Soạn bài Hầu trời - ngắn nhất Soạn văn 11

Tải xuống 7 1.4 K 2

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Soạn văn lớp 11 bài: Hầu trời mới nhất, tài liệu bao gồm 7 trang, trả lời đầy đủ các câu hỏi lý thuyết chuẩn bị bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 11, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi  môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

undefined (ảnh 1)

Hầu trời

 Soạn bài Hầu trời
HẦU TRỜI
TẢN ĐÀ
1. Soạn bài Hầu trời mẫu 1
I. Kiến thức cơ bản
1. Tác giả - tác phẩm
- Tản Đà: (1889-1939), tên thật Nguyễn Khắc Hiế
- Quê hương: Tỉnh Sơn Tây (Nay thuộc tỉnh Hà Tây)
- Con người:
+ Sinh ra va Lớn lên trong buổi giao thời.
+ Là “người của hai thế kỷ” (Hoài Thanh)
+ Học chữ hán từ nhỏ nhưng về sau chuyển sang sáng tác văn chương bằng chữ quốc
ngữ…
- Phong cách thơ:
+ Lãng mạn, bay bổng, vừa phóng khoáng, ngông nghênh, vừa cảm thương ưu ái.
+ Có thể xem thơ văn ông như một gạch nối giữa hai thời văn học của dân tộc: trung đại
và hiện đại.
Các tác phẩm
- Thơ: Khối tình con người I, II (1916, 1918)
- Truyện: Giấc mộng con người I, II (1916, 1932)
- Tự truyện: Giấc mộng lớn (1928)
- Thơ và văn xuôi: Còn chơi (1921).
2. Văn bản “Hầu trời”
a) Xuất xứ
- Trong tập “Còn chơi” (1921)
- Bài thơ ra đời vào thời điểm khuynh hướng lãng mạng đã khá đậm nét trong văn
chương thời đại. Xã hội thực dân nữa phong kiến tù hãm, u uất, đầy rẫy những cảnh
ngang trái, xót đau…
b) Bố cục: 3 phần:
- Phần 1: Giới thiệu về câu truyện, từ “đêm qua… lạ lùng”
- Phần 2: “chủ tiên… chợ trời” Thi nhân đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe.
- Phần 3: “Trời lại phê cho… sương tuyết” thi nhân trò chuyện với trời.

II. Nội dung cơ bản
1. Giới thiệu câu chuyện
Gợi khoảng khắc yên tĩnh, vắng lặng."- Câu chuyện xảy ra vào “đêm qua” (câu 1)
- Câu truyện kể về một giấc mơ được lên cõi tiên (câu 4).
- Nhân vật trữ tình là tác giả, đang mang tâm trạng “chẳng phải hoảng hốt, không mơ
màng”
- Biện pháp nghệ thuật: nhấn mạnh tâm trạng cảm xúc của thi nhân.
+ Điệp từ ‘thật” Bộc lộ cảm xúc bàng hoàng.
+ Câu cảm thán dường như lật lại vấn đề: mơ và tỉnh, hư mà như thực.
+ Câu khẳng định
- Cách giới thiệu trên đã gợi cho người đọc về tứ thơ lãng mạng nhưng cảm xúc là có
thực. Tác giả muốn người đọc cảm nhận được cái “hồn cốt” trong cõi mộng, mộng mà
như tỉnh, hư mà như thực.
=> Cảm nhận được “cái tôi” cá nhân đầy chất lãng mạng, bảy bổng pha lẫn nét “ngông”
trong thơ thi nhân. Với cách vào chuyện độc đáo có duyên đã làm cho câu truyện mà tác
giải sắp kể trở nên hấp dẫn lôi cuốn.
2. Thi nhân đọc thơ cho trời và chư tiên nghe
a) Thái độ của thi nhân khi đọc thơ và việc thi nhân nói về tác phẩm của mình:
- Thi nhân đọc rất cao hứng, sảng khoái và có phần tự đắc:
“ Đọc hết văn vần sang văn xuôi
Hết văn thuyết lý lại văn chơi”
- Thi nhân kể tường tận, chi tiết về các tác phẩm của mình:
“Hai quyển khối tình văn lý thuyết
Hai khối tình còn là văn chơi
Thần tiên, giấc mộng văn tiểu thuyết….”
- Giọng đọc: đa dạng, hóm hỉnh, ngông nghênh có phần tự đắc.
=> Đoạn thơ cho thấy thi nhân rất ý thức về tài năng văn thơ của mình và cũng là người
táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ “cái tôi” cá thể. Ông cũng rất “ngông” khi tìm đến trời
để khẳng dịnh tài năng. Đây là niềm khát khai chân thành trong tâm hồn thi sĩ.
b) Thái độ của người nghe:Rất ngưỡng mộ tài năng thơ văn của tác giả
- Thái độ của trời: khen rất nhiệt thành: văn thật tuyệt, văn trần được thế chắc có ít, văn
chuốt như sao băng…
- Thái độ của chư tiên: xúc động, hâm mộ và tán thưởng…Tâm nở dạ, cơ lè lưỡi…
=> Cả đoạn thơ mang đậm chất lãng mạng và thể hiện tư tưởng thoát li trước cuộc đời.
3. Thi nhân trò chuyện với trời

a) Thi nhân kể về hoàn cảnh của mình
- Thi nhân kể họ tên, quê quán:
“ Con tên Khắc Hiếu họ Nguyễn
Quê ở Á châu về địa cầu
Sông Đà núi Tản nước Việt Nam”
- Trong văn chương việc thể hiện họ tên trong tác phẩm chính là một cáh để khẳng định
cái tôi cá nhân của mình.
- Thi nhân kể về cuộc sống: Đó là môt cuộc sống nghèo khó, túng thiếu, thân phận nhà
văn bị rẻ rúng, coi thường. Ở trần gian ông không tìm được tri âm, nên phải lên tận cỏi
trời để thoả nguyện nỗi lòng.
“Bẩm trời hoàng cảnh con thực nghèo khó”
“Trần gian thước đất cũng không có”
“Văn chương hạ giới rẻ như bèo”
“Làm mãi quanh năm chẳng đủ tiêu”
Đó cũng chính là hiện thực cuộc sống của người nghệ sĩ trong xã hội lúc bấy giờ, một
cuộc sống cơ cực không tấc đất cắm dùi, thân phận bĩ rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn.
=> Qua đoạn thơ tác giả đã cho người đọc thấy một bức tranh chân thực và cảm động về
chính cuộc đời mình và cuộc đời nhiều nhà văn nhà thơ khác.
=> Cảm hứng hiện thực bao trùm cả đoạn thơ này.
b) Trách nhiệm và khát vọng của thi nhân
- Nhiệm vụ trời giao: Truyền bá thiên lương.
Nhiệm vụ trên chứng tỏ Tản Đà lãng mạn chứ không hoàn toàn thoát li cuộc sống. Ông
vẫn ý thức về nghĩa vụ, trách nhiệm đối với đời để đem lại cuộc sống ấm no hành phúc
hơn. Đó cũng là một cách tự khẳng định mình trước thời cuộc.
- Thi nhân khát khao được gánh vác việc đời
=> Như vậy có thể nói trong thơ Tản đà cảm hứng lãng mạng và cảm hứng hiện thực đan
xen khăng khít.
III. Tổng kết
1. Nội dung
- Bài thơ thể hiện cái tôi cá nhân ngông nghênh, kiêu bạc, hào hoa và cái tôi cô đơn, bế
tắc trước thời cuộc.
- Có thể thấy nhà thơ đã tìm được hướng đi đúng đắn để khẳng định mình.
2. Nghệ thuật
- Cách kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn người đọc.
- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm, không cách điệu, ước lệ.

- Tác giả vừa là người kể chuyện vừa là nhân vật chính.
- Cảm xúc bộc lộ thoaỉ mái, tự nhiên, phóng túng.
- Thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do…
2. Soạn bài Hầu trời mẫu 2
2.1. Đọc - hiểu văn bản
1 - Trang 17 SGK
Anh (chị) hãy phân tích khổ thơ đầu. Cách vào đề của bài thơ gợi cho người đọc cảm
giác như thế nào về câu chuyện mà tác giả sắp kể?
Trả lời:
Bài thơ mở đầu bằng những câu thơ thể hiện tài hư cấu nghệ thuật độc đáo và có
duyên của Tản Đà:
Đêm qua chẳng biết có hay không,
Chẳng phải hoảng hốt, không mơ mòng.
Thật hồn! Thật phách! Thật thân thể!
Thật được lên tiên - sướng lạ lùng.
Chuyện kể về một giấc mơ, chính tác giả lúc tỉnh mộng cũng hãy còn bàng hoàng
"chẳng biết có hay không". Đó là một cách "nhập đề" lạ, một sự "hư cấu" nghệ thuật. Nó
là cái cớ "hoàn hảo" để nhân vật trữ tình bộc bạch tự nhiên cảm xúc trong "cõi mộng" của
mình. Cách vào đề như thế đã gây được một mối nghi vấn, gợi trí tò mò của người đọc,
vừa độc đáo, lại rất có duyên.
Tản Đà sử dụng hình thức câu khẳng định trong ba câu cuối khổ thơ đầu nhằm mục
đích khẳng định việc lên tiên là sự thực, không phải là giấc mơ. Bằng cách vào đầu như
thế tác giả đã gợi trí tò mò của người đọc bằng việc đan xen giữa hư và thực, giữa mộng
và tỉnh. Nhờ đó, câu chuyện trở nên có sức hấp dẫn đặc biệt, không ai có thể bỏ qua.
2 - Trang 17 SGK
Tác giả đã kể lại chuyện mình đọc thơ cho Trời và chư tiên nghe như thế nào? (Thái
độ của tác giả, của chư tiên và những lời khen của Trời.) Qua đoạn thơ đó, anh (chị) cảm
nhận được những điều gì về cá tính nhà thơ và niềm khao khát chân thành của thi sĩ?
Nhận xét về giọng kể của tác giả.
Trả lời:
Câu chuyện chính trong "giấc mơ" của Tản Đà là việc nhà thơ được đọc thơ cho Trời
và chư tiên nghe. Thi sĩ tỏ ra rất cao hứng và có phần tự đắc (Đương cơn đắc ý đọc đã
thích... - Văn dài hơi tốt ran cung mây!- Trời nghe, Trời cũng lấy làm hay... - Chửa biết
con in ra mấy mươi? - Văn đã giàu thay, lại lắm lối...).
Chư Tiên nghe thơ cũng rất xúc động, tán thưởng và hâm mộ tài thơ của Tản Đà (Tâm
như nở dạ, Cơ lè lưỡi - Hằng Nga, Chức Nữ chau đôi mày - Song Thành, Tiểu Ngọc lắng
tai đứng - Đọc xong mỗi bài cùng vỗ tay).
Ông Trời thì khen rất nhiệt thành:

Trời lại phê cho: "Văn thật tuyệt!
Văn trần được thế chắc có ít!
Nhời văn chuốt đẹp như sao băng!
Khí văn hùng mạnh như mây chuyển!
Êm như gió thoảng, tình như sương!
Đầm như mưa sa, lạnh như tuyết!
Để rồi tác giả còn được mời để xưng tên tuổi nữa. Đoạn thơ này thể hiện khá rõ cá
tính và niềm khao khát chân thành của thi sĩ. Tản Đà đã rất ý thức về tài năng của mình
và cũng là người táo bạo, dám đường hoàng bộc lộ bản ngã "cái tôi" đó. Tản Đà rất ngông
khi tìm đến tận trời để khẳng định tài năng của mình trước Ngọc Hoàng thượng đế và chư
tiên. Đó là niềm khao khát chân thành trong tâm hồn thi sĩ. Giữa chốn hạ giới văn chương
rẻ như bèo, thân phận nhà văn bị rẻ rúng, khinh bỉ, ông không tìm được tri kỉ tri âm, phải
lên tận cõi tiên này mới có thể thỏa nguyện. Vào đầu những năm 20, khi thơ phú nhà nho
tàn cuộc mà thơ mới chưa ra đời, Tản Đà là nhà thơ đầu tiên trong văn học Việt Nam đã
dám mạnh dạn hiện diện bản ngã "cái tôi" đó. Giọng kể của Tản Đà rất phong phú, hóm
hỉnh và có phần ngông nghênh, tự đắc.
3 - Trang 17 SGK
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một
đoạn rất hiện thực. Đó là đoạn thơ nào? Tìm hiểu ý nghĩa đoạn thơ đó. Theo anh (chị), hai
nguồn cảm hứng này ở thi sĩ Tản Đà có mối liên hệ với nhau như thế nào?
Trả lời:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là cảm hứng lãng mạn, nhưng trong bài lại có một
đoạn rất hiện thực, đó là đoạn:
"Bẩm Trời, cảnh con thực nghèo khó
Trần gian thước đất cũng không có
[...]
Sức trong non yếu ngoài chen rấp
Một cây che chống bốn năm chiều".
Tản Đà là một nhà thơ giàu cảm hứng lãng mạn. Thế nhưng trong đoạn thơ này, nhà
thơ lại nói đến nhiệm vụ truyền bá "thiên lương" mà Trời trao cho ông như là một thiên
chức vậy. Điều đó đã chứng tỏ, Tản Đà lãng mạn, nhưng không hoàn toàn thoát li cuộc
đời, ông vẫn ý thức về trách nhiệm với đời và khát khao được gánh vác việc đời. Đó cũng
là một cách khẳng định mình. Xúc động nhất trong đoạn thơ có lẽ chính là những câu thơ
vẽ lên một bức tranh chân thực về chính cuộc đời nhà thơ và cuộc đời của nhiều văn sĩ
khác lúc đó. Đó là cuộc sống hết sức cơ cực, tủi hổ (không tấc đất cắm dùi, thân phận bị
rẻ rúng, làm chẳng đủ ăn, bị o ép nhiều chiều,...). Những câu thơ không hề cường điệu.
Đó thậm chí chính là cuộc sống đầy xót xa của thi sĩ Tản Đà. Là một thi sĩ nổi tiếng tài
hoa, thế nhưng gần như suốt đời, Tản Đà sống trong nghèo khổ, túng quẫn. Ông đã từng
rơi vào cảnh:

Hôm qua chửa có tiền nhà
Suốt đêm thơ nghĩ chẳng ra câu nào
Đi ra rồi lại đi vào
Quẩn quanh chỉ tốn thuốc lào vì thơ
Về cuối đời, Tản Đà thậm chí phải mở cửa hàng xem tướng số để kiếm ăn nhưng
không có khách, mở lớp dạy Hán văn và quốc văn nhưng không có học trò. Cuối cùng,
ông chết trong cảnh nghèo đói, nhà cửa, đồ đạc bị chủ nợ tịch biên, chỉ còn một cái
giường mọt, cái ghế ba chân, chồng sách nát và một be rượu.
Bức tranh hiện thực miêu tả trong bài thơ đã giúp chúng ta thêm hiểu vì sao Tản Đà
thấy đời đáng chán (Trần thế nay em chán nửa rồi), vì sao ông phải tìm cõi tri âm tận trời
cao (Tri kỉ trông lên đứng tận trời), phải tìm đến Hằng Nga, Ngọc Hoàng Thượng đế, chư
tiên,... để thỏa niềm khao khát. Hai nguồn cảm hứng lãng mạn và hiện thực thường đan
cài khăng khít trong thơ ông như thế.
4 - Trang 17 SGK
Về mặt nghệ thuật, bài thơ này có gì mới và hay? (Chú ý các mặt: thể loại, ngôn từ,
cách biểu hiện cảm xúc, hư cấu nghệ thuật,...)
Trả lời:
Bài thơ có nhiều sáng tạo trong hình thức nghệ thuật, với những dấu hiệu đổi mới
theo hướng hiện đại.
- Tản Đà không dùng các thể thơ cũ như thất ngôn bát cú, tứ tuyệt lục bát, song thất lục
bát... mà dùng thể thơ thất ngôn trường thiên khá tự do, không bị ràng buộc bởi khuôn
mẫu kết cấu nào, nguồn cảm xúc được bộc lộ thoải mái, tự nhiên, phóng túng.
- Ngôn ngữ thơ chọn lọc, tinh tế, gợi cảm và rất gần với đời, không cách điệu, ước lệ như
thơ trung đại.
- Giọng thơ khá linh hoạt giọng kể mang tính tự sự phối hợp với giọng trữ tình nhiều sắc
điệu, khi hóm hỉnh hài hước, lúc sôi nổi phóng khoáng, khi lại ngậm ngùi chua chát. Cách
kể chuyện hóm hỉnh, có duyên, lôi cuốn được người đọc.
- Tác giả tự hiện diện trong bài thơ với tư cách người kể chuyện, đồng thời là nhân vật
chính. Cảm xúc biểu hiện phóng túng, tự do, không hề gò ép.
Những tìm tòi nghệ thuật trên đây là hướng đi đúng đắn của Tản Đà để tự khẳng định
mình giữa lúc thơ phú nhà nho đang đi dần tới dấu chấm hết.
2.2. Luyện tập
1 - Trang 17 SGK
Bài Hầu trời có ý tưởng gì hoặc câu thơ nào làm cho anh (chị) thích thú nhất? Hãy
viết một đoạn văn trình bày cảm xúc của mình.
Trả lời:
Tùy theo cảm nhận và tình cảm cá nhân mà học sinh có thể lựa chọn những câu thơ,
ý tưởng thơ thú vị. Có thể tham khảo một số câu thơ, ý tưởng sau: "Bẩm quả có tên

Nguyễn Khắc Hiếu/ Đày xuống hạ giới vì tội ngông". "Chư tiên ao ước tranh nhau dặn:/
"Anh gánh lên đây bán chợ Trời" ...
2 - Trang 17 SGK
Anh (chị) hiểu thế nào là "ngông"? Cái "ngông" trong văn chương thường bộc lộ một
thái độ sống như thế nào? (Có thể dẫn chứng qua những tác phẩm đã học). Cái "ngông"
của thi sĩ Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm nào và có thể giải thích ra
sao?
Trả lời:
- "Ngông" chỉ sự khác thường. "Ngông" trong văn chương dùng để chỉ một kiểu ứng xử
xã hội và nghệ thuật khác thói thường có ở nhà văn, nhà thơ có ý thức cá nhân cao độ.
- Trong văn chương người ta hay nhắc đến cái "ngông" của Nguyễn Công Trứ, Nguyễn
Tuân, Tản Đà,...
- Cái "ngông" của Tản Đà trong bài thơ này biểu hiện ở những điểm:
+ Tự cho mình văn hay đến mức Trời cũng phải tán thưởng.
+ Không thấy ai đáng là tri âm với mình ngoài Trời và Chư tiên.
+ Xem mình là một "trích tiên" bị "đày xuống hạ giới vì tội ngông".
+ Nhận mình là người nhà Trời xuống hạ giới thực hành "thiên lương", một sứ mệnh
cao cả.
+ Xem các đấng siêu nhiên là tri âm, bình dân,...
 

 

Xem thêm
Soạn bài Hầu trời - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 1)
Trang 1
Soạn bài Hầu trời - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 2)
Trang 2
Soạn bài Hầu trời - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 3)
Trang 3
Soạn bài Hầu trời - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 4)
Trang 4
Soạn bài Hầu trời - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 5)
Trang 5
Soạn bài Hầu trời - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 6)
Trang 6
Soạn bài Hầu trời - ngắn nhất Soạn văn 11 (trang 7)
Trang 7
Tài liệu có 7 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống