Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Soạn văn lớp 10 bài: Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật mới nhất, tài liệu bao gồm 3 trang, trả lời đầy đủ các câu hỏi lý thuyết chuẩn bị bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Bài giảng: Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
Soạn bài: Phong cách ngôn ngữ nghệ thuật
PHONG CÁCH NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT
I – KIẾN THỨC CƠ BẢN
Là loại phong cách ngôn ngữ dùng trong các văn bản thuộc lĩnh vực văn chương, phong
cách ngôn ngữ nghệ thuật khác với các phong cách ngôn ngữ khác ở những điểm cơ bản
sau:
1. Tính thẩm mĩ
Văn chương là nghệ thuật ngôn ngữ, là sự thể hiện giá trị thẩm mĩ của ngôn ngữ. Ngôn
ngữ trong văn bản nghệ thuật, với tư cách là chất liệu xây dựng hình tượng, có sự tổng
hoà của ngữ âm và ngữ nghĩa, hoà phối để tạo nên hiệu quả thẩm mĩ.
2. Tính đa nghĩa
Nghĩa của văn bản nghệ thuật gồm nhiều thành phần: thành phần biểu thị thông tin khách
quan, thành phần biểu thị tình cảm; thành phần nghĩa tường minh, thành phần nghĩa hàm
ẩn. Các thành phần nghĩa này thống nhất với nhau trong những hình tượng nghệ thuật vừa
cụ thể, vừa sinh động. Trong đó, thành phần nghĩa hàm ẩn có một vị trí đặc biệt quan
trọng trong văn bản nghệ thuật, biểu thị những suy ngẫm, gợi liên tưởng, tưởng tượng,…
tạo nên những tín hiệu thẩm mĩ, những thông điệp sâu sắc về cuộc sống và con người.
3. Dấu ấn riêng của tác giả
Mỗi nhà văn, nhà thơ thường có sở thích, sở trường riêng trong diễn đạt. Sở thích và sở
trường ấy được bộc lộ ở những tác phẩm có giá trị và tạo thành nét độc đáo, dấu ấn riêng
của tác giả.
II – RÈN LUYỆN KĨ NĂNG
1. Những loại văn bản nào sử dụng phong cách ngôn ngữ nghệ thuật?
Gợi ý: Các loại văn bản văn chương (văn xuôi nghệ thuật, thơ, kịch) sử dụng phong cách
ngôn ngữ nghệ thuật.
2. Nói đến phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, cần phải nhớ đến những đặc điểm cơ bản
nào?
Gợi ý: Tính thẩm mĩ, tính đa nghĩa và dấu ấn riêng của tác giả là những đặc điểm cơ bản
của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật.
3. Hãy phân tích đặc điểm chung của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật biểu hiện ở bài
Phú nhà nho vui cảnh nghèo của Nguyễn Công Trứ.
Gợi ý:
- Về tính thẩm mĩ của văn bản:
+ Tính thẩm mĩ thể hiện ở cấu trúc văn bản theo thể loại phú: Văn bản Phú nhà nho vui
cảnh nghèo thuộc thể bài phú, ngôn ngữ được tổ chức theo hình thức biền văn, có sáu
mươi tám vế sóng đôi; hai mươi vế đầu miêu tả nơi ở, cách sống và ăn mặc của một nhà
nho nghèo.
+ Tính thẩm mĩ thể hiện ở các yếu tố ngôn ngữ, các biện pháp tu từ tập trung diễn tả nơi
ở, cách sống và ăn mặc của một nhà nho nghèo: sự lặp lại, sóng đôi, điệp âm (Chém
cha… chém cha, rành rành – ấy ấy, bình bịch – kho kho, chát chát chua chua – nhai nhai
nhổ nhổ,…; hiệp vần o, ô), đối (Bóng nắng rọi trứng gà bên vách, thằng bé tri trô - Hạt
mưa soi hang chuột trong nhà, con mèo ngấp ngó,…), lối nói “phô trương” (mọt tạc vẽ
sao, nhện giăng màn gió, mối giũi quanh co, giun đùn lố nhố, lợn nằm gặm máng, chuột
cậy khua niêu, vỗ bụng rau bình bịch, an giấc ngáy kho kho, áo vải thô nặng trịch, khăn
lau giắt đỏ lòm,…),…
- Về tính đa nghĩa của văn bản: Tác giả không dùng chữ nghèo nào mà vẫn miêu tả được
cảnh nghèo của hàn nho; Qua việc miêu tả khách quan cảnh sống nghèo (nơi ở, cách
sống, ăn mặc), tác giả đã lột tả được cảnh sống nghèo đến cùng cực, đồng thời cho thấy
quan niệm, thái độ sống lạc quan của một nhà nho chân chính.
- Về dấu ấn riêng của tác giả: Dấu ấn riêng của tác giả thể hiện nổi bật qua giọng điệu mỉa
mai, châm biếm (đặc biệt là ở từ phong vị, hay việc sử dụng ngôn ngữ trong cách nói
“phô trương”,…). Cũng qua giọng điệu ấy mà hình tượng tác giả hiện ra với một tư thế
vừa ngao ngán vừa ngạo nghễ, bất chấp, ngông,… Nguyễn Công Trứ thường để lại ấn
tượng về một cá tính ngang tàng, đậm chất tài tử.
4. Phân tích đoạn thơ sau đây để làm sáng tỏ đặc điểm chung của phong cách ngôn ngữ
nghệ thuật.
Sóng gợn tràng giang buồn điệp điệp,
Con thuyền xuôi mái nước song song;
Thuyền về nước lại sầu trăm ngả,
Củi một cành khô lạc mấy dòng.
(Huy Cận, Tràng giang)
Gợi ý: Để phân tích những biểu hiện của phong cách ngôn ngữ nghệ thuật trong đoạn thơ
trên, hãy tham khảo đoạn văn sau.
“Ngay câu thơ đầu bài thơ không chỉ nói sông, mà nói buồn, nói về một nỗi buồn bất tận,
bằng một hình ảnh ẩn dụ: sóng gợn tràng giang trùng trùng điệp điệp, như nỗi buồn trùng
trùng điệp điệp. Giữa tràng giang mà điểm nhìn nhà thơ tụ vào con sóng nhỏ, tuy rất
nhiều, nhưng hiện ra rồi tan, muôn thủa. Con thuyền thường là hình ảnh tượng trưng cho
cuộc đời lênh đênh, cô đơn, vô định. ở đây con thuyền buông mái chèo xuôi dòng (xuôi
mái) theo dòng nước, nhưng thuyền và nước chỉ “song song” với nhau chứ không gắn bó
gì với nhau, bởi nước xuôi trăm ngả, thuyền theo ngả nào? Thuyền đi với dòng để rồi chia
li với dòng. Câu thứ ba đã nói tới sự chia li: “Thuyền về nước lại sầu trăm ngả”. Thuyền
buồn vì phải rẽ dòng. Nước buồn như không biết trôi về đâu. Câu cuối đoạn này càng thể
hiện tập trung cho kiếp người nhỏ nhoi, lạc lõng, vô định: “Củi một cành khô lạc mấy
dòng”. Cái nhìn của nhà thơ vẫn tập trung vào các vật nhỏ: sóng, thuyền, củi khô.
Tác giả lưu ý, không phải là cây gỗ, thân gỗ, mà chỉ là “củi một cành khô”, một mảnh rơi
gẫy, khô xác của thân cây.
Cả khổ thơ đầu đã vẽ lên một không gian sông nước bao la, vô định, rời rạc, hờ hững.
Những đường nét: nước song song, buồn điệp điệp, sầu trăm ngả, lạc mấy dòng không
hứa hẹn gì về hội tụ, gặp gỡ mà chỉ là chia tan, xa vời. Trên con sông đó một con thuyền,
một nhánh củi lênh đênh càng tỏ ra nhỏ nhoi bất lực. ở đây không chỉ thuyền buồn, cành
củi khô buồn, mà cả sóng gợn, sông nước đều buồn.”
(Trần Đình Sử, Đọc văn học văn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 2001, tr. 234-235)