Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Soạn văn lớp 11: Xin lập khoa luật mới nhất, tài liệu bao gồm 7 trang, trả lời đầy đủ các câu hỏi lý thuyết chuẩn bị bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Soạn bài: Xin lập khoa luật
1. Soạn bài: Xin lập khoa luật mẫu 1
1.1. Tóm tắt
Xin lập khoa luật được Nguyễn Trường Tộ ghi trong bản điều trần Tế cấp bát điều
(Tám việc cần làm gấp) dâng lên triều đình. Văn bản này bàn về sự cấp thiết của
luật pháp đối với xã hội nhằm thuyết phục triều đình cho mở khoa Luật.
1.2. Bố cục
Phần 1 (từ đầu đến “thì đó là quốc dân giết”): Vai trò của luật pháp đối với đời
sống của đất nước.
Phần 2 (tiếp theo đến “chất phác?”): Điểm hạn chế của Nho giáo trong việc thực
thi luật.
Phần 3 (đoạn còn lại): Mối quan hệ giữa luật pháp và đạo đức.
1.3. Câu 1 (trang 73 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
+ Luật bao gồm các lĩnh vực: Kỉ vương, uy quyền, chính lệnh, tam cường ngũ
thương và những việc hành chính của sáu bộ.
+ Giới thiệu việc thực thi luật ở các nước phương Tây:
- Những người nhận nhiệm vụ điều tra, xét xử không bị o ép bởi bất cứ thế lực nào.
- Họ chỉ có thăng trật chứ không bị biếm truất.
- Đến vua cũng không có quyền tự đoán phạt một người mà thiếu sự xem xét của
những người này.
1.4. Câu 2 (trang 73 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
+ Tác giả chủ trương: vua, quan và dân đều phải tôn trọng và thực thi pháp luật.
+ Chủ trương như vậy để tạo ra một xã hội bình đẳng, công bằng, nghiêm minh.
1.5. Câu 3 (trang 73 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Theo Nguyễn Trường Tộ, Nho học truyền thống chưa có sự tôn trọng luật pháp.
1.6. Câu 4 (trang 73 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Mối quan hệ giữa đạo đức và luật pháp:
+ Giữ đúng luật chính là đạo đức.
+ Luật pháp chính là cái đức lớn nhất, là chí công vô tư, hợp với đức trời, đạo
người.
1.7. Câu 5 (trang 73 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
Nhắc đến Khổng Tử và các khái niệm đạo đức, văn chương, tác giả đã sử dụng
phép lập luận phản đề, chứng minh thực tế Nho gia đi ngược lại với chính lý thuyết
sách vở họ đặt ra.
⇒ Tăng tính sắc bén, tính chiến đấu cho lời văn.
Ý nghĩa
Qua văn bản ta thấy được ý nghĩa quan trọng của luật pháp đối với quốc gia, đồng
thời thấy được tư tưởng tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Trường Tộ cùng những
tâm tư, tình cảm, sự trăn trở của ông trước vận mệnh đất nước thể hiện qua ngòi
bút nghệ thuật đặc sắc.
2. Soạn bài: Xin lập khoa luật mẫu 2
XIN LẬP KHOA LUẬT
(Trích từ bản điều trần số 27: Tế cấp bát điều)
Nguyễn Trường Tộ
2.1. KIẾN THỨC CƠ BẢN
Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871) là một tri thức yêu nước và theo đạo Thiên
Chúa. Ông là người làng Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh
Nghệ An. Nguyễn Trường Tộ sớm được tiếp xúc với tư tưởng phương Tây nên ông
có nhiều tư tưởng tiến bộ, Ông đã dâng lên vua Tự Đức nhiều bản điều trần có giá
trị, tập trung ở Tế cấp bát điều nhưng tiếc là không được chấp nhận.
Tế cấp bát điều là bản điều trần thứ 27 của Nguyễn Trường Tộ. Bản điều trần thể
hiện tài năng và tư tưởng tiến bộ của ông. Trong bản điều trần ông chỉ ra tám việc
cần làm gấp để canh tân đất nước, thể hiện suy nghĩ sắc sảo và tầm nhìn xa trông
rộng của tác giả.
Đoạn Xin lập khoa luật đã đưa ra những lí do rất xác đáng về việc mở khoa luật để
dạy cho người việt Nam. Với cái nhìn tiến bộ và đầy tinh thần trách nhiệm,
Nguyễn Trường Tộ đã chỉ rõ vai trò của luật pháp đối với sự ổn định của xã hội.
Và cuối cùng khẳng định việc lập khoa luật để dạy luật pháp cho nhân dân là cần
thiết và đúng đắn.
2.2. RÈN KĨ NĂNG
2.2.1. Đoạn 1, tác giả nêu ra các nội dung của luật để khẳng định khả năng
bao quát của luật đối với xã hội. Sau đó, khẳng định vai trò của luật đối với
việc trị dân của vua.
a, Luật bào gồm: "kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia, trong đó tam
cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đều đầy đủ". Có nghĩa là
luật bao trùm cả vấn đề đạo đức và trách nhiệm. Cũng ở đây, tác giả chỉ ra tác dụng
của luật: quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn". Ông đặc biệt nhấn mạnh
vai trò của luật đối với việc trị dân của vua. Tác giả đã đề cập đến vấn đề dân chủ
trong việc thi hành luật pháp.
b, Tác giả đã vào đề theo cách trực tiếp. Cách vào đề đó giúp cho người đọc chủ
động tiếp nhận những nội dung được trình bảy ở phần sau.
c, Trong chế độ phong kiến, vua là trên hết nhưng tác giả đã dùng những lí lẽ
thuyết phục nhà vua tuân theo pháp luật, đó là "Vua cũng không được đoán phạt
một người nào theo ý mình mà không có chữ kí của các quan trong bộ ấy. Làm thế
là để cho dân chúng thấy rõ đạo công bằng. Vả lại vua không dự vào những việc
ngũ hình để tỏ đạo nhân ái..."
d, Nguyễn Trường Tộ viết "Phàm những ai đã nhập ngạch bộ Hình xử đoán... được
một bậc" là đúng. Bởi vì, điều đó sẽ khiến cho các vị quan thực hành luật pháp có
thể xử án một cách vô tư, đảm bảo sịư công minh, công bằm của luật, "để giúp cho
các vị này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một bó buộc
nào cả".
2.2.2. Đoạn 2, tác giả khẳng định vai trò của luật.
a, Ông đã chỉ ra rằng, lí thuyết của sách Nho "chỉ là nói suông trên giấy", đó là
những lẽ phải nhưng tự nó không có đủ khả năng làm cho mọi người thay đổi tâm
tính, tự giác sửa mình. Đưa ra những nhược điểm của việc trị dân bằng lí thuyết
nhà Nho, tác giả không chỉ hướng đến mục đích phê phán sách Nho mà để khẳng
định luật cần thiết đối với sự ổn định của xã hội. Nho gia giáo dục con người bằng
đạo đức, bằng những tấm gương đạo đức của quá khứ nên nặng tính lí thuyết
suông.
b, Cuối mỗi điều phê phán Nho giáo, Nguyễn Trường Tộ kết lại bằng lời của
Khổng Tử khiến cho lí lẽ của ông càng thuyết phục người nghe, nhất là nhà Nho
vốn rất bảo thủ. Luật có vai trò biến lí thuyết của sách Nho thành hiện thực.
2.2.3. Đoạn 3, Nguyễn Trường Tộ đã lí giải thấu đáo vai trò của luật, đồng
thời giải quyết triệt để những nghi ngờ về khả năng của luật. Ông dùng lập
luận để bác bỏ quan điểm "luật lệ chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh
vi". Ông khẳng định "trái luật là tội, giữ đúng luật là đức". Để khẳng định tác giả
đã dùng các câu nghi vấn tu từ. Bằng lập luận rõ ràng, lí lẽ thấu đáo, Nguyễn
Trường Tộ đã chỉ ra một cách thuyết phục sự cần thiết của việc dùng luật để trị
dân. Từ đó khẳng định: lập khoa luật để dạy dân hiểu luật là việc làm cấp thiết.
2.2.4. Với cái nhìn tiến bộ và đầy tinh thần trách nhiệm, Nguyễn Trường Tộ
đã chỉ rõ vai trò của luật pháp đối với sự ổn định của xã hội. Tư tưởng ấy của
ông dù được nói đến cách đây hàng trăm năm nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá
trị.
3. Soạn bài: Xin lập khoa luật mẫu 3
3.1. Câu 1 trang 73 SGK Văn 11.
Theo Nguyễn Trường Tộ, nội dung của luật bao gồm: Kỉ cương, uy quyền, chính
lệnh (chính sách và luật pháp) của quốc gia.
Nguyễn Trường Tộ khẳng định: "Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không
vượt ra ngoài luật" và ông dẫn chứng giới thiệu: "ở các nước phương Tây, phạt
những ai đã nhập ngạch bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ
không bao giờ bị phiếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được
một bậc". Từ việc dẫn này có thể thấy tác giả rất đề cao luật, đề cao những người
hiểu biết luật và có khả năng dùng luật để điều khiển công việc quốc gia.
3.2. Câu 2 trang 73 SGK Văn 11.
Theo Nguyễn Trường Tộ, kỉ cương, uy quyền, chính lệnh để duy trì sự tồn tại của
đất nước. Vì vậy, tác giả khẳng định: “Bất luận quan hay dân mọi người đều phải
học luật nước”. Luật đã bao trùm lên tất cả. Nếu đất nước không có các bộ luật thì
làm sao giữ được kỉ cương phép nước. Từ quan cho đến thứ dân đều phải hiểu và
làm theo luật. Xưa đã đúng, nay càng thấy đúng và thấm thìa hơn.
3.3. Câu 3 trang 73 SGK Văn 11.
Theo tác giả, Nho học không có truyền thống tôn trọng luật pháp. Bởi: "Biết rằng
đạo làm người không gì bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa. Nhưng
các sách Nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm
cũng chẳng được ai thưởng. Bởi vậy xưa nay học đã nhiều mà mấy ai đổi được tâm
tính, sửa được lỗi lầm?". Hơn thế, "từ xưa đến nay các vua chúa nắm quyền thống
trị cứu nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách vở khác cũng chỉ là phụ
thuộc. Nếu trong nước không có luật thì dù có vạn quyển sách cũng không thể trị
dân được".
3.4. Câu 4 trang 73 SGK Văn 11.
Dù lời văn của tác giả tỏ ra đề cao luật pháp, nhưng theo ông, luật pháp và đạo đức
gắn bó chật chẽ với nhau. Tác giả khẳng định: "Nếu bảo luật chỉ tốt cho việc cai trị
chứ không có đạo đức tinh vi, thế là không biết rằng trái luật là tội, giữ đúng luật là
đức. Nếu tận dụng cái lõi công bằng trong luật mà xử thì mọi quyền, pháp trong
luật đều là đạo đức. Có cái đức nào lớn hơn chí công vô tư không?". Như thế, theo
Nguyễn Trường Tộ, cái đức của pháp luật ấy chính là cái lẽ công bằng. Chí công
vô tư đó chính là cái gốc của đức trong luật vậy.
3.5. Câu 5 trang 73 SGK Văn 11.
- Để tăng thêm sức thuyết phục với nhà vua, Nguyễn Trường Tộ đưa ra quan niệm
luật của đạo Nho: “Từ tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ
đều đầy đủ” (tam cương chỉ mối quan hệ của vua - tôi, cha - con, vợ - chồng. Ngũ
thường gồm nhân, trí, tín, lễ, nghĩa). Tam cương ngũ thường là luật bao trùm toàn
bộ xã hội và gia đình dưới chế độ phong kiến. Nó là trụ cột để giữ kỉ cương của
chế độ phong kiến. Lục bộ là sáu bộ. Đó là cơ quan đầu não của nhà nước phong
kiến, lí lẽ ấy chắc Tự Đức không thể chối từ. Tác giả phê phán đạo Nho ớ tính chất
vô tích sự, nói suông không có tác dụng, “Biết rằng đạo làm người không gì lớn
bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa. Nhưng các sách Nho chỉ nói
suông trên giấy, không làm cũng chẳng ai bị phạt, có làm cũng chẳng được ai
thưởng”. Vì vậy phải có luật và luật phải gắn với thực tiễn hành động của con
người. Đó là làm theo pháp luật. Tác giả lấy ngay lời của Khổng Tử “Ta chưa hề
thấy ai nhận được lỗi mình mà biết tự trách phạt”. Đúng là chiêu thức “gậy ông đập
lưng ông”.
- Phê phán các loại sách ra đời ở thời phong kiến: “Sách vở chỉ chép nào là sự tích
chính sự thời xưa của cổ nhân, nào là những bài luận hay ho của người xưa để lại,
nào là những áng văn chương trau chuốt của chư tử (học giả thời cổ đại), nào
những tiểu thuyết dã sử của những người hiếu sự đặt bày. Trong đó hay có, dở có,
người nói này, người nói khác, xét kĩ nhũng thứ sách vở đó chỉ làm rối chí thêm
chẳng được tích sự gì”. Tác giả lại lấy lời của Khổng Tử để phủ nhận: “Chép
những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc”. Cũng là biện pháp lập luận
“gậy ông đập lưng ông”. Tác giả đưa ra dẫn chứng “Thử xem có những nhà nho
suốt đời đọc sách đáng lẽ cử chỉ của họ phải làm khuôn thước cho đời, vậy mà tại
sao có nhiều người cuộc đời của họ và ứng xử của họ còn tệ hơn những người quê
mùa chất phác”.
Lời lẽ ấy như đặt ra câu hỏi: Vì sao lại có tình trạng như vậy? Chỉ có thể trả lời vì
họ không được học luật. Vì thế mới cần có luật vậy.