Sách bài tập Lịch sử 8 Bài 5 (Chân trời sáng tạo): Quá trình khai phá vùng đất phía Nam của người Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII

2.6 K

Với giải sách bài tập Lịch sử 8 Bài 5: Quá trình khai phá vùng đất phía Nam của người Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII sách Chân trời sáng tạo hay, chi tiết giúp học sinh dễ dàng xem và so sánh lời giải từ đó biết cách làm bài tập trong SBT Lịch sử 8. Mời các bạn đón xem:

Giải SBT Lịch sử 8 Bài 5: Quá trình khai phá vùng đất phía Nam của người Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII

Bài 1 trang 20 SBT Lịch Sử 8Hoàn thành sơ đồ dưới đây về những sự kiện quan trọng đánh dấu quá trình khai phá, mở đất về phía Nam của người Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII.

Hoàn thành sơ đồ dưới đây về những sự kiện quan trọng đánh dấu  quá trình khai phá, mở đất về phía Nam

Lời giải:

(*) HS điền các thông tin sau vào sơ đồ:

- 1611: Nguyễn Hoàng thành lập phủ Phú Yên.

- 1653: Dinh Thái Khang (Khánh Hòa ngày nay) được thành lập.

- 1693: phần đất của Chiêm Thành (Ninh Thuận, Bình Thuận) sáp nhập thành một trấn của Đàng Trong.

- 1698: Nguyễn Hữu Cảnh vào kinh lí phía nam, đặt Phủ Gia Định.

- 1757: chúa Nguyễn hoàn thiện hệ thống chính quyền trên vùng đất Nam Bộ

Bài 2 trang 20 SBT Lịch Sử 8Đọc đoạn tư liệu dưới đây:

Lê Quý Đôn nhận xét về vùng đất Thừa Thiên Huế và Quảng Nam ngày nay vào thời điểm thế kỉ XVI như sau: “Quân dân hai xứ thân yên tín phục..., chợ không bán hai giá, người không ai trộm cướp, cửa ngoài không phải đóng, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá, quân lệnh nghiêm trang, ai cũng cố gắng, trong cõi đều an cư lạc nghiệp”.

(Lê Quý Đôn toàn tập, tập 1 - Phủ biên tạp lục, NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1977, trang 50)

Em hãy khoanh tròn vào chữ cái ứng với ý đúng.

Đoạn tư liệu trên mô tả về

A. tình hình Đàng Trong vào thế kỉ XVI.

B. tình hình hai xứ Thuận Hoá và Quảng Nam vào thế kỉ XVI.

C. tình hình kinh tế của Thuận Hoá và Quảng Nam vào thế kỉ XVI.

D. cuộc sống yên bình của người dân Đàng Trong vào thế kỉ XVI.

Lời giải:

Đáp án đúng là D

Đoạn tư liệu trên mô tả về cuộc sống yên bình của người dân Đàng Trong vào thế kỉ XVI.

Bài 3 trang 21 SBT Lịch Sử 8Đọc đoạn tư liệu dưới đây và thực hiện các nhiệm vụ.

Thiên Nam tử chí lộ đồ thư (Tập bản đồ chỉ dẫn đi đường ở trời Nam), phần phủ Quảng Ngãi, quyển 1, trong tập Hồng Đức bản đồ, do Đỗ Bá biên soạn vào thế kỉ XVII. Phần chú giải trên bản đồ ghi rõ: “Giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển. Từ cửa biển Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh, mỗi lần có gió Tây - Nam thì thương thuyền các nước ở phía trong trôi dạt về đấy; gió Đông - Bắc thì thương thuyền phía ngoài cũng trôi dạt ở đấy, đều cùng chết đói hết cả. Hàng hoá đều ở nơi đó. Họ Nguyễn mỗi năm, vào tháng cuối mùa đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, phần nhiều là vàng, bạc, tiền tệ, súng đạn..”.

(Viện Khảo cổ, Hồng Đức bản đồ, Sài Gòn, 1962)

Câu 1 trang 21 SBT Lịch Sử 8: Điền chữ Đ ứng với nội dung đúng hoặc chữ S ứng với nội dung sai vào □ trước các dữ kiện cho phù hợp.

□ Vua Lê Thánh Tông lệnh cho Đỗ Bá biên soạn Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư vào thế kỉ XVII.

□ Bãi Cát Vàng dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển. Bãi Cát Vàng được mô tả ở phần chú giải trên bản đồ.

□ Thuyền của chúa Nguyễn hay bị trôi dạt vào Bãi Cát Vàng theo gió mùa. Thuyền của nước ngoài bị đắm nhiều ở khu vực Bãi Cát Vàng, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh.

□ Hằng năm, chúa Nguyễn đều cử mười tám chiếc thuyền ra gom hàng hoá, vật phẩm ở Bãi Cát Vàng.

Lời giải:

[ Đ ] Vua Lê Thánh Tông lệnh cho Đỗ Bá biên soạn Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư vào thế kỉ XVII.

[ Đ ] Bãi Cát Vàng dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển. Bãi Cát Vàng được mô tả ở phần chú giải trên bản đồ

[ S ] Thuyền của chúa Nguyễn hay bị trôi dạt vào Bãi Cát Vàng theo gió mùa. Thuyền của nước ngoài bị đắm nhiều ở khu vực Bãi Cát Vàng, từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Vinh.

[ Đ ] Hằng năm, chúa Nguyễn đều cử mười tám chiếc thuyền ra gom hàng hoá, vật phẩm ở Bãi Cát Vàng.

Câu 2 trang 21 SBT Lịch Sử 8: Nội dung của phần chú giải trên bản đồ cho biết điều gì? Em hãy chỉ ra những chi tiết trong đoạn tư liệu thể hiện điều đó.

Lời giải:

Nội dung phần chú giải cho biết về:

+ Vị trí địa lí và đặc điểm của quần đảo Hoàng Sa (Bãi Cát vàng), thể hiện ở chi tiết: Giữa biển có một bãi cát dài, gọi là Bãi Cát Vàng, dài độ 400 dặm, rộng 20 dặm, đứng dựng giữa biển

+ Hoạt động thực thi chủ quyền của chính quyền chúa Nguyễn ở quần đảo Hoàng Sa, thể hiện ở chi tiết: Họ Nguyễn mỗi năm, vào tháng cuối mùa đông đưa mười tám chiếc thuyền đến lấy hoá vật, phần nhiều là vàng, bạc, tiền tệ, súng đạn..”.

(Viện Khảo cổ, Hồng Đức bản đồ, Sài Gòn, 1962)

Bài 4 trang 22 SBT Lịch Sử 8Em hãy ghi chú thích cho những hình vẽ dưới đây để làm rõ hơn những hoạt động mà nhà nước Đại Việt đã làm để thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của nước ta trong các thế kỉ XVI-XVIII.

Em hãy ghi chú thích cho những hình vẽ dưới đây để làm rõ hơn những hoạt động

Lời giải:

Khám phá và đánh dấu biên giới: Nhà nước Đại Việt đã tiến hành các chuyến khám phá và đánh dấu biên giới ở các vùng biển gần Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa. Cùng với việc xác định đường biên giới này, các biển đảo và bãi đá trên biển đã được gắn cờ để thể hiện chủ quyền của Đại Việt.

Xông pha làng mạc và khu định cư: Việc này nhằm thể hiện sự hiện diện và thể chế của Đại Việt trên những đảo này, đồng thời tạo điều kiện cho nhân dân Đại Việt định cư và khai thác các nguồn tài nguyên trên quần đảo.

Đánh dấu biên giới bằng văn bản: Nhà nước Đại Việt đã thực hiện việc đánh dấu biên giới và chủ quyền đối với các Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thông qua việc xuất bản các tài liệu, văn bản chính thức. Ví dụ, trong quyển "Đại Nam thực lục", thuật lại nhiều lần việc giao lữ độ đảo Đảo Trường Sa tới các thuyền đánh cá và thuyền buôn của Châu Á. Lịch sử và địa lý cũng đã ghi nhận sự chiếm đóng của Đại Việt đối với Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa.

Bài 5 trang 22 SBT Lịch Sử 8Tìm hiểu thêm thông tin về Lễ khao lề thế lính trên đảo Lý Sơn, em hãy:

Câu 1 trang 22 SBT Lịch Sử 8: Trình bày về nguồn gốc của Lễ khao lề thế lính trên đảo Lý Sơn.

Lời giải:

- Theo sử liệu ghi chép lại, vào thế kỷ XVII, chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong đã tổ chức tuyển chọn những trai tráng khỏe mạnh, giỏi bơi lội tại xã An Vĩnh, huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, để sung vào hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải. Các dân binh thuộc hải đội Hoàng Sa và Bắc Hải sẽ ra các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thực thi nhiệm vụ: thu lượm hàng hoá của những con tàu bị đắm; thu lượm hải sản quý và từng bước xác lập chủ quyền đối với hai quần đảo này.

- Tương truyền rằng do mỗi chuyến đi dài 6 tháng (từ tháng 2 đến tháng 8 hằng năm) trên biển đầy rủi ro bất trắc nên mỗi người lính trước khi đi ra Hoàng Sa, Trường Sa sẽ phải chuẩn bị sẵn cho mình: 1 đôi chiếu, mấy sợi dây mây, 7 cái đòn tre và 1 thẻ tre. Nếu gặp chuyện chẳng lành thì chiếu dùng để bó xác, đòn tre dùng để làm nẹp và lấy dây mây bó lại. Chiếc thẻ tre ghi rõ tên tuổi, quê quán, phiên hiệu đơn vị của người xấu số được cài kỹ trong bó xác, thi thể được thả xuống biển để trôi về bờ tìm về với quê hương bản quán.

- Trong suốt mấy trăm năm hoạt động, đã có hàng nghìn dân binh, vượt qua biết bao sóng gió, bão tố để thực thi nhiệm vụ giữ gìn chủ quyền ở hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Và không phải ai cũng có may mắn trở về.

- Từ mất mát hy sinh của nhiều lớp người đi làm nhiệm vụ tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, người dân đảo Lý Sơn đã hình thành một nghi lễ mang đậm tính nhân văn - đó là Lễ Khao lề thế lính - cúng thế cho người sống để cầu mong người đi được bình an, sớm trở về quê hương. Nghi lễ này được tổ chức vào khoảng tháng Hai, tháng Ba âm lịch hằng năm (trước khi những người lính lên đường).

- Trong buổi tế, người ta làm những hình người bằng giấy, hoặc bằng bột gạo và dán giấy ngũ sắc, làm thuyền bằng thân cây chuối, đặt hình nộm lên để làm giả những đội binh thuyền Hoàng Sa đem tế tại đình, tế xong đem thả ra biển, với mong muốn đội thuyền giả kia sẽ chịu mọi rủi ro thay cho những người lính của đội Hoàng Sa, đồng thời tạo niềm tin và ý chí cho người lính hoàn thành nhiệm vụ theo lệnh vua.

- Lễ Khao lề là ngày hội lớn không chỉ riêng Quảng Ngãi mà từ lâu đã thấm sâu vào lòng người dân mọi miền đất nước như một "bằng chứng sống" về chủ quyền của Việt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa. Năm 2013, Lễ Khao lề thế lính Hoàng Sa đã được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia - loại hình tập quán xã hội và tín ngưỡng.

Câu 2 trang 22 SBT Lịch Sử 8: Cho biết Lễ khao lề thế lính trên đảo Lý Sơn ngày nay có ý nghĩa gì.

Lời giải:

- Tri ân công lao của các thế hệ đi trước trong việc xác lập, thực thi và bảo vệ chủ quyền biển đảo của Tổ quốc (đặc biệt là tại hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa).

- Tuyên truyền và giáo dục thế hệ sau hãy tiếp nối lòng yêu nước và ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải của Tổ quốc.

- Là một trong những cơ sở lịch sử để nhân dân Việt Nam đấu tranh bảo vệ chủ quyền biển, đảo trong giai đoạn hiện nay.

Xem thêm các bài giải Sách bài tập Lịch sử lớp 8 Chân trời sáng tạo hay, chi tiết khác:

Bài 4: Xung đột Nam - Bắc triều và Trịnh Nguyễn

Bài 5: Quá trình khai phá vùng đất phía Nam của người Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII

Bài 6: Kinh tế, văn hoá và tôn giáo ở Đại Việt trong các thế kỉ XVI - XVIII

Bài 7: Khởi nghĩa nông dân ở Đàng Ngoài thế kỉ XVIII

Bài 8: Phong trào Tây Sơn

Bài 9: Các nước Anh, Pháp, Đức, Mỹ chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc

Lý thuyết Lịch Sử 8 Bài 5: Quá trình khai thác vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII

1. Khái quát quá trình khai phá vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII

- Vào đầu thế kỉ XVI, xứ Thuận Hoá và Quảng Nam dân cư vẫn còn thưa thớt. Nhưng sau khi Nguyễn Hoàng trở thành trấn thủ Thuận Hoá và Quảng Nam, khu vực này trở nên yên bình và phát triển kinh tế.

- Năm 1597, Lương Văn Chánh được Nguyễn Hoàng sai đi đưa dân từ Tuy Viễn đến Phú Yên để lập làng mạc và khai hoang đất bỏ hoang của người Chăm.

- Người Việt tiếp tục di cư về phía nam từ cuối thế kỉ XVI, đặc biệt sau cuộc hôn nhân giữa Ngọc Vạn và vua Cam-pu-chia vào năm 1620. Năm 1693, Chiêm Thành sáp nhập thành một trấn của Đàng Trong và năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh đặt phủ Gia Định.

Lý thuyết Lịch sử 8 Bài 5 (Chân trời sáng tạo): Quá trình khai thác vùng đất phía Nam từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII (ảnh 1)- Vào giữa thế kỉ XVIII, nhiều thôn ấp mới và trung tâm giao thương phát triển đã xuất hiện ở vùng phương Nam, như Nông Nại Đại Phố, Gia Định, Bến Nghé, Hà Tiên.

2. Quá trình thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa của các chúa Nguyễn và ý nghĩa lịch sử

a) Xác nhận và thực thi chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa, quần đảo Trường Sa

- Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa có nhiều tên khác nhau trong bộ chính sử của các triều đại phong kiến Việt Nam: Bãi Cát Vàng, Vạn Lý Hoàng Sa, Đại Trường Sa,...

- Bản đồ Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư biên soạn vào thế kỉ XVII ghi rõ hai quần đảo này thuộc phủ Tư Nghĩa (Quảng Ngãi).

- Chúa Nguyễn Phúc Nguyên thành lập hải đội Hoàng Sa và đội Bắc Hải để thực thi chủ quyền của nhà nước Đại Việt đối với Hoàng Sa và Trường Sa.

- Hải đội Hoàng Sa canh giữ và khai thác các đảo ở Biển Đông, từ phía tây nam đảo Hải Nam xuống vùng đảo Trường Sa, tới tận vùng đảo Côn Lôn.

- Hải đội Hoàng Sa có quyền thu gom hàng hoá của các tàu nước ngoài bị đắm ở khu vực quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa để nộp cho triều đình.

b) Ý nghĩa của quá trình thực thi chủ quyền trên hai quần đảo của chúa Nguyễn

- Chúa Nguyễn ở Đàng Trong là chính quyền đầu tiên xác định chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.

- Hải đội Hoàng Sa thực hiện thường xuyên hoạt động từ tháng 2 đến tháng 8 hằng năm.

- Chính quyền chúa Nguyễn kiểm soát và thực thi chủ quyền liên tục từ thế kỉ XVII, tiếp nối bởi nhà Tây Sơn và nhà Nguyễn.

- Nhờ hoạt động của hải đội Hoàng Sa, "Bãi Cát Vàng" trở thành vùng biển đảo không thể tách rời với đời sống của cư dân ven biển miền Trung Việt Nam từ thế kỉ XVII.

Đánh giá

0

0 đánh giá