Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12

Tải xuống 50 3.3 K 10

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh môn Văn lớp 12 , tài liệu bao gồm 50 trang,  giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kỳ thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây

CHUYÊN ĐỀ SÓNG - XUÂN QUỲNH

KIẾN THỨC CƠ BẢN VÀ NHỮNG DẠNG ĐỀ THI VỀ BÀI SÓNG

Bài giảng: Sóng

KIẾN THỨC CƠ BẢN

1.   Vài nét về tác giả, tác phẩm

a.   Tác giả

+ Xuất thân: gia đình công chức, mồ côi mẹ từ nhỏ, ở với bà nội.

+ Con ngƣời:

– Thông minh, chân thành, nhân hậu.

–   Nghị lực vƣợt lên những bất hạnh của tuổi thơ, những trắc trở của duyên phận và cuộc sống để yêu thƣơng.

+ Phong cách nghệ thuật:

–   Nhà thơ của hạnh phúc đời thƣờng: tiếng thơ khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thƣờng bình dị.

– Cái tôi độc đáo: giàu vẻ đẹp nữ tính, thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt gắn với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ., cùng những dự cảm bất trắc.

b.  Tác phẩm

+ Xuất xứ: 1967, nhân chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào.

+ Vị trí văn học sử: bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh, góp phần tạo nên vị trí “nữ hoàng thơ tình Việt Nam”.

+ Cảm nhận chung:

– Nhan đề: Sóng

• Hình tƣợng trung tâm của tác phẩm: sóng > nói về sóng, nói bằng sóng.

Trong mối quan hệ với em: vừa song hành vừa chuyển hoá. Sóng chính là em, em chính là tình yêu: sóng = em = tình yêu. Sự sống của em và sóng chỉ thật sự cất nhịp khi tình yêu bắt đầu, còn em, còn sóng là còn yêu và ngƣợc lại ( Nhƣng biết yêu anh cả khi chết đi rồi).

•  Hành trình của sóng và em: “Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể.”

–   Vẻ đẹp của hình tƣợng: vừa truyền thống vừa hiện đại (Sóng gợi nhắc hình ảnh thuyền và bến – biểu trƣng cho tình yêu trong ca dao nhƣng ở bài thơ, ngƣời phụ nữ không bị động mà chủ động tự bạch, tự nhận thức để khao khát dâng hiến)

– Thể thơ: tự do 5 chữ > phù hợp với việc diễn tả cảm xúc nhƣ những con sóng miên man vô hồi vô hạn, lúc trầm tƣ dịu dàng lúc dạt dào dữ dội.

2.   Phân tích văn bản

a.     4 khổ đầu: Băn khoăn và khát vọng

+ Khổ 1:

Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể

–   Sóng đƣợc đặc tả ở hai đối cực: “dữ dội” >< “dịu êm”, “ồn ào”><”lặng lẽ” > những trạng thái có thật của sóng ngoài tự nhiên.

– Tƣơng quan sông – bể: tính chất mâu thuẫn

•   Sông: không gian nhỏ, hẹp, hữu hạn,nông cạn

•  Bể: không gian lớn, rộng, khoáng đạt, sâu sắc

Băn khoăn và tìm cách giải đáp: không hiểu nổi mình, tìm ra tận bể, mƣợn một qui luật tự nhiên để biểu trƣng cho những băn khoăn trong lòng mình. Nƣớc sông tự bao đời vẫn đổ ra biển lớn. Sóng chủ động từ bỏ không gian nông cạn chật chội về với không gian rộng lớn vô hạn, khát khao vƣợt giới hạn nhỏ bé, vƣơn tới không gian rộng lớn hơn để lí giải chính mình của con ngƣời.

–       Đặt trong tính sóng đôi của hình tƣợng sóng và em: trạng thái của sóng gắn với khí chất của ngƣời phụ nữ luôn luôn hài hòa những đối cực (vừa khao khát mãnh liệt vừa trầm tƣ dịu dàng, vừa sôi nổi rộn rã vừa lặng lẽ âm thầm, thoắt ồn ào vui tƣơi thoáng đã chìm lắng sâu sa…), khát vọng giải mã chính mình của sóng cũng là khát vọng thành thực, khơi tìm bản chất tâm hồn mình của ngƣời con gái.

+ Khổ 2

Ôi con sóng ngày xưa Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ

–   Thời gian: “ngày xƣa” và “ngày sau” > tình yêu chạy theo chiều thời gian thăm thẳm vẫn mãi mãi tƣơi mới, mãi không hết “bồi hồi”

–   Khám phá mới về sóng: tƣợng trƣng cho sự bất diệt của tuổi trẻ và khát vọng tình yêu.

–   Mƣợn qui luật tự nhiên để diễn tả một triết lí dung dị nhƣng thấm thía về tình yêu và tuổi trẻ: còn tuổi trẻ là còn khát vọng, mà khát vọng yêu thƣơng mãi còn tức là con ngƣời mãi trẻ trung. (so sánh với triết lí của Xuân Diệu: Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn/ Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại)

+ Khổ 3, 4

Trước muôn trùng sóng bể Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn Từ nơi nào sóng lên? Sóng bắt đầu từ gió Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau.

–   Chuỗi câu hỏi liên tiếp truy đến cùng nguồn gốc của song cũng chính là nguồn gốc của tình yêu.

–   Lí trí vận động “em nghĩ” (2 lần) nhƣng bất lực “em cũng không biết nữa” > lời thú nhận thành thật, đáng yêu: không biết nguồn gốc của sóng, nguồn gốc của tình yêu

–   Khái quát một điều sâu kín trong tình yêu: tình yêu gắn với đức tin, với cảm xúc mà lí trí bất lực. (liên hệ với Xuân Diệu: “Làm sao lí giải đƣợc tình yêu/ Có nghĩa gì đâu một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu…”

b.  Khổ 5 – 6: Nhớ thƣơng và chung thuỷ

+ Khổ 5:

Con sóng dƣới lòng sâu Con sóng trên mặt nƣớc Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ đƣợc Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

–   Quan sát nhịp vỗ của sóng:

•  Chìm (dƣới lòng sâu) – nổi (trên mặt nƣớc)

•  Nhớ bờ – ngày đêm không ngủ

>Nhận xét

•  Từ vận động bình thƣờng của sóng, liên tƣởng: sóng vì nhớ bờ mà vỗ miên man, vô hồi vô hạn, bất kể ngày đêm.

•  Cách nói: dƣới lòng sâu – trên mặt nƣớc đã choán nỗi nhớ lên khắp chiều rộng chiều sâu của đại dƣơng – nơi những con sóng mãi thao thức > chiều sâu, chiều rộng của nỗi nhớ, da diết và khắc khoải.

–   Liên tƣởng nỗi nhớ anh trong em: “cả trong mơ còn thức” > nếu sóng nhớ bờ cả ngày đêm thì nỗi nhớ của em còn vƣợt mọi giới hạn thời gian, không gian, tràn cả vào chiều sâu của vô thức > nỗi nhớ lắng đọng da diết nhất, sâu kín nhất > nhớ anh là sự sống của trái tim em.

–   Hình thức: khổ thơ duy nhất có 6 câu: tăng thêm dung lƣợng ngôn từ để diễn đạt trọn vẹn hơn nỗi nhớ > nỗi nhớ tràn bờ, phá vỡ mọi giới hạn câu chữ > giống nhƣ con sóng nhớ thƣơng bồi mãi, điệp mãi, dềnh lên mãi, vỗ tràn cả thi ca.

+ Khổ 6:

Dẫu xuôi về phƣơng bắc Dẫu ngƣợc về phƣơng nam Nơi nào em cũng nghĩ

Hƣớng về anh – một phƣơng.

–   Vận động của sóng: phong phú, nhiều chiều (xuôi bắc – ngƣợc nam) nhƣng nhất phiến (hƣớng về anh một phƣơng)

–   Khẳng định tấm lòng sắc son, nhƣ nhất.

–   Đến đây, sóng và em đã hoà làm một.

c.  Khổ 7 – 8: Lo âu phấp phỏng Ở ngoài kia đại dƣơng

Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Nhƣ biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa

–   Hành trình vƣợt khó khăn để tới bờ của sóng: “muôn vời cách trở”, nhƣng “con nào chẳng tới bờ”

–   Dự cảm lo âu phấp phỏng: “Nhƣ biển kia dẫu rộng/ Mây vẫn bay về xa”> cái đa cảm của trái tim phụ nữ.

d.  Khổ 9: Ƣớc nguyện dâng hiến, khát vọng bất tử Làm sao đƣợc tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ.

+ Số từ: trăm – ngàn.

+ Ƣớc nguyện chân thành, lớn lao: muốn hoá thân vào sóng, đại dƣơng để đƣợc bất tử bởi chỉ thiên nhiên mới vĩnh viễn trƣờng cửu > vƣợt qua giới cái hữu hạn của đời ngƣời, khát vọng hoá thân vào thiên nhiên để bất tử hoá tình yêu.

+ Lí giải bản lĩnh của sóng ở đoạn đầu tiên “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”: bởi sóng mang trong mình khát vọng nhận thức và khát vọng yêu thƣơng mãnh liệt.

> Nhận xét:

•  Vẻ đẹp tình yêu, tâm hồn, thơ Xuân Quỳnh: thuỷ chung, dịu dàng, chân thật mà mãnh liệt, khao khát.

•  Nét truyền thống và hiện đại: vẫn mang những nét đẹp truyền thống nhƣng tâm thế hoàn toàn hiện đại- vẻ đẹp của trí tuệ – tự nhận thức và khát vọng hiến dâng bất tử (so sánh với hình ảnh ngƣời phụ nữ trong ca dao: “Thân em nhƣ hạt mƣa rào…”)

Tổng hợp những dạng đề thi về bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Dạng 1: Cảm nhận, phân tích hình tƣợng sóng / hình tƣợng em trong bài thơ Dạng 2: Cảm nhận khổ thơ

Với bài này, khổ nào cũng quan trọng nhé

Dạng 3: Nghị luận ý kiến bàn về bài thơ, chứng minh nhận định Dạng 4:Dạng đề so sánh văn học:

Với bài thơ Sóng, đề bài có thể cho ss với đoạn thơ trong những bài cùng chủ đề sóng hoặc tình yêu. Ví dụ so sánh Sóng- Việt Bắc, Sóng- Đất nƣớc, Sóng với bài thơ, đoạn thơ viết về tình yêu….

Dạng 5 : Liên hệ thực tế.

Ví dụ đề bài cho phân tích, cảm nhận hình tƣợng sóng, em, sau đó liên hệ tới vẻ đẹp tâm hồn ngƣời phụ nữ XƢA VÀ NAY. Đây là ví dụ thôi nhé.

Ví dụ 2 :Bài thơ “Sóng” gợi cho anh chị những suy nghĩ gì về tình yêu? Một số đề tham khảo :

Đề 1: Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ sóng của Xuân Quỳnh

Xuân Quỳnh là một gƣơng mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Trong giàn đồng ca của thơ trẻ chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi lên nhƣ một tiếng thơ trẻ trung, đầy nữ tính. Cũng bám sát cuộc sống lao động và chiến đấu anh hùng của con ngựời Việt Nam, nhựng Xuân Quỳnh còn thể hiện đƣợc cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu. Điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tì nh yêu lí tƣởng vừa hƣớng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thƣờng. Tất cả những điều ấy đƣợc thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần nhƣ bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh ngƣời ta thƣờng nhắc đến những bài nổi tiếng: “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tự hát”… và nhất là “Sóng” – bài này đƣợc rút ra từ tập “Hoa dọc chiến hào”. Có thể nói, “Sóng” đã kết tinh đƣợc tất cả những gì là sở trƣờng nhất của hồn thơ này.

Hình tƣợng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa đƣợc gợi ra trong một âm điệu rất phù hợp, vừa đƣợc tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó.Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn ngƣời đọc trƣớc tiên bằng âm điệu của nó. Ngƣời đọc còn chƣa kịp hiểu chi tiết hình ảnh thì đã bị cuốn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiếm tâm hồn ngƣời đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hoà điệu nhuần nhuỵ giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tính chất của tình cảm thơ. Ẩn náu trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lý do ấy mà đọc thơ điều trƣớc tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho đƣợc âm điệu của nó.

Đọc bài thơ “Sóng”, chúng ta còn chƣa hiểu các ý nghĩa của sóng nhƣng ai cũng dễ bị âm điệu cuốn hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ đã khéo đƣa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển đã khuấy động hôn ngƣời tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ?

Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy đƣợc sở trƣờng riêng của nó. Khéo khai thác sự biến hoá phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ để tạo ra nhịp sóng. Nói riêng khổ thơ đầu, hai câu đầu đi nhịp 273:

Dữ dội / và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cấu kỳ hơn là 1/2/2): Sóng/ không hiểu /nổi mình

Sóng/ tìm ra tận bể nhịp thơ thay đổi nhƣ vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng đƣợc nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hoá không ngừng.

Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tƣơng xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đấp đổi nhau vể bằng trắc nữa. Vế tiếp vế, câu tiếp câu. Ở đây vừa “dữ dội và dịu êm” – “ồn ào và lặng lẽ”, ngay đó đã là:

“Ôi con   sóng ngày xua – và ngày sau vẫn thế…  cứ thế:

-   Em nghi vẽ anh em

Em nghĩ về biển lớn

-   Con sóng dƣới lòng sâu Con sóng trên mặt nƣớc

-   Dẫu xuôi về phƣơng Bắc Dẫu ngƣợc về phƣơng Nam...

Cặp này vừa lƣớt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa nhƣ con sóng này vừa lịm xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi đƣợc hình ảnh những con sóng trên mặt biển, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gối đầu lên nhau, xô đuổibnhau bất tận. Vậy là, trƣớc khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hƣởng, âm điệu.

Sóng là hình tƣợng trung tâm của bài thơ. Nhƣng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tƣợng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thƣờng vẽ ra hình tƣợng tác giả của nó. Hình tƣợng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con ngƣời thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thƣờng chọn một tƣ thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhƣng hình tƣợng tác giả trong bài thơ lại là ngƣời phụ nữ đang đứng trƣớc biển, đối diện với đại dƣơng, với sóng để suy tƣ ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng ngƣời phụ nữ ấy lại liên tƣởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về „chính mình.

Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ở trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tƣợng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định Sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh,Mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác, Cho nên không thể lƣợc qui riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bất hình tƣợng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chi cổ thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của ngƣời phụ nữ mà thôi Mở đầu bài thơ, sông hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thấy sóng biển là một chàng trai đang ỵêu bờ đắm đuối cuồng nhiệt. Còn nữ si Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất của ngƣời phụ nữ .Có phả i nhà thơ trữ tính thƣờng có thiên hƣớng áp đặt cái tôi của mình vào đối tƣợng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình;

Dữ dội và dịu êm….tận bể

Trong khi chất của sóng , thấy có sự hài hoà của các đối cực Vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất . Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn Và đó la khát vọng về sự lớn lao. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt, Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện sóng không hiểu nổi mình thì dứt khoát “Sóng tìm ra tận bể”. Sóng sẽ từ bỏ sƣ chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.

Đứng trƣớc biến, con ngƣời ta dễ có cảm giác rằng: nghìn năm trƣớc khi chƣa có mình biến vẫn thế này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đất rồi, biến vẫn thế kia, Vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với sự bất diệt có thực của biển ngƣời ta liên tƣởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khát vọng tỉnh vẽti vấn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ:

Ôi con sóng ngày xƣa Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ.

Đến khổ thơ thứ bà, sống lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu! Đứng trƣớc biển, ngƣời phụ nữ ấy muốn cắt nghĩa vẽ nguồn gốc của sóng. Những nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí nhƣ nguồn gốc của tình yêu:

Sóng bát dầu từ gió Gió bất dầu từ dâu

Em cũng không biết nữa Khi nào ta yêu nhau

“Khi nào ta yêu nhau?”, câu hỏi ấy dƣờng nhƣ làm băn khoăn mọi đôi lứa. Và không ai trả lời đƣợc tới cùng? Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu ngƣời ta càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích đƣợc. Ngƣời ta thƣờng thiêng ỉiêng hoá tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhƣng biết đâu lại là sự hò hẹn từ kiếp trƣớc. Ngƣời ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế tình yêu của con ngƣời mới trở nên linh thiêng!

Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: “Con sóng dƣới lòng sâu – Con sóng trên mặt nƣớc – ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ đƣợc – Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”. Là lòng thuỷ chung: “Dẫu xuôi về phƣơng Bắc – Dẫu ngƣợc về phƣơng Nam – Nơi nào em cũng nghĩ – hƣớng về anh một phƣơng”. Là hành trình đến với hạnh phúc của những lứa đôi: “Ở ngoài kia đại dƣơng –

Trăm nghìn con sóng đó – Con nào chẳng tới bờ – Dù muôn vàn cách trở”. Là sự không cùng của khát vọng: ” Cuộc đời tuy dài thế – năm tháng vẫn đi qua – Nhƣ biển kia dẫu rộng

–   Mây vẫn bay về xã”… Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Để đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biên tuyệt đích nhất: khao khát bất tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trƣớc biển, ngƣời ta đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thuỷ vô chung của thời gian và nhỡn tiền là sự vồ hạn vô hồi của biển cả. Ngƣời ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thấy đời ngƣời thật là ngắn ngủi, kiếp ngƣời thật là nhỏ nhoi phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vẫn thế. Chỉ có biển kia là bất diệt. Thân phận phù du nào cũng muốn hoá vĩnh hằng! Ngƣời ta thèm muốn đƣợc bất tử. Ngƣời phụ nữ này cũng thế. Chị muốn đƣợc có mặt mãi trên cõi đời này. Để đƣợc sống! Để đƣợc yêu! Sống trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ấy đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng:

Làm sao dƣợc tan ra Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biền lón rình yêu Để ngàn năm còn vỗ

Bài thơ dẫu đã khép lại, nhƣng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!

Đề 2 : Đề bài : Cảm nhận của anh/ chị về đoạn thơ sau trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh :

Con sóng dƣới lòng sâu Con sóng trên mặt nƣớc Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ đƣợc Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức. Bài làm:

“Sóng” là bài thơ dài, lời thơ cũng triền miên nhƣ sóng. Hình ảnh sóng biến hoá qua từng khổ, từng khổ. Phải nói rằng hình ảnh nào cũng sâu xa, thi vị Nhƣng nếu phải chọn một khổ nào là hay hơn cả, hẳn không ít ngƣời sẽ chọn đoạn diễn tả sóng và nỗi nhớ.

Giản dị thôi, đơn sơ thôi! Nhƣng dƣờng nhƣ đó lại là đoạn xuất thần của ngòi bút Xuân Quỳnh:

Con sóng dƣới lòng sâu Con sóng trên mặt nƣóc ôi con sóng nhó bờ

Ngày đêm không ngủ dƣợc Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Trong bài thơ, tác giả hiện ra nhƣ một ngƣời phụ nữ đang trầm ngâm suy cảm trƣớc từng con sóng biển. Lần này, đối diện với đại dƣơng, Xuân Quỳnh mới khám phá ra một điều giản dị mà cũng là một chân lý sâu xa: biển gồm cả những con sóng nổi lẫn những con sóng chìm Bởi mang hai thứ sóng ấy trong lòng mà biển chẳng bao giờ nguôi yên. Thì ra đại dƣơng là cả một tâm trạng lớn. Đại dƣơng đang bị những khát khao, những mong nhớ dày vò đến cồn cào. ở đoạn trên, băn khoăn tìm hiểu về nguồn gốc bí ẩn của sóng, thi sĩ thấy bất lực. Nhƣng ở đoạn này, xem ra Xuân Quỳnh đã thấy một sự lý giải không ngờ: sóng bắt đầu từ nỗi nhớ:

Ôi con sông nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ dƣợc

Sóng mang trong mình nỗi nhớ và sóng chính là nỗi nhớ. Tuy nhiên, điều thú vị là ở chỗ: đã là sóng thì bao gờ cũng thức. Sống không ngủ. Bởi sóng ngủ thì sóng cũng không tồn tại. Vì lý do này mà ngƣời ta đã thấy sóng là nhịp đập của biển, là trái tim của biển, là sự sống của biển. Đối với Xuân Quỳnh, chỉ vì sóng nhớ bờ da diết mà sống không ngủ đƣợc. Từ đó, thi sĩ liên tƣởng đến trái tim ngƣời phụ nữ khi yêu. Và, thật bất ngờ, thi sĩ khám phá ra chính mình:

Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức

Có lẽ thế, nếu sóng là sự sống của biển thì nhớ là sự sống của tình yêu. Nỗi nhớ đồng nghĩa với tình yêu. Một tâm hồn ngừng nhớ là dấu hiệu chắc chắn để khẳng định một trái tim đã ngừng yêu, một mối tình đã tắt. Sóng thức trong lòng biển đã cồn cào, sống thức trong lòng em còn muôn vạn lần cồn cào hơn. Sóng chỉ nhớ bờ trong cõi này “Ngày đêm không ngủ đƣợc”. Ngƣời phụ nữ khi yêu là hiến dâng toàn tâm, toàn ý, toàn hồn. Cho nên ngay đến “Cả trong mơ còn thức”. Câu thơ cũng tựa nhƣ một con sóng đi xuyên qua cả hai cõi Thực và Mộng. Giới hạn của sống là cõi thực. Còn ngƣời phụ nữ khi yêu thì nỗi nhớ đã xáo trộn cả Thực và Mơ. Nếu còn một cõi nào khác nữa thì ngƣời phụ nữ ấy cũng sẽ dành trọn cho tình yêu. Cả cuộc đời là nỗi trăn trở lớn! Đã không ngủ trong cõi thực lại thao thức cả trong cõi mộng. Câu thơ đã diễn tả thật hàm súc tâm lý của ngƣời phụ nữ khi yêu. Chẳng phải khi yêu, ngƣời ta muốn tận hƣởng đến từng khoảnh khác của hạnh phúc? Cho nên ngƣời phụ nữ này ở đâu cũng muốn thức. Phải cố thức cả trong cõi thực lẫn trong cõi mộng để nâng niu, chắt chiu từng khoảnh khắc hạnh phúc. Ngỡ nhƣ chỉ cần chợp mắt trong giây lát thế là một khoảnh khắc đã trôi qua uổng phí, không kịp tận hƣởng. Chẳng phải khi yêu, ngƣời ta cũng thƣờng phấp phỏng, lo âu vì nỗi sợ mất nhau? Cơ hồ chỉ cần chợp mắt một chút thôi, thì e rằng, vì một lý do nào đó, ngƣời mình yêu bỗng nhiên tan biến. Cái hạnh phúc mình đang cầm nắm sẽ tuột khỏi lòng tay! ”Cả trong mơ còn thức”, lời thơ thật phi lí mà khát khao thật cảm động. Muốn vào cả trong giấc mơ, đó không chỉ là khao khát của tình yêu, với Xuân Quỳnh đó còn là khao khát của tình mẫu tử.Ở một bài khác, viết cho con, chị cũng bộc lộ ham muốn này, nếu không đƣợc thì đó là một đau khổ lớn:

Con thức ban ngày mẹ chở che con Đêm còn mơ mẹ làm sao che chở Trong giấc mơ chỉ mình con bé nhỏ Chỉ mình con chống chọi với quân thù

“Cả trong mơ còn thức” sự phi lí đã chứa đựng một chân lý. Chỉ có ai biết trân trọng tình yêu. biết yêu chân thành mãnh liệt mới có thể chia sẻ đƣợc điều đó. Tình yêu là một lĩnh vực xƣa cũ mà luôn mới mẻ. Xƣa cũ và mới mẻ nhƣ chính con ngƣời, cùng với cả loài ngƣời. Mỗi đôi lứa yêu nhau là một khám phá về tình yêu. Mỗi thi sĩ đem đến một phát hiện mới về tình yêu. Xuân Quỳnh là một tâm hồn sống trong tình yêu, sống bằng tình yêu. Suốt đời trăn trở kiếm tim một tình yêu lý tƣởng. Suốt đời mệt nhoài để chắt chiu gìn giữ cái hạnh phúc đời thƣờng. Cho nên mỗi lời thơ đƣợc viết ra dƣờng nhƣ đều đƣợc trả giá bằng chính những khắc khoải của bản thân mình. Thơ Xuân Quỳnh đã đi vào tâm hồn ngƣời đọc và làm rung động mãi lòng ta có lẽ là vì thế.

Đề 3: Cảm nhận về hai đoạn thơ trong bài Sóng Xuân Quỳnh và việt Bắc Tố Hữu

Cảm nhận của em về hai đoạn thơ sau:

Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trƣớc mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nƣớc, nghĩa tình bấy nhiêu. (Việt Bắc – Tố Hữu)

Dẫu xuôi về phƣơng bắc Dẫu ngƣợc về phƣơng nam Nơi nào em cũng nghĩ Hƣớng về anh một phƣơng. (Sóng – Xuân Quỳnh)

Bài làm

(Đây là bài viết của bạn Hằng gửi vào Gmail nhờ cô nhận xét, chỉnh sửa. Cô đã sửa một số lỗi diễn đạt và sắp xếp lại các ý cho rành mạch hơn. Hằng đọc lại và rút kinh nghiệm nhé.)

Trong cuộc đời mỗi con ngƣời, ai cũng có ít nhất một niềm thƣơng, nỗi nhớ. Niềm thƣơng, nỗi nhớ ấy luôn thƣờng trực trong ta tạo nên những rung động mãnh liệt trong cảm xúc. Với các thi nhân , cảm xúc lại là yếu tố vô cùng quan trọng. Nó giúp cho các nhà thơ làm nên những thi phẩm say đắm lòng ngƣời. Tiếng nói từ trái tim sẽ đến đƣợc với trái tim. Đoạn thơ:

“Ta với mình, mình với ta

Lòng ta sau trƣớc mặn mà đinh ninh Mình đi, mình lại nhớ mình

Nguồn bao nhiêu nƣớc, nghĩa tình bấy nhiêu.”

trích trong bài thơ “Việt Bắc” của Tố Hữu và đoạn thơ:

“Dẫu xuôi về phƣơng bắc Dẫu ngƣợc về phƣơng nam Nơi nào em cũng nghĩ Hƣớng về anh một phƣơng.”

trích trong bài thơ “Sóng của Xuân Quỳnh là những vần thơ dạt dào cảm xúc nhƣ thế.

Nhà thơ Tố Hữu và nhà thơ Xuân Quỳnh là hai nhà thơ lớn của văn học VIệt Nam hiện đại đƣợc nhiều bạn yêu thơ mến mộ. Nếu nhà thơ Tố Hữu là cánh chim đầu đàn, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng Việt Nam thì Xuân Quỳnh đƣợc mệnh danh là nữ hoàng của thơ tình.

Mỗi tác giả đã tạo ra thơ của mình với mỗi vẻ đẹp riêng. Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hƣớng thơ trữ tình, chính trị; mang khuynh hƣớng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Thơ Tố Hữu mang giọng điệu ngọt ngào, tâm tình tha thiết, giọng của tình thƣơng mến; đậm đà tính dân tộc. Thơ Xuân Quỳnh lại in đậm vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn, hồn hậu, chân thực và luôn luôn da diết, luôn khát vọng về một hạnh phúc đời thƣờng.

Bài thơ “Việt Bắc” viết về cách mạng, còn bài thơ “Sóng” hƣớng tới đề tài tình yêu lứa đôi .

Tháng 10/1954, những ngƣời kháng chiến từ căn cứ miền núi trở về miền xuôi, Trung ƣơng Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc về lại Thủ đô. Nhân sự kiện thời sự có tình lịch sử ấy, Tố Hữu sáng tác bài thơ “Việt Bắc” in trong tập thơ “Việt Bắc”. Đoạn thơ trớch trong bài Việt Bắc là lời ngƣời ra đi đáp lại ngƣời ở lại Bốn câu thơ giống nhƣ một lời thề nguyền, lời khẳng định gắn bó thủy chung trƣớc sau nhƣ một mà những cán bộ cách mạng miền xuôi muốn gửi tới đồng bài Việt Bắc. Lời thơ óng ả, dịu dàng, tình tứ và lối xƣng hô thân mật, ngọt ngào của ca dao, dân ca “mình-ta” đƣợc sử dụng một cách linh hoạt. Nỗi nhớ của ngƣời cách mạng về quê hƣơng Việt Bắc giống nhƣ nỗi nhớ của những đôi lứa yêu nhau. Sự sắp xếp từ liền đôi, quấn quýt không muốn rời xa của “ta” và “mình”, vừa khéo léo khẳng định tấm lòng của “ta” cũng nhƣ “mình”. Tình cảm của ngƣời về với Việt Bắc là thứ tình cảm thắm thiết, mặn mà, gắn chặt trong tim, ghim chặt trong lòng. Tình cảm ấy còn đƣợc khẳng định bằng một hình ảnh thơ so sánh “Nguồn bao nhiêu nƣớc, nghĩa tình bấy nhiêu”. Trong tiềm thức của ngƣời Việt Nam nƣớc trong nguồn là dòng nƣớc không bao giờ vơi cạn, chảy bất tận. ý thơ trở nên sâu sắc hơn khi tác giả sử dụng cặp từ so sánh tăng tiến “bao nhiêu,…bấy nhiêu”. Đó là sự so sánh giữa một cái vô tận với một cái bất tận.

Bài thơ “Sóng” đƣợc sáng tác năm 1967 nhân chuyến đi thực tế ở Diêm Điềm (Thái Bình), in trong tập thơ “Hoa dọc chiến hào” (1968). Bài thơ đƣợc viết khi Xuân Quỳnh còn trẻ khoảng 25 tuổi nhƣng đã trải qua không ít những thăng trầm, đổ vỡ trong tình yêu.

Ở khổ thơ trên “Sóng” đƣợc khám phá theo chiều rộng của không gian ở hai miền “xuôi”, “ngƣợc” .Sóng dù xuôi về phƣớng Bắc, dù ngƣợc về phƣơng Nam thì cuối cùng vẫn hƣớng về bờ:

“Dẫu xuôi về phƣơng bắc Dẫu ngƣợc về phƣơng nam Nơi nào em cũng nghĩ Hƣớng về anh một phƣơng.”

Thông thƣờng ngƣời ta haynói xuôi Nam, ngƣợc Bắc nhƣng ở đây Xuân Quỳnh lại nói xuôi Bắc, ngƣợc Nam, dƣờng nhƣ cái lô-gic của lí trí thông thƣờng đã bị lu mờ, chỉ còn lại hai miền xuôi ngƣợc để trăn trở tìm nhau, để khao khát bên nhau.

Cách nói ấy cũng khiến ngƣời đọc hình dung về những gian nan, cách trở mà trái tim yêu phải vƣợt qua.

Con “sóng” kia muôn đời thao thức để khắc khoải xuôi ngƣợc tìm bờ thì em cũng chỉ duy nhất hƣớng về “phƣơng anh”. Đây là một sáng tạo độc đáo của Xuân Quỳnh khi đƣa khái niệm không gian để nói về mức độ thủy chung, bốn phƣơng Đông – Tây – Nam – Bắc là của vũ trụ này, chỉ có duy nhất nơi anh là phƣơng trời của em. Giữa cuộc đời rộng lớn, thỡ anh vẫn mói là bến bờ hạnh phúc , là nơi duy nhất em tìm về. í thơ bộc bạch rất thật, sáng lên vẻ đẹp của tình yêu chung thủy.

Hóa ra ở trung tâm nỗi nhớ là anh nên dẫu có đi về phƣơng nào thì em cũng hƣớng về phƣơng anh. Câu thơ giống nhƣ một lời nguyện thề thủy chung, da diêt, đằm thắm.

Nếu ở khổ 5 nhân vật trữ tình bộc bạch ” lòng em nhớ đến anh” thì ở đây cảm xúc đã dâng lên một bậc “Nơi nào em cũng nghĩ”. “Nghĩ” có cả yêu thƣơng, mong nhớ, có cả phấp phỏng lo âu, hờn ghen, giận dỗi. Anh trở thành ý nghĩ thƣờng xuyên, thƣờng trực trong lòng, canh cánh trong lòng. “Nhớ” là tình cảm, cảm xúc tự nhiên, hồn nhiên thì “nghĩ” là sự suy tƣ, chín chắn, sâu sắc. Ngƣời con gái khẳng định sự duy nhất, tuyệt đối gắn bó thủy chung trong tình yêu.

Khổ thơ cho ta thấy tình yêu của ngƣời phụ nữ, sự thủy chung son sắt duy nhất. Nhân vật trữ tình đã trực tiếp thể hiện cảm xúc của mình. Khẳng định tình yêu thủy chung cũng là khao khát, là khát vọng ngƣời yêu thƣơng phải xứng đáng với mình. Cả hai đoạn thơ đều là những rung động, những xúc cảm nhớ thƣơng của một tình yêu con ngƣời, đất nƣớc trong lòng ngƣời bởi một tình cảm đẹp, sự thủy chung son sắt không đổi thay. Trên phƣơng diện nghệ thuật, cả hai đoạn thơ đều là những ngôn từ giản dị nhƣng lại giàu giá trị nghệ thuật. Giọng thơ trữ tình tha thiết nhƣng cũng khẳng định mạnh mẽ, chắc chắn, đinh ninh nhƣ một lời thề.

Tình cảm trong đoạn thơ Việt Bắc là tình cảm lớn lao, tình cảm cách mạng, tình cảm chính trị. Nỗi nhớ ấy gắn liền với cuộc chia ly của ngƣời cán bộ cách mạng rời căn cứ địa kháng chiến để trở về thủ đô. Chủ thể của nỗi nhớ là những con ngƣời kháng chiến nhớ những kỉ niệm với quê hƣơng Việt Bắc, đồng bào Việt bắc ân tình đùm bọc, cƣu mang trong suốt những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến.

Còn tình cảm trong “Sóng” là tình yêu đôi lứa, cảm xúc của chủ thể trữ tình “em”, một phụ nữ đang yêu vừa gián tiếp, vừa trực tiếp. “Sóng” là hóa thân mà cũng là phân thân cảu chủ thể trữ tình. “sóng” là ẩn dụ để diễn tả nỗi nhớ. Sắc thái của nỗi nhớ trong đoạn thơ chỉ duy nhất hƣớng về một nơi ở phƣơng anh một cách chung thủy, sắt son.

Đoạn thơ “Việt Bắc” sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc. Giọng điều ngọt ngào nhƣ một khúc trữ tình sâu lắng, da diết. Sóng – đoạn thơ sử dụng thể thơ năm chữ và ẩn dụ nghệ thuật sóng. Thể thơ và nhịp điệu thơ đã gợi hình hài và nhịp điệu bất tận vào ra của những con sóng nỗi nhớ tình yêu. Nhờ nghệ thuật ẩn dụ, nỗi lòng của ngƣời phụ nữ khi yêu đƣợc thể hiện chân thành, nữ tính, duyên dáng mà không kém phần mãnh liệt, sâu sắc.

Vẻ đẹp trong thơ Tố Hữu luôn gắn với ca dao đậm đà, Còn Xuân Quỳnh thì mãnh liệt, nồng nàn.

Từ hai nỗi nhớ đƣợc thể hiện trong đoạn thơ, ngƣời đọc khụng chỉ cảm nhận đƣợc nột đặc sắc của hai giọng điệu thơ mà cũn thấy đƣợc vẻ đẹp tõm hồn con ngƣời Việt Nam yờu thƣơng đằm thắm, dịu dàng mà mónh liệt, tỡnh nghĩa thủy chung, son sắt.

Đề 4: Phân tích hai khổ thơ đầu bài thơ “Sóng” của nữ sĩ Xuân Quỳnh.

Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ trẻ xuất sắc trƣởng thành từ kháng chiến chống Mỹ và là một trong số ít những nhà thơ nữ viết rất nhiều và rất thành công về đề tài tình yêu. Một trong những thành công xuất sắc về đề tài này của nữ sĩ là bài thơ “Sóng”, hai khổ thơ đầu bài thơ nữ thi sĩ viết:

“Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ”

Thơ Xuân Quỳnh là tiếng lòng của tâm hồn ngƣời phụ nữ nhiều trắc ẩn, vần thơ của bà vừa chân thành đằm thắm, vừa nồng nàn mãnh liệt và hơn hết luôn bật lên khát vọng da diết về hạnh phúc bình dị đời thƣờng. Bài thơ “Sóng” ra đời năm 1967 trong chuyến đi thực tế của nhà thơ về vùng biển Diêm Điền tỉnh Thái Bình và lúc này thì bản thân nhà thơ cũng vừa trải qua một sự đổ vỡ trong tình yêu. Bài thơ đƣợc in trong tập “Hoa dọc chiến hào” năm 1968. Tình yêu là điều bí ẩn nên ngàn đời vẫn cuốn hút con ngƣời, tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh chính là những bông hoa dọc chiến hào làm dịu đi sự khốc liệt của chiến tranh.

Trong bài thơ “Sóng”, nhà thơ sử dụng thể thơ năm chữ, đây là thể thơ có nhịp điệu nhanh, mạnh, dồn dập. Thể thơ này thƣờng dùng để diễn tả những dòng cảm xúc ào ạt, hối hả, mãnh liệt . Bài thơ sử dụng cách hiệp vần giãn cách, hiệp vần chân ở những tiếng cuối của các câu chẵn. Hơn nữa bài thơ có sự luân phiên về thanh điệu ở các tiếng cuối của các câu thơ. Nhƣ vậy những thủ pháp nghệ thuật sáng tạo đã tạo nên âm hƣởng nhịp nhàng, uyển chuyển cho cả bài thơ. Âm hƣởng của bài thơ là âm hƣởng dạt dào của những con sóng mà mỗi câu thơ là một con sóng, chúng gối lên nhau chạy đều, chạy đều đến cuối bài thơ. Những con sóng là sự trào dâng mãnh liệt của dòng cảm xúc ào ạt trong lòng nữ sĩ. Có lẽ vì thế mà ấn tƣợng về con sóng trong bài thơ không chỉ là của sóng biển mà còn là của sóng tình. Đây cũng chính là hai hình tƣợng nghệ thuật mà tác giả đã tập trung xây dựng trong bài thơ. Sóng biển và sóng tình có lúc tồn tại song song để soi chiếu, tôn vinh vẻ đẹp cho nhau, có lúc lại hòa làm một, trong sóng biển có sóng tình, trong sóng tình ta lại thấy nhịp dào dạt của sóng biển. Suy cho cùng sóng biển và sóng tình là hai hình tƣợng nghệ thuật để biểu đạt cho cái tôi trữ tình của nhà thơ.

Qua hai khổ thơ đầu nữ sĩ đã cho chúng ta cảm nhận đƣợc đặc điểm của những con sóng biển và những con sóng tình yêu, những con sóng luôn chứa đựng những trạng thái đối lập và luôn có những khát khao vƣơn tới những sự vĩ đại, bao la. Mở đầu, nhà thơ viết:

“Dữ dội và dịu êm Ồn ào và lặng lẽ”

Trong hai câu thơ mở đầu tác giả đã sử dụng tới hai cặp tính từ trái nghĩa để miêu tả đặc điểm của sóng biển: “dữ dội – dịu êm”, “ồn ào – lặng lẽ”. Thông thƣờng đứng giữa những cặp tính từ trái nghĩa là quan hệ từ biểu đạt sự tƣơng phản “tuy – nhƣng”, thế nhƣng ở đây nhà thơ nữ Xuân Quỳnh lại sử dụng quan hệ từ “và” vốn biểu đạt quan hệ cộng hƣởng, cộng thêm, nối tiếp. Nhƣ vậy những đặc điểm tƣởng nhƣ đối lập lại thống nhất với nhau và luôn tồn tại trong một chỉnh thể là sóng.

Trong cái dữ dội có cái dịu êm, trong sự ồn ào lại chứa đựng sự lặng lẽ.Những trạng thái đối lập của sóng cũng chính là những trạng thái đối lập trong tâm hồn ngƣời phụ nữ khi yêu. Trong tình yêu, tâm hồn ngƣời phụ nữ không hề bình lặng mà đầy biến động: có khi sôi nổi cuồng nhiệt, cũng có khi e lệ, kín đáo, có lúc đằm thắm, lúc hờn ghen…

Tác giả tiếp tục sử dụng biện pháp nhân hóa trong hai câu thơ tiếp theo, con sóng đƣợc nhân hóa qua động từ “tìm” trong hành trình từ sông ra tới biển:

“Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể”

Tác giả đã khéo léo sử dụng động từ “tìm” trong việc nhân hóa con sóng đã cho ta thấy đƣợc sự chủ động của con sóng, con sóng chủ động chối bỏ những phạm vi chật hẹp “sông” để vƣơn tới những phạm vi rộng lớn bao la “bể”. Nhƣ vậy trong bốn câu thơ đầu nhà thơ đã giúp ta nhìn lại hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của những con sóng và chính tác giả cũng đã phải sử dụng tới hai câu thơ để khẳng định sự hiển nhiên, vốn có này:

“Ôi con sóng ngày xƣa và ngày sau vẫn thế”

Nữ sĩ đã khẳng định đặc điểm ngàn đời vốn có của sóng, từ quá khứ “ngày xƣa” cho đến tƣơng lai “ngày sau” con sóng vẫn luôn chứa đựng những trạng thái đối lập, vẫn luôn vận động theo quy luật trăm sông đều đổ về với biển. Trạng từ khẳng định “vẫn thế” một lần nữa biểu đạt một chân lí không bao giờ đổi thay.

Thơ ca, nghệ thuật là những sự sáng tạo mang đến cho ngƣời đọc những cảm xúc mới, đem đến cho tâm hồn con ngƣời những sự trải nghiệm phong phú. Ta tự hỏi vì sao trong sáu câu thơ đầu tác giả chỉ cho chúng ta hai đặc điểm tự nhiên, vốn có của con sóng? Để giải đáp cho điều này nữ sĩ viết tiếp hai câu thơ:

“Nỗi khát vọng tình yêu Bồi hồi trong ngực trẻ”

Đến đây ta đã cảm nhận đƣợc sự xuất hiện của một con sóng nữa đó là con sóng của tâm hồn, là con sóng của tình yêu, mà lại là tình yêu của tuổi trẻ đang bồi hồi, đang thổn thức trong trái tim, trong lồng ngực. Khát vọng tình yêu cháy bỏng mãnh liệt đang trào dâng trong lòng nữ sĩ. Nhƣ vậy đứng trƣớc biển, trƣớc những con sóng ào ạt ạt vỗ bờ dòng cảm xúc trong lòng nữ sĩ cũng trào dâng. Những con sóng biển ở sáu câu thơ đầu đã gọi những con sóng tình trong lòng nhà thơ. Sóng biển đã gọi sóng tình hay sóng biển chính là yếu tố khơi nguồn cảm xúc trong lòng thi sĩ.

Vì sao sóng biển lại gọi đƣợc sóng tình, lại có sức khơi gợi cảm xúc mãnh liệt nhƣ vậy? Có lẽ giữa sóng biển và sóng tình có sự tƣơng đồng, nếu sóng biển biển chứa đựng những trạng thái đối lập thì tâm trạng ngƣời con gái đang yêu cũng có những lúc giận dỗi, hờn ghen, có những lúc yêu thƣơng dịu dàng đằm thắm:

“Em bảo anh đi đi

Sao anh không đứng lại? Em bảo anh đừng đợi Sao anh vội về ngay?”

Con gái khi yêu luôn là nhƣ thế, luôn mâu thuẫn, đối lập trong lời nói và hành động. Nếu yêu một ngƣời con gái mà không biết nhìn thẳng vào mắt ngƣời đó thì chắc chắn một điều rằng anh chàng sẽ khó lòng hiểu và yêu thƣơng cô gái trọn vẹn.Hành trình của sóng chính là hành trình của tình yêu. Nếu con sóng luôn luôn chủ động chối bỏ những chật chội hẹp hòi để vƣơn tới những điều rộng lớn thì ngƣời con gái đang yêu cũng luôn luôn có khát khao nhƣ thế .Họ dũng cảm từ bỏ những ích kỉ, nhỏ nhen để vƣơn tới tình yêu bao dung . Việt Nam là một nƣớc có lịch sử ơn một nghìn năm phong kiến và chế độ phong kiến đã đè nặng tƣ tƣởng phụ nữ Việt. Thời kì những năm 1967 ảnh hƣởng của tƣ tƣởng hệ phong kiến chắc chắn còn, mà thậm chí còn rơi rớt đến một số thế hệ trẻ hiện nay thế nhƣng ở Xuân Quỳnh ta bắt gặp một con ngƣời hiện đại, thông minh và sắc sảo,luôn khát khao hƣớng tới một tình yêu vĩ đại.

Đề 5: Anh (chị) hãy phát biểu cảm nhận của mình về hai đoạn thơ sau:

“Nhớ gì như nhớ người yêu

Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương

Nhớ từng bản khói cùng sương

Sớm khuya bếp lửa người thương đi về.

Nhớ từng rừng nứa bờ tre

Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy

 

(Việt Bắc – Tố Hữu)

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức.”

 

 

(Sóng – Xuân Quỳnh)

Định hướng cách làm:

I.  MỞ BÀI

Giới thiệu về hai tác giả và hai bài thơ, hai đoạn thơ:

II.  THÂN BÀI

2.  Cảm nhận hai đoạn thơ

2.1.  Đoạn thơ trong bài thơ Sóng

–   Nỗi nhớ tràn ngập khắp không gian: dƣới lòng sâu, trên mặt nƣớc

–   Nỗi nhớ tràn ngập khắp thời gian: ngày đêm không ngủ đƣợc

–   Nỗi nhớ tràn cả vào ý thức, vô thức, tiềm thức “cả trong mơ còn thức”

*   Nghệ thuật: thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu; phép ẩn dụ, nhân hóa, điệp cấu trúc, tƣơgn phản..

2.2.  Đoạn thơ trong Việt Bắc

–   Nỗi nhớ tràn ngập không gian thời gian, thấm vào cảnh vật thiên nhiên:

+ Thiên nhiên bình dị tƣơi đẹp: nắng chiều, trăng lên đầu núi, bản khói cùng sƣơng, ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê…

+ Con ngƣời Việt Bắc cần cù chăm chỉ, chịu thƣơng chịu khó: sớm khuya bếp lửa ngƣời thƣơng đi về

*   Nghệ thuật:

–   Thể thơ lục bát âm điệu ngọt ngào sâu lắng; sử dụng phép điệp từ, ngôn ngữ bình dị

3.  So sánh:

–   Giống nhau: Cả hai đoạn thơ đều tập trung thể hiện nỗi nhớ của một tình yêu tha thiết sâu đậm đối với con ngƣời, cuộc sống, quê hƣơng, đất nƣớc của hai thi sĩ.

Nội dung cảm xúc: Cả hai đoạn thơ đều viết về nỗi nhớ, một trạng thái cảm xúc nảy sinh trong cuộc chia ly với những con ngƣời đã từng gắn bó sâu nặng, thắm thiết, những mảnh đất để lại dấu chân đi qua.

–   Nghệ thuật thể hiện: Hai đoạn thơ, các tác giả đều tập trung khắc họa những cung bậc trạng thái phong phú, đa chiều của nỗi nhớ. Nỗi nhớ mênh mang đƣợc đặt trong quan hệ với không gian thiên nhiên vô tận. Nỗi nhớ triền miên da diết đƣợc đặt trong thời gian của đêm – ngày, sớm – chiều. Nỗi nhớ còn đƣợc so sánh, thể hiện trong những điều sâu thẳm, mãnh liệt nhất (nhớ ngƣời yêu, cả trong mơ còn thức). (Hai đoạn thơ đều sử dụng các biện pháp nghệ thuật nhƣ so sánh, ẩn dụ, điệp từ để khéo léo diễn tả nỗi nhớ sâu đậm, giọng điệu da diết, khắc khoải của con ngƣời khi phải chia ly.

–   Điểm khác biệt:

Việt Bắc (Tố Hữu) – Nội dung cảm xúc: nỗi nhớ trong thơ Tố Hữu thuộc về tình cảm lớn lao, tình cảm chính trị, tình cảm cách mạng. Nỗi nhớ ấy gắn liền với cuộc chia ly của ngƣời cán bộ cách mạng rời căn cứ địa kháng chiến để trở về thủ đô.

Chủ thể của nỗi nhớ là những con ngƣời kháng chiến nhớ những kỉ niệm với quê hƣơng Việt Bắc, đồng bào Việt bắc ân tình đùm bọc, cƣu mang họ trong suốt những tháng ngày gian khổ của cuộc kháng chiến.

Đoạn thơ sử dụng thể thơ lục bát của dân tộc. Giọng điệu ngọt ngào nhƣ một khúc trữ tình sâu lắng, da diết. Các điệp từ: nhớ gì, nhớ từng, nhớ những cùng với nghệ thuật so sánh (nhƣ nhớ ngƣời yêu), ẩn dụ (ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê) và tiểu đối đã góp phần thể hiện thành công những cung bậc cảm xúc phong phú của nỗi nhớ quê hƣơng cách mạng.

Sóng (Xuân Quỳnh) – Cảm xúc của chủ thể trữ tình đƣợc thể hiện vừa gián tiếp, vừa trực tiếp. “Sóng” là hóa thân mà cũng là phân thân của chủ thể trữ tình. “Sóng” là ẩn dụ để diễn tả nỗi nhớ. Sắc thái của nỗi nhớ trong đoạn thơ (có nỗi nhớ cồn cào, cháy bỏng, có nỗi nhớ triền miên, da diết, có nỗi thao thức, bồi hồi trăn trở, nỗi nhớ còn lặn cả vào trong tiềm thức, trong giấc mơ).

Sóng – Đoạn thơ sử dụng thể thơ năm chữ và ẩn dụ nghệ thuật sóng. Thể thơ và nhịp điệu thơ đã gợi hình hài và nhịp điệu bất tận vào ra của những con sóng nỗi nhớ tình yêu. Nhờ nghệ thuật ẩn dụ, nỗi lòng của ngƣời phụ nữ khi yêu đƣợc thể hiện chân thành, nữ tính, duyên dáng mà không kém phần mãnh liệt sâu sắc. Đoạn thơ có hình ảnh sáng tạo diễn tả nỗi nhớ trong mơ (Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức).

Kết luận chung:

–   Từ hai nỗi nhớ đƣợc thể hiện trong đoạn thơ, ngƣời đọc không chỉ cảm nhận đƣợc nét đặc sắc của hai giọng điệu thơ mà còn thấy đƣợc vẻ đẹp tâm hồn con ngƣời Việt Nam yêu thƣơng đằm thắm, dịu dàng mà mãnh liệt, tình nghĩa thủy chung.

III.   KẾT BÀI Đánh giá chung

Đây là đề thi của Thầy PHAN DANH HIẾU

Đề 6 :Có ý kiến cho rằng:   1.Sóng đã thể hiện đƣợc một tình yêu có tính chất truyền thống nhƣ tình yêu muôn đời. 2.Tình yêu mà Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ mang tính chất hiện đại nhƣ tình yêu hôm nay. Bằng việc cảm nhận bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, anh (chị) hãy bàn luận về những ý kiến trên.

٭Định hƣớng các ý chính cần đạt

1.  Mở bài :

Xuân Quỳnh là một nhà thơ của hạnh phúc đời thƣờng. Thơ Xuân Quỳnh phản chiếu nét tâm hồn của nhà thơ khát khao tình yêu, hạnh phúc bình dị đời thƣờng. Xuân Quỳnh đƣợc đánh giá là một trong những nhà thơ viết thơ tình hay nhất của nền thơ hiện đại Việt Nam. Trong thi đàn Việt Nam, ngƣời đọc đã rất thú vị với một phong cách yêu chân quê mộc mạc của nhà thơ Nguyễn Bính; một phong cách nồng nàn, say đắm của thi sĩ Xuân Diệu và không thể không kể đến cách bộc lộ tình yêu đầy cá tính và nữ tính trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh. Từ những lời tự hát tình yêu trong bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, có ý kiến cho rằng: Sở dĩ bài thơ đi cùng năm tháng là bởi:

“ Sóng đã thể hiện đƣợc một tình yêu có tính chất truyền thống nhƣ tình yêu muôn đời”và “Tình yêu mà Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ mang tính chất hiện đại nhƣ tình yêu hôm nay”. 2 ý kiến đặt cạnh nhau, bổ sung cho nhau giúp ta cảm nhận đƣợc nét độc đáo của bài thơ cũng nhƣ vẻ đẹp của tâm hồn Xuân Quỳnh với sự hòa quyện của tƣ tƣởng truyền thống và hiện đại.

2.  Thân bài

Giải thích 2 ý kiến và sự thống nhất của 2 ý kiến

Ngƣời xƣa quan niệm “Thơ là tiếng lòng” Thơ là điệu hồn đi tìm những tâm hồn đồng điệu” (Tố Hữu). Nhà thơ Nguyễn đình Thi đặt câu hỏi khi giãi bày mấy ý nghĩ về thơ: Đầu mối của thơ có lẽ ta đi tìm bên trong tâm hồn con ngƣời chăng?… bài thơ là sợi dây truyền tình cảm cho ngƣời đọc. Thơ là sự thể hiện tâm hồn một cách mãnh liệt nhất. Sóng của Xuân Quỳnh là bài thơ có sức sống bền bỉ theo thời gian bởi bài thơ đã tìm đƣợc sự đồng điệu từ trái tim độc giả nhất là tuổi trẻ.

–   Ý kiến 1: Ở bài thơ, Xuân Quỳnh đã diễn tả đƣợc những cung bậc cảm xúc có tính truyền thống, có tính phổ biến, những quy luật tình cảm muôn đời của con ngƣời trong tình yêu

–   Ý kiến 2: Sự mới mẻ, hiện đại của cách cảm, trong quan niệm về tình yêu của Xuân Quỳnh

–   2 ý kiến bổ sung cho nhau giúp ta nhận ra sự độc đáo của bài thơ cũng nhƣ vẻ đẹp của tâm hồn Xuân Quỳnh

Cảm nhận bài thơ và bàn luận 2 ý kiến

“Sóng” thể hiện một tình yêu “có tính chất truyền thống như tình yêu muôn đời”:

Mƣợn hình tƣợng “sóng” trong tự nhiên, nhà thơ đã diễn tả đƣợc những cung bậc cảm xúc phổ biến, những quy luật tình cảm muôn đời của con ngƣời trong tình yêu:

+ Đó là những trạng thái cảm xúc đối lập mà thống nhất trong lòng ngƣời đang yêu: “dữ dội” – “dịu êm”, “ồn ào” – “lặng lẽ”.

+ Đó là khát vọng vƣơn tới cái cao cả, lớn lao trong tình yêu: “Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể”

+ Con sóng bất biến trong dòng chảy thời gian cũng nhƣ tình yêu luôn là điều khao khát trong trái tim tuổi trẻ.

+ Những bí ẩn về cội nguồn của “sóng” cũng nhƣ bí ẩn của tình yêu

+ Tình yêu luôn song hành cùng nỗi nhớ

+ Muốn tình yêu bền vững, con ngƣời cần biết vƣợt qua những thách thức, giớihạn và biết hoà nhập, hiến dâng, hi sinh…

“Sóng” mang “tính chất hiện đại của tình yêu hôm nay”.

–   Qua hình tƣợng “sóng”, ta cảm nhận đƣợc tƣ thế và tâm thế nhân vật trữ tình. Đó là ngƣời con gái chủ động bày tỏ những khát khao yêu đƣơng mãnh liệt và những rung động rạo rực của lòng mình. Không còn sự thụ động, cam chịu, yên phận của ngƣời phụ nữ truyền thống, nhân vật nữ trong bài thơ rất táo bạo chủ động trên hành trình tìm kiếm hạnh phúc: Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì “sóng tìm ra tận bể”. Nghĩa là dứt khoát từ bỏ cái nhỏ bé, tầm thƣờng để tìm đến với cái bao la khoáng đạt đủ sức bao dung và mang chứa. Cũng rất mãnh liệt và hiện đại là lới thú nhận chân thành: tình yêu đã phá vỡ mọi giới hạn không gian, thời gian, chiếm lĩnh trọn vẹn tâm hồn ngƣời con gái thậm chí lặn sâu cả vào tiềm thức. Đó còn là một tình yêu đƣợc cảm nhận toàn diện với mọi cung bậc cảm xúc có khi đối lập nhƣng vẫn thống nhất.

–   Khát vọng đƣợc dâng hiến hết mình cho tình yêu gắn liền với khát vọng đƣợc hƣởng một tình yêu đích thực, trƣờng tồn: “Làm sao đƣợc tan ra…Để ngàn năm còn vỗ”

Bàn luận chung

2.  Ý kiến tƣởng trái chiều nhƣng góp phần bổ sung cho nhau để làm nổi bật nét độc đáo của hồn thơ Xuân Quỳnh qua bài thơ “Sóng”. Mang trong mình vẻ đẹp truyền thống và hiện đại của tình yêu khiến “Sóng” trở nên bất tử trong lòng độc giả bao thế hệ, trở thành lời “tự hát” của biết bao trái tim tha thiết yêu đƣơng.

3.  Kết bài

Bài thơ là lời tự hát tình yêu hồn nhiên, chân thành mãnh liệt của ngƣời phụ nữ đang yêu: một tình yêu hiện đại mới mẻ nhƣng vẫn không tách rời truyền thống Về bài thơ “ Sóng” của Xuân Quỳnh, có ý kiến cho rằng: “ Bài thơ thể hiện quan niệm rất mới mẻ và hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu”. Nhƣng lại có ý kiến khác cho rằng “Bài thơ thể hiện quan niệm về tình yêu mang tính truyền thống”. Từ cảm nhận về bài thơ “ Sóng” hãy bình luận những ý kiến trên?

Bài làm

Tình yêu là một đề tài quen thuộc trong thơ ca hiện đại VN. Có lẽ đối với ngƣời đã hoặc đang yêu, chỉ cần khi nhắc đến hai chữ “Tình yêu” là chúng ta không khỏi bận lòng nghĩ đến mối tình nào đó, ngƣời mà luôn ẩn sâu trong trái tim của mình. Chắc hẳn chỉ có ai đƣợc yêu và đã từng trải qua tình yêu mới thấy hết đƣợc những cung bậc mà tình yêu đem lại: hồi hộp, lo lắng, ghen tuông, hi vọng và nỗi khắc khoải nhớ nhung… tất cả đều đan xen, trộn lẫn khó phân tách. Bài thơ “Sóng” của nhà thơ XQ đƣợc sáng tác năm 1967 in trong tập “Hoa dọc chiến hào” năm 1968 là một bài thơ đã diễn tả hết mọi cung bậc tâm trạng ấy của những con ngƣời đang yêu. Đó là tiếng lòng của ngƣời phụ nữ giàu lòng trắc ẩn, khao khát mạnh mẽ trong tình yêu đôi lứa. Đã có nhận định về tác phẩm: “ Bài thơ thể hiện quan niệm rất mới mẻ và hiện đại của Xuân Quỳnh về tình yêu”. Nhƣng lại có ý kiến khác cho rằng “Bài thơ thể hiện quan niệm về tình yêu mang tính truyền thống”. Nếu nhìn qua chúng ta tƣởng là hai ý kiến trái chiều nhƣng nằm sâu trong mạch ngầm cảm xúc thì hai ý kiến đều bổ sung ý nghĩa cho nhau.

Ý kiến thứ nhất: “ Sóng thể hiện quan niệm rất mới mẻ về hiện đại của XQ về tình yêu”. Sự “ hiện đại” trong tình yêu chính là việc vƣợt qua khỏi những quy định ngặt nghèo ràng buộc của lễ giáo phong kiến để tự do khẳng định tình cảm, bộc lộ “cái tôi” khát vọng trong tình yêu một cách chủ động và luôn luôn thể hiện niềm tin vào sức mạnh của tình yêu.

Ý kiến thứ hai: “ Sóng thể hiện về quan niệm tình yêu mang tính truyền thống”. Sự “truyền thống” trong tình yêu biểu hiện trong sự thủy chung, son sắt gắn liền với nỗi nhớ nhung da diết, một lòng hƣớng đến ngƣời mình yêu.

Hai ý kiến trên đã đƣợc XQ thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Sóng”. Đó là tình yêu của một ngƣời phụ nữ vừa truyền thống lại vừa rất hiện đại.

Bài thơ đƣợc XQ xây dựng nên bỏi hai hình tƣợng nhân vật trữ tình đó là hình tƣợng “sóng” và hình tƣợng “em”. Hai hình tƣợng này thực chất là sự phân thân, hóa thân của tác giả. XQ mƣợn hiện tƣợng sóng biển để soi vào nhịp lòng mình, nhịp đập của con tim đang rung lên đồng điệu với nhịp sóng, đang bùng dậy những khát khao mãnh liệt trong tình yêu.

A, Trƣớc hết, bài thơ Sóng là tiếng nói của một “cái tôi” tình yêu mới mẻ, hiện đại. ( Khổ 1 và 2 khổ cuối)

+ Đó là thứ tình yêu mang trong mình những trạng thái đối cực mâu thuẫn: “Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ”

Tình yêu cũng nhƣ song biển vậy, lúc biển động phong ba sóng “dữ dội – ồn ào”, khi trời yên biển lặng sóng “dịu êm – lặng lẽ”.Tâm trạng của ngƣời con gái khi yêu cũng thế, luôn mang trong mình những trạng thái tình cảm khác thƣờng: lúc giận dữ hờn ghen, khi dịu dàng sâu lắng. Nhƣng tất cả những mâu thuẫn ấy đều là những biểu hiện khác nhau của một trái tim đang yêu chân thành, mãnh liệt. Cho nên có thể nói: “Tình yêu luôn có những quy luật mà lý trí không thể lý giải đƣợc”, chúng ta chỉ có thể lý giải nó bằng tình cảm, bằng trái tim đang yêu.

+ Tình yêu hiện đại của XQ đƣợc bộc bạch một cách táo bạo nhƣng hết sức tự nhiên, sẵn sàng vƣợt qua mọi những cản trở mà “vƣợt rào” đi đến với những tâm hồn đồng điệu:

“Sông không hiểu nổi mình Sóng tìm ra tận bể”

Cũng nhƣ sóng biển vậy, sóng sẵn sàng vƣợt qua mọi chiều kích chật hẹp mà vƣơn tới biển rộng bao la thì ngƣời con gái khi yêu cũng dám bất chấp tất cả để hƣớng tới một tình yêu đồng cảm, để vƣơn tới một tình yêu đích thực, vững bền. Ta thấy một quan niệm hoàn toàn mới mẻ về tình yêu của XQ. Nếu nhƣ ngƣời phụ nữ trong tình yêu ngày xƣa luôn thể hiện sự nhẫn nhực, cam chịu, chờ đợi:

“Thân em nhƣ hạt mƣa sa

Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày”

Hay sau này Thúy Kiều có dám chủ động gặp Kim Trọng bằng hành động “Săm săm băng lối vƣờn khuya một mình” nhƣng với quan niệm phong kiến chặt chẽ, Thúy Kiều vẫn chƣa dám khẳng định đƣợc nhƣ XQ “Bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn”. Ngƣời phụ nữ trong thơ XQ dám dứt khoát từ bỏ nói tù túng, chật hẹp để đến với cái bao la, khoáng đạt, phù hợp với khát vọng và tình yêu mà mình mong muốn.

+ Ngƣời con gái ấy thật chủ động, thật tự tin sống cháy bỏng hết mình cho một tình yêu đẹp, dâng hiến hòa nhập tình yêu cá nhân của mình vào tình yêu cuộc đời. Ấy là khi nhà thơ chiêm nghiệm về cuộc đời tình yêu và khát vọngt tình yêu:

“Cuộc đời tuy dài thế Năm tháng vẫn đi qua Nhƣ biển kia dẫu rộng Mây vẫn bay về xa Làm sao đƣợc tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ”

Đó là một niềm tin bất diệt vào tình yêu. Nữ thi sĩ đã lấy chiều dài của thời gian, chiều rộng của không gian để đo đếm tình yêu hạnh phúc. Niềm nguyện ƣớc khát vọng của em về một tình yêu bền vững muôn thƣở. Ấy là em muốn đƣợc “tan ra” hóa thân thành “trăm con sóng” trên biển lớn tình yêu nhân loại để rì rào vỗ, xôn xao reo mãi mãi sống trong một tình yêu cuộc đời.

B. Bên cạnh một tình yêu hiện đại, bài thơ “Sóng” còn bộc lộ một tình yêu truyền thống.

+ Đó là tình yêu gắn liền với nỗi nhớ ( Khổ 5) “Con sóng dƣới lòng sâu

Con sóng trên mặt nƣớc

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ đƣợc Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Cũng giống nhƣ ngƣời phụ nữ xƣa, XQ bộc lộ một tình yêu gắn liền với nỗi nhớ mong da diết, khắc khoải yêu thƣơng. Viết về nỗi nhớ, ngƣời phụ nữ xƣa đã từng bộc bạch qua những câu ca dao đậm đà tình cảm:

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ

Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai” Hay:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi

Nhƣ đứng đống lửa nhƣ ngồi đống than”

Đúng vậy, tình yêu thì luôn gắn liền với nỗi nhớ. Làm sao yêu mà lại không nhớ, không mong. Nỗi nhớ trong tình yêu là một nỗi nhớ da diết nhất, cháy bỏng nhất và cồn cào nhất. Nhƣng ca dao đã vậy, còn ý thơ viết về nỗi nhớ của XQ mới thực sự diễn tả đƣợc hết cũng bậc của nội niềm nhớ mong. Có thể nói, nếu nhƣ sóng tạo nên sự tồn tại của biển thì nỗi nhớ là sự sống bất diệt trong tình yêu. Nỗi nhớ ấy của XQ nó mãnh liệt đến mức bao trùm cả không gian chiều sâu, chiều rộng, bao trùm cả thời gian và thậm chí còn thƣờng trực xúât hiện cả khi thức, khi ngủ. Nỗi nhớ mong đƣợc XQ gửi gắm qua hình tƣợng “sóng nhớ bờ” dƣờng nhƣ vẫn chƣa đủ, chƣa thỏa nên tác giả đã trực tiếp diễn tả bằng suy nghĩ của mình qua nhân vật trữ tình “em”:

“Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức”

+ Cũng nhƣ ngƣời phụ nữ truyền thống trong tình yêu, với XQ tình yêu phải luôn gắn liền với sự thủy chung son sắt:

“Dẫu xuôi về phƣơng bắc

Dẫu ngƣợc về phƣơng nam Nơi nào em cũng nghĩ Hƣớng về anh một phƣơng”

Sự thủy chung son sắt ấy đã đƣợc XQ diễn tả bằng cách nói ngƣợc : “xuôi về phƣơng bắc / ngƣợc về phƣơng nam”. Qua đó nhà thơ muốn khẳng định, tình yêu của mình hƣớng đến ngƣời mình yêu không chỉ có ở hai phía “Bắc – Nam” mà còn bao trùm cả bốn phƣơng, tám hƣớng, bất cứ ở đâu “em” cũng nguyện thủy chung son sắt. Chính vì thế hai tiếng “một phƣơng” đặt ở cuối câu kết hợp dấu gạch nối nhƣ một lời thề thiêng liêng của một tâm hồn một lòng hƣớng về một phƣơng duy nhất là “phƣơng anh”.

+ Tình yêu truyền thống là thứ tình yêu luôn đòi hỏi một chỗ dựa vững chắc trong một mái ấm gia đình. Vì thế, cũng không nằm ngoại lệ, ngƣời phụ nữ trong thơ XQ cũng khát khao hƣớng đến tổ ấm gia đình bằng một niềm tin hi vọng vào tƣơng lai tƣơi sáng:

“Ở ngoài kia đại dƣơng Trăm ngàn con sóng đó Con nào chẳng tới bờ Dù muôn vời cách trở”

Nếu nhƣ sóng phải trải qua bao bão tố đến đến đƣợc tới bờ thì em cũng nguyện đƣợc nhƣ sóng, sẵn sang bất chấp sự vất vả, đạp đổ mọi chông gai thử thách để đến bên anh, đến với tâm hồn đồng điệu. Bởi anh mãi mãi là điểm về, là cái đích hạnh phúc của cuộc đời em. Đó là một quan niệm mang tính nhân văn sâu sắc, tình yêu luôn luôn gắn liền với một mái ấm hạnh phúc nhỏ bé của cuộc đời mỗi con ngƣời. Nhƣ vậy, qua hình tƣợng sóng biển, XQ đã diễn tả hết sức độc đáo quan niệm về tình yêu của phái mình. Đó là tình cảm của một tâm hồn vừa mang trong mình một quan niệm hiện đại, mới mẻ dám chủ động khẳng định tình cảm của bản thân lại vừa là thể hiện một tâm hồn của một tình yêu truyền thống: gắn bó, thủy chung và son sắt. Vì thế bài thơ “Sóng” là tiếng nói chung , nói hộ nỗi lòng của ngƣời con gái khi yêu. Hai ý kiến nhận định tuy trái ngƣợc nhau nhƣng lại bổ sung và soi chiếu cho nhau.

Đề 7 :Đề bài :Cảm nhận về hai đoạn thơ sau:

“Đất là nơi anh đến trƣờng Nƣớc là nơi em tắm

Đất Nƣớc là nơi ta hẹn hò

Đất Nƣớc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phƣợng hoàng bay về hòn núi bạc” Nƣớc là nơi “con cá ngƣ ông móng nƣớc biển khơi”

(Đất Nƣớc – Trích Trƣờng ca mặt đƣờng khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) “Con sóng dƣới lòng sâu

Con song trên mặt nƣớc Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ đƣợc Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức” ( Sóng – Xuân Quỳnh)

So sánh hai đoạn thơ trong bài sóng Xuân Quỳnh và Đất nƣớc Nguyễn Khoa Điềm Posted by Thu Trang On Tháng Bảy 21, 2016 2 Comments

Đề bài :Cảm nhận về hai đoạn thơ sau:

“Đất là nơi anh đến trƣờng Nƣớc là nơi em tắm

Đất Nƣớc là nơi ta hẹn hò

Đất Nƣớc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phƣợng hoàng bay về hòn núi bạc” Nƣớc là nơi “con cá ngƣ ông móng nƣớc biển khơi”

(Đất Nƣớc – Trích Trƣờng ca mặt đƣờng khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) “Con sóng dƣới lòng sâu

Con song trên mặt nƣớc Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ đƣợc Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức” ( Sóng – Xuân Quỳnh) Gợi ý:

Mở bài:

Đề tài tình yêu là một trong những đề tài làm tốn nhiều giấy mực nhất đối với các thi nhân.Cuộc sống càng muôn màu thì tình yêu càng muôn vẻ, có bao nhiêu ngƣời yêu nhau thì có bấy nhiêu cách cảm nhận về tình yêu.Bằng sự cảm nhận của riêng mình, mỗi thi sĩ lại khoác cho tình yêu ấy một vẻ đẹp khác nhau. Điều đó đã đƣợc Nguyễn Khoa Điềm và Xuân Quỳnh thể hiện rất rõ trong hai đoạn thơ trích trong hai tác phẩm “Đất Nƣớc” đƣợc sáng tác 1971 in trong trƣờng ca “Mặt đƣờng khát vọng” và “Sóng” sáng tác năm 1967 in trong tập “Hoa dọc chiến hào” 1968:

“Đất là nơi anh đến trƣờng Nƣớc là nơi em tắm

Đất Nƣớc là nơi ta hò hẹn

Đất Nƣớc là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm Đất là nơi “con chim phƣợng hoàng bay về hòn núi bạc” Nƣớc là nơi “con cá ngƣ ông móng nƣớc biển khơi”

(Đất Nƣớc – Trích Trƣờng ca mặt đƣờng khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm) Và:

“Con sóng dƣới lòng sâu Con song trên mặt nƣớc

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ đƣợc Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức” ( Sóng – Xuân Quỳnh)

Khi chúng ta đi đối chiếu so sánh hai đoạn thơ sẽ thấy đƣợc điểm tƣơng đồng và khác biệt một cách độc đáo của hai đoạn thơ, hai phong cách, hai thi sĩ này.

Thân bài :

Luận điểm 1 :

Giới thiệu vài nét về hai tác giả, hai tác phẩm, hoàn cảnh sáng tác và vị trí hai đoạn thơ cần phân tích

Sóng- Xuân Quỳnh

.– Nhà thơ của hạnh phúc đời thƣờng: tiếng thơ khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thƣờng bình dị.

–   Cái tôi độc đáo: giàu vẻ đẹp nữ tính, thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt gắn với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ., cùng những dự cảm bất trắc.

Tác phẩm

+ Xuất xứ: 1967, nhân chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào.

+ Đoạn thơ thứ 5 miêu tả nỗi nhớ của nhân vật trữ tình ” Em” Đất nƣớc- Nguyễn Khoa Điềm

Thơ Nguyễn Khoa Điềm cuốn hút ngƣời đọc bằng cảm xúc trữ tình nồng thắm và chất suy tƣ sâu lắng, ông cất lên tiếng nói của một ngƣời trí thức thiết tha gắn bó với quê hƣơng, giàu ý thức trách nhiệm với nhân dân, đất nƣớc.

Đoạn trích Đất Nƣớc là phần đầu chƣơng V của trƣờng ca Mặt đƣờng khát vọng. Tác phẩm này đƣợc hoàn thành năm 1971, thể hiện sự thức tỉnh của thế lệ trẻ miền Nam về trách nhiệm thiêng liêng với nhân dân, đất nƣớc.

Đoạn thơ trên thuộc phần đầu chƣơng V Luận điểm 2 : Điểm giống nhau

-Trƣớc hết điểm tƣơng đồng giữa hai đoạn thơ chính là viết về tình yêu đôi lứa trong nỗi nhớ, niềm thƣơng.

+Đúng vậy, tình yêu thì luôn gắn liền với nỗi nhớ, có ai yêu mà chƣa bao giờ nếm mùi của cảm giác chờ mong, khắc khoải. Tất cả biểu hiện của nỗi nhớ trong tình yêu rốt cuộc cuối cùng chỉ là khát khao hƣớng tới ngƣời mình yêu, mong muốn đƣợc ở gần ngƣời trong trái tim mình.

+Trong ca dao xƣa chẳng phải ngƣời xƣa họ cũng đã từng diễn tả cái nỗi nhớ trong tình yêu rồi hay sao:

“ Nhớ ai bổi hổi, bồi hồi

Nhƣ đứng đống lửa nhƣ ngồi đống than”

Hay

“ Đêm nằm lƣng chẳng tới giƣờng Mong cho mau sáng ra đƣờng gặp anh”

+ Âý thế nhƣng, trong đoạn thơ của NKĐ để diễn tả nối nhớ trong tình yêu, tác giả đã mƣợn hình ảnh của chiếc khăn – tín vật giao ƣớc kết đôi mà biểu hiện nỗi nhớ: “ ĐN là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Tín vật tình yêu chính là điểm giao kết cho đôi bạn tình. Từ xừa đến nay, những ngƣời yêu nhau nhƣ càng muốn thể hiện sự khăng khít gắn bó mặn nồng, thƣờng lấy một tín vật nào đó mà kết duyên, giao ƣớc.Họ coi đó nhƣ là “sợi chỉ hồng” của ông lão bà tơ se duyên kết mối. Hình ảnh chiếc khăn đƣợc nhắc đến trong đoạn thơ là một hình ảnh quen thuộc trong ca dao xƣa:

“Khăn thƣơng nhớ ai

Khăn rơi xuống đất Khăn thƣơng nhớ ai Khăn vắt lên vai Khăn thƣơng nhớ ai

Khăn chùi nƣớc mắt…”

Đó là chiếc khăn tín nghĩa, biểu trƣng cho tình cảm thật đẹp, thật trong sáng trong nỗi nhớ yêu thƣơng.

+Còn trong đoạn thơ của bài Sóng, cái tình yêu khát vọng của ngƣời phụ nữ “khát khao sống, khát khao yêu” dù bình dị nhƣng rất đỗi mãnh liệt này không cần đến vật giao ƣớc kêt đôi mà vẫn diễn tả đƣợc hết tất thảy cái nỗi nhớ đến điên cuồng mãnh liệt. Bởi tình yêu ấy đã vƣợt qua mọi chiều kích giới hạn chật hẹp để đến với tình yêu( sâu- rộng), vƣợt qua mọi bến bờ của vũ trụ, xuyên qua không gian, thời gian ( ngày – đếm) và kết tụ ngay cả khi “thức” lẫn khi “ngủ” của Xuân Quỳnh. Nó rợn ngợp giống nhƣ nỗi nhớ đã bao trùm giăng mắc mọi thứ xung quanh nhƣ ám vào vạn vật nên cần chi “vật giao ƣớc” mà thể nghiệm nỗi lòng thƣơng yêu?. Cho nên tình yêu ấy với nỗi nhớ ấy càng trở nên da diết, khắc khoải hơn bao giờ hết.

Nó không đơn thuần chỉ là nỗi nhớ bình thƣờng vụt đến rồi vụt tan mà nỗi nhớ ấy đã trở thành gánh nặng tâm tƣ trong lòng ngƣời con gái đang yêu mất rồi.

-Nếu thật thiếu sót nếu chúng ta không nhìn nhận ra điểm tƣơng đồng của hai đoạn thơ ấy chính là: cả hai thi sĩ đều rất tài tình dụng công mƣợn hình ảnh, sự vật, hiện tƣợng tự nhiên xung quanh để diễn tả tâm tƣ tình cảm của mình.

+ Với đoạn trích trong bài thơ ĐN, tác giả đã kể đến những sự vật xung quanh mỗi chúng ta. Đó là trƣờng học, là nơi sinh hoạt hằng ngày ( nơi em tắm), là nơi cu trú, định cƣ ( nơi chim về, nơi rồng ở). Tất cả nhƣng sự vật xung quanh của mỗi chúng ta ấy đều là những cái bình dị, thân thƣơng mà chúng ta ít chú ý đến. Tác giả nhắc đến mỗi sự vật ấy đều gắn với hai tiếng ĐN chính là muốn truyền tải tƣ tƣởng: ĐN không tồn tại ở đâu xa xôi mà nó hóa thân, hiện hữu xung quanh mỗi chúng ta. Đó chính là mỗi sự vật mà chúng ta nhìn thấy, tất cả những sự vật nhỏ bé ấy đều góp phần làm nên dáng hình, diện mạo ĐN.

+ Còn Sóng của XQ cũng vậy, chị đã mƣợn hiện tƣợng tự nhiên của sóng biển để soi vào nhịp lòng mình, nhịp đập của con tim đang rung lên đồng điệu với nhịp sóng, đang bùng lên khát vọng trong tình yêu và nỗi nhớ:

“Con sóng dƣới lòng sâu Con song trên mặt nƣớc Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ đƣợc”

Những đợt sóng dâng trào, sóng tiếp sóng ào ạt lúc thì lăn tăn gối lên nhau trên “ mặt nƣớc”, lúc lại luôn tiềm ẩn cái dữ dội, ồn ào “ lòng sâu” dƣới đáy bể đại dƣơng bao la thăm thẳm. Tất thảy những đợt sóng đều cuồn cuộn xô đuổi nhau đến tận chân trời, đƣa sóng đến gần hơn với bờ. Bởi bờ chính là điểm đến của sóng, là chỗ dựa vững chắc cho điểm về của sự bình yên, phẳng lặng.

Luận điểm 3 :Sự khác biệt

-Bên cạnh điểm giao thoa, kết sóng thì giữa hai đoạn thơ còn có điểm khác biệt rõ ràng. Nhƣng chính điểm khác biệt ấy đã tạo nên cái độc đáo, cái sức hấp dẫn riêng của mỗi phong cách thi nhân.

+Tình yêu đôi lứa trong đoạn thơ ĐN của NKĐ gắn liền với tình yêu ĐN, tình yêu đôi lứa dƣới con mặt của ông là một thứ tình yêu “hóa thân”, “nảy mầm” nên tình yêu ĐN. Chính tình yêu đôi lứa cũng là một yếu tố góp phần làm nên diện mạo của một đất nƣớc trù phú, tƣơi vui. Điều này, cũng đã đƣợc các nhà thơ cùng thời với NKĐ ý thức rất rõ, ta có thể lấy dẫn chứng tiêu biểu trong bài thơ “Tiếng hát con tàu” của Chế Lan Viên:

“Anh bỗng nhớ em nhƣ đông về nhớ rét Tình yêu ta nhƣ cánh kiến hoa vàng

Nhƣ xuân đến chim rừng long trở biếc Tình yêu làm đất lạ hóa quê hƣơng”

+ Còn trong đoạn thơ của bài thơ Sóng, tình yêu luôn tuyệt đối hóa trong tình yêu riêng tƣ, tình yêu đời thƣờng. Cái chất đời thƣờng trong tình yêu gắn liền với nỗi nhớ ấy đã đƣợc XQ diễn tả thông qua hình tƣợng “ sóng” với sự phân thân của nhân vật trữ tình “em”:

“Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức”

Đó là một “cái tôi” tràn đầy cảm xúc khi đang tự lòng mình diễn tả nỗi nhớ ngƣời yêu trào qua đầu ngọn bút. Tất cả nhƣ cuồng nhiệt, nhƣ say mê mà muốn nhấn chìm đi mọi thứ xung quanh. Chả thế mà bài thơ vốn đƣợc viết theo thể ngũ ngôn nay đến khổ thơ này đã tự dôi ra hẳn hai câu thơ và nhà thơ lại còn trực tiếp diễn tả nỗi nhớ ấy bằng chính nhịp đập của trái tim mình thì quả thực cái nỗi nhớ của cái tôi cá nhân ấy không có một bút lực nào có thể tả xiết. Trong một bài thơ khác của chị, chị cũng đã từng thẳng thắn bộc bạch hết mọi tâm can của mình hƣớng tới ngƣời mình yêu. Đó là biểu hiện của một trái tim đang yêu chân thành, đằm thắm: “ Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt đời thƣờng ai chả có

Cũng ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa Vẫn yêu anh cả khi chết đi rồi”

+Đoạn thơ ĐN sử dụng thể thơ tự do, kết hợp với nghệ thuật chiết tự từ ( Đất là gì?, Nƣớc là gì?) cùng với việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh sự vật tự nhiên đã có tác dụng diễn tả thật đắt tƣ tƣởng Đất Nƣớc của mình. Hƣớng ngƣời đọc đến sự hóa thân kỳ diệu của ĐN trong từng sự vật nhỏ bé, đơn sơ, bình dị đến lạ thƣờng.

+Đoạn thơ trong bài sóng của XQ sử dụng thể thơ ngũ ngôn với việc mƣợn hình tƣợng sóng biển để soi tỏ nhịp đập thổn thức của trái tim ngƣời phụ nữ đang yêu có


tác dụng diễn tả thật đát nỗi nhớ niềm thƣơng và tấm lòng thủy chung son sắt của một tâm hồn đa sầu, đa cảm.

-   Nhƣ ta đã biết, Nghệ thuật luôn đòi hỏi tính sáng tạo, mỗi ngƣời ngệ sĩ luôn cố gắng tạo cho mình một phong cách nghệ thuật riêng. Vì thế các tác phẩm tạo ra mới không bị nhòe lẫn vào các tác phẩm của nhà thơ khác.

+ Không nằm ngoài lệ, NKĐ luôn thể hiện một phong cách thơ trữ tình – chính luận. Với sự tự ý thức về vai trò- chức năng của một nghệ sĩ – chiến sĩ thì đối với ông, thơ ca chính là ngọn nguồn cảm hứng viết lên những bản tình ca bất hủ về ĐN. Cho nên tình yêu đôi lứa dƣới con mắt của nhà thơ nó chính là một phần biểu hiện của một tình yêu đất nƣớc muôn đời.

+Còn thi sĩ XQ thì ngƣợc lại, chị tìm cho mình một tiếng nói riêng trong trái tim của một ngƣời phụ nữ hồn hậu đa sầu, đa cảm với những khoảnh khắc rung động trong tình yêu đôi lứa. Tình yêu ấy luôn cháy rực ngọn lửa trong các trang thơ của XQ thật muôn vẻ muôn phần. Vì thế, dƣới con mắt của thi sĩ, tình yêu luôn đƣợc cụ thể hóa trong một tâm hồn khát khao hƣớng tới hạnh phúc riêng tƣ, đời thƣờng. Luận điểm 4 :

Lí giải sự khác biệt :

+ Do hoàn cảnh sáng tác

+ Do phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của mỗi nhà thơ

Kết bài :Nhƣ vậy,qua việc cảm nhận ở trên ta thấy rằng cả hai đoạn thơ đều có chung đặc điểm viết về tình yêu đôi lứa nhƣng mỗi thi sĩ lại có một tiếng nói riêng cho tƣ tƣởng của bản thân mình. Với NKĐ tình yêu đất nƣớc là vĩnh cửu, với XQ tình yêu đôi lứa là muôn thƣở muôn đời. Chính mỗi ngƣời lại có một phong cách thơ và cách nhìn nhận riêng của mình về cuộc sống, đều góp phần đắc lực cho vƣờn thơ dân tộc thêm sáng trong và tỏa hƣơng thơm ngát.

Đề 8 : Đề thi học sinh giỏi về bài Sóng- Xuân Quỳnh và Đàn Ghi ta của Lor-ca – Thanh Thảo

 Đề bài :

Bàn về ngôn ngữ trong thơ, Nguyễn Đình Thi viết:

“Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.”

(Mấy ý nghĩ về thơ, Ngữ văn 12 Nâng cao, tập 1, tr. 52, NXBGD, 2008)

Qua bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh) và Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo), anh/chị hãy làm sáng tỏ nhận xét trên.

Học sinh có thể trình bày theo nhiều cách nhƣng về cơ bản cần có các ý sau: Mở bài :

+ Giới thiệu bài thơ Sóng và thi sĩ Xuân Quỳnh

+ Giới thiệu bài thơ Đàn ghi ta của LOr- ca và nhà thơ Thanh Thảo

+Giới thiệu ý kiến của Nguyễn Đình Thi :“Điều kì diệu của thơ là mỗi tiếng, mỗi chữ, ngoài cái nghĩa của nó, ngoài công dụng gọi tên sự vật, bỗng tự phá tung mở rộng ra, gọi đến xung quanh nó những cảm xúc, những hình ảnh không ngờ, tỏa ra xung quanh nó một vùng ánh sáng động đậy. Sức mạnh nhất của câu thơ là ở sức gợi ấy.”

+Nêu vấn đề cần nghị luận : Sức mạnh của thơ Thân bài :

1.  Giải thích ý kiến của Nguyễn Đình Thi:

–   Ngôn ngữ thơ (chữ và nghĩa trong thơ) vừa có nghĩa do bản thân câu chữ mang lại (nghĩa của nó, nghĩa gọi tên) vừa có nghĩa do câu chữ gợi ra (cảm xúc, hình ảnh, vùng ánh sáng lay động, sức gợi).

–   Khẳng định: Sức mạnh nhất của thơ là sức gợi ấy.

=> Bằng cách diễn đạt hình ảnh rất cụ thể và sinh động, Nguyễn Đình Thi đã nhấn mạnh và làm nổi bật một đặc trƣng bản chất của thơ ca: ngôn ngữ trong thơ, vấn đề chữ và nghĩa. Tác giả vừa khẳng định vừa cắt nghĩa, lí giải sức mạnh của thơ nằm ở sức gợi.

2.  Chứng minh nhận định qua ai bài thơ

Học sinh phải chỉ ra và phân tích đƣợc đặc điểm ngôn ngữ thơ trong hai bài thơ Sóng (Xuân Quỳnh) và Đàn ghi ta của Lor-ca (Thanh Thảo). Không nhất thiết phải phân tích cả bài mà có thể lựa chọn những câu thơ, đoạn thơ tiêu biểu để làm sáng tỏ vấn đề.

a.  Bài thơ Sóng:

Ý khái quát : Giới thiệu sơ lƣợc về tác giả tác phẩm và nội dung bài thơ. Xuân Quỳnh là nhà thơ của hạnh phúc đời thƣờng: tiếng thơ khao khát tình yêu, hạnh phúc đời thƣờng bình dị.

–   Cái tôi độc đáo: giàu vẻ đẹp nữ tính, thành thật, giàu đức hi sinh và lòng vị tha, khát vọng yêu chân thành, mãnh liệt gắn với cảm thức lo âu về sự phai tàn, đổ vỡ., cùng những dự cảm bất trắc.

Tác phẩm: 1967, nhân chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền (Thái Bình), in trong tập thơ Hoa dọc chiến hào, là bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh, góp phần tạo nên vị trí “nữ hoàng thơ tình Việt Nam”.

Phân tích :

–   Về chữ: ngôn ngữ dung dị mà chọn lọc tinh tế, gợi cảm, hàm súc, giàu tính ẩn dụ.

–   Về nghĩa:

+ Nghĩa câu chữ: con sóng thực và các đặc tính của nó (dữ dội, dịu êm, trên mặt nƣớc, dƣới lòng sâu…)

+ Nghĩa mà sóng gợi ra (hình ảnh, cảm xúc…): những cung bậc tâm trạng ngƣời con gái trong tình yêu, những khát vọng hạnh phúc đời thƣờng và khao khát tự hoàn thiện bản thân.

=> Ngôn ngữ thơ Xuân Quỳnh dung dị mà có sức gợi sâu xa từ hình ảnh thực mà liên tƣởng đến tâm trạng ngƣời con gái trong tình yêu, khát vọng bất tử hóa, tự hoàn thiện bản thân để hƣớng tới những giá trị đích thực của cuộc sống. Chính sức gợi này đã tạo nên sức sống cho bài thơ.

b.  Đàn ghi ta của Lor-ca:

Ý khái quát : Giới thiệu sơ lƣợc về tác giả tác phẩm và nội dung bài thơ:Cùng với Xuân Quỳnh, Thanh Thảo cùng thuộc thế hệ nhà thơ trƣởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ nhƣng trang thơ Thanh Thảo lại có dấu ấn rất riêng. Ông là ngƣời đi đầu trong phong trào cách tân thơ Việt, con đƣờng mà ông lựa chọn để cách tân thơ Việt là việc đào sâu cái tôi nội cảm, tìm kiếm những cách biểu đạt mới qua hình thức những câu thơ tự do, phá bỏ mọi ràng buộc, khuôn sáo. Thanh Thảo đi theo trƣờng phái thơ tƣợng trƣng siêu thực có nguồn gốc từ phƣơng Tây mà Lor-ca là một đại biểu đi đầu trong trƣờng phái thơ đó. Bài thơ “Đàn ghi ta của Lor-ca” đƣợc rút ra từ tập “Khối vuông ru bích”, bài thơ đã xây dựng thành công hình tƣợng nhân vật Lor-ca.

Phân tích:

–   Về chữ: lối thơ tự do, ngôn từ thơ giàu màu sắc tƣợng trƣng siêu thực, giàu nhạc tính, mô hình mở giải phóng cảm xúc và tƣởng tƣợng…

–   Về nghĩa:

+ Hình tƣợng Lor-ca và những giai điệu, cung bậc của tiếng đàn ghi ta.

+ Nỗi đau xót trƣớc cái chết đầy bi phẫn của Lor-ca, niềm trân trọng, đồng cảm của Thanh Thảo trƣớc nhân cách cao thƣợng và vẻ đẹp tâm hồn Lor-ca…

=> Ngôn ngữ thơ có nhiều đổi mới, giàu tƣợng trƣng thiên về gợi, không coi trọng tả thực, mỗi từ ngữ, hình ảnh, câu thơ đều có độ mở cho phép tiếp nhận dân chủ, sáng tạo. Sức gợi của ngôn ngữ thơ tạo ra mạch ngầm đa nghĩa cho tác phẩm.

3.  Đánh giá chung

–   Về ý nghĩa của vấn đề: ý kiến của Nguyễn Đình Thi về một trong những đặc trƣng bản chất của thơ không chỉ có tác dụng nhất thời mà ngày nay vẫn còn nguyên giá trị bởi ý nghĩa thời sự, tính chất khoa học đúng đắn.

+ Đối với ngƣời sáng tác: định hƣớng cho sự sáng tạo, làm thơ phải biết lựa chọn ngôn ngữ hàm súc, giàu sức gợi, có sức hấp dẫn, lôi cuốn…

+ Đối với ngƣời thƣởng thức: định hƣớng tiếp nhận, đọc thơ không chỉ hiểu nghĩa câu chữ mà phải dựng dậy lớp nghĩa đƣợc gợi ra từ câu chữ.

Kết bài : Khẳng định ý nghĩa của câu nói. Đánh giá chung về bài thơ Sóng và Đàn ghi ta của Lor-ca.

Đề 9 : Sóng của Xuân Quỳnh không chỉ là Hoa dọc chiến hào mà còn là bài thơ đi cùng năm tháng

Posted by Thu Trang On Tháng Chín 25, 2016 0 Comment

Sóng của Xuân Quỳnh không chỉ là Hoa dọc chiến hào mà còn là bài thơ đi cùng năm tháng?

Gợi ý:

Đề kiểm tra năng lực tổng hợp kiến thức văn học sử, lí luận văn học, cảm thụ tác phẩm và kỹ năng vận dụng các thao tác lập luận. Bài viết phải đảm bảo các ý chính sau:

Giới thiệu ngắn gọn về nhà thơ Xuân Quỳnh và bài thơ Sóng gắn với định hƣớng “hoa dọc chiến hào” và bài thơ đi cùng năm tháng.

Sóng là hoa dọc chiến hào

–   Mỗi tác phẩm văn học ra đời đều mang dấu ấn của thời đại lịch sử cụ thể.

–   Hoa dọc chiến hào là tên tập thơ của Xuân Quỳnh ra đời năm 1967, in năm 1968- thời kì cả dân tộc sẻ dọc Trƣờng Sơn đi cứu nƣớc. Các tác phẩm văn học Việt Nam thời bấy giờ ra đời ngay trên những chiến hào chống Mĩ, là sáng tác của những thế hệ nhà văn cầm súng nên thƣờng mang đậm tính sử thi. Thơ chống Mĩ thƣờng có giọng điệu rắn rỏi, trang trọng, hào sảng khi viết về đất nƣớc và con ngƣời trong kháng chiến.

–   Sóng của Xuân Quỳnh, trong hoàn cảnh ấy, xuất hiện nhƣ một bông hoa – hoa dọc chiến hào đem đến cho thi đàn dân tộc thời kì chống Mĩ nói chung, phong trào thơ trẻ chống Mĩ nói riêng một hƣơng sắc độc đáo: giàu nữ tính và luôn da diết những khát vọng hạnh phúc đời thƣờng, đặc biệt là khát vọng của con ngƣời về tình yêu muôn thuở.

Sóng của Xuân Quỳnh không chỉ là Hoa dọc chiến hào mà còn là bài thơ đi cùng năm tháng

Sóng là bài thơ đi cùng năm tháng

– Để đi cùng năm tháng, một bài thơ phải có nội dung cảm xúc sâu lắng (phải là tiếng lòng, tình cảm, ý nghĩ…) và có những vẻ đẹp riêng về nghệ thuật (sử dụng ngôn từ, hình ảnh, nhịp điệu, cấu tứ…).

–   Sóng là bài thơ đi cùng năm tháng với đề tài tình yêu muôn thuở. Nét độc đáo của Sóng là diễn tả tình yêu của ngƣời phụ nữ tha thiết, nồng nàn, chung thuỷ, muốn vƣợt lên thử thách của thời gian và hữu hạn của đời ngƣời. Sóng là lời tự bạch của một tâm hồn phụ nữ về những khám phá, trải nghiệm, triết lí vừa chân thành, mạnh bạo,da diết những lo âu mà lại đầy lạc quan tin tƣởng. Đó là một tình yêu dâng hiến cao đẹp mà con ngƣời trong mọi thời đại còn hƣớng tới.

(Có thể so sánh liên hệ với những bài thơ khác của Xuân Quỳnh hoặc các nhà thơ khác cùng viết về đề tài tình yêu để thấy đây là một nội dung cảm hứng hấp dẫn đối với cả ngƣời sáng tác và ngƣời đọc).

-Nghệ thuật: Sóng là bài thơ đi cùng năm tháng với một giọng thơ trữ tình dạt dào, sâu lắng mang âm điệu của sóng, của thể thơ ngũ ngôn truyền thống.

+ Ngôn từ giản dị, trong sáng.

+Cặp hình tƣợng sóng và em song trùng, tƣơng ứng, hoà nhập, khi đan xen, khi soi chiếu, khi tạo kết cấu vòng tròn liên tiếp, miên man…

(Dùng hình tƣợng sóng để diễn tả cảm xúc tình yêu không chỉ có Xuân Quỳnh. Nguyễn Du trong Truyện Kiều có viết: “Sóng tình dƣờng đã xiêu xiêu/ Xem trong âu yếm có chiều lả lơi“; Xuân viết: “Anh muốn làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/Hôn thật khẽ thật êm/Hôn êm đềm mãi mãi”. Con sóng trong thơ Xuân Diệu mang thiên tính nam. Sóng của Xuân Quỳnh mang thiên tính nữ nhƣng không kém da diết, táo bạo, chân thành).

Đánh giá:

–   Khẳng định giá trị bài thơ không chỉ gắn với một thời mà còn mãi mãi.

–   Mở rộng: Để đi cùng năm tháng một bài thơ ngoài tự phát sáng còn nhờ vào quá trình tiếp nhận của ngƣời đọc . Vì thế, mỗi ngƣời đọc cũng phải có ý thức trau dồi, bồi đắp tâm hồn, trí tuệ để biết tri âm cùng tác giả.

Đề 10 : Đề thi học sinh giỏi về bài Vội Vàng- Xuân Diệu và Sóng- Xuân Quỳnh Posted by Thu Trang On Tháng Chín 25, 2016 0 Comment

“Ngàn trái tim mang trong một trái tim” (Cảm xúc – Xuân Diệu) “Em trở về đúng nghĩa trái tim em” (Tự hát – Xuân Quỳnh)

Đặc trƣng nào của thơ đã đƣợc hai thi sĩ nhắc đến trong những ý thơ trên. Sự gặp gỡ và khác biệt của họ khi thể hiện đặc trƣng ấy trong Vội vàng và Sóng?

Gợi ý:

Giải thích

–   Trái tim trong thơ là biểu tƣợng của tâm hồn.

+ Câu thơ của Xuân Diệu: muốn nhấn mạnh tâm hồn nhà thơ thật bao dung, nhân hậu không chỉ chứa đựng những tình cảm, những cảm xúc phong phú của riêng mình mà tập trung cho những buồn vui của cuộc đời rộng lớn, của số phận nhân loại.

+ Câu thơ của Xuân Quỳnh: muốn nói đến ƣớc muốn sống chân thật với những khát vọng chân thành; tâm hồn nhà thơ xúc động mãnh liệt với những buồn vui, khổ đau hạnh phúc của mình, của đời “đúng nghĩa trái tim”.

–   Học sinh có thể dựa vào lí luận đặc trƣng của thơ để giải thích lí do sao hai câu thơ trên đều nói đến “trái tim”.

+ Đặc trƣng của văn học là tình cảm. Văn học xuất phát từ tình cảm, từ tâm hồn tác giả tìm đến tâm hồn ngƣời đọc. Văn học cần sự đồng cảm, đồng điệu.

+ Nhà thơ, nhà văn phải biết sống chân thành, nhạy cảm với đời, với ngƣời thì tác phẩm của họ mới phong phú, giàu giá trị và tìm đƣợc sự đồng điệu trong tâm hồn ngƣời đọc.

Chứng minh

Học sinh có thể phân tích hai tác phẩm và phát biểu những cảm nhận khác nhau nhƣng phải xuất phát từ nội dung, tƣ tƣởng chủ đề của tác phẩm và của đề thi. Giống nhau

–   Cả hai nghệ sĩ đều trăn trở để làm sáng tỏ những điều sâu thẳm trong trái tim mình.

Khác nhau

*Vội vàng: Xuân Diệu muốn thể hiện điều sâu thẳm nhất trong tâm hồn mình đó là khát vọng sống mãnh liệt, một niềm ham sống vô biên, khao khát vô cùng.

–   Ca ngợi cuộc sống muôn màu, muôn vẻ, hấp dẫn và quyến rũ.

–   Ca ngợi tình yêu và tuổi trẻ.

–   Giục giã vội vàng sống từng phút, từng giây, cố níu giữ thời gian cũng nhƣ niềm tiếc nuối mùa xuân, tuổi trẻ đều là biểu hiện của những khát vọng sống sâu xa trong trái tim của nhà thơ. Niềm khát sống ấy thể hiện qua cái nhìn của nhà thơ với hiện thực khách quan.

*   Ở Sóng, Xuân Quỳnh muốn chứng minh một tình yêu vô bờ vừa truyền thống vừa hiện đại từ sâu thẳm trái tim của ngƣời phụ nữ.

–   Nét đẹp truyền thống của ngƣời phụ nữ: đằm thắm, dịu dàng, hồn hậu, chung thuỷ.

–   Nét đẹp hiện đại của ngƣời phụ nữ: táo bạo, mãnh liệt, dù có phấp phỏng lo âu trƣớc cái vô tận của thời gian nhƣng vẫn vững tin vào sức mạnh của tình yêu.

Đánh giá

–   Ngƣời sáng tác thơ cần có cảm xúc chân thành.

–   Nhƣng cách thể hiện cảm xúc của mỗi tác giả có thể khác nhau. Chính điều đó đã góp phần làm nên sự đa dạng, phong phú cho văn học.

–   Ngƣời đọc khi tìm hiểu tác phẩm phải có sự đồng điệu với tâm hồn thi nhân

Xem thêm
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12 (trang 1)
Trang 1
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12 (trang 2)
Trang 2
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12 (trang 3)
Trang 3
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12 (trang 4)
Trang 4
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12 (trang 5)
Trang 5
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12 (trang 6)
Trang 6
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12 (trang 7)
Trang 7
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12 (trang 8)
Trang 8
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12 (trang 9)
Trang 9
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Sóng - Xuân Quỳnh Văn 12 (trang 10)
Trang 10
Tài liệu có 50 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống