đời sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân được làm chủ đất nước, đất nước được tái hiện là đất nước giàu đẹp, anh hùng. Cùng sử dụng giọng thơ trữ tình - chính luận để thể hiện hình tượng đất nước nhưng dưới những rung cảm thẩm mĩ khác biệt, đất nước trong mỗi bài thơ lại mang những nét riêng biệt, độc đáo.
Đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi mang màu sắc hiện đại là chính. Tính dân tộc thể hiện trong vẻ đẹp trường cửu của mùa thu xứ sở, của gió heo may, của hương cốm mới. Đặc biệt là cảm giác xao xuyến lòng người, gợi thương gợi nhớ bâng khuâng:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày đã xa
Rồi nối tiếp là những hình ảnh im đậm sắc màu Việt Nam trong chiều sâu tâm hồn dân tộc:
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Hình tượng đất nước hiện ra với những hình ảnh thơ xúc động kết nối mạch ngầm truyền thống dân tộc:
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về
Đất nước ấy là đất nước trong chiến tranh vệ quốc của thế kỉ XX. Hình tượng đất nước được dựng xây ấp ủ và đúc kết, nuôi dưỡng trong suốt cuộc kháng chiến dài 9 năm. Những đau thương đất nước phải gánh chịu khi ấy dưới ngòi bút Nguyễn Đinh Thi hiện lên vô cùng xót xa:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Trong bản tuyên ngôn Bình Ngô đại cáo năm xưa của Nguyễn Trãi, tác giả đã vạch trần tội ác của giặc xâm lược, tái hiện những đau thương của nhân dân Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ. Còn Nguyễn Đình Thi đã tái hiện những cánh đồng chảy máu, dây thép gai đâm nát trời chiều, hiện đại đau đớn, gợi nỗi đau vô tận và sự căm thù vô biên.
Từ trong đau thương và căm thù ấy, cả dân tộc đã kiên cường bất khuất đứng lên:
Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước, thương nhà.
Xiềng xích hữu hạn và trời đầy chim và đất đầy hoa được sử dụng thành công đã diễn tả tinh thần bất khuất của dân tộc. Súng đạn là cái cụ thể, lòng dân ta yêu nước thương nhà là cái trừu tượng. Dùng cái cụ thể để bắn cái trừu tượng cũng như dùng cái hữu hạn để khóa cái vô hạn là không thể. Điều đó nói lên sự bất lực của kẻ thù và sự bất diệt của dân tộc ta.
Nổi bật trong bài thơ là hình tượng đất nước trong ánh sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và chiến thắng chói lòa:
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa
Trong cảm xúc và suy tư, bức chân dung đất nước được khắc họa vừa cụ thể vừa âm vang chiến trận, vươn tới hình tượng sử thi hoành tráng giàu sức khái quát. Nước Việt Nam từ bùn lầy của nô lệ, từ đau thương trong máu lửa đã thức dậy mạnh mẽ làm nên thiên thần thoại lịch sử với chiến thắng huy hoàng.
Khác với Nguyễn Đình Thi, đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm lại là một đất nước trong màu sắc văn hóa dân gian. Nhà thơ đã thể hiện tư tưởng mới mẻ Đất nước của nhân dân.
Mở đầu bài thơ, khi nói về sự hình thành, lớn lên của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã miêu tả đất nước từ chiều sâu của văn hóa dân gian, của phong tục tập quán và lời kể của bà, lời ru của mẹ, từ muối mặn, gừng cay, từ những giọt mồ hôi vất vả, tảo tần.
Đất nước là những gì quen thuộc mà cũng đầy tôn kính, thiêng liêng:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Khái niệm đất nước được làm rõ trong thước đo của thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông, thước đo của lịch sử, của địa lí. Đó là truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, là truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, giải thích quá trình sinh thành và lớn lên của dân tộc, cũng là quá trình trưởng thành bền vững của hình tượng đất nước. Không gian địa lí không chỉ là sông núi, cánh đồng... mà còn là những không gian gần gũi và quen thuộc của cuộc sống con người nơi anh đến trường, nơi em tắm. Đồng thời cũng là nơi sinh tồn của bao thế hệ, nó hóa thân trong mỗi người như Trong anh và em hôm nay / Đều có một phần đất nước. Điều đó cho thấy sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, cá nhân với cộng đồng, giữa cái nhỏ bé với cái lớn lao, giữa cái cụ thể với cái trừu tượng, giữa vật chất với tinh thần trong cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm.
Hình tượng đất nước còn được soi chiếu trong cái nhìn của văn hóa dân gian:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Tất cả cái tên, cảnh vật thiên nhiên dường như đều là sự hóa thân những phẩm chất cao đẹp của nhân dân. Chất liệu đặc biệt ấy đã tạo nên hình tượng đất nước thiêng liêng, thân thiết bội phần, được xây dựng qua bề dày bốn nghìn năm bởi những con người vô danh:
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mà đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Đất nước được tạo ra từ đôi tay và cuộc đời của rất nhiều con người dù không tên không tuổi nhưng công lao của họ luôn được ghi nhớ trong chính dáng hình dân tộc. Để rồi từ đó, chúng ta có thể cảm nhận được hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa có bề dày của lịch sử, bề rộng của không gian địa lí, bề sâu của văn hóa, phong tục tập quán. Chính những phát hiện cùng với cách thể hiện mới mẻ ấy đã nêu bật được một tư tưởng cốt lõi: Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo chọn lọc sáng tạo những cái tiêu biểu và ý nghĩa nhất của văn hóa dân gian để xây dựng hình tượng đất nước. Đất nước chính vì thế đã trở thành đóng góp quan trọng của giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại khi tạo dựng chân dung đất nước.
Có thể nói, mỗi bài thơ dưới ngòi bút của hai phong cách khác nhau đều mang những nét đặc biệt khác nhau. Đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đều khắc họa hình tượng đất nước thật đẹp và đáng quý. Một bên là đất nước kiên cường, bất khuất trong máu lửa đau thương đứng dậy, một bên là Đất Nước của nhân dân, của ca dao, thần thoại. Song cả hai đều thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc và cảm động. Hai bài thơ đã đóng góp cho văn học dân tộc hai tác phẩm xuất sắc về hình tượng đất nước đồng thời để lại trong lòng người đọc những rung động thẩm mĩ và những cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn về Tổ quốc và nhân dân. Từ đó giúp người đọc thêm yêu quê hương, đất nước mình.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - Mẫu 4
Thiên nhiên luôn là nguồn cảm hứng vô tận cho các thi nhân. Nhà thơ Thanh Hải và nhà thơ Hữu Thỉnh cũng góp vào kho tàng thơ ca Việt Nam hai bài thơ về thiên nhiên rất hay đó là "Mùa xuân nho nhỏ" và "Sang thu". Hai bài thơ, hai cảm xúc nhưng lại chung nguồn cảm hứng và tình yêu với thiên nhiên đất nước được biểu hiện qua những hình ảnh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ.
Nếu như bài thơ "Mùa xuân nho nhỏ" của nhà thơ Thanh Hải viết về mùa xuân của thiên nhiên, đất nước cùng những khát vọng đẹp đẽ của nhà thơ thì thi phẩm "Sang thu" của Hữu Thỉnh lại viết về khoảnh khắc giao mùa từ hạ sang thu. Tuy cùng viết về đề tài thiên nhiên nhưng mỗi thi phẩm lại có những nét đặc sắc riêng, độc đáo.
Bài thơ Mùa xuân nho nhỏ viết về mùa xuân tươi đẹp xứ Huế. Ngay trong phần mở đầu bài thơ, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh mùa xuân tươi đẹp:
"Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ơi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng"
Thanh Hải đã không lựa chọn miêu tả chi tiết mùa xuân xứ Huế, ông chỉ sử dụng vài nét chấm phá để vẽ lên bức tranh mùa xuân của mình. Đó là một bông hoa nhỏ "tím biếc" "mọc " lên giữa "dòng sông xuân", đó là âm thanh chim "chiền chiện" đang ca hót líu lo giữa bầu trời cao rộng. Tất cả đều đang gợi lên hình ảnh về một mùa xuân tươi vui, rộn rã.
Ở ngay dòng thơ đầu tiên, nhà thơ đã cố ý đặt từ "mọc" lên đầu câu thơ để nhấn mạnh sự đột ngột, bất ngờ của những dấu hiệu về mùa xuân khi xuất hiện. Đóa hoa "tím biếc" phải chăng là một đóa lục bình đang trôi nhẹ trên sông Hương xanh biếc, một biểu tượng của xứ sở Huế thân yêu? Và những chú chim "chiền chiện" - kẻ báo tin của mùa xuân thì đang cất lên những tiếng hót rộn rã mừng mùa xuân đang về. Từ "ơi" được nhà thơ đặt ngay đầu câu thơ như tiếng gọi tha thiết, thân thương với những chú chim đang ca hót. Tiếng hót ấy khiến cho nhà thơ phải bồi hồi, xúc động mà trách cứ trong niềm thương mền:
"Hót chi mà vang trời"
Lời trách cứ ấy nghe thật đậm phong vị của xứ Huế. Tiếng chim trên cao gọi mùa xuân như đang cô đặc lại, lắng xuống, tạo thành những giọt mật của mùa xuân, của thiên nhiên đất trời đang rơi xuống đất. Hay phải chăng đó là những giọt mưa xuân đang phấp phới bay trong không gian ngập sắc xuân? Nhưng dù đó là gì thì cũng khiến nhà thơ Thanh Hải vô cùng xúc động, bồi hồi mà đưa bàn tay "hứng" lấy từng "giọt long lanh" đó. Động tác "hứng" của nhà thơ thật nhẹ nhàng, uyển chuyển bởi nó chứa đựng sự nâng niu, trân trọng mà ông dành cho mùa xuân. Ở đây, Thanh Hải đã sử dụng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác, ông đã biến mùa xuân trở thành một thực thể hữu hình để cầm, nắm, chạm, nếm thử một cách thích thú.
Bức tranh thiên nhiên được nhà thơ dựng lên trong tình yêu tha thiết với thiên nhiên, muốn tận hưởng mùa xuân từ những giây phút đầu tiên. Mùa xuân trên quê hương xứ Huế của ông là những hình ảnh thiên nhiên gần gũi nhất, thân thương nhất, giản dị nhất.
Còn đối với nhà thơ Hữu Thỉnh, ông lại chọn viết về mùa thu. Bức tranh chớm thu của quê hương vùng đồng bằng Bắc Bộ hiện lên với những hình ảnh thật giản dị, mộc mạc, thân thương:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se
Sương chùng chình qua ngõ
Hình như thu đã về"
Mùa thu đối với Hữu Thỉnh được gợi mở bằng những dấu hiệu thật quen thuộc: đó là hương ổi chín đang lan toả trong làn "gió se" lành lạnh, là màn sương mù bao phủ khắp xóm thôn. Ổi vốn là thức quả quen thuộc của người dân Việt Nam, nó xuất hiện để báo hiệu cho mùa thu của thiên nhiên, đất trời. Và "hương ổi" là thứ đã đánh thức những giác quan tinh tế nhất của nhà thơ, để ông nhận ra sự xuất hiện đột ngột của mùa thu:
"Bỗng nhận ra hương ổi
Phả vào trong gió se"
Từ "bỗng" được nhà thơ đặt ở đầu câu thơ cho thấy cảm giác đột ngột, bất ngờ, ngỡ ngàng của nhà thơ khi ông chợt nhận ra mùi thơm của "hương ổi" đang lan tỏa trong không khí. Đó là dấu hiệu của mùa thu, những dấu hiệu sớm nhất, quen thuộc nhất, thêm vào đó là làn gió se lạnh khô đang bao trùm lấy không gian.
Một dấu hiệu khác báo hiệu mùa thu về đó là màn sương mù đang "chùng chình" đi qua ngõ xóm. Động từ "chùng chình" diễn tả sự chậm rãi một cách cố ý. Nhà thơ đã nhân hóa màn sương khiến nó như có linh hồn. Nó đang chậm chạp đi qua từng ngõ nhỏ, báo hiệu sự chớm thu của đất trời. Và cũng chính lúc này, nhà thơ mới giật mình, thảng thốt mà nhận ra rằng:
"Hình như thu đã về".
Hữu Thỉnh đã tinh tế nắm bắt những tín hiệu chớm thu của đất trời đồng thời ông cũng thấy những chuyển biến của thiên nhiên khi bước vào thu:
"Sông được lúc dềnh dàng
Chim bắt đầu vội vã
Có đám mây mùa hạ
Vắt nửa mình sang thu"
Mùa thu, thiên nhiên lại mang một vẻ đẹp thật khác biệt. Nếu như dòng sông mùa hạ cuồn cuộn chảy những nước thì giờ đây nó lại dịu lại, "dềnh dàng", chậm chạp, thong thả chảy trong êm đềm. Những chú chim nhỏ mùa hạ đã ca hót suốt mùa thì nay lại "vội vã" chuẩn bị để đi tránh rét. Hữu Thỉnh đã sử dụng biện pháp đối lập cùng hai từ láy tượng hình "dềnh dàng", "vội vã" để diễn tả sự đối lập của vạn vật khi màu thu sang.
Nhưng đặc biệt nhất trong bức tranh thiên nhiên này phải kể tới hình ảnh "đám mây mùa hạ". Đám mây ấy chẳng còn mang hơi nóng của mùa hạ nhưng cũng chưa hoàn toàn có được sự thanh thoát, nhẹ nhàng của mùa thu. Đám mây mùa hạ ấy hình như còn tiếc nuối điều gì với mùa hạ mà mới chỉ "vắt nửa mình sang thu". Đây là hình ảnh miêu tả liên tưởng nhân hoá rất độc đáo trong các tác phẩm thi ca viết về thiên nhiên của Việt Nam
Mùa thu đã sang thế nhưng đất trời vẫn còn hơi nắng. Những cơn mưa mùa hè bất chợ cũng đã dần vơi đi. Cả những tiếng sấm cũng đã dịu bớt. Tất cả đều báo hiệu một mùa thu đã sang:
"Vẫn còn bao nhiêu nắng
Đã vơi dần cơn mưa
Sấm cũng bớt bất ngờ
Trên hàng cây đứng tuổi"
Hai bài thơ tuy được viết trong hai hoàn cảnh khác nhau nhưng đều khắc hoạ hình ảnh của thiên nhiên cùng tình yêu thiên nhiên, đất nước tha thiết, niềm cảm hứng dạt dào với cảnh sắc quê hương. Nếu như Thanh Hải cho ta cảm nhận một mùa xuân êm đềm, rộn rã của con người trong thời kì xây dựng đất nước thì Hữu Thỉnh lại mang đến cảm nhận về một mùa thu yên bình, dân dã, quen thuộc. Cả hai thi phẩm đều mang đến cho người đọc những cảnh sắc thiên nhiên quê hương đẹp đẽ, khó quên!
Hai bài thơ Sang thu và Mùa xuân nho nhỏ là hai bức tranh thiên nhiên đầy cảm xúc của hai nhà thơ tài năng Hữu Thỉnh và Thanh Hải. Hai bài thơ đã góp phần vào những thi phẩm viết về thiên nhiên đặc sắc nhất trong thi đàn Việt Nam.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - Mẫu 5
Tự tình II và Thuyền và biển là hai bài thơ tiêu biểu của hai nữ thi sĩ Việt Nam Hồ Xuân Hương và Xuân Quỳnh. Mặc dù thuộc hai thế hệ nhưng quan điểm, những trăn trở suy tư của hai nhà thơ về thân phận, cảm xúc của người phụ nữ đều được thể hiện trọn vẹn qua hai tác phẩm và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Tự tình II nằm trong chùm thơ Tự tình gồm có ba bài. Cả ba bài đều thể hiện nhất quán nỗi tự thương mình trong tình cảnh cô đơn, lẻ loi và khao khát hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt. Những vần thơ còn thể hiện sự vùng vẫy, bứt phá để dành hạnh phúc cho chính mình, nhưng cuối cùng vẫn phải nhận về thất bại cay đắng. Thân phận người phụ nữ trong bài thơ được thể hiện đầy cay đắng xót xa, họ ý thức về thân phận mình, ý thức về tuổi thanh xuân trôi nhanh mà hạnh phúc lứa đôi chưa được tròn vẹn.
Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non.
Chén rượu đưa hương say lại tỉnh
Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.
Trước thực tại quá đỗi phũ phàng, dường như người phụ nữ cũng phải chấp nhận: “Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại/ Mảnh tình san sẻ tí con con”, câu thơ cất lên đầy ai oán chua xót. Trong một bài thơ khác Hồ Xuân Hương đã từng viết: “Chém cha cái kiếp lấy chồng chung/ Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng” để cho thấy rõ hơn số phận bất hạnh của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tuổi xuân người con gái có được là bao nhiều, xuân “lại lại” đồng nghĩa với thanh xuân người con gái ngày một ngắn lại, vậy mà mảnh tình cũng phải san sẻ, chia năm sẻ bảy. Câu thơ với cách dùng từ độc đáo, cho thấy sự nhỏ dần, ít dần của tình duyên: mảnh tình – nhỏ bé, san sẻ - càng ít hơn và cuối cùng phần nhận được chỉ còn lại “tí con con”.
Cũng thể hiện khát vọng của người phụ nữ, Xuân Quỳnh của thế kỷ XX đã thể hiện được những rung động, tha thiết trong tình yêu.
Em sẽ chia sẻ với anh
…
Đưa thuyền khắp nơi
Bài thơ bắt đầu với hình ảnh của thuyền và biển. Thuyền và biển là hai hình tượng hòa quyện với nhau, không thể tách rời, mang đến vẻ đẹp trữ tình giản dị và tạo nên sự gắn kết mạnh mẽ. câu chuyện của một tình yêu chung thủy “Từ ngày nào không biết. Thuyền nghe theo lời biển khơi”. Câu thơ như một sự thú nhận ngần ngại, e ấp, rằng từ lâu em đã thích anh, sẵn sàng xây dựng hạnh phúc lứa đôi với anh. Không biết từ khi nào em đã yêu anh, nhưng tình yêu ấy là chân thành và vĩnh cửu.
Thông thường, biển thường tượng trưng cho người con trai vì sức mạnh của nó, nhưng Xuân Quỳnh đã tạo ra một sự đảo ngược, sử dụng hình ảnh của biển để biểu hiện người con gái, vì biển cũng có sự dịu dàng, chân thật, đặc biệt là với sự rộng lớn như tình yêu của nhà thơ.
Khi yêu, chúng ta không thể dự đoán được hướng đi. Trong tình yêu, con người ta thường theo đuổi theo cảm xúc, để tình yêu dẫn đường.Cảm xúc của đôi lứa không ngừng chuyển động, không bao giờ có thể nén trong vài câu từ, nó là một thế giới sống động và tuyệt vời, tình yêu không phải ai cũng có thể diễn đạt được, nhưng Xuân Quỳnh đã thực hiện nhiệm vụ đó rất tốt. Với Xuân Quỳnh, tình yêu được định nghĩa bởi sự cảm thông, sự thấu hiểu và lòng hy sinh. Tình yêu là sự kết nối tất yếu với sự khao khát tìm kiếm, mong muốn hiểu rõ lòng nhau. Trong bài thơ, Xuân Quỳnh thông minh tách “hiểu” và “biết”, cùng lúc sử dụng hai lần từ “chỉ có”, làm nổi bật sự riêng tư của “thuyền và biển”, cũng như của “anh và em”, không có ai thứ ba nào thấu hiểu. Đó là cảm giác tự hào, tự tin trong tình yêu của chúng ta. Đó là cảm xúc và là khao khát của mỗi người khi yêu. Hình ảnh thuyền và biển vẫn liên quan chặt chẽ với nhau, biểu tượng cho tình yêu không thể chia rẽ. Trái tim của Xuân Quỳnh, khi “Thuyền và biển” ra đời, vẫn còn trẻ và ấm áp. Như một ước mơ, một định mệnh, Xuân Quỳnh trở thành thi sĩ của tình yêu, sống vì tình yêu. Có lẽ đó là sự bù đắp cho cuộc đời của Xuân Quỳnh, cũng như là cơ hội để Quỳnh có thể trở thành chính bản thân mình. Yêu thương và khao khát, cuộc sống của Xuân Quỳnh trở thành một hành trình tìm kiếm hạnh phúc. Với trái tim hồn nhiên trong thời kỳ đó, Xuân Quỳnh mong muốn một tình yêu lý tưởng, chung thủy, duy nhất và hiểu biết tận cùng.
Qua đó có thể thấy, hai bài thơ Tự tình II và Thuyền và biển đều thể hiện rất tốt cảm xúc, tâm trạng của người phụ nữ trong các hoàn cảnh của cuộc đời. Nhưng có lẽ chính bởi hai tác giả thuộc hai thế hệ khác nhau nên dù cho cả hai đều có cách tân trong việc thể hiện nỗi lòng người phụ nữ nhưng ở Tự tình – khi tư tưởng còn bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến, người đọc thấy một tâm trạng bi ai, than thân trách phận của người phụ nữ thời xưa, khi họ khao khát được bày tỏ nỗi lòng nhưng không được chấp nhận và phải sống cuộc đời “tầm gửi”. Ngược lại, Thuyền và biển đã thể hiện rõ ràng tâm trạng, mong muốn, khát vọng tình yêu của người phụ nữ, để thấy được rằng, trong tình yêu, người phụ nữ cũng mạnh mẽ, sẵn sàng cho đi hơn bất kì ai khác.
Nghị luận so sánh, đánh giá hai tác phẩm thơ - Mẫu 6
Nỗi nhớ của người lính vốn là một điều gì đó thật đẹp. Nếu trong Tây Tiến, đó là nỗi nhớ tha thiết với vùng đất binh đoàn Tây Tiến – nơi nhân vật trữ tình đồng hành cùng những đồng đội, vượt bao gian khổ để tiến bước thì trong Tiếng hát con tàu, đó lại là nỗi nhớ Tây Bắc và và tình yêu, sợi dây kết nổi kì lạ với con người nơi đây.
Dòng cảm xúc và nỗi nhớ đã làm nên vẻ đẹp của hai bài thơ, để hai bài thơ trở thành tượng đài bất hủ của nền thơ ca cách mạng.
Đến với Tây Tiến, Đoạn đầu bài thơ chính là đoạn ghi lại những kỉ niệm những kỉ niệm đầy ắp và nỗi nhớ của nhà thơ về những ngày tháng gắn bó cùng binh đoàn:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
..Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.
Hai câu thơ mở đầu đã tạo ngay ấn tượng về nỗi nhớ:
Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi.
Thì ra đã có một khoảng lùi xa thời gian để thành ám ảnh, để thành nỗi nhớ và tiếc nuối nữa. Những tiếng “xa rồi Tây Tiến ơi!” thốt lên từ trong lòng nhà thơ như một niềm nuối tiếc. Tiếng lòng đó cất lên sao mà tha thiết đến thế, đồng thời như có tiếng vọng đáp lại vào vách núi, ngân nga không dứt trong không gian bởi “Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!". Những hình ảnh thiên nhiên như đột ngột hiện lên trong không gian. Đó là con sông Mã kì vĩ và kiêu hãnh chảy từ thượng Lào về đất Việt, đó là rừng, là núi điệp trùng, những nơi đã in dấu chân của binh đoàn Tây Tiến một thời trận mạc, thế mà giờ đây đã xa rồi thì làm sao tránh khỏi nỗi nhớ dâng lên trong lòng người chiến sĩ Tây Tiến năm xưa. Nỗi nhớ ây có địa chỉ, địa danh như đã bắt rễ trong lòng người, nỗi nhớ ấy lại trong một trạng thái thật diệu vợi, mơ hồ như một thoáng buồn xa xôi... Có lẽ nhà thơ đã đạt được cái tài và cái tình ấy trong cầu thơ "Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi!".
Từ hai câu thơ khơi nguồn ấy, mạch chảy dòng tâm sự hoài niệm của nhà thơ mở ra lan toả như mỗi chuỗi kỉ niệm giờ đây thức dậy, lay động và xôn xao trong lòng. Và đây, hình ảnh “đoàn quân mỏi” giữa Sài Khao sương lấp đập mạnh gây ân tượng. Sự chân thực sinh động của hình ảnh thơ khiến ta như hình dung Thấy tư thế, dáng vẻ của đoàn quân trong gian lao, cơ cực của những ngày phải đương đầu với trận mạc, đối đầu với thiếu thốn, khó khăn. Chân thực song cũng rất lãng mạn khi hình ảnh đoàn quân mỏi lại được miêu tả trong một khung cảnh đẹp huyền ảo của thiên nhiên. Những tiếng sương lấp, hoa về, đêm hơi….. khiến cho toàn bộ cảnh thực chợt nhoà đi, gây được ân tượng nhiều chiều trung, tâm trí người đọc. Bối cảnh thiên nhiên hiện ra trong kí ức và tâm trạng là những hình ảnh sóng đôi của sự trái ngược:
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm,
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời.
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống,
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi.
Bước hành quân gian lao của người lính vệ quốc mở ra trong không gia nhiều chiều. Ta như nghe thấy bước chân và hơi thở trên đường trường chiến gian lao của người lính qua câu thơ đầy những vần trắc: "Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”. Với những kỉ niệm về binh đoàn Tây Tiến rất khó mờ phai trong tâm trí, lại thêm bút pháp hoài niệm rất đỗi tài hoa, qua hàng loạt những hình ảnh trái ngược mà hài hoà bổ sung cho nhau, Quang Dũng đã làm sống dậy hình ảnh nười lính Tây Tiến, rừng núi Tây Tiến trong nỗi nhớ thật chơi vơi về Tây Tiến. Những chuỗi kỉ niệm về thiên nhiên và con người đó như những thước phim vừa chân thực sinh động vừa rất huyền ảo, tình cảm và tài hoa đã góp phần tạo nên thành công cả về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích.
Nếu Quang Dũng nhắc đến rừng núi mơ mộng thì Chế Lan Viên định hình rõ ràng và sâu sắc nỗi nhớ của mình. Biện pháp điệp từ “nhớ” vừa làm nổi bật, vừa thể hiện nỗi nhớ tràn ngập, như 'bản sương giăng', 'đèo mây phủ', là những vẻ đẹp đặc trưng của núi rừng Tây Bắc. Từ những cảm xúc cá nhân, tác giả nâng lên thành quy luật tình cảm, “Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?. Tiếp theo, tác giả đưa ra một triết lý, “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở/Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”, tạo ra cặp đối lập 'khi ta ở-khi ta đi', làm cho đất trở thành một phần của tâm hồn khi rời đi.
Từ ký ức về nhân dân và cảnh vật Tây Bắc, tác giả chuyển sang suy ngẫm về tình yêu và sự kết nối đặc biệt với đất lạ.
“Anh đột nhiên hồi tưởng về em như dòng lạnh của mùa đông
Tình yêu ta giống như cánh kiến và hoa vàng
Như chim rừng lông đã trắng bạch trở lại khi xuân về
Tình yêu như làm cho đất lạ trở thành quê hương”
Anh và em nắm tay nhau cuối mùa chiến dịch
Xôi gói nuôi quân, giấu trong rừng mỗi ngày
Đất Tây Bắc không biết đến lịch trình
Mùi hương xôi đầu vẫn đọng mãi trong ký ức”.
Tiếp theo theo dòng cảm xúc nhớ về nhân dân, tác giả chuyển hướng đột ngột sang nỗi nhớ đột ngột về người yêu. Hình ảnh đặc sắc như “như đông về nhớ rét” diễn đạt sự khắc sâu của tình cảm, giống như giá rét gắn bó với mùa đông, làm nổi bật giá trị quan trọng của mối quan hệ. Nỗi nhớ này dẫn tới suy ngẫm về tình yêu, so sánh với 'cánh kiến và hoa vàng', 'chim rừng lông đã trắng bạch trở lại khi xuân về'. Cánh kiến và hoa vàng, như tình yêu đôi lứa, gắn bó không thể tách rời; và chim rừng trắng bạch, giống như tình yêu, làm cho mùa xuân trở nên rực rỡ. Cuối cùng, từ nỗi nhớ và tình yêu, tác giả đưa ra triết lý: “Tình yêu làm cho đất lạ trở thành quê hương”. Tình yêu giúp đất lạ trở nên thân thuộc và quan trọng như quê hương.
Qua đó có thể thấy, với bài thơ Tây Tiến, Quang Dũng đã dựng nên bức tượng đài bằng thơ về hình tượng người lính đánh Pháp trong cuộc kháng chiến mà dũng cảm và cũng đầy chất thơ của nhân dân ta. Còn Tiếng hát của con tàu là bài thơ thể hiện niềm khao khát và hạnh phúc trong tâm hồn nhà thơ khi trở về với nhân dân, để tìm lại nguồn cảm hứng cho sự sáng tạo và cho hồn thơ của mình. Bài thơ tạo hình ảnh sáng tạo, đầy màu sắc và tinh tế, kết hợp trí tuệ và cảm xúc, mang lại cho độc giả những trải nghiệm thẩm mỹ đặc sắc của thơ Chế Lan Viên.