TOP 20 bài Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến

2 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến Ngữ văn 12 Kết nối tri thức, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến

Đề bài: Viết bài văn nghị luận So sánh, đánh giá các hình tượng: Hình tượng người lính trong Đồng chí (Chính Hữu) và Tây Tiến (Quang Dũng)

TOP 20 bài Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến (ảnh 1)

Điểm giống và khác nhau trong bài Tây Tiến và Đồng chí

* Điểm giống:

- Tây Tiến và Đồng Chí cùng ra đời năm 1948.

- Hai tác giả Quang Dũng và Chính Hữu đều cùng trong quân ngũ( nhà thơ quân đội). Cả hai sáng tác cùng nói về vẻ đẹp của người chiến sĩ thời chống Pháp

* Điểm khác:

Người lính trong Tây Tiến.

a) Xuất thân: Từ đô thành, chiến sĩ Tây Tiến (trong đó có tác giả) số đông ra đi từ Hà Nội thanh lịch. Họ là những thanh niên có học. Và vì vậy họ mới có lúc “Đêm mơ Hà Nội”.

b) Bối cảnh hoạt động: Người lính Tây Tiến hiện ra trong khung cảnh rừng núi miền Tây Tổ quốc vừa hùng vĩ, vừa hiểm trở, hoang dại khác thường. Đó là những “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm” , “Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”; Đó là còn nơi “thác gầm thét, cọp trêu người” khiến cho có khi cả “đoàn quân mỏi” trong sương lấp, có lúc người lính “không bước nữa”…

c) Đặc điểm: Chiến binh Tây Tiến mang vẻ đẹp khác thường. Hình tượng các anh nổi lên vừa hào hùng, dữ dội lại vừa hào hoa, mơ mộng.

- Hào hùng, dữ dội trong dáng vẻ ngoại hình: Cả đoàn binh “không mọc tóc”, “dữ oai hùm” lại còn “mắt trừng “ nữa. Các anh trở nên khác lạ sau những cơn sốt rét rừng ác liệt, sau những cuộc hành quân “vượt cồn mây”, “súng ngửi trời”. Đầu không còn tóc, người xanh xao nhưng người lính vẫn rất oai phong, vẫn như mang cả hồn thiêng của rừng thẳm.

 

- Hào hùng trong ý chí: “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”. Các anh hiến dâng tuổi thanh xuân cho đất nước không ngại ngần, tiếc nuối. Cái chết rình rập và “rải rác biên cương mồ viễn xứ” cũng không cản bước ra chiến trường giữ vững vùng đất biên giới Việt Lào.

- Hào hùng ngay trong cái chết:

Áo bào thay chiếu anh về đất
Sông Mã gầm lên khúc độc hành..

- Người chiến sĩ về với đất trong hoàn cảnh có thể nói là rất buồn. Theo tác giả cho biết thì đồng đội ông ngã xuống, ngay manh chiếu bó thân cũng không có, nhưng sự ra đi vĩnh viễn đó thật anh hùng. Con sông Mã thay lời núi sông cất lên lời ai điếu hùng tráng tiễn đưa người chiến sĩ.

- Hào hoa, mơ mộng ở tâm hồn, lãng mạn:

Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm

Tâm hồn phải hết sức hào hoa mới “gửi mộng qua biên giới” và mơ về dáng kiều thơm.Người chiến sĩ đẹp trong giấc mơ đẹp, mơ dáng kiều diễm,thanh lịch,quyến rũ của người phụ nữ thủ đô.Đối đầu với nhọc nhằn, chết chóc, anh vẫn không quên một dáng hình thanh thú, toả hương. Chính dáng hình này tiếp sức cho anh bộ đội đi tới.

Người lính trong Đồng chí:

a) Xuất thân: Đó là những người nông dân mặc áo lính. Các anh ra đi từ những làng quê nghèo:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá.

b) Bối cảnh hoạt động: Các anh cầm súng chờ đợi giặc nơi rừng hoang sương muối. Cảnh ở đây không rõ nét hiểm trở,hoang vu như vùng núi người lính Tây tiến hiện diện ( với dốc,thác,nước lũ,cọp trêu người…)

c) Đặc điểm: Người chiến sĩ dưới ngòi bút Chính Hữu mang vẻ đẹp bình dị. Các anh hiện ra với dáng vẻ:

 

- Chất phác: Nhớ về quê hương,các anh nhớ về gian nhà trống ,nhớ về giếng nước gốc đa rất đỗi quen thuộc. Còn người lính Tây Tiến nhớ quê hương là nhớ “dáng kiều thơm” có phần mĩ lệ, kiêu sa hơn.

- Lam lũ: Trang phục của chiến sĩ trong Đồng chí có phần thiếu thốn. Hình ảnh thực của người nông dân mặc áo lính:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày.

Như vậy bút pháp của Chính Hữu trong Đồng chí là bút pháp tả thực. Ông chú trọng vẻ đẹp của tình đồng chí – những người chung quân ngũ,chung lý tưởng chiến đấu. Còn Quang Dũng đã khái quát vẻ đẹp chung của người chiến sĩ Tây Tiến trên đường hành quân và hoạt động ở vùng biên giới xa xăm, nhiều hiểm trở.

Nhìn chung lại, tuy hai hình tượng người lính này mang những vẻ đẹp khác nhau ( nông dân và trí thức, địa bàn hoạt động và quan hệ với nhân vật trữ tình….) nhưng làm hoàn chỉnh bức chân dung anh bộ đội Cụ Hồ trong buổi đầu tiến hành cuộc cách mạng kháng chiến chín năm chống Pháp.

Dàn ý Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến

1. Mở bài

- Giới thiệu sơ lược về văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975.

- Dẫn vào hình tượng người lính trong Tây Tiến và Đồng Chí.

2. Thân bài

a. Điểm chung:

Sáng tác năm 1948.

Bối cảnh chiến trường vùng Tây Bắc.

Tác giả đều là những người lính thực thụ bước ra từ chiến trường máu lửa.

b. Hình tượng người lính trong Tây Tiến của Quang Dũng:

* Xuất thân:

Những chàng trai đến từ thủ đô, hầu hết là học sinh sinh viên.

Mang vẻ hào hoa, lãng mạn trong tâm hồn.

* Hoàn cảnh chiến đấu:

Chiến trường vùng biên giới Việt - Lào khắc nghiệt.

Cung đường hành quân rộng lớn, khúc khuỷu.

Điều kiện chiến đấu thiếu thốn, phải đối mặt với căn bệnh sốt rét kinh hoàng.

Thường xuyên có người hy sinh vì bệnh tật và bom đạn.

* Vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình:

"Không mọc tóc", "quân xanh màu lá", hậu quả của bệnh sốt rét, nhưng vào thơ Quang Dũng đã mang nét nghĩa chủ động, trở thành vẻ đẹp ngoại hình kỳ dị, trấn áp kẻ thù.

* Vẻ hào hùng, bất khuất trong lý tưởng chiến đấu:

"Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh": Một lòng hy sinh cho Tổ quốc, không tiếc thân mình.

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ...Áo bào thay chiếu anh về đất": Cái chết hiên ngang, bất khuất, bi thương nhưng không hề bi lụy.

* Vẻ hào hoa, lãng mạn trong đời sống tâm hồn:

Say sưa điệu nhạc, nụ cười ánh mắt của những cô gái trẻ, vui mừng nhảy múa trong những lúc tập kết về doanh trại.

"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm", khao khát tình yêu, hạnh phúc.

=> Tâm hồn trẻ trung, lãng mạn, bay bổng, là động lực để người lính trở nên mạnh mẽ kiên cường trong chiến đấu.

c. Hình tượng người lính trong Đồng chí của Chính Hữu:

* Xuất thân:

- Người nông dân áo vải, đi từ làng quê nghèo khó.

* Điều kiện chiến đấu

Vùng chiến trường Việt Bắc hoang sơ, khắc nghiệt.

Phải đối mặt với căn bệnh sốt rét rừng.

Thiếu thốn vật chất, cuộc chiến vô cùng gian khổ, khó khăn.

=> Miêu tả một cách chân thực, không mang màu sắc lãng mạn.

* Ngoại hình:

- Không mang vẻ dữ dội, thay vào đó là hình tượng người lính nghèo nàn, khổ cực "Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá/Miệng cười buốt giá chân không giày" => Vẻ đẹp đến từ sự chân chất giản dị.

* Vẻ đẹp tâm hồn:

- Thể hiện chủ yếu thông qua tình đồng chí gắn bó sâu sắc.

- Sự thông cảm lẫn nhau khi cùng có chung hoàn cảnh, gắn bó sâu sắc, đồng cam cộng khổ vượt qua những lúc ốm đau bệnh tật.

Đặc biệt là cùng kề vai nhau bước vào chiến trường máu lửa, thấu hiểu nỗi mất mát, hy sinh trong chiến tranh.

- Tinh thần kiên cường bất khuất vượt qua mọi khó khăn gian khổ trong chiến đấu.

3. Kết bài

Nêu cảm nhận.

TOP 20 bài Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến (ảnh 2)

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 1

Cả Quang Dũng và Chính Hữu đều là những nghệ sĩ cách mạng nổi tiếng của Việt Nam, tác phẩm của họ chứa đựng những giá trị sâu sắc, mang ý nghĩa to lớn trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ. Những tác phẩm này không chỉ gây ra nhiều cảm xúc cho độc giả mà còn thể hiện những tinh thần thiết yếu.

Được biết đến với tài năng xuất sắc trong sử dụng ngôn ngữ và phong cách nghệ thuật độc đáo, Quang Dũng và Chính Hữu đã tạo ra những giá trị đáng kể trong nghệ thuật của mình. Cả hai đều hướng tới cách mạng và nền đại chúng trong tác phẩm của mình. Tác phẩm của họ không chỉ mang ý nghĩa to lớn mà còn tạo ra những giá trị quan trọng và hạnh phúc cho mỗi độc giả.

Tài năng đặc biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ của Quang Dũng đã tạo ra những giá trị vô song trong nghệ thuật, đồng thời làm sống động những khoảnh khắc hào hùng trong bài thơ Tây Tiến. Chiến sĩ hiện lên như những anh hùng, kiên trì vượt qua mọi khó khăn để làm nên những điều mang ý nghĩa mạnh mẽ nhất.

Với nghệ thuật vẽ hình nhân vật và sử dụng ngôn ngữ, những điểm đặc trưng về nhân vật và nghệ thuật trong tác phẩm được thể hiện mạnh mẽ và ý nghĩa:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Với sự tinh tế và sắc sảo của ngôn ngữ, mức độ nguy hiểm trong bài thơ được mô tả ở đỉnh cao, tạo nên không khí trừu tượng đặc sắc trong ngôn ngữ. Biệt tài sử dụng ngôn ngữ đã tạo ra những màu sắc rực rỡ và sống động trong những khoảnh khắc hùng vĩ và ý nghĩa nhất.

Đặc biệt, với phong cách độc đáo, Chính Hữu mang đến một góc nhìn mới về nghệ thuật chân thực và hiện thực xã hội. Tác phẩm của ông không chỉ chứa đựng giá trị mạnh mẽ và đặc sắc, mà còn phản ánh đời sống của những chiến sĩ cách mạng, tạo nên gia đình lớn và đầy sức sống.

Những năm tháng chiến đấu kiên cường đã làm nên những giá trị sống ý nghĩa nhất. Những người chiến sĩ đã tập trung và xây dựng một gia đình lớn, mạnh mẽ, tạo ra những chiến công lịch sử.

Người chiến sĩ đoàn kết và tạo nên những phút giây hào hùng, cuộc sống tràn ngập màu sắc và ý nghĩa. Đây là cuộc sống hạnh phúc và giàu ý nghĩa nhất:

Súng bên sung đầu gác bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Ngôn ngữ sôi động và chân thực đã tạo ra cuộc sống ý nghĩa và giá trị mạnh mẽ. Câu chuyện về những chiến sĩ đến từ nền nông dân, đối mặt với khó khăn, làm nên những thành tựu lớn cho dân tộc. Giai đoạn khó khăn, gian lao làm nên những khoảnh khắc linh thiêng và là động lực cho những chiến công lịch sử.

Cả hai bài thơ thể hiện nét đặc trưng trong việc sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật tác phẩm. Ngôn ngữ của Tây Tiến hùng bi tráng và đầy màu sắc biểu tượng, trong khi Đồng Chí mang ngôn ngữ chất phác, nhưng vẫn rất đậm chất màu sắc. Mặc dù khác nhau, nhưng cả hai đều chứa đựng giá trị và nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ độc đáo.

Với những hình tượng đặc sắc, tác giả tạo ra sự phong phú trong nghệ thuật của mình. Hình ảnh nổi bật hiện lên sâu sắc và tràn đầy ý nghĩa trong tác phẩm.

Sự đặc sắc trong cách sử dụng ngôn ngữ và tính chất riêng biệt trong việc hình thành nhân vật làm phô diễn những khoảnh khắc phấn chấn, tạo nên sự độc lập trong cuộc sống của nhân vật trong tác phẩm.

Ngôn ngữ khéo léo tạo ra sự độc lập với giá trị ý nghĩa và biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của Quang Dũng và Chính Hữu mang đến những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị ý nghĩa sâu sắc cho toàn bộ tác phẩm. Những hình ảnh tuyệt vời và sâu sắc đã tạo nên đặc sắc trong từng tác phẩm và giá trị của chúng để lại cho nhân loại cái nhìn ý nghĩa và sâu sắc nhất.

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 2

Viết về đề tài người lính trong cuộc kháng chiến Pháp, không biết đã có bao nhiêu tác phẩm truyện và bài thơ được sáng tác về chủ đề này. Trong số các tác giả nổi tiếng, có Quang Dũng và Chính Hữu. Bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí vẫn là những tác phẩm được độc giả yêu thích và được đánh giá cao. Hãy cùng nhau viết về người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, nhưng không chỉ là những điểm tương đồng, mà còn là những khác biệt giữa họ.

Khác biệt đầu tiên là về xuất thân. Người lính trong hai bài thơ có hoàn cảnh xuất thân khác nhau, điều này dẫn đến tính cách khác nhau.

Những chiến sĩ Tây Tiến dưới bàn tay nghệ sĩ Quang Dũng chủ yếu bắt nguồn từ tinh thần trẻ trí thức ở thủ đô Hà Nội. Họ bắt đầu cuộc hành trình với niềm tin mãnh liệt về tình yêu quê hương, hy sinh niềm hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Chính điều này làm nên tâm hồn lãng mạn của họ:

'Đêm Hà Nội vuốt mình trong giấc mơ'

Dù đối mặt với những khó khăn khốc liệt trong trận chiến, tinh thần lãng mạn không bao giờ phai mờ trong tâm hồn những lính trẻ. Họ khắc sâu hình ảnh những người phụ nữ yêu quý để làm phong phú thêm cuộc sống, tạo sự cân bằng với thực tại khốc liệt. Họ đắm chìm trong vẻ đẹp của thiên nhiên, ngắm nhìn vẻ đẹp vĩ tuyến của núi rừng Tây Bắc, khẩu súng trong tay cao vút như đang chạm vào bầu trời. Và đặc biệt, những chiến sĩ này mang tâm hồn trẻ trung, hạnh phúc.

Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu không phải là những tư nhân xuất thân từ tầng lớp trí thức, mà chính họ là những con người nông dân chân chất, sống giản dị ở những làng quê bình yên:

'Quê hương tôi, đất mặn sóng biển

Làng nghèo thân thương, đá sỏi nổi bần

Tôi và anh, hai kẻ xa lạ

Chẳng hẹn nhau, phương trời kết nghĩa'

Họ là những chiến sĩ nông dân đến từ những vùng quê nghèo, đất mặn sóng biển, nơi đá sỏi nổi bần. Họ vừa mạnh mẽ, vừa tràn đầy tấm lòng nhân ái. Nếu trước đây họ chỉ quen với cuộc sống cày cấy, làm ruộng nhưng vì tình yêu quê hương, vì sự căm thù với kẻ thù, họ đã bỏ qua mọi điều để 'mặc kệ' ngôi nhà yên bình, sẵn sàng bước vào chiến trường. Bỏ lại giếng nước thơm, bỏ áo vải nâu quen thuộc, những chiến sĩ nông dân khoác lên mình bộ áo xanh quân đội, tay cầm súng bảo vệ quê hương.

Sự khác biệt thứ hai giữa những người lính trong hai bài thơ là vẻ đẹp về ngoại hình. Nhà thơ Quang Dũng miêu tả người lính Tây Tiến với vẻ đẹp ngoại hình, mặc dù họ có vẻ ốm đau nhưng không bao giờ yếu đuối:

'Binh đoàn Tây Tiến, tóc không mọc

Quân phục xanh như lá, mạnh mẽ dữ oai

Mắt trừng nhìn vượt biên giới

Đêm mơ về Hà Nội, hình ảnh kiều diễm thơm lừng'

Với điều kiện chiến tranh thiếu thốn, môi trường chiến đấu trong những khu rừng núi hoang sơ, người lính Tây Tiến xuất hiện với hình ảnh đầu không có tóc, quân phục xanh lá cây ngụy trang hoặc có thể là màu của đồng phục quân đội, thậm chí là biểu tượng xanh vì thiếu chất. Tuy nhiên, họ không hề yếu đuối, ngược lại, họ mang vẻ 'dữ oai'. Bằng ánh mắt trừng, họ truyền đạt tinh thần căm thù đối với kẻ thù, thậm chí cả khi ngủ, họ gửi đi những giấc mơ về chiến thắng ở biên giới.

Ngược lại với người lính Tây Tiến, những chiến sĩ nông dân của Chính Hữu thể hiện vẻ đẹp mộc mạc, hồn hậu với những bộ quần áo rách rưới:

'Áo anh rách vai

Quần tôi vá vài mảnh lụa

Cười buốt giá từ miệng buốt giá

Chân không đôi giày

Thương nhau, tay nắm chặt lấy bàn tay!'

Nét ngoại hình của lính nông dân không tập trung vào đặc điểm khuôn mặt mà đặt nặng vào thiếu thốn của bộ quần áo. Họ phải mặc chiếc áo vá vai rách, quần được vá lên từ những miếng lụa. Trong làn sương sớm, họ đứng gần nhau, chân không che đôi giày, miệng cười buốt giá trong bóng tối. Họ hiện lên không chỉ đơn giản mà còn ấm áp bởi tình đồng chí. Dù là rét buốt hay quần áo rách, nhưng đó chính là lý do tình đồng chí trở nên đặc biệt hơn.

Cả hai bài thơ đều thể hiện tình đồng chí đồng đội, nhưng cách mà người lính thể hiện tình đồng chí khác nhau.

Người lính Tây Tiến, những người trí thức, thể hiện tình cảm của họ một cách tinh tế. Nhà thơ không mô tả trực tiếp sự quan tâm chăm sóc, nhưng thông qua những hồi ức, cảm nhận về đồng đội, nó thể hiện sự gắn bó. Nó là một liên kết chặt chẽ đến nỗi người lính Tây Tiến sẵn lòng:

'Ai lên Tây Tiến mùa xuân kia

Chốn về Sầm Nứa chẳng bao giờ trở lại'

Trong bức tranh tình đồng chí của nhà thơ Chính Hữu, người lính nông dân miêu tả một cách trực tiếp. Đối với họ, tình đồng chí là những người không hẹn trước, đến từ những nơi xa xôi nhưng:

'Súng kề súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét, chung chăn trở thành đôi tri kỷ

Đồng chí ơi!'

Hoặc:

Nắm tay nhau, đêm nay rừng hoang mặn

Dựa gần nhau, đợi giặc tới trong sương

Súng kề súng, trăng treo trên đầu súng'

Từ những bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí, ta thấy vẻ đẹp đặc sắc của người lính trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp được tạo nên bởi sự nghệ thuật của Quang Dũng và Chính Hữu. Dù mang những đặc điểm khác nhau, nhưng những điểm độc đáo ấy lại tạo nên một vẻ đẹp chung cho người lính Việt Nam. Dù ở đâu, là ai, hay xuất thân như thế nào, họ cùng chung lòng yêu nước, sẵn sàng hy sinh để mang lại hạnh phúc cho đồng bào.

TOP 20 bài Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến (ảnh 3)

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 3

Chiến tranh tàn khốc đã đi qua nhưng những chiến công và những con người lịch sử thì còn sống mãi trong văn chương không tuổi. Văn học lưu giữ, khắc ghi và ca ngợi họ - những người lính anh dũng đã đem lại độc lập cho tổ quốc qua những câu thơ, áng văn đậm đà tình cảm. Tuy nhiên với mỗi bài thơ lại có cách khám phá và thể hiện rất riêng mang đậm dấu ấn cá nhân người nghệ sĩ. Hình tượng người lính trong hai bài thơ “Đồng chí” – Chính Hữu và “Tây Tiến” – Quang Dũng vừa mang những nét tương đồng vừa có những nét riêng đặc biệt.

“Hình tượng” là thế giới đời sống, con người hiện lên trong trang viết của người nghệ sĩ, là nơi tác giả thể hiện tư tưởng, tình cảm của mình. Hình tượng người lính vốn không mấy xa lạ trong văn học Việt Nam nhưng mỗi người lại có cách thể hiện của riêng mình, tạo nên thế giới đời sống rất riêng và đặc sắc. Cùng ra đời trong cuộc kháng chiến chống Pháp, “Đồng chí” và “Tây Tiến” đã đem lại cho người đọc những cách nhìn nhận mới mẻ, những hình ảnh riêng độc đáo, hoàn thiện bức tranh về người lính chống Pháp và để lại trong lòng người đọc những ấn tượng không nguôi. Họ cùng là những con người của một thời đại anh dũng và hào hùng, cho nên ở đó luôn toát lên phong thái ngang tàng, mạnh mẽ, sẵn sàng vượt qua mọi gian nan thử thách dẫu mưa rừng thác lũ có dữ dội đến đâu:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm.

Heo hút cồn mây súng ngửi trời”

Người lính phải vượt qua những trận mưa nguồn suối lũ, những đêm ngủ rừng chỉ có manh chiếu mỏng đắp vội, cơm chẳng đủ no, “Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.” Nhưng đáng sợ nhất vẫn là những trận sốt rét rừng. Những cơn sốt rét rừng đến vàng da rụng tóc, bòn rút từng chút sức của họ:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh.

Rét run người vầng trán ướt mồ hôi”

Hay:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc

Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Gian nan, khổ đau là thế, những cơn sốt rét rừng hành hạ, thêm vào đó là tư trang tư phục chẳng đủ, thiếu thốn trăm bề nhưng những người lính đó chưa bao giờ thôi lạc quan và hạnh phúc. Bởi vì họ thiếu thốn vật chất nhưng đời sống tinh thần của họ lại thật phong phú biết bao: tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó, những đêm đốt lửa trại liên hoan dưới ánh đuốc hoa bập bùng, những trận sốt rét rừng hành hạ được ngả đầu trên vòng tay ấm áp của đồng đội. Có lẽ vì vậy mà họ có chung một niềm lạc quan, một sự anh dũng và quả cảm đáng phục, là nguồn động lực giúp họ chiến thắng mọi thử thách và đương đầu trước mọi gian truân. Có khó khăn, có gian khổ đấy, nhưng họ chưa bao giờ đầu hàng trước thử thách mà dũng cảm đối đầu với chúng để xứng đáng trở thành anh bộ đội cụ Hồ.

Người lính trong “Đồng chí” hay người lính trong “Tây Tiến” xét cho cùng tuy hai mà một, gặp gỡ nhau trong nét cốt cách anh hùng của người lính chống Pháp năm xưa.Nhưng “Không có lối đi chung nào cho hai nhà văn cả”, những người nghệ sĩ có thể gặp gỡ nhau trong cảm xúc trữ tình, hình tượng họ xây dựng cũng có thể tương đồng đôi nét nhưng không bao giờ là một bản sao. Cho nên dù viết về người lính cùng một thời đại nhưng mỗi bài thơ lại có một nét khám phá, phát hiện rất riêng. Người lính của Chính Hữu mang nét gì đó mộc mạc, hiền lành, chân chất, bởi họ xuất thân từ vùng quê nghèo nơi nước mặn đồng chua, họ là những người nông dân vì chiến tranh mà phải buông liềm đi cầm súng:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua

Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Có lẽ vốn dĩ xuất thân từ những người nông dân bình dị, cho nên tình cảm của họ dành cho nhau cũng thật chân thành và kín đáo. Hai chữ “đồng chí!” thốt lên như là xúc cảm cố giữ bỗng chốc bật ra thành lời, họ quan tâm nhau và chăm sóc nhau bằng sự chân thành và thật thà của người dân vùng quê bến nước:

“Anh với tôi đôi người xa lạ

Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Súng bên súng, đầu sát bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”

Họ đến với nhau vì cùng chung lí tưởng, mục đích, đó là dùng máu xương của mình để giành lại độc lập tự do cho dân tộc. Những người lính nông dân thật thà chất phác đó thể hiện tình cảm chân thành và ý nhị, chia cho nhau từng bát cơm, từng mảnh chăn chắp vá và dù đêm lạnh lẽo thế nào cũng có thể cười vì hơi ấm đồng đội trao:

“Thương nhau chia củ sắn lùi

Bát cơm xẻ nửa chăn sui đắp cùng”

Còn người lính của Quang Dũng lại xuất thân từ những sinh viên thủ đô vừa rời khỏi giảng đường Đại học. Vì tuổi trẻ, vì cuộc sống thị thành đã tôi luyện cho họ một nét tình cách vừa hào hoa vừa phong tình, đậm đà chất lãng mạn. Có lẽ vì vậy mà họ không hề che giấu sự đa tình của mình ngay cả khi đang trên hành trình hành quân ra mặt trận, cái ngạo nghễ, tươi trẻ đó như rót vào lòng họ những tia sáng lấp lánh. Họ mơ về chiến công bên biên giới, họ cũng không quên mơ về giấc mộng của riêng mình: một “dáng Kiều thơm” hay người con gái của đất kinh đô, những nữ sinh Trưng Vương, Đồng Khánh đẹp người sóng sánh bên nước trời Hà Nội:

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới

Đêm mơ Hà Nội dáng Kiều thơm”

Lời thơ như có chút gì đó táo bạo nhưng cũng thật lãng mạn và đa tình. Họ chiến đấu anh dũng nhưng đồng thời cũng sở hữu trong mình những nét đẹp hào hoa đến lạ. Có lẽ nó vừa là nguồn động lực, vừa là cái đẹp rất riêng, rất táo bạo của người lính trẻ, họ như cánh hoa đong đưa mình trên dòng nước lũ, những bông hoa đã sống trọn kiếp mình với nắng, với gió, để tỏa sắc giữa cuộc đời dẫu thác lũ có dữ dội đến đâu.Với “Đồng chí” và “Tây Tiến”, cả hai tác giả đã đưa ta đến với những vẻ đẹp của người lính chống Pháp năm xưa. Gặp gỡ có nhưng độc đáo cũng có, hai bài thơ vừa có những điểm chung lại có những nét rất riêng, rất mới lại, góp phần hoàn thiện vẻ đẹp người chiến sĩ cách mạng.

Đúng như ai đó đã từng nói rằng, nhà thơ phải đốt cháy mình mới mong ngọn lửa của mình tỏa sáng giữa đời, cả Chính Hữu và Quang Dũng thực sự đã đốt lửa lòng để viết ra những câu thơ đẹp đẽ. Văn chương cách mạng nhờ vậy mà còn sống mãi, bởi bản thân nó đã trở thành những áng văn thơ mang lửa, sẵn sàng tỏa rạng để vào “đốt lửa lòng” bất kì ai.Có những sự thích thú chỉ là thoáng qua nhưng có những tình cảm sẽ là mãi mãi. Có những bài viết đọc một lần rồi quên nhưng có những áng thơ trường tồn bất diệt dẫu thời gian có nghiệt ngã cỡ nào. Người nghệ sĩ chân chính cũng giống như những áng thơ bất diệt vậy, khi họ viết tác phẩm của mình bằng Tài và Tâm.

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 4

Trong dòng chảy văn học Việt Nam, hình tượng người lính trong hai cuộc chiến tranh vệ quốc đã trở thành một tượng đài bất tử. Cùng là những "nhà thơ mặc áo lính" trưởng thành từ những cuộc chiến tranh máu lửa, cả Quang Dũng và Chính Hữu đều đã để lại cho nền thi ca Việt Nam những tác phẩm xuất sắc viết về người lính. Nếu người ta biết đến Quang Dũng với "Tây Tiến" thì cũng không thể nhắc đến "Đồng chí" của Chính Hữu. Cả hai bài thơ đều để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bao thế hệ bạn đọc. Cả "Tây Tiến" của Quang Dũng và "Đồng chí" của Chính Hữu đều khắc họa hình tượng người lính trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Hai bài thơ tuy có những điểm đặc sắc riêng, song lại đều nổi bật lên được tư tưởng cao đẹp cống hiến cho đất nước. Đến với Tây Tiến, người lính được tập trung khắc hoạ với những vẻ đẹp khác nhau, vừa hào hùng, vừa lãng mạn, lại vừa bị tráng. Quang Dũng đặc tả khung cảnh thiên nhiên để làm nổi bật lên hình ảnh người lính. Người lính Tây Tiến phải đối mặt với thách thức địa hình, nơi "dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm", "ngàn thước lên cao ngàn thước xuống", nơi sơn cùng thủy tận "oai linh thác gầm thét", "đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người". Ở họ, ta thấy được sự ung dung, tâm thế chủ động vượt lên trên khó khăn, gian khổ. Đối với họ, cái chết nhẹ như một giấc ngủ "gục lên súng mũ bỏ quên đời", và khi họ ra đi, họ khoác trên mình tấm áo lính đơn sơ nhưng lại là tấm "áo bào" minh chứng cho những cống hiến, hi sinh của họ. Không những can trường, mạnh mẽ, họ còn mang trong mình một tâm hồn lãng mạn. Họ sống hết mình trong "tiếng khèn man điệu", trong tiếng nhạc, trong ánh sáng tưng bừng và điệu múa mê hồn của những cô thôn nữ. Người lính Tây Tiến không chỉ là những chàng trai hừng hực ý chí bảo vệ Tổ quốc, mộng công danh còn đi liền với cả "mộng giai nhân". Họ vốn xuất thân là những thanh niên nơi phố thị phồn hoa, họ từ bỏ những giảng đường, từ bỏ cuộc sống hiện đại để ra đi theo tiếng gọi của tổ quốc, vậy nên họ cũng có những giờ phút nhớ nhung dáng kiều chốn Hà Thành:

"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Quang Dũng đã đi sâu vào đời sống tâm hồn vô cùng phong phú của những người lính, họ cũng là những con người trẻ tuổi, tài hoa, trái tim họ cũng biết rung động, cũng biết vang lên những nhịp đập hết sức đời thường. Nhớ nhung một bóng dáng nơi đô thành, cao hơn, lại chính là trái tim sắt son luôn hướng về nơi thủ đô, nơi Tổ quốc. Nếu Tây Tiến đã khắc hoạ một tượng đài người lính với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa, bị tráng thì với "Đồng chí", Chính Hữu lại đi sâu vào một khía cạnh khác ở người lính cụ Hồ trong những năm tháng chống Pháp. Không phải là những chàng trai trí thức trẻ chốn thành thị, mà họ là những người nông dân chân lấm tay bùn đến từ những miền quê "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá", vì tiếng gọi của Tổ Quốc mà cất bước ra đi, để rồi "chẳng hẹn mà quen nhau nơi chiến khu". Chính Hữu cũng đã khắc hoạ những gian khó, thiếu thốn nơi chiến trường, từ đó làm sáng lên thứ tình cảm ấm nồng - tình đồng chí. Trên quãng đường hành quân, người lính phải đối mặt với biết bao gian khổ:

"Áo anh rách vai

Quần tôi có vài mảnh vá

Chân không giày"

"Tôi với anh biết từng cơn ớn lạnh

Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi".

Có lẽ, những hình ảnh chân thực đến xót xa ấy đã quá đỗi quen thuộc trong mỗi cuộc chiến tranh gian lao của dân tộc. Những khi ấy, những người đồng chí luôn cùng sát cánh kề vai, sẻ chia, gắn bó. Không chỉ làm nổi bật lên tình cảm đồng chí giản dị mà cảm động biết bao, Chính Hữu cũng khắc hoạ vẻ đẹp của tâm hồn lãng mạn Câu thơ dường như đã cất cánh, thăng hoa, trở thành một biểu tượng đẹp trong nền thơ ca cách mạng. Dù gian nan, khổ cực, hiểm nguy trập trùng, tâm hồn người lính cũng có những giây phút lãng mạn đến thế. Đó cũng chính là vẻ đẹp của thời đại, một thời đại anh hùng nhưng cũng không kém phần hào hoa lãng mạn. Đi mua nhà thơ đều tập trung khai thác những khía cạnh khác nhau của người lính trong kháng chiến chống Pháp nhưng ở cả hai bài thơ đều sáng lên tư tưởng cao đẹp cống hiến cho Tổ quốc.

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ

Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Hình ảnh "mồ viễn xứ" gợi lên cái cảm giác ghê sợ, lạnh lẽo, tang thương nhưng lại không thể không tự hào, kiêu hãnh trước sự hi sinh bất khuất của người lính Tây Tiến. Bằng một loạt những từ Hán Việt, những vần thơ bỗng trở nên trang trọng như một nén tâm nhang thắp lên cho người đã ngã xuống. Họ "chẳng tiếc đời xanh", họ bỏ lại sau lưng chốn phồn hoa phố thị, để đối mặt với khó khăn thử thách và hiểm nguy. Người lính trong Đồng chí cũng thế:

"Ruộng nương anh gửi bạn thân cày

Gian nhà không mặc kệ gió lung lay"

Đối với người nông dân, mảnh đất, gian nhà quý giá biết bao, đó là linh hồn của họ, nhưng vì Tổ quốc, họ sẵn sàng để lại sau lưng những điều quý giá ấy. Bởi lẽ, dù là ai, họ cũng hiểu được rằng, đất nước còn, thì gian nhà nhỏ bé đơn sơ hay những phố thị, những giảng đường mới tự do, mới độc lập, mới có ý nghĩa. Trong câu thơ, ta thấy một tâm thế ung dung nhưng không phải là thờ ơ, là bất cần, mà là vì họ hiểu được một cách sâu sắc giá trị của độc lập, tự do. Bởi vậy, họ sẵn sàng hi sinh tất cả những gì của bản thân mình, để chiến đấu, để cứu lấy cả quê hương, cũng là để bảo vệ những gì mình trân quý nhất. Tâm thế của người ra đi chiến đấu là sẵn sàng xả thân, "quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh", mà ta cũng đã thấy ở trong trang thơ của biết bao nhà thơ khác

"Nhớ buổi ra đi đất trời rực lửa

Cả kinh thành nghi ngút cháy sau lưng

Những chàng trai chưa trắng nợ anh hùng

Hồn phất phơ mười phương cờ đỏ thắm"

(Chính Hữu)

"Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy"

Rõ ràng đã thấy cả hai bài thơ đều đã khắc họa những khía cạnh như vẻ đẹp riêng của người lính trong kháng chiến chống Pháp. Nhưng dù là ai, họ cũng mang trong mình cứ tưởng cao đẹp cống hiến hết mình vì tổ quốc, vì quê hương. Hai bài thơ đã góp phần làm phong phú thêm nền thi ca cách mạng Việt Nam, làm rạng rỡ thêm bức tượng đài bất tử của những người lính anh hùng.

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 4

Có thể nói Đồng chí của Chính Hữu và Tây Tiến của Quang Dũng là hai bài thơ hay nhất viết về hình tượng người lính kháng chiến chống pháp. Với những nét khác biệt về phong cách sáng tác, hai nhà thơ đã xây dựng nên hình tượng những người lính vừa giản dị, đơn sơ, vừa lẫm liệt, kì vĩ.

Thơ ca kháng chiến chống Pháp đã xây dựng thành công hình tượng người lính chiến đấu. Họ nhanh chóng trở thành linh hồn của cuộc kháng chiến, trở thành niềm tin yêu và hy vọng của cả dân tộc. Nếu như Chính Hữu viết về một người lính xuất thân nông dân, ra đi từ làng quê nghèo với những nét vẽ chân thực trong Đồng Chí, thì trong Tây Tiến Quang Dũng lại viết về người lính đến từ thủ đô với những nét vẽ lãng mạn, bay bổng.

Cả Đồng chí và Tây Tiến đều được sáng tác vào năm 1948, những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, với bối cảnh là khu chiến trường miền Tây Bắc khắc nghiệt và hoang sơ. Trước hoàn cảnh khó khăn của cuộc chiến cả Chính Hữu và Quang Dũng đều có những cảm xúc về hình tượng người lính anh hùng, kiên định vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, với vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi. Đặc biệt với xuất thân là người lính trực tiếp bước ra từ chiến trường đầy máu và lửa thì những vần thơ của hai tác giả khi nói về hình tượng người lính chiến lại càng trở nên chân thực và rõ nét hơn cả. Chính điều đó đã khiến người lính trong Đồng chí và cả Tây Tiến trở thành những tượng đài bất hủ trong nền văn học chiến tranh cách mạng với những nét chung như trên và những nét riêng đặc sắc khác.

 

Cả hai bài thơ chúng ta đều thấy hiện lên những nét điển hình trong phong cách sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm, những giá trị của các tác phẩm này đều để cho nhân loại những đặc điểm điển hình và mạnh mẽ nhất. Ngôn ngữ trong hai tác phẩm này có thể thấy có sự khác nhau khi trong Tây Tiến ngôn ngữ của nó hào hùng bi tráng và mang nhiều màu sắc biểu tượng. Còn đối với bài thơ Đồng Chí ngôn ngữ chất phác, và mang giá trị về màu sắc đã làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm với hai nghệ thuật có thể thấy nó hoàn toàn khác nhau, và mục đích có thể thấy là giống nhau, nhưng trong biệt tài sử dụng ngôn ngữ của các nhân vật. Với những nét điển hình và đặc sắc, nó tạo nên những phong phú trong nghệ thuật của tác giả đối với chính tác phẩm của mình. Những hình tượng nổi bật trong tác phẩm hiện lên hoàn toàn sâu sắc và mang màu sắc tươi tắn tạo nên những hình ảnh và giá trị có ý nghĩa nhất.

Sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ và tính chất biệt lập trong cách tạo hình nhân vật đã làm sống động lên những giây phút hân hoan, và biệt lập đối với cuộc sống của nhân vật xuất hiện trong tác phẩm. Những ngôn ngữ tạo lên sự biệt lập về ngôn ngữ để có giá trị ý nghĩa và mang ý nghĩa biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của Quang Dũng và Chính Hữu tạo nên những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị mang tầm ý nghĩa sâu sắc đối với toàn bộ tác phẩm.

Chính Hữu là nhà thơ tiêu biểu, trưởng thành trong thời kì kháng chiến chống thực dân Pháp lần hai. Với phong cách thơ nhỏ nhẹ, đằm thắm, trữ tình thiết tha, Chính Hữu để lại rất nhiều những bài thơ hay, độc đáo cho nền văn học dân tộc. Bài thơ được viết đầu năm 1948 những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp vô cùng khó khăn gian khổ cả về vật chất lẫn tinh thần, đời sống kháng chiến. Tinh thần đoàn kết thương yêu của đồng chí, đồng đội họ đã vượt qua để chiến đấu chiến thắng. Chính Hữu viết “Đồng Chí” hướng ngòi bút vào chất hiện thực đời sống kháng chiến khai thác cái đẹp trong cái giản dị chân thực, đời thường. Tình đồng chí đồng đội thắm thiết sâu nặng của người lính cách mạng rất tự nhiên như vốn có ngoài đời, đúng với phẩm chất người lính cụ Hồ, giản dị mà anh hùng

Hình tượng người lính ở thơ Chính Hữu nó mang vẻ chân thực đến khắc nghiệt, và nổi bật lên trên đó là tình đồng chí gắn kết sâu nặng trong chiến đấu. Chính Hữu không đề cập nhiều đến vẻ đẹp tâm hồn mà thay vào đó ông đi sâu và hoàn cảnh xuất thân và hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ của họ để làm nổi bật vẻ đẹp anh hùng. Trước hết nói về xuất thân, Chính Hữu và đồng đội đều là những người con của mảnh đất miền trung đầy nắng và gió. Anh bộ đội Cụ Hồ vốn là những nông dân mặc áo lính mang trong mình lí tưởng cao đẹp. Vì sự sống còn của Tổ quốc, họ tạm biệt bến nước sân đình, bãi mía nương dâu để ra đi chiến đấu. Ta hãy nghe lời tâm sự của họ khi nói về quê hương mình:

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”.

Thành ngữ “nước mặn đồng chua”, gợi lên một miền đất nắng gió ven biển, đất đai bị nhiễm phèn, nhiễm mặn, rất khó trồng trọt. Còn cụm từ “đất cày lên sỏi đá” lại gợi lên trong lòng người đọc về một vùng đồi núi, trung du đất đai cằn cỗi, khó canh tác. Đó là xuất phát điểm về hoàn cảnh xuất thân và cuộc sống của những chàng trai nông dân chân lấm tay bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa, chỉ quen với tay cuốc, tay cày sau lũy tre làng. Thế nhưng, khi tổ quốc lâm nguy, họ đã sẵn sàng gác lại tất cả những gì quý giá nhất, thân thiết nhất nơi làng quê để ra đi chiến đấu:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

Ruộng nương, gian nhà, giếng nước, gốc đa… là những hình ảnh giản dị, quen thuộc ở mọi làng quê Việt Nam. Có lẽ lúc này người lính đang rất nhớ tới quê hương, nơi có gia đình, người thân, có ruộng nương, gian nhà, những tình cảm đẹp đẽ của họ từ thuở ấu thơ đến lúc trưởng thành. Nhưng từ “mặc kệ” đã cho thấy sự quyết tâm ra đi của những người lính; họ gửi lại quê hương, ruộng nương, gian nhà và cả những tình cảm buồn vui của thời thơ ấu cho người thân yêu để lên đường cầm súng đánh giặc cứu nước. Tinh thần hi sinh mạnh mẽ ấy đã được nhà thơ Thanh Thảo bộc bạch bằng lời thơ của mình:

“Chúng tôi đã đi không tiếc đời mình
Nhưng tuổi hai mươi làm sao không tiếc
Nhưng ai cũng tiếc tuổi hai mươi thì còn chi Tổ Quốc”.

Như vậy, câu thơ đã cho thấy được ý thức trách nhiệm công dân cao độ của người lính đối với dân tộc khi tổ quốc lâm nguy. Điều đó cho thấy lòng yêu nước mạnh mẽ, sâu sắc của họ. Hình ảnh “giếng nước gốc đa” là một hình ảnh rất giàu sức gợi, đây vừa là nhân hóa, lại vừa là hoán dụ biểu trưng cho quê hương, người thân nơi hậu phương luôn luôn dõi theo và nhớ nhung người lính da diết. Câu thơ nói quê hương nhớ người lính mà thực ra là người lính đang nhớ nhà. Nỗi nhớ hai chiều nên càng da diết, khôn nguôi. Nhưng chính nỗi nhớ quê hương ấy, lại là động lực mạnh mẽ, thôi thúc và tiếp bước cho họ vươn lên mà mạnh mẽ, trưởng thành, vì sự nghiệp chung lớn lao của đất nước, dân tộc. Những người lính nông dân áo vải ấy đã trải qua biết bao nhiêu gian lao, thiếu thốn tột cùng, những cơn sốt rét run người hành hạ, trang phục phong phanh giữa mùa đông buốt giá:

“Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay.”

Hình ảnh: “ớn lạnh, sốt run người, ướt mồ hôi” là những biểu hiện cụ thể để nói về căn bệnh sốt rét rừng rất nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không hề có đủ thuộc men để chạy chữa. Vì thế các anh – những người lính anh hùng dũng cảm phải cắn răng chịu đựng, tự lực, tự cường mà vượt qua gian khổ. Đây là một hình ảnh xuất phát từ cái nhìn chân thực của người lính trong chiến tranh. Và căn bệnh sốt rét này không phải chỉ xuất hiện trong thơ Chính Hữu mà trong rất nhiều các bài thơ của các nhà thơ kháng cũng đã từng nhắc tới. Trong bài thơ

“Tây Tiến” của Quang Dũng, nhà thơ cũng đã viết:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm.”

Hay trong bài “Dấu chân qua trảng cỏ” của Thanh Thảo, ông cũng từng có câu thơ:

“Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe.”

Căn bệnh sốt rét – nỗi ám ảnh kinh hoàng của người lính trong chiến tranh, đã hành hạ họ, khiến họ tiều tụy xanh xao, màu da vàng vọt, tóc thì rụng hết… Vì thế lúc này, chỉ có tình yêu thương, sự đùm bọc lẫn nhau của những người lính là thuốc bổ tinh thần, giúp họ cùng nhau cộng hưởng, sẻ chia mà vươn lên chiến thắng chính mình. Không dùng lại ở đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất: “áo rách vai, quần vài mảnh vá, chân không giày”. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động chân thành: “Miệng cười buốt giá”, “Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Chính nụ cười đã xoá tan đi cái lạnh lẽo của đêm đông giá rét. Họ đùa vui trong gian khổ thiếu thốn. Cùng động viên nhau qua ánh mắt nụ cười. Dù đó chỉ là nụ cười gượng gạo trong “buốt giá” nhưng vẫn chứa chan tình cảm, cho thấy được sự lạc quan mạnh mẽ của họ trong cuộc sống chiến đấu. Còn hành động “tay nắm lấy bàn tay” là một cử chỉ rất cảm động và cần thiết vào lúc này. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu lí tưởng cách mạng lớn lao: vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ, tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Tất cả những cử chỉ ánh mắt, nụ cười, nắm tay ấy đã giúp họ có thêm động lực để vượt qua khó khăn, thử thách. Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến trường kì. Hình ảnh người lính và tình đồng chí của họ đã kết tinh, tỏa sáng trong đoạn thơ cuối của bài thơ:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.”

Ba câu thơ cuối vừa giàu chất hiện thực, lại vừa đậm đà chất lãng mạn bay bổng, vừa gợi tả bức tranh không gian toàn cảnh của núi rừng, lại vừa đặc tả tình cảm ấm áp của những người lính trong chiến tranh. Đây là biểu hiện cao đẹp nhất của tình đồng chí, đồng đội. Đó là khoảng thời gian “đêm nay” rất cụ thể với khung cảnh “rừng hoang – sương muối” hiu quạnh, lạnh lẽo và khắc nghiệt. Tuy nhiên, người lính vẫn đứng cạnh bên nhau để “chờ giặc tới”. Động từ “chờ” cho thấy được tư thế chủ động và hết sức đề cao cảnh giác của người lính trong khi làm nhiệm vụ. Nghệ thuật tương phản đối lập được tạo ra rất cân đối giữa một bên là không gian núi rừng lạnh lẽo, hoang vu, vắng lặng; với một bên là tư thế chủ động mạnh mẽ như lấn át cả không gian toàn cảnh của người lính. Chính sức mạnh của tình đồng chí đã làm cho người lính vượt lên trên hiện thực khắc nghiệt đó. Các từ gần nghĩa “cạnh – bên” cho thấy sức mạnh của tinh thần đoàn kết, gắn bó luôn có nhau của những người lính. Trên cao là ánh trăng treo lơ lửng trên bầu trời, dưới cái nhìn lãng mạn hóa của Chính Hữu, ánh trăng như đang treo ở đầu mũi súng. Và “Trăng” theo đó như trở thành người bạn vừa chứng minh cho tình cảm đồng chí keo sơn của người lính, vừa soi sáng và sưởi ấm cho không gian của rừng đêm sương muối lạnh lẽo bên trên. Hình ảnh “súng – trăng” được đặt cạnh bên nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại – mơ mộng; chiến tranh – hòa bình; chiến sĩ – thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh khó khăn, vất vả; lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính: họ vừa là chiến sĩ lại vừa là thi sĩ, họ cầm súng chiến đấu để bảo vệ quê hương, đem lại nền độc lập , tự do cho Tổ Quốc thân yêu. Có thể nói, ba câu thơ cuối một bức tranh đẹp, như một bức tượng đài sừng sững của hình ảnh người lính cách mạng với tình đồng chí thiêng liêng, sâu sắc. Chính tình cảm đồng chí đã làm nên vẻ đẹp tâm hồn người chiến sĩ.

Bài thơ “Đồng chí” là một bài thơ hay, độc đáo viết về người lính cụ Hồ. Qua bài thơ, người đọc thấy được vẻ đẹp tình đồng chí, đồng đội sâu sắc, cao cả, thiêng liêng của người lính cách mạng. Có thể nói, bài thơ là một bức tượng đài người nông dân mặc áo lính rất đẹp, tráng lệ, hào hùng của thời kì đầu kháng Pháp.

Khác với người lính trong bài thơ Đồng chí, những người lính trong bài thơ Tây Tiến xuất thân là những chàng trai của đất Hà thành. Chiến sĩ Tây Tiến phần lớn là thanh niên, học sinh sinh viên Hà Nội. Họ là những người biết đến chiến trường khắc nghiệt, nguy hiểm và thiếu thốn kể từ khi đi lính. Bài thơ Tây Tiến là kỉ niệm, hoài niệm của tác giả thay cho lời muốn nói của những người chiến sĩ kiên cường và đồng thời là lời của đồng bào dân tộc ta. Hình tượng người lính Tây Tiến trong bài thơ mang những nét phẩm chất đặc trưng của người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Ở những người lính Tây Tiến, luôn có một vẻ đẹp hào hoa, nó xuất phát từ tinh thần của những con người có học, những người được tiếp xúc với nền giáo dục mới, và được sống ở nơi phồn hoa đô hội. Nói chính xác thì họ được xem là những phần tử tiểu tư sản trí thức, với tư tưởng phóng khoáng, đặc biệt họ lại là những thanh niên tuổi còn trẻ, đang còn phơi phới giấc mộng xuân, nên việc mơ về một “dáng kiều thơm” là chuyện rất đỗi thường tình. Đặc biệt trước cái hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, với những cơn sốt rét rừng kinh hoàng, với những cung đường hành quân khúc khuỷu, chập chùng thì những niềm vui nho nhỏ khi nghĩ về cố hương, khi nghĩ về những thứ lãng mạn lại chính là động lực to lớn để họ có thêm sức mạnh chiến đấu. Về bối cảnh chiến đấu, Tây Tiến có phần khác Đồng chí ở chỗ, đoàn quân Tây Tiến được thành lập năm 1947 để phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới vùng Tây Bắc và đánh tiêu hao lực lượng địch. Thế nên địa bàn hoạt động của binh đoàn vô cùng rộng trải dài khắp vùng Tây Bắc, sang cả Sầm Nưa của Lào, rồi vòng về miền tây Thanh Hóa. Chính bởi địa bàn hoạt động rộng lớn, nên hoàn cảnh những năm đầu của cuộc kháng chiến vô cùng khắc nghiệt, giữa một vùng rừng thiêng nước độc, người lính Tây Tiến luôn phải đối mặt với nhiều nguy hiểm và khó khăn cận kề. Nào là:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

rồi “Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”. Có những lúc hành quân trong sương muối buốt lạnh, người sau chỉ thấy lưng người đằng trước cũng đôi lần khiến người lính mệt mỏi, ngao ngán nhưng dĩ nhiên không vì thế mà họ buông xuôi. Đặc biệt, không trận chiến nào mà không có sự hy sinh mất mát, những năm đầu kháng chiến, tất cả quân nhu yếu phẩm đặc biệt là thuốc men đều vô cùng khan hiếm. Thế nên những cơn sốt rét rừng đã trở thành ác mộng của người lính chiến, họ không chết vì bom đạn giặc thù mà chết vì bệnh tật hành hạ. Hình ảnh “Anh bạn dãi dầu không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời”, đọc sơ cứ tưởng người lính nằm ngủ trên súng mũ, nhưng hóa ra đó là một cái chết, một cái chết nhẹ tựa lông hồng, chết bên lý tưởng mà họ vẫn theo đuổi, vẫn ôm trọn súng mũ vào lòng, chết không nuối tiếc.

Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp rất lạ và rất đặc trưng, nó là sự kết hợp của sự hào hùng, bất khuất kiên cường với lại sự lãng mạn và hào hoa đến từ sâu trong tâm hồn những con người trẻ tuổi. Chính sự giao hòa giữa hai yếu tố cương, nhu ấy đã đem đến một hình tượng người lính rất thật, rất độc đáo và sâu sắc là bức tường thành của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước tiên nói về sự hào hùng, dữ dội trong dáng vẻ, ngoại hình, người lính Tây Tiến không có một dáng vẻ sạch sẽ, cao to mà thay vào đó là những người lính với cái đầu “không mọc tóc”, với “quân xanh màu lá”. Một màu da xanh xám vì căn bệnh sốt rét hành hạ quá lâu, kèm theo đó là thiếu máu khiến tóc rụng bằng sạch. Vì điều kiện hành quân gian khổ, không được ăn ngủ đủ giấc, vì chiến trường căng thẳng và ác liệt nên người lính chiến mới có bộ dạng tiêu điều, xơ xác như vậy.

Thế nhưng trong cái bộ dạng kỳ dị ấy lại là sự dữ dội và oai hùng mà theo như cách nói của Quang Dũng là họ cố tình “không mọc tóc” để bản thân càng thêm ghê gớm, làn da xanh tái kết hợp với màu quân trang lại là sự ngụy trang hoàn hảo nhất, kết hợp với cái đầu không tóc cho ra đời một đội quân “dữ oai hùm” giữa chốn rừng thiêng nước độc, để kẻ thù thấy mà thêm phần e ngại. Không chỉ vậy, thông qua ngoại hình kỳ dị của người lính Tây Tiến, ta lại càng thấu hiểu hơn những hy sinh, mất mát cùng với tinh thần chiến đấu kiên cường, vượt qua mọi gian khổ khó khăn, bởi cái mà họ đối mặt không chỉ đơn giản là bom đạn giặc thù, mà còn là điều kiện chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, lằn ranh sinh tử trở nên vô cùng mong manh và họ buộc phải trở nên cứng rắn mạnh mẽ để vượt qua, đề hoàn thành lý tưởng cách mạng. Bên cạnh vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình, thì nổi bật nhất ở người lính Tây Tiến chính là ý chí chiến đấu, lý tưởng cách mạng mang đậm khuynh hướng sử thi.

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”

Vẫn biết rằng ra đi là không hẹn ngày trở lại, thế nhưng người lính chiến vẫn chưa từng có ý nghĩa lùi bước. Họ sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất cuộc đời, tuổi hai mươi mấy là lứa tuổi mà con người ta có nhiều nỗi băn khoăn trăn trở nhất, còn đối với các anh thì chỉ có một nỗi buồn duy nhất ấy là Tổ quốc chưa yên. Thế nên chiến trường trở thành nơi các anh hướng đến, lòng các anh chỉ ngập tràn một lý tưởng cách mạng, cái chết dẫu là sợ hãi nhưng đứng trước Tổ quốc yêu thương đang vẫy gọi, thì nó dường như không còn quan trọng nữa. Mảnh đất này đã sinh ra và nuôi lớn các anh, thế nên các anh phải có nghĩa vụ phụng sự và bảo vệ nó bằng bất cứ giá nào, kể cả phải hy sinh tính mạng, các anh cũng chẳng hề nuối tiếc. Với phong cách thơ của Quang Dũng thì hình tượng người lính chiến với sự hy sinh, mất mát đau thương, nhưng không hề bi lụy, thay vào đó là cảm xúc bi tráng, hào hùng. Với những vần thơ rất hay, rất trang trọng:

“Rải rác biên cương mồ viễn xứ,
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh.
Áo bào thay chiếu, anh về đất,
Sông Mã gầm lên khúc độc hành“.

Nét đẹp bi tráng của người lính Tây Tiến làm tỏa sáng vẻ đẹp lí tưởng của giới trẻ thời kì kháng chiến. Công cuộc bảo vệ đất nước dài đằng đẵng và khó khăn biết mấy, hòa bình đánh đổi bằng mồ hôi xương máu và muôn vàn sự hy sinh. Đã có biết bao người lính trẻ đã ngã xuống giữa đất trời Tây Bắc. Thân xác các anh nằm lại nơi biên cương “viễn xứ”. Thế nhưng họ vẫn hùng dũng kiên cường cầm súng bảo vệ tổ quốc mà “chẳng tiếc đời xanh”. Cho đến khi ngã xuống, thân xác họ chỉ có chiếc chiếu quý như chiếc “áo bào”, chôn “rải rác”. Những cái chết ấy vừa bi thương vừa tráng lệ, để đời sau cảm phục biết bao trước sự hy sinh bất khuất của những người lính Tây Tiến anh hùng.

Câu thơ tựa như cảnh xông pha trận mạc rồi hy sinh của các tráng sĩ thời cổ đại, với vẻ đẹp kiêu hùng, anh dũng vô cùng. Quang Dũng là một người lính xuất sắc, cũng là người may mắn sống sót sau những trận chiến ác liệt và những trận sốt rét rừng khủng khiếp. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc ông phải chứng kiến cảnh hàng loạt đồng đội ngã xuống trên đất mẹ và cả trên đất khách, điều kiện thiếu thốn đến mức manh chiếu bó thay cũng không có đủ. Đau xót là thế nhưng bước vào thơ Quang Dũng, với tinh thần lãng mạn và lạc quan, ông không để sự bi thương chi phối quá mức, thay vào đó cái chết của người lính chiến lại được tác giả đưa vào thơ với vẻ oanh liệt, anh hùng bất tử. Cái chết để cả núi sông phải gầm lên “khúc độc hành” tiễn đưa thay cho kèn, trống tầm thường.

Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng mà quên đi những nét hào hoa, lãng mạn thì quả là một thiếu sót lớn, và không hoàn chỉnh. Bên cạnh những lúc hành quân khắc khổ, những trận chiến ác liệt, những đợt rét buốt của sương muối, của bệt tật thì người lính cũng có những lúc được thả lỏng. Đó là những lúc:

“Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ”

Người lính thể hiện tinh thần yêu đời, yêu cuộc sống khi say mê nhảy múa quanh đống lửa, say mê ánh mắt nụ cười của những cô gái trẻ, say mê cả điệu nhạc rộn ràng, vui tươi. Đó chính là bản chất tâm hồn của người lính Tây Tiến, những con người đã từ bỏ áo trắng, mực xanh lên đường ra chiến tuyến nhưng chưa bao giờ từ bỏ cái tâm hồn bay bổng, đầy mơ mộng. Và nó cũng chính là tuổi trẻ, một tuổi trẻ có những khát khao về tình yêu, sự ham vui, ưa sôi động để làm giàu cho cuộc sống. Chính những điều ấy đã nuôi dưỡng một tâm hồn kiên cường và mạnh mẽ khi chiến đấu, tiếp sức cho người lính những lúc tưởng chừng quá mệt mỏi và gục ngã. Không chỉ trong những giây phút nghỉ ngơi, đặt doanh trại mà cả trong những lúc chiến đấu, hành quân, người lính chiến cũng trong mình tâm hồn lãng mạn, hào hoa.

“Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Những đêm không ngủ chờ giặc trên đất khách, lòng người chiến sĩ trẻ tuổi lại hướng về quê hương yêu dấu, nơi thủ đô ấy có gia đình, có bạn bè, trường lớp và có cả những “dáng kiều thơm”. Cũng cần nhắc lại rằng, trước đây cũng chỉ vì hai câu thơ có phần quá lãng mạn và nghiêng về tình cảm cá nhân này mà một thời gian dài Tây Tiến bị xa lánh, bị cô lập. Nhưng từ sau năm 1986, với những đổi mới trong chủ trương chính sách của nhà nước về văn hóa nghệ thuật, thì Tây Tiến đã được trả về với đúng vị trí mà nó xứng đáng có được. Và hai câu thơ trên cũng trở thành điểm nhấn quan trọng của cả bài thơ, phản ánh rất chân thực đời sống tinh thần, tâm tư tình cảm của người lính trong chiến đấu. Họ còn trẻ, họ có quyền được mưu cầu hạnh phúc, và những cô gái mang áo dài, với dáng vẻ yêu kiều, nền nã chính là mơ ước của họ. Các anh hy sinh tuổi trẻ, hy sinh mạng sống để lên lên đường đi chiến đấu trước hết là vì lý tưởng cách mạng, vì Tổ quốc, nhưng bao hàm trong đó còn là vì lợi ích cá nhân, vì bảo vệ hạnh phúc của riêng họ nữa. Chung quy lại, sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài người lính chiến bất hủ, mang vẻ đẹp của thời đại và sống mãi trong trái tim người đọc.

Để làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến với vẻ đẹp độc đáo và mới lạ tác giả đã tận dụng tối đa sức biểu đạt của phép tương phản giữa hoàn cảnh chiến đấu với thái độ, tư thế và phẩm chất người lính. Bên cạnh đó việc sử dụng từ chỉ địa danh đã gợi tả vùng đất xa xôi, gợi kỉ niệm về một thời chiến đấu gian khổ. Ngoài ra còn rất nhiều những từ láy tượng hình tô đậm vẻ đẹp người lính, phép điệp từ, điệp vần và hình ảnh nhân hoá. Trong bài thơ “Tây Tiến” Quang Dũng đã có những tái hiện đầy tinh tế về vẻ đẹp của hình tượng người lính, những câu thơ nói về người lính vừa lãng mạn, vừa đậm chất sử thi mang âm điệu hào hùng rắn rỏi. Nhờ đó mà hình tượng người lính Tây Tiến hiện lên trong lòng người đọc trở nên đẹp lí tưởng, vừa hào hùng, hào hoa lại đậm chất bi tráng.

Đối với mỗi hình ảnh người lính trong hai bài thơ ta đều có thể nhận thấy được những vẻ đẹp riêng biệt, một bên là sự hào hùng lãng mạn, một bên là sự kiên cường, thực tế. Tất cả những vẻ đẹp riêng ấy đã tổng hòa lại, làm nên hình tượng người bộ đội cụ Hồ anh dũng, bất tử trong lòng độc giả và trong lòng của toàn dân tộc Việt Nam mãi về sau. Năm tháng đã và sẽ trôi qua nhưng những bài thơ viết về người lính trong giai đoạn lịch sử oanh liệt này vẫn còn mãi trong nền văn học dân tộc, trong lòng người dân Việt, mãi mãi là niềm tự hào của mỗi người dân Việt Nam.

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 5

Nghĩ về thơ, Soren Kierkegaard - một triết gia người Đan Mạch từng băn khoăn: “Thi sĩ là gì? Một con người bất hạnh giấu nỗi đau khổ sâu sắc trong tim, nhưng đôi môi đẹp tới mức khi tiếng thở dài và tiếng khóc đi qua, chúng nghe như âm nhạc du dương… Và người ta xúm lại quanh thi sĩ và bảo: “Hãy hát tiếp đi” - hay nói theo cách khác, 'Mong những nỗi đau khổ mới hành hạ tâm hồn anh nhưng đôi môi anh vẫn đẹp đẽ như trước, bởi tiếng khóc sẽ chỉ làm chúng tôi hoảng sợ, nhưng âm nhạc thì lại rất hay.” Người ta ví thơ là một thứ thanh âm đẹp đẽ và thật hay, dẫu rằng ấy chính là tiếng vang của một tâm hồn đang ứ đầy cảm xúc. Đến với “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” của Quang Dũng, ta như được thả hồn mình vào trải nghiệm và dòng cảm xúc đã căng, đã đầy của những nhà thơ chiến sĩ. Cùng viết về một đề tài song “Đồng chí” của Chính Hữu và “Tây Tiến” trong tâm tưởng Quang Dũng lại có những điểm tương đồng và khác biệt.

Quang Dũng và Chính Hữu đều là thế hệ các nhà thơ mặc áo lính, đều bước ra từ chiến trường khốc liệt nên hình tượng người lính xuất hiện trong trang thơ của hai ông trở nên chân thực và rõ nét hơn. Đó là hình ảnh người lính “Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Trên cuộc hành quân gian khổ của mình, anh bộ đội Cụ Hồ bị những cơn sốt hành hạ. Và cũng chính những thử thách gian khổ của thời chiến ấy đã làm cho những người lính ngày càng trở nên gần nhau hơn. Rồi đến một lúc nào đó họ chợt nhận ra, những người đồng đội khi ở bên nhau giống nhau từ hình thức đến nội tâm; sự khắc nghiệt của hoàn cảnh sống đôi khi đẩy người ta đến những tình huống không ngờ. Trong trang thơ của Quang Dũng cũng viết về đồng đội, và ở đó, những trận sốt rét ác tính đã khiến cho các chiến sĩ của ta rụng hết những mái tóc xanh “Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc”.

Cả hai tác phẩm đều cùng ra đời năm 1948, đây là thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Người lính phải chiến đấu trong điều kiện vật chất thô sơ, thiếu thốn, hoàn cảnh khó khăn, gian khổ. Tuy nhiên họ đã vượt lên trên hoàn cảnh đó và tỏa sáng với những phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu nước, tinh thần ra đi vì nghĩa lớn, ý chí quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh, tư thế hiên ngang, chủ động, tâm hồn lạc quan, lãng mạn và yêu đời.

Một tác phẩm văn chương thành công là tác phẩm ghi lại dấu ấn riêng trong lòng bạn đọc. Vì vậy mà bên cạnh những điểm tương đồng, ta vẫn thấy những nét độc đáo, mang đậm dấu ấn cá nhân của hai nhà văn. Nét riêng biệt thứ nhất chúng ta có thể thấy ở hai tác phẩm chính là chủ đề tác phẩm. Điểm khác biệt thứ nhất là chủ đề. Với “Đồng chí”, Chính Hữu đã khắc họa lên hình tượng người chiến sĩ bộ đội cụ Hồ với tình cảm keo sơn gắn bó và ý chí vượt qua khó khăn. Trải dài cả bài thơ, tình cảm đồng chí đồng đội được thể hiện sâu sắc và mãnh liệt. Tình đồng chí của những người lính dựa trên sự chia sẻ cảnh ngộ và lý tưởng chiến đấu được thể hiện bình dị nhưng sâu sắc trong mọi tình huống. Họ thân tình gọi nhau một tiếng “Đồng chí!”. Từ “đồng chí” lại được tách thành một câu riêng, một đoạn riêng. Với cấu trúc thơ khác thường ấy, tác giả làm nổi bật ý thơ. Nó như một nốt nhấn của bản nhạc, bật lên âm hưởng gây xúc động lòng người. “Đồng chí” là tiếng nói thiêng liêng, là một sự cảm kích về nhiều đổi thay kì lạ trong quan hệ tình cảm.

Chủ đề của “Tây Tiến” lại khác hẳn, Quang Dũng đã thể hiện tình cảm sâu nặng của nhà thơ với đơn vị Tây Tiến, với cảnh vật và con người Tây Bắc một thời gắn bó qua đó khắc họa hình tượng người lính bi tráng. Người lính dần dần hiện ra từ nỗi nhớ “chơi vơi” dành cho Tây Bắc. Thiên nhiên hùng vĩ hiện lên trong kí ức của người chiến sĩ vệ quốc. Nhà thơ xứ Đoài mây trắng xúc động với những kỉ niệm về những người lính Tây Tiến, về đoàn quân Tây Tiến khó có thể xóa nhòa trong tâm trí.

Điểm khác biệt thứ hai đó là hoàn cảnh xuất thân của người lính trong hai bài thơ. Người lính trong sáng tác của Quang Dũng thuộc tầng lớp trí thức, tinh hoa của dân tộc. Họ là học sinh, sinh viên đang còn ngồi trên ghế nhà trường nhưng đã “gác bút nghiên, mặc áo lính” lên đường chiến đấu để giành lại độc lập dân tộc.

Nếu “Tây Tiến” quan niệm người anh hùng theo lý tưởng thẩm mĩ cao đẹp thì “Đồng chí” tô đậm nét hiện thực bình dị, sự lam lũ, chất phác của người nông dân chân chất hiền lành.

“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau.”

Bức tranh về người lính Vệ quốc được phác họa bằng chất liệu cuộc sống đồng quê, trên nền “nước mặn đồng chua”, “đất cày lên sỏi đá” của những người có cùng cảnh ngộ, từ những vùng nông thôn khác nhau trên nhiều miền đất nước có chung cảnh nghèo. Những người nông dân đồng cảnh nên đồng tâm trong lực chọn mục đích cống hiến, chiến đấu. Những người nông dân từ các vùng quê nghèo khác nhau đã vượt lên số phận, vượt lên cảnh ngộ, ở trên tầm khốn khó bước vào cuộc chiến toàn dân tộc.

Hoàn cảnh xuất thân khác nhau nên hình tượng người lính cũng được xây dựng với vẻ đẹp riêng. Nhà thơ Quang Dũng miêu tả người lính Tây Tiến với vẻ đẹp ngoại hình, mặc dù họ có vẻ ốm đau nhưng không bao giờ yếu đuối:

“Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Đoạn thơ ghi lại một cách chân thật, hào hùng cái khốc liệt dữ dội của chiến tranh, của một dân tộc quật khởi đứng lên dùng giáo mác, gậy tầm vông chống lại sắt thép quân thù. Hình tượng thơ được đặt trong thế tương phản đối lập để khẳng định chí khí hiên ngang, anh hùng, những tâm hồn với bao mộng mơ tuyệt đẹp. "Đoàn binh không mọc tóc", "quân xanh màu lá", có vẻ tiều tụy, ốm đau vì bệnh sốt rét rừng, nhưng tư thế vô cùng oai phong lẫm liệt: "dữ oai hùm". Bằng ánh mắt trừng, họ truyền đạt tinh thần căm thù đối với kẻ thù, thậm chí cả khi ngủ, họ gửi đi những giấc mơ về chiến thắng ở biên giới.

Binh đoàn Tây Tiến xuất thân từ học sinh, sinh viên của 36 phố phường, nơi ngàn năm văn hiến nên họ luôn mang trong mình sự hào hoa, lãng mạn.

“Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm”

Người lính bắt đầu cuộc hành trình với niềm tin mãnh liệt về tình yêu quê hương, hy sinh niềm hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Trong hành trang lên đường chiến đấu của người lính Tây Tiến có những giấc mơ đẹp về người con gái Hà Thành thanh lịch. Nó xoa dịu đi bao nhiêu khó khăn, vất vả. Đó cũng là những giây phút, khoảnh khắc yên bình, lãng mạn rất đáng quý trên chặng đường hành quân qua mưa bom lửa đạn; là giây phút làm ấm lòng người lính xa nhà cùng với sức mạnh lòng căm thù.

Người lính mang trong mình sự trẻ trung khỏe khoắn, hào hoa, thanh lịch. Ở họ vừa cháy bỏng lí tưởng “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” vừa mang trong mình nét lãng mạn mộng mơ. Nét độc đáo này của người lính Tây Tiến đã thực sự làm hồn thơ Quang Dũng rung động.

Không xuất hiện với chân dung kì dị “không mọc tóc”, “dữ oai hùm” như trong thơ Quang Dũng, những chiến sĩ nông dân của Chính Hữu thể hiện vẻ đẹp mộc mạc, hồn hậu với những bộ quần áo rách rưới:

“Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau, tay nắm lấy bàn tay”

Người lính đầu thời kì kháng chiến chống Pháp phải trải qua bao khó khăn gian khổ về mặt cơ sở vật chất. Vũ khí còn thô sơ, dân ta còn đói nghèo, Các anh mặc trên người bộ áo quần được chắp vá. Trong làn sương sớm, họ đứng gần nhau, chân không che đôi giày, miệng cười buốt giá trong bóng tối. Họ hiện lên không chỉ đơn giản mà còn ấm áp bởi tình đồng chí. Dù là rét buốt hay quần áo rách, nhưng đó chính là lý do tình đồng chí trở nên đặc biệt hơn.

Nỗi nhớ của người lính đó là xóm làng thân thuộc, là mái đình, cây đa cổ kính:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”

Những con người chân chất thật thà ở những vùng quê có ruộng đồng, giếng nước thân thuộc nên khi ra đi họ cũng nặng lòng mang theo kỉ niệm gắn liền tuổi nhỏ. Hình ảnh hoán dụ kết hợp nhân hóa thể hiện quê hương luôn dõi theo người lính “giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”, đồng thời diễn tả nỗi lòng hướng về quê hương của các anh. Là những người nông dân mặc áo lính nên nỗi nhớ của họ hướng về ruộng vườn, nhà cửa, hướng về giếng nước, gốc đa. Đó là hình ảnh của quê hương, của gia đình mà người lính luôn mang trọn vẹn trong tâm tưởng và giếng nước gốc đa kia chính là quê hương, là gia đình đang luôn dõi theo từng bước đi của người lính.

Không chỉ khác biệt về nội dung mà cả hai nhà thơ Chính Hữu và Quang Dũng đều khẳng định nét riêng của mình ở bút pháp nghệ thuật. Thơ của Quang Dũng thể hiện một cái tôi thanh lịch, giàu chất nghệ thuật, với khả năng cảm nhận tinh tế vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người. Qua ngôn ngữ hào hùng bi tráng, mang nhiều màu sắc biểu tượng, cùng với việc kết hợp giữa bút pháp hiện thực và lãng mạn, người lính hiện lên với vẻ đẹp hào hùng, hào hoa phong nhã. Còn đối với bài thơ “Đồng chí”, Chính Hữu sử dụng ngôn ngữ mộc mạc giản dị kết hợp với bút pháp hiện thực, bức chân dung người lính hiện ra thật gần gũi, chân thực với độc giả. Đúng như Nguyễn Đăng Điệp đã từng nói: “Nếu như Chính Hữu viết về những chàng vệ quốc bằng bút pháp hiện thực thì Quang Dũng đã tái hiện vẻ đẹp của người lính bằng đôi cánh lãng mạn đem đến men say cho thi tứ, sự bay bổng của hình tượng. Nếu thiếu đi cái chất lãng mạn “Tây Tiến” cơ hồ sẽ mất đi vẻ đẹp toàn bích của nó”.

Việc phân tích trong sự so sánh hai bài thơ cũng giúp ta hiểu thêm hai phong cách sáng tác. Quang Dũng được biết tới là nhà thơ mang phong cách phóng khoáng, hồn hậu, lãng mạn và tài hoa. Bài thơ “Tây Tiến” vừa có cái đẹp hùng tráng của núi rừng hiểm trở và vẻ bình dị nên thơ của cuộc sống nơi bản làng miền núi, có cảm hứng mạnh mẽ hòa hợp với chất trữ tình nhẹ nhàng mềm mại trong thơ. Và hơn hết, ở đó có chân dung những người lính hào hoa. Còn với “Đồng chí”, ta thấy được những vần thơ giản dị mộc mạc, xúc cảm dồn nén cùng hình ảnh thơ hàm súc mà thiết tha sâu sắc. Bài thơ mang đậm phong cách nghệ thuật của Chính Hữu - một trong những cây bút tiêu biểu viết về đề tài người lính và tình đồng chí đồng đội. Sắc xanh của áo lính như một người bạn đồng hành với ông trong suốt quá trình sáng tác.

Khép lại trang thơ nhưng sức sống của nó sẽ còn mãi theo thời gian. Dưới ngòi bút lãng mạn, phóng khoáng của mình, nhà thơ xứ Đoài mây trắng đã xây dựng chân dung người lính hào hùng, hào hoa. Khác hẳn với anh bộ đội Cụ Hồ chân chất giản dị đến từ vùng quê nghèo như trong những vần thi giản dị mộc mạc, xúc cảm dồn nén của Chính Hữu. Chính những nét riêng ấy lại làm nên một nét đẹp chung cho người lính thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng và người lính Việt Nam nói chung. Dù họ có là ai, ở đâu, xuất thân như thế nào thì họ đều ra đi với mục tiêu bảo vệ đất nước, chọn hi sinh để đổi lấy hạnh phúc cho dân tộc.

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 6

Giai đoạn năm 1945-1975 sau khi cách mạng tháng tám thành công cũng là lúc nền văn học với đề tài "lực lượng vũ trang - chiến tranh cách mạng" nở rộ với nhiều các tác giả, tác phẩm đắt giá, phản ánh cả một thời đại hào hùng của dân tộc. Trong đó nổi bật nhất là hình tượng người lính chiến với đủ mọi sắc thái, cung bậc cảm xúc trong những hoàn cảnh chiến đấu vô cùng gian khổ và ác liệt. Ở họ luôn ánh lên những vẻ đẹp rực rỡ, hào hùng mang tính sử thi. Bên trong cái vỏ bọc xơ xác, mỏi mệt qua những chặng đường hành quân khúc khuỷu, những trận sốt rét rừng kinh hoàng là cả một tinh thần thép, sẵn sàng hy sinh cho Tổ quốc. Những cây bút mang bước ra từ chiến trường luôn để lại cho đời những vần thơ về người lính và cuộc chiến đầy chân thực và sâu sắc.

Bên cạnh những cái tên như Hoàng Trung Thông, Phạm Tiến Duật, Hữu Loan, Nguyễn Duy, Nguyễn Khoa Điềm, Tố Hữu, Huỳnh Văn Nghệ, Trần Mai Ninh, Hoàng Cầm, thì Chính Hữu và Quang Dũng là hai nhà thơ có những khắc họa rõ nét nhất về hình tượng người lính chiến. Nếu như Chính Hữu viết về một người lính xuất thân nông dân, ra đi từ làng quê nghèo với những nét vẽ chân thực trong Đồng Chí, thì trong Tây Tiến Quang Dũng lại viết về người lính đến từ thủ đô với những nét vẽ lãng mạn, bay bổng.

Về nét chung thì cả Đồng chí và Tây Tiến đều được sáng tác vào năm 1948, những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, với bối cảnh là khu chiến trường miền Tây Bắc khắc nghiệt và hoang sơ. Trước hoàn cảnh khó khăn của cuộc chiến cả Chính Hữu và Quang Dũng đều có những cảm xúc về hình tượng người lính anh hùng, kiên định vượt qua mọi khó khăn, gian khổ, với vẻ đẹp mang khuynh hướng sử thi. Đặc biệt với xuất thân là người lính trực tiếp bước ra từ chiến trường đầy máu và lửa thì những vần thơ của hai tác giả khi nói về hình tượng người lính chiến lại càng trở nên chân thực và rõ nét hơn cả. Chính điều đó đã khiến người lính trong Đồng chí và cả Tây Tiến trở thành những tượng đài bất hủ trong nền văn học chiến tranh cách mạng với những nét chung như trên và những nét riêng đặc sắc khác.

Ngoài những điểm chung trên thì ở mỗi tác phẩm hình tượng người lính lại hiện lên với những vẻ đẹp riêng biệt đại diện cho tài năng và phong cách sáng tác của mỗi tác giả. Trước hết ta nói về Tây Tiến và Quang Dũng. Quang Dũng được mệnh danh là người nghệ sĩ đa tài với khả năng ở nhiều lĩnh vực như âm nhạc, hội họa và thi ca và với mỗi lĩnh vực như thế ông cũng lại tạo cho mình một dấu ấn riêng nhất định. Đặc biệt trong sáng tác thơ, Quang Dũng luôn đưa vào những vần thơ của mình chất nhạc chất họa một cách tinh tế để vừa tái hiện được hơi thở của một con người bước ra từ chiến trường nóng hổi, vừa để cho thơ mình có một vẻ lãng mạn, hào hoa rất riêng. Có thể nói rằng Tây Tiến là tiêu biểu cho những tác phẩm mang khuynh hướng sử thi kết hợp chặt chẽ với cảm hứng lãng mạn - khuynh hướng thẩm mỹ chính của văn học nước nhà giai đoạn 1945-1975. Quang Dũng là một nhà thơ có tâm hồn lãng mạn và binh đoàn Tây Tiến cũng như thế, bởi hầu hết họ đều xuất thân từ thủ đô Hà Nội thân yêu, ra đi vì tiếng gọi của Tổ Quốc với hành trang còn thơm mùi giấy mực. Ở những người lính Tây Tiến, luôn có một vẻ đẹp hào hoa, nó xuất phát từ tinh thần của những con người có học, những người được tiếp xúc với nền giáo dục mới, và được sống ở nơi phồn hoa đô hội. Nói chính xác thì họ được xem là những phần tử tiểu tư sản trí thức, với tư tưởng phóng khoáng, đặc biệt họ lại là những thanh niên tuổi còn trẻ, đang còn phơi phới giấc mộng xuân, nên việc mơ về một "dáng kiều thơm" là chuyện rất đỗi thường tình. Đặc biệt trước cái hoàn cảnh chiến đấu khắc nghiệt, với những cơn sốt rét rừng kinh hoàng, với những cung đường hành quân khúc khuỷu, chập chùng thì những niềm vui nho nhỏ khi nghĩ về cố hương, khi nghĩ về những thứ lãng mạn lại chính là động lực to lớn để họ có thêm sức mạnh chiến đấu. Về bối cảnh chiến đấu, Tây Tiến có phần khác Đồng chí ở chỗ, đoàn quân Tây Tiến được thành lập năm 1947 để phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới vùng Tây Bắc và đánh tiêu hao lực lượng địch. Thế nên địa bàn hoạt động của binh đoàn vô cùng rộng trải dài khắp vùng Tây Bắc, sang cả Sầm Nưa của Lào, rồi vòng về miền tây Thanh Hóa. Chính bởi địa bàn hoạt động rộng lớn, nên hoàn cảnh những năm đầu của cuộc kháng chiến vô cùng khắc nghiệt, giữa một vùng rừng thiêng nước độc, người lính Tây Tiến luôn phải đối mặt với nhiều nguy hiểm và khó khăn cận kề. Nào là:

"Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống"

rồi "Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người". Có những lúc hành quân trong sương muối buốt lạnh, người sau chỉ thấy lưng người đằng trước cũng đôi lần khiến người lính mệt mỏi, ngao ngán nhưng dĩ nhiên không vì thế mà họ buông xuôi. Đặc biệt, không trận chiến nào mà không có sự hy sinh mất mát, những năm đầu kháng chiến, tất cả quân nhu yếu phẩm đặc biệt là thuốc men đều vô cùng khan hiếm. Thế nên những cơn sốt rét rừng đã trở thành ác mộng của người lính chiến, họ không chết vì bom đạn giặc thù mà chết vì bệnh tật hành hạ. Hình ảnh "Anh bạn dãi dầu không bước nữa/Gục lên súng mũ bỏ quên đời", đọc sơ cứ tưởng người lính nằm ngủ trên súng mũ, nhưng hóa ra đó là một cái chết, một cái chết nhẹ tựa lông hồng, chết bên lý tưởng mà họ vẫn theo đuổi, vẫn ôm trọn súng mũ vào lòng, chết không nuối tiếc.

Người lính Tây Tiến mang vẻ đẹp rất lạ và rất đặc trưng, nó là sự kết hợp của sự hào hùng, bất khuất kiên cường với lại sự lãng mạn và hào hoa đến từ sâu trong tâm hồn những con người trẻ tuổi. Chính sự giao hòa giữa hai yếu tố cương, nhu ấy đã đem đến một hình tượng người lính rất thật, rất độc đáo và sâu sắc là bức tường thành của nền văn học Việt Nam hiện đại. Trước tiên nói về sự hào hùng, dữ dội trong dáng vẻ, ngoại hình, người lính Tây Tiến không có một dáng vẻ sạch sẽ, cao to mà thay vào đó là những người lính với cái đầu "không mọc tóc", với "quân xanh màu lá". Một màu da xanh xám vì căn bệnh sốt rét hành hạ quá lâu, kèm theo đó là thiếu máu khiến tóc rụng bằng sạch. Vì điều kiện hành quân gian khổ, không được ăn ngủ đủ giấc, vì chiến trường căng thẳng và ác liệt nên người lính chiến mới có bộ dạng tiêu điều, xơ xác như vậy. Thế nhưng trong cái bộ dạng kỳ dị ấy lại là sự dữ dội và oai hùng mà theo như cách nói của Quang Dũng là họ cố tình "không mọc tóc" để bản thân càng thêm ghê gớm, làn da xanh tái kết hợp với màu quân trang lại là sự ngụy trang hoàn hảo nhất, kết hợp với cái đầu không tóc cho ra đời một đội quân "dữ oai hùm" giữa chốn rừng thiêng nước độc, để kẻ thù thấy mà thêm phần e ngại. Không chỉ vậy, thông qua ngoại hình kỳ dị của người lính Tây Tiến, ta lại càng thấu hiểu hơn những hy sinh, mất mát cùng với tinh thần chiến đấu kiên cường, vượt qua mọi gian khổ khó khăn, bởi cái mà họ đối mặt không chỉ đơn giản là bom đạn giặc thù, mà còn là điều kiện chiến đấu vô cùng khắc nghiệt, lằn ranh sinh tử trở nên vô cùng mong manh và họ buộc phải trở nên cứng rắn mạnh mẽ để vượt qua, đề hoàn thành lý tưởng cách mạng.

Bên cạnh vẻ hào hùng, dữ dội trong ngoại hình, thì nổi bật nhất ở người lính Tây Tiến chính là ý chí chiến đấu, lý tưởng cách mạng mang đậm khuynh hướng sử thi.

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ
Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh"

Vẫn biết rằng ra đi là không hẹn ngày trở lại, thế nhưng người lính chiến vẫn chưa từng có ý nghĩa lùi bước. Họ sẵn sàng hiến dâng cho Tổ quốc tuổi thanh xuân tươi đẹp nhất cuộc đời, tuổi hai mươi mấy là lứa tuổi mà con người ta có nhiều nỗi băn khoăn trăn trở nhất, còn đối với các anh thì chỉ có một nỗi buồn duy nhất ấy là Tổ quốc chưa yên. Thế nên chiến trường trở thành nơi các anh hướng đến, lòng các anh chỉ ngập tràn một lý tưởng cách mạng, cái chết dẫu là sợ hãi nhưng đứng trước Tổ quốc yêu thương đang vẫy gọi, thì nó dường như không còn quan trọng nữa. Mảnh đất này đã sinh ra và nuôi lớn các anh, thế nên các anh phải có nghĩa vụ phụng sự và bảo vệ nó bằng bất cứ giá nào, kể cả phải hy sinh tính mạng, các anh cũng chẳng hề nuối tiếc. Với phong cách thơ của Quang Dũng thì hình tượng người lính chiến với sự hy sinh, mất mát đau thương, nhưng không hề bi lụy, thay vào đó là cảm xúc bi tráng, hào hùng. Với những vần thơ rất hay, rất trang trọng:

"Rải rác biên cương mồ viễn xứ..
Áo bào thay chiếu anh về đất"

Câu thơ tựa như cảnh xông pha trận mạc rồi hy sinh của các tráng sĩ thời cổ đại, với vẻ đẹp kiêu hùng, anh dũng vô cùng. Quang Dũng là một người lính xuất sắc, cũng là người may mắn sống sót sau những trận chiến ác liệt và những trận sốt rét rừng khủng khiếp. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc ông phải chứng kiến cảnh hàng loạt đồng đội ngã xuống trên đất mẹ và cả trên đất khách, điều kiện thiếu thốn đến mức manh chiếu bó thay cũng không có đủ. Đau xót là thế nhưng bước vào thơ Quang Dũng, với tinh thần lãng mạn và lạc quan, ông không để sự bi thương chi phối quá mức, thay vào đó cái chết của người lính chiến lại được tác giả đưa vào thơ với vẻ oanh liệt, anh hùng bất tử. Cái chết để cả núi sông phải gầm lên "khúc độc hành" tiễn đưa thay cho kèn, trống tầm thường.

Hình tượng người lính trong thơ Quang Dũng mà quên đi những nét hào hoa, lãng mạn thì quả là một thiếu sót lớn, và không hoàn chỉnh. Bên cạnh những lúc hành quân khắc khổ, những trận chiến ác liệt, những đợt rét buốt của sương muối, của bệt tật thì người lính cũng có những lúc được thả lỏng. Đó là những lúc:

"Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa
Kìa em xiêm áo tự bao giờ
Khèn lên man điệu nàng e ấp
Nhạc về Viên Chăn xây hồn thơ"

Người lính thể hiện tinh thần yêu đời, yêu cuộc sống khi say mê nhảy múa quanh đống lửa, say mê ánh mắt nụ cười của những cô gái trẻ, say mê cả điệu nhạc rộn ràng, vui tươi. Đó chính là bản chất tâm hồn của người lính Tây Tiến, những con người đã từ bỏ áo trắng, mực xanh lên đường ra chiến tuyến nhưng chưa bao giờ từ bỏ cái tâm hồn bay bổng, đầy mơ mộng. Và nó cũng chính là tuổi trẻ, một tuổi trẻ có những khát khao về tình yêu, sự ham vui, ưa sôi động để làm giàu cho cuộc sống. Chính những điều ấy đã nuôi dưỡng một tâm hồn kiên cường và mạnh mẽ khi chiến đấu, tiếp sức cho người lính những lúc tưởng chừng quá mệt mỏi và gục ngã. Không chỉ trong những giây phút nghỉ ngơi, đặt doanh trại mà cả trong những lúc chiến đấu, hành quân, người lính chiến cũng trong mình tâm hồn lãng mạn, hào hoa.

"Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Những đêm không ngủ chờ giặc trên đất khách, lòng người chiến sĩ trẻ tuổi lại hướng về quê hương yêu dấu, nơi thủ đô ấy có gia đình, có bạn bè, trường lớp và có cả những "dáng kiều thơm". Cũng cần nhắc lại rằng, trước đây cũng chỉ vì hai câu thơ có phần quá lãng mạn và nghiêng về tình cảm cá nhân này mà một thời gian dài Tây Tiến bị xa lánh, bị cô lập. Nhưng từ sau năm 1986, với những đổi mới trong chủ trương chính sách của nhà nước về văn hóa nghệ thuật, thì Tây Tiến đã được trả về với đúng vị trí mà nó xứng đáng có được. Và hai câu thơ trên cũng trở thành điểm nhấn quan trọng của cả bài thơ, phản ánh rất chân thực đời sống tinh thần, tâm tư tình cảm của người lính trong chiến đấu. Họ còn trẻ, họ có quyền được mưu cầu hạnh phúc, và những cô gái mang áo dài, với dáng vẻ yêu kiều, nền nã chính là mơ ước của họ. Các anh hy sinh tuổi trẻ, hy sinh mạng sống để lên lên đường đi chiến đấu trước hết là vì lý tưởng cách mạng, vì Tổ quốc, nhưng bao hàm trong đó còn là vì lợi ích cá nhân, vì bảo vệ hạnh phúc của riêng họ nữa. Chung quy lại, sự kết hợp giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn trong Tây Tiến của Quang Dũng đã dựng lên một tượng đài người lính chiến bất hủ, mang vẻ đẹp của thời đại và sống mãi trong trái tim người đọc.

Đó là Tây Tiến với Quang Dũng, còn với Đồng chí của Chính Hữu, có lẽ chúng ta sẽ có ít điểm để phân tích hơn, bởi hình tượng người lính ở thơ Chính Hữu nó mang vẻ chân thực đến khắc nghiệt, và nổi bật lên trên đó là tình đồng chí gắn kết sâu nặng trong chiến đấu. Chính Hữu không đề cập nhiều đến vẻ đẹp tâm hồn mà thay vào đó ông đi sâu và hoàn cảnh xuất thân và hoàn cảnh chiến đấu đầy gian khổ của họ để làm nổi bật vẻ đẹp anh hùng. Trước hết nói về xuất thân, Chính Hữu và đồng đội đều là những người con của mảnh đất miền trung đầy nắng và gió:

"Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá"

Cuộc sống nghèo khó, kham khổ. Có thể nói nếu người lính trong Tây Tiến là phần tử tiểu tư sản trí thức thì trong thơ Chính Hữu, người lính lại là những người nông dân áo vải, bước vào chiến trường với bàn tay quen cuốc, quen cày, quen ruộng lúa, con trâu. Hoàn cảnh chiến đấu cũng có nhiều nét tương đồng với người lính Tây Tiến, đó là vùng rừng núi Việt Bắc nhiều khắc nghiệt "rừng hoang sương muối", sự hiện diện kinh hoàng của những cơn sốt rét rừng với "từng cơn ớn lạnh/Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi". Có thể nói rằng khác với vẻ lãng mạn của Quang Dũng, thì Chính Hữu lại thích đi sâu vào miêu tả những cảm nhận thực tế của cơn sốt rét, những nỗi vất vả, mệt nhọc của người lính trước bệnh tật, thể hiện được vẻ đẹp tâm hồn đến từ sự chân chất, giản dị của người lính nông dân trong chiến đấu. Tương tự, về ngoại hình người lính, Chính Hữu cũng rất thực tế khi viết:

"Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá chân không giày"

Để phản ánh điều kiện chiến đấu đầy thiếu thốn và gian khổ, từ đó làm nổi bật lên sự kiên cường, mạnh mẽ của người lính trong chiến đấu. Về nét đẹp tâm hồn, có lẽ phản ánh rõ nhất thông qua tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn của người lính chiến. Họ cùng nhau chiến đấu, cùng nhau cảm nhận cái khốn khổ của cơn sốt rét rừng, cùng cảm nhận được sự thiếu thốn, gian nan trong chiến đấu, cũng biết từng trận rét cắt da cắt thịt của vùng núi rừng Tây Bắc. Và quan trọng hơn cả họ luôn kề vai sát cánh, sẵn sàng sống chết bên nhau. Tình đồng chí đến từ sự tương đồng về hoàn cảnh xuất thân, từ những lần hành quân chiến đấu, từ những lần sống chết bên nhau trên chiến trường, chiến tranh càng làm sâu đậm thêm tình đông đội. Từ sa trường ấy, đã hình thành nên một thứ tình cảm quý giá không thể phai mờ - tình đồng chí, đồng đội.

Đối với mỗi hình ảnh người lính trong hai bài thơ ta đều có thể nhận thấy được những vẻ đẹp riêng biệt, một bên là sự hào hùng lãng mạn, một bên là sự kiên cường, thực tế. Tất cả những vẻ đẹp riêng ấy đã tổng hòa lại, làm nên hình tượng người bộ đội cụ Hồ anh dũng, bất tử trong lòng độc giả và trong lòng của toàn dân tộc Việt Nam mãi về sau.

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 7

Hình tượng anh Vệ quốc quân - Người lính Cụ Hồ - được khắc họa đậm nét trong nhiều bài thơ của nhiều tác giả. Ở giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, hình tượng người lính trong mỗi bài thơ có sức hấp dẫn, cổ vũ và với vẻ đẹp riêng, nét riêng nổi bật thể hiện trong cảm hứng. "Đồng chí" của Chính Hữu, chủ yếu là cảm hứng hiện thực giữa cảnh và người; "Tây tiến" của Quang Dũng phát triển cảm hứng lãng mạn nhằm khắc họa nét phi thường, kỳ vĩ, hùng tráng của người lính.

"Tây tiến" quan niệm người anh hùng theo lý tưởng thẩm mỹ cổ điển, truyền thống; còn "Đồng chí" tô đậm nét hiện thực, bình dị, sự lam lũ, chất phác của người nông dân chân chất hiền lành, không có ý định làm anh hùng hoặc để được tôn vinh là anh hùng. Họ tìm thấy sức mạnh ở đồng chí, đồng đội, ở một tình cảm thiêng liêng, cao cả và mới mẻ trong những người nông dân được giác ngộ trở thành người lính.

Trong thơ Quang Dũng và thơ Chính Hữu nói riêng, có sự "đổi ngôi" của cái "Tôi" trữ tình. Cái "Tôi" trong thơ ca là một khái niệm "kép", bao gồm 2 bình diện: một là cái "Tôi" với tư cách là chủ thể nhận thức, hoạt động tư duy, và hai là cái "Tôi" đối tượng cảm thụ với vai trò khách thể. Trong thơ kháng chiến nói chung, cái "Tôi" cơ bản ở bình diện quan sát, nhận thức, rung cảm với cuộc sống lớn. Điều đó tạo ra nét mới trong thơ, thơ rộng mở trong hơi thở cuộc sống, tắm mình trong không khí thời đại, sự giao hòa này tạo cho thơ thêm đa dạng, phong phú.

Chân dùng tinh thần người lính trong "Tây tiến" mang nét hoành tráng, kỳ vĩ, bí hiểm nổi bật trong bối cảnh hoang sơ, dữ dội, nghiệt ngã và cũng vô cùng mơ mộng trong không gian cụ thể của vùng núi Tây Bắc:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi

Bằng bốn câu thơ nhưng hiện lên một bức tranh toàn cảnh với đầy đủ nét hoang vu, heo hút, dữ dằn và vô cùng hiểm trở trên chặng đường hành quân của người lính Tây tiến. Một loạt những từ giàu giá trị tạo hình mang tính hội họa, với những mảng hình khối, đường nét, màu sắc "Dốc lên khúc khuỷu" rồi lại "Dốc thăm thẳm"; các từ láy "heo hút", "thăm thẳm", "khúc khuỷu" như những nét chạm khắc đặc sắc tạo nên những ấn tượng về dốc cao, vực sâu. Cả những thanh trắc tả chiều cao khi leo lên và những thanh bằng gợi khoảng không gian khi leo xuống: "Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi".

Trong gian nan thử thách không đè bẹp nổi ý chí, nghị lực, sức sống của người lính Tây tiến, nét đẹp của họ một phần cũng chính là chỗ đó. Vẫn sống mãi với thời gian ấn tượng mãnh liệt không phai bạc, mờ nhòa theo năm tháng:

Tây tiến những đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm

Quang Dũng khéo chọn cách nói, có tóc rụng, có da xanh của anh lính ốm (ốm nhưng không yếu) nhưng không mất đi dáng vẻ kiêu bạc, anh hùng, vẫn phong thái "dữ oai hùm" giữa chốn sơn cùng thủy tận. Ngay cả sự "ra đi" cũng rất nhẹ nhàng của những anh hùng hào hoa, mã thượng: "Áo bào thay chiếu anh về đất". Ba lần nói về sự hy sinh trong những hoàn cảnh khác nhau của người lính "Tây tiến" nhưng không một lần như nhiều nhà thơ vẫn dùng từ "hy sinh" hoặc "chết". Quang Dũng bằng ngòi bút tài hoa sử dụng những cụm từ "hồn về", "bỏ quên đời", "về đất" giản dị hơn, nhằm tự nhiên hóa, bình thường hóa cái chết, đúng theo quan niệm lý tưởng của học sinh, sinh viên cầm súng thời kỳ đầu kháng chiến, còn hừng hực hào khí.

Với bút pháp lãng mạn, cốt cách tài hoa và phong độ hào hùng của chiến sĩ - thi sĩ trên cả hai bình diện tác giả và tác phẩm, Quang Dũng đã tạc bằng ngôn ngữ thi ca vào lịch sử, hình tượng người lính Vệ quốc anh hùng.

Mang nét riêng, người lính Vệ quốc trong "Đồng chí" của Chính Hữu bình dị trong nghĩ suy mà "sâu sắc đến giật mình" (Xuân Diệu). Chất liệu hiện thực cuộc sống được đưa vào thơ vừa đủ tạo men say cảm xúc và nâng tầm khái quát.

Cách mạng Tháng Tám không chỉ phục sinh một dân tộc, khai sinh một thời đại, tân tạo những bảng thang giá trị tinh thần, mà còn trả lại cho mỗi người cuộc sống mới; kiến tạo những quan hệ mới, tình cảm mới chưa hề có trong lịch sử, trong văn hóa ứng xử của cộng đồng. Đó là tình đồng chí đồng đội. Chính quan hệ mới, tình cảm mới này tạo nên những vẻ đẹp khác trong chân dung tinh thần người lính Vệ quốc.

Không kỳ dị "đoàn binh không mọc tóc", "mắt trừng gửi mộng qua biên giới" như trong thơ Quang Dũng. Người lính Vệ quốc trong thơ Chính Hữu vô cùng bình dị, hiền lành, chất phác. Bức tranh về hai người vệ quốc được phác thảo bằng chất liệu cuộc sống đồng quê, trên nền "nước mặn đồng chua", "đất cày lên sỏi đá" của những người có cùng cảnh ngộ; từ những vùng nông thôn khác nhau trên nhiều miền đất nước có chung cảnh nghèo. Những người nông dân đồng cảnh, đồng cảm nên đồng tâm, đồng chí trong chọn lựa mục đích cống hiến, chiến đấu. Mở đầu bài thơ là sự gặp gỡ của hai người đồng cảnh:

Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá

Sự tương đồng về hoàn cảnh tạo nên cộng hưởng trong tình cảm gắn bó:

Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau

Nhưng cái khốn khó, nghèo khổ của những con người ở những vùng miền khác nhau không vì vậy mà hèn kém (nghèo nhưng không hèn), nghĩa là không bị cái cảnh nghèo bó buộc, câu thúc, người nông dân vượt lên số phận, vượt lên cảnh ngộ, ở trên tầm khốn khó bước vào cuộc chiến.

Quân đội ta từ nhân dân mà ra, người lính Vệ quốc hầu hết thoát thai từ nông dân, trong hành trang người lính mang theo có cái nghèo đeo đẳng "Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ". Cái rét trong rừng sâu, cái rét trong vùng địch hậu, cái rét được đề cập phản ánh trong nhiều bài thơ kháng chiến, không chỉ chuyển tải nét khắc nghiệt của khí hậu, mà còn đối sánh cảnh nồng ấm của nghĩa tình đồng chí - đồng đội, nghĩa tình quân - dân. Câu thơ của Chính Hữu vừa nói lên một thực tế về sự thiếu thốn của người lính Vệ quốc trong kháng chiến, nhưng cao hơn là một thực tế khác: Cái rét đã tạo nên tình tri kỷ giữa hai người chung chăn.

Thơ kháng chiến nói chung, thơ Chính Hữu nói riêng, cái "Tôi" trữ tình không đơn thuần là cái "Tôi" cá nhân, tâm trạng, cái "Tôi" phô diễn, cái "Tôi" giãi bày, mà là cái "Tôi" thế hệ, cái "Tôi" công dân, cái "Tôi" sử thi. Ở đây "Anh-Tôi" chuyển hóa trong biên độ cái "Ta" chung, cái "Ta" đa số đông đảo:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá

Nhưng không vì vậy mà người lính mất đi niềm tin, niềm lạc quan, vẫn yêu đời, yêu người trong tình đồng chí - đồng đội:

Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay

Hai người lính Vệ quốc trong tình đồng chí, trong nhiều câu thơ có hai vế nhưng một hoàn cảnh. Do vậy, có khi chỉ một hoàn cảnh nhưng người đọc liên tưởng cho cả hai. Có lúc câu thơ nói gia cảnh một người mà như cả hai:

Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay

Điều này cho thấy thêm một bình diện trong chân dung tinh thần người lính vệ quốc, đó là sự hy sinh âm thầm không so đo, mặc cả, không toan tính thiệt - hơn cho cuộc kháng chiến của dân tộc. Chính vẻ đẹp này ánh xạ rực rỡ cái tình của những người "đồng chí" trong thơ.

Đóng góp của Quang Dũng và Chính Hữu cho nền thơ kháng chiến trên nhiều lĩnh vực thi pháp. Bằng chính cuộc đời với những trải nghiệm, kiểm chứng, bằng vốn sống phong phú của đời lính, các anh đã phản ánh được nhiều nét thẩm mỹ khác nhau về chân dung tinh thần của một thế hệ cầm súng trong "ba ngàn ngày không nghỉ", góp phần quan trọng làm nên những trang sử vẻ vang nhất của dân tộc.

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 8

Quang Dũng và Chính Hữu đều là những nhà thơ cách mạng nổi tiếng của dân tộc Việt Nam, những giá trị của các tác phẩm này mang một ý nghĩa to lớn trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ sâu sắc và mang một tầng ý nghĩa to lớn, giá trị của nó không chỉ để lại cho người đọc nhiều cảm xúc và còn làm sống lên những tinh thần thiết yếu trong mỗi tác phẩm của người.

Đều là những người nghệ sĩ tài hoa, và có nhiều tài năng trong phép sử dụng ngôn ngữ và các nét điển hình trong phong cách nghệ thuật, Quang Dũng và Chính Hữu đã làm nên những giá trị to lớn trong những tác phẩm của mình, bài thơ có nhiều nét tương đồng khi chủ đề của nó đều hướng tới cách mạng hướng tới một nền đại chúng. Toàn bộ giá trị của tác phẩm đều muốn hướng tới những điều có giá trị to lớn và mang một tầm ý nghĩa qua trọng cho toàn bộ tác phẩm, các giá trị của nó làm nên những điều có ý nghĩa lớn lao và hạnh phúc nhất đối với mỗi con người.

Biệt tài sử dụng ngôn ngữ của Quang Dũng trong phong cách nghệ thuật của ông đã làm nên những giá trị to lớn trong phong cách của người, những giá trị của nó làm nên những giá trị to lớn về sự sống động trong những giây phút đang được sống lại trong những giây phút hào hùng, người chiến sĩ xuất hiện trong bài thơ Tây Tiến của Quang Dũng hiện lên với những người anh hùng, kiên trì bền bỉ để vượt qua mọi gian nan và nguy hiểm để có thể làm nên những điều có ý nghĩa và mang ý nghĩa mạnh mẽ nhất.

Với nghệ thuật sử dụng hình tượng nhân vật và ngôn ngữ, những điển hình về hình tượng và nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm được sử dụng một cách mạnh mẽ và có ý nghĩa nhất:

Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống

Với những ngôn ngữ tinh nghịch sắc sảo và ngập tràn giá trị màu sắc, mức độ nguy hiểm trong bài thơ đã được diễn tả với một mức độ cao nhất, và nó mang một mức độ trừu tượng hóa trong ngôn ngữ và biệt tài sử dụng ngôn ngữ trong những tác phẩm của người, giá trị đó đã tạo nên những màu sắc lung linh sống động trong những giây phút hào hùng và có ý nghĩa nhất.

Và đặc biệt đối với Chính Hữu bài thơ lạ mang một phong cách hoàn toàn khác lạ khi nghệ thuật chân thực và hiện thực xã hội hiện lên với những nét đặc sắc trong cuộc đời của tác giả, những tác phẩm đó không chỉ để lại những giá trị mạnh mẽ và đặc trưng nhất, những lời thơ mang chất chân chất và nó phản ánh được cuộc sống của những người chiến sĩ cách mạng khi phải xa quê hương người thân để đến những vùng đất mới, những người chiến sĩ của chúng ta đến từ khắp mọi nơi, và nó làm nên một gia đình lớn , mạnh mẽ và đang sống động trong từng khoảnh khắc, mỗi tác phẩm đều đem lại những lời thơ mang màu sắc tươi tắn và tạo nên nhịp sống của những người chiến sĩ cách mạng.

Qua bao nhiêu năm tháng chiến đấu kiên cường những người chiến sĩ của ta đã đứng lên làm nên những giá trị sống mạnh mẽ và ý nghĩa nhất cho mỗi con người, bao nhiêu niềm yêu thương được hồ khởi và sống trong những trang thơ ca của tác giả, với niềm tin và sự yêu thương khi hòa hợp dưới cùng một mái nhà, những người chiến sĩ tự phương trời xa xôi đã tụ họp về đây để cùng nhau làm nên những chiến công lịch sử.

Những người chiến sĩ đã đoàn kết và cùng với nhau làm nên những phút giây lịch sử hào hùng, và đây là cuộc sống tươi vui và mang màu sắc nó tạo dựng những ý nghĩa mạnh mẽ và những cuộc đời hạnh phúc và giàu ý nghĩa nhất:

Súng bên súng đầu gác bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.

Những ngôn ngữ mang màu sắc nhưng lại vô cùng chân thực đã làm nên những cuộc đời có ý nghĩa và giá trị mạnh mẽ nhất đối với mỗi con người, khi ngôn ngữ tạo dựng đang tạo nên những điều có ý nghĩa mạnh mẽ và đang lan tỏa trong cuộc đời của mỗi người. Hoàn cảnh của những người chiến sĩ của bài thơ Đồng Chí đều xuất phát từ những người nông dân đang ngày đêm phải đương đầu và cố gắng làm nên những thành quả to lớn đối với dân tộc, khi hoàn cảnh của họ khó khăn chỉ có những gian nhà lung lay, những ruộng lương thì để lại cho bạn thân cày. Hoàn cảnh của họ đã làm nên những giây phút thiêng liêng và đây chính là động lực để họ có thể cố gắng và làm nên những giây phút lịch sử hào hùng và có ý nghĩa nhất đối với dân tộc Việt Nam.

Cả hai bài thơ chúng ta đều thấy hiện lên những nét điển hình trong phong cách sử dụng ngôn ngữ để làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm, những giá trị của các tác phẩm này đều để cho nhân loại những đặc điểm điển hình và mạnh mẽ nhất. Ngôn ngữ trong hai tác phẩm này có thể thấy có sự khác nhau khi trong Tây Tiến ngôn ngữ của nó hào hùng bi tráng và mang nhiều màu sắc biểu tượng. Còn đối với bài thơ Đồng Chí ngôn ngữ chất phác, và mang giá trị về màu sắc đã làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm với hai nghệ thuật có thể thấy nó hoàn toàn khác nhau, và mục đích có thể thấy là giống nhau, nhưng trong biệt tài sử dụng ngôn ngữ của các nhân vật.

Với những nét điển hình và đặc sắc, nó tạo nên những phong phú trong nghệ thuật của tác giả đối với chính tác phẩm của mình. Những hình tượng nổi bật trong tác phẩm hiện lên hoàn toàn sâu sắc và mang màu sắc tươi tắn tạo nên những hình ảnh và giá trị có ý nghĩa nhất.

Sự khác biệt trong cách sử dụng ngôn ngữ và tính chất biệt lập trong cách tạo hình nhân vật đã làm sống động lên những giây phút hân hoan, và biệt lập đối với cuộc sống của nhân vật xuất hiện trong tác phẩm.

Những ngôn ngữ tạo lên sự biệt lập về ngôn ngữ để có giá trị ý nghĩa và mang ý nghĩa biểu trưng mạnh mẽ, tác phẩm của Quang Dũng và Chính Hữu tạo nên những ý nghĩa biểu trưng về cuộc sống và giá trị mang tầm ý nghĩa sâu sắc đối với toàn bộ tác phẩm.

Những hình ảnh điển hình và sâu sắc đã tạo nên những đặc sắc trong mỗi tác phẩm và giá trị của nó để lại cho nhân loại những cái nhìn ý nghĩa và sâu sắc nhất.

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 9

Viết về đề tài người lính trong kháng chiến Pháp không biết đã có bao nhiêu bài thơ, tác phẩm truyện viết về đề tài này. Trong số những tác giả viết về đề tài này, ta có thể kể đến hai cái tên Quang Dũng và Chính Hữu. Hai tác phẩm Tây Tiến và Đồng Chí cho đến nay vẫn được bạn đọc rất yêu thích và được giới phê bình đánh giá cao. Cùng viết về đề tài người lính trong thời kì kháng chiến chống Pháp nhưng người lính trong hai bài thơ không chỉ có những điểm giống nhau mà có nhiều điểm khác nhau.

Điểm khác nhau thứ nhất là khác về xuất thân. Những người lính trong hai bài thơ có hoàn cảnh xuất thân khác nhau nên dẫn đến tính cách khác nhau.

Những người lính Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng phần lớn xuất thân từ những người thanh niên tri thức ở Hà Nội. Họ lên đường theo tiếng gọi của lòng yêu nước, hi sinh hạnh phúc cá nhân để đổi lấy hạnh phúc cho đất nước. Chính vì thế họ có một tâm hồn lãng mạn:

"Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Trong hoàn cảnh chiến đấu ác liệt gian nan nhưng sự lãng mạn trong những người lính trẻ không hề mất đi. Họ nhớ tới những người con gái mà họ yêu để thi vị hóa, cân bằng hóa thực tại. Họ đắm mình vào những cảnh sắc thiên nhiên, nhìn cảnh rừng núi Tây Bắc hùng vĩ trữ tình, ngòi súng chếch cao tưởng như súng đang ngửi trời. Không những thế những người lính ấy còn có một tâm hồn vui tươi, trẻ trung.

Những người lính trong bài thơ Đồng chí của Chính Hữu không xuất thân là những người trí thức mà họ xuất thân từ những người nông dân ở những nơi làng quê mộc mạc chất phác:

"Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau"

Họ là những người nông dân từ những nơi quê nghèo, đất cày sỏi đá, nước mặn đồng chua. Họ vừa chất phát, vừa hồn hậu. Nếu ngày trước họ chỉ biết đi cày, làm lụng ruộng nương nhưng vì đất nước, vì căm thù giặc họ cũng "mặc kệ" ngôi nhà không cho gió lung lay để ra trận. Bỏ giếng nước gốc đa, bỏ tấm áo vải nâu trầm, người lính nông dân khoác lên mình màu áo xanh bộ đội, tay bỏ cày cầm súng giết giặc trả thù cho quê hương.

Sự khác nhau thứ hai của những người lính trong hai bài thơ là vẻ đẹp về ngoại hình.

Người lính Tây Tiến được nhà thơ Quang Dũng vẽ lên nét đẹp ngoại hình tuy ốm nhưng không yếu:

"Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm
Mắt trừng gửi mộng qua biên giới
Đêm mơ Hà Nội dáng kiều thơm"

Do điều kiện chiến tranh thiếu thốn, do hoàn cảnh chiến đấu nơi rừng thiêng nước độc người lính Tây Tiến hiện liên với ngoại hình đầu không mọc tóc, quân xanh là lá cây ngụy trang hay cũng có thể màu quần áo bộ đội hoặc cũng có thể hiểu là mặt xanh vì thiếu chất. Thế nhưng người lính không hề yếu trái lại lại "dữ oai hùm". Họ hiện lên với vẻ đẹp của ý chí "mắt trừng" thể hiện sự căm thù giặc hay cũng có thể là ngay cả trong khi ngủ người lính Tây Tiến cũng gửi mộng chiến thắng vùng biên giới.

Khác với người lính Tây Tiến, người lính nông dân của Chính Hữu có vẻ đẹp ngoại hình với những nét mộc mạc hồn hậu. Đó là những miếng áo rách, quần vá:

"Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!"

Nét ngoại hình của người lính nông dân không được nhà thơ nhấn mạnh vào những đặc điểm trên gương mặt cơ thể mà nhấn mạnh vào những thiếu thốn của trang phục quần áo. Người lính nông dân phải mặc áo rách vai, quần vá chỗ này một miếng chỗ kia vài miếng. Trong làn sương sớm, những người lính đứng sát bên nhau, chân không có giày miệng cười với nhau trong buốt giá đêm khuya. Họ hiện lên không những giản dị mà chứa chan tình yêu thương. Ngoài dẫu dẫu có rét, quần áo dẫu có nát thì càng là cái cớ cho tình đồng chí trở nên keo sơn ấm áp hơn.

Cả hai bài thơ đều thể hiện được tình đồng chí đồng đội, nhưng ở mỗi bài cách mà các người lính thể hiện tình đồng chí đó lại khác nhau.

Người lính Tây Tiến là những người trí thức, họ không thể hiện tình cảm của mình một cách trực tiếp mà thể hiện rất kín đáo. Nhà thơ không có câu thơ nào nói về cách quan tâm chăm sóc nhau giữa những người đồng đội của mình nhưng cách nhà thơ diễn tả lại những kỉ niệm mà nhà thơ từng có với đồng đội của mình có thể thấy tình cảm keo sơn gắn kết ấy. Nó keo sơn đến mức người lính Tây Tiến nguyện:

"Ai lên Tây Tiến mùa xuân ấy
Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"

Còn người lính nông dân được nhà thơ Chính Hữu miêu tả tình đồng chí một cách trực tiếp. Đối với họ tình đồng chí là những người không hẹn quen nhau, đều đến từ những nơi xa lạ nhưng:

"Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỷ
Đồng chí!"

Hay

Thương nhau tay nắm lấy bàn tay!
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo"

Từ đây ta có thể thấy được những vẻ đẹp khác nhau của người lính thời kì kháng chiến chống Pháp qua hai bài thơ Tây Tiến và Đồng Chí. Bằng tài năng nghệ thuật của mình, Quang Dũng và Chính Hữu đã xây dựng những vẻ đẹp riêng cho những người lính của mình. Tuy nhiên, chính những nét điểm riêng ấy lại làm nên một nét đẹp chung cho người lính thời kì kháng chiến chống Pháp nói riêng và người lính Việt Nam nói chung. Dù họ có là ai, ở đâu, xuất thân như thế nào thì họ ra đi đều với mục tiêu bảo vệ đất nước, chọn hi sinh để đổi lấy hạnh phúc cho dân tộc.

Nghị luận so sánh, đánh giá Hình tượng người lính trong Đồng chí và Tây Tiến - Mẫu 10

Nhắc đến những nhà thơ cách mạng nổi tiếng của dân tộc không thể không nhắc đến hai nhà thơ Quang Dũng và Chính Hữu. Cả hai nhà thơ đều là những người nghệ sĩ tài hoa và có các nét điển hình trong phong cách nghệ thuật của mình. Những tác phẩm của Quang Dũng và Chính Hữu chứa đựng giá trị to lớn và có nhiều nét tương đồng khi chủ đề đều hướng đến cách mạng một nền đại chúng mang ý nghĩa quan trọng cho toàn bộ tác phẩm, những giá trị ấy làm nên những ý nghĩa to lớn và hạnh phúc đối với mỗi con người.

Trong phong cách nghệ thuật của Quang Dũng biệt tài sử dụng ngôn ngữ của ông đã góp phần tạo ra những giá trị vô cùng to lớn trong phong cách của người. Điều đó làm nên sự sống động như đang được sống trong những giây phút hào hùng của người lính đã xuất hiện trong bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng. Hình ảnh người chiến sĩ hiện lên với hình tượng của những người anh hùng, bền bỉ, kiên trì vượt qua mọi khó khăn, gian nan, mọi hiểm nguy để có thể làm nên những điều có ý nghĩa mạnh mẽ nhất.

Với nghệ thuật sử dụng hình tượng nhân vật và ngôn ngữ sinh động hấp dẫn được sử dụng có ý nghĩa và sử dụng một cách mạnh mẽ:

“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm

Heo hút cồn mây súng ngửi trời

Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống”

Sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, tinh nghịch, ngập tràn giá trị sắc màu, mức độ hiểm trở nguy hiểm có trong bài thơ đã được thể hiện ở một mức độ cao nhất và trừu tượng hóa trong ngôn ngữ tạo nên những sắc màu sống động trong giây phút hào hùng, ý nghĩa.

Đối với Chính Hữu bài thơ mang đến một phong cách khác lạ hoàn toàn khi hiện thực xã hội và nghệ thuật chân thực hiện lên mang nét đặc trưng trong cuộc đời của nhà thơ. Những tác phẩm ấy không chỉ có giá trị mạnh mẽ với những vần thơ mang chất chân chất mà nó còn phản ánh được cuộc sống của những người lính cách mạng khi họ phải rời xa quê nhà, rời xa những người thân yêu của mình để đến những vùng đất mới. Những người chiến sĩ đến từ khắp mọi miền đất nước, và họ đã tạo nên một gia đình lớn không chỉ mạnh mẽ mà còn đang sống động trong mỗi khoảnh khắc. Mỗi bài thơ đều đem lại những màu sắc tươi tắn lung linh, sống động cùng với đó tạo thành nhịp sống của những người lính cách mạng.

Trải qua nhiều năm kháng chiến những người lính chiến sĩ kiên cường của ta đã đứng lên tạo nên những giá trị sống to lớn mạnh mẽ và ý nghĩa nhất đối với mỗi con người, những niềm vui, niềm yêu thương hồ khởi được toát lên trong những vần thơ ca của tác giả, bằng niềm tin cùng với sự yêu thương thì những người chiến sĩ ở những phương trời xa xôi đã tụ họp về đây dưới cùng một mái nhà rồi họ đã cùng nhau làm nên lịch sử với những những chiến công vang dội.

Những người lính chiến sĩ đã luôn ở bên nhau, luôn đoàn kết và cùng nhau làm nên lịch sử với những phút giây hào hùng. Qua đó thể hiện một cuộc sống vui tươi và đầy hạnh phúc:

“Súng bên súng đầu gác bên đầu

Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.”

Những ngôn từ mang đậm tính chân thực, làm cho những cuộc đời càng thêm ý nghĩa hơn đối với mỗi con người. Đối với những người chiến sĩ trong bài thơ Đồng chí thì hoàn cảnh xuất thân của họ là từ những người nông dân đang phải đương đầu và cố gắng ngày đêm để tạo ra những thành quả to lớn đối với dân tộc. Hoàn cảnh của họ rất khó khăn và họ đã tạo nên những phút giây thiêng liêng lịch sử. Đây cũng chính là động lực to lớn nhất để họ luôn cố gắng và hướng tới để làm nên những giây phút lịch sử hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Người đọc đều thấy ở hai bài thơ là phong cách sử dụng ngôn ngữ điển hình góp phần làm nổi bật lên toàn bộ bài thơ. Các tác phẩm này đều có giá trị để cho nhân loại những nét mạnh mẽ và điển hình nhất. Có thể thấy trong hai bài thơ có sự khác nhau trong ngôn ngữ khi Tây Tiến sử dụng ngôn ngữ bi tráng, hào hùng, mang nhiều sắc màu biểu tượng. Còn ngôn ngữ bài thơ Đồng Chí chất phác, giản dị mang giá trị về sắc màu góp phần làm nổi bật lên toàn bộ tác phẩm. Hai nghệ thuật hoàn toàn khác nhau, nhưng mục đích chúng ta có thể thấy là giống nhau, trong biệt tài sử dụng ngôn ngữ nhân vật.

Đối với tác phẩm của mình nghệ thuật của nhà thơ được thể hiện phong phú qua những nét điển hình đặc sắc. Trong tác phẩm những hình tượng nổi bật hiện lên mang màu sắc tươi tắn góp phần tạo nên những hình ảnh có giá trị cao. Cách sử dụng ngôn ngữ có sự khác biệt và cách tạo hình nhân vật có tính biệt lập đã làm sống động nhộn nhịp lên những giây phút hân hoan và thể hiện sự biệt lập đối với cuộc sống của nhân vật. Tác phẩm của hai nhà thơ Quang Dũng và Chính Hữu đã đem lại những ý nghĩa biểu tượng về cuộc sống và giá trị ý nghĩa sâu sắc đối với toàn bộ bài thơ.

Những hình ảnh mang những đặc điểm điển hình sâu sắc đã tạo nên những nét đặc sắc riêng trong mỗi tác phẩm và giá trị to lớn mà nó đã để lại cho cả nhân loại là những cái nhìn sâu sắc và ý nghĩa nhất.

Đánh giá

0

0 đánh giá