Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12

Tải xuống 56 5 K 30

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm môn Văn lớp 12, tài liệu bao gồm 56 trang, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kỳ thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

ĐẤT  NƯỚC

NGUYỄN KHOA ĐIỀM

Bài giảng: Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm

PHẦN 1: KIẾN THỨC CƠ BẢN

Tác giả: Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ như: Phạm Tiến Duật, Bằng Việt, Nguyễn Duy, Lâm Thị Mỹ Dạ, Hòang Nhuận Cầm, Lê Anh Xuân…. Đây là lớp nhà thơ trưởng thành từ ghế nhà trường, không chỉ có trình độ văn hóa, niềm say mê lý tưởng mà còn có mặt trực tiếp trong cuộc kháng chiến dân tộc. Họ ý thức cao về vai trò và trách nhiểm của tuổi trẻ về đất nước, những trang thơ của họ nóng bỏng, nhiệt tình yêu nước và hiện thực kháng chiến của dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm xuất thân từ một gia đình trí thức cách mạng ở Huế, bản thân ông tham gia trực tiếp vào phong trào đấu tranh sinh viên nên thơ Nguyễn Khoa Điềm rất giàu chất suy tư, cảm xúc dồn nén mang tâm tư của người trí thức….

Đề tài Tổ quốc: Tổ quốc là một đề tài phong phú của thơ ca Việt Nam. Trước NKĐ đã có nhiều bài thơ hay, nhiều tác giả thành công về đề tài này. Đất nước anh hùng trong kháng chiến chống Pháp, mang hồn thu Hà Nội của Nguyễn Đình Thi. Đất nước cổ kính, dân gian, mang hồn quê Kinh Bắc của Hòang Cầm. Đất nước hóa thân cho một dòng sông xanh, đầy ắp kỉ niệm trong thơ Tế Hanh. Đất nước hài hòa trong dáng hình quê hương và tình yêu đôi lứa trong thơ Giang Nam. Nhưng, NKĐ đã tìm đc một cách nói riêng để chương thơ mới của ông đã mang lại cho bạn đọc những rung cảm thẫm mĩ mới về đất nước: Đất nước của nhân dân.

III. Vị trí đọan trích:

1Đất nứơc là phần đầu chương V của trường ca Mặt đường khát vọng, viết năm 1971 tại chiến khu Trị Thiên giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ đang hết sức khốc liệt mà bản thân nhà thơ trực tiếp có mặt

Ý nghĩa đọan trích : Đọan trích thâu tóm ý nghĩa của tòan bộ chương V. Chương thơ là sự cảm nhận về Đất nước một cách cụ thể, sâu sắc mà cốt lõi trong tư tưởng là: Đất nứơc của Nhân dân. Từ đó, nhà thơ bộc lộ lòng yêu quý, niềm tự hào, sự gắn bó và trách nhiệm với đất nứơc thân yêu. Tư tưởng chủ đạo này đc NKĐ triển khai ở nhiều bình diện: Địa lí, lịch sử, văn hóa và thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình chính luận, giọng thơ tâm tình, lời thơ dậm đà sắc thái dân gian, nhưng đặc biệt, gợi cảm, để lại ấn tượng sâu sắc cho bạn đọc.

  1. Lịch sử đất nước

Đất nứơc có từ bao giờ? Mở đầu khúc ca, nhà thơ đưa ng đọc trở về với cội nguồn của đất nước: Đất nước có từ bao giờ? “Khi ta lớn lên…đất nứơc có từ ngày đó” “Ta” vừa là nhân vật trữ tình, vừa là mỗi chúng ta – những ng dân đất Việt. Đúng là, khi mỗi chúng ta lớn lên, đất nước đã có rồi. Dù chưa đủ trí tuệ để hiểu đất nứơc với những khái niệm trừu tượng như cương vực, lãnh thổ, chủ quyền, nhưng mỗi chúng ta cũng đã cảm nhận đc đất nứơc là một cái gì đó rất gần gũi, qua những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích mẹ thường kể từ thuở nằm nôi. Lời thơ “ngày xửa ngày xưa” mang điệu hồ của những câu chuyện huyền thọai, đưa ta về một thuở rất xa, khi đất nước phôi thai. Những từ “bắt đầu, lớn lên” tuy không xác định thời gian cụ thể nhưng lại khẳng định quá trình hình thành lâu đời của đất nước.

Từ phong tục tập quán: Đất nước đc hình thành từ những truyền thống cao đẹp như truyền thống yêu nước, lao động, văn hóa. Trứơc hết là truyền thống văn hóa phong tục lâu đời của nhân dân. Từ miếng trầu dung dị của bà, mái tóc bới hiền hòa của mẹ, cách gọi tên “cái kèo, cái cột” dân dã đến tình yêu gắn bó thủy chung qua gừng cay muối mặn của cha mẹ. Tất cả những điều tưởng chừng như bình thường ấy đã trở thành nếp sống, thành phẩm chất tốt đẹp, thành thuần phong mĩ tục đậm đà bản sắc Việt Nam.

Từ truyền thống yêu nước: Câu thơ “Đất nứơc lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” gợi nhớ truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre làng đánh giặc Ân thuở xa xưa. Truyền thống yêu nước, bền bỉ kiên cường giữ nước luôn đc khơi dậy qua những lời kể đậm đà của mẹ và trở thành hồn thiêng dân tộc.

Từ truyền thống lao động: Ông bà, cha mẹ chúng ta đã phải trải qua bao gian nan một nắng hai sương, đã đổ bao mồ hôi với bao công việc nhà nông nhọc nhằn “xây giã giần sàng” mới làm ra hạt gạo dẻo thơm. Hạt gạo là vật chất, nhưng cũng là sự sống, là cội nguồn văn hóa của dân tộc. Truyền thống lao động cần cù từ bao đời của nhân dân cũng là một phần của hồn nước.

Tiểu kết: Chín dòng thơ đầu là cảm nhận của nhà thơ về sự hình thành và phát triển lâu đời của đất nước. Đất nước đc cảm nhận cụ thể trong những cái hằng ngày như“miếng trầu, hạt gạo”, trong những gương mặt dung dị, đời thường của nhân dân, trong mối quan hệ ruột thịt thân thương như “ông – bà”, “cha – mẹ”, ngay trong mái nhà của mỗi chúng ta cũng hiện diện dáng hình đất nước. Ẩn trong đó là tình yêu nứơc thiết tha, niềm tự hào về đất nước thân thương, gần gũi. Hình ảnh thơ hàm súc, giàu chất liệu văn hóa, văn học dân gian nên có sức lắng đọng sâu sắc. Những chất liệu dân gian ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ sự gợi lên một hồn thiêng sông núi. Điều đó ko đơn thuần chỉ là 3thủ pháp nghệ thuật, cũng ko phải là một môtúyp sáng tạo văn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng “đất nứơc của nhân dân” – tư tưởng chủ đạo của trang thơ đã thấm nhuần từ quan điểm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của tác phẩm.

  1. Đất nứơc là gì?

Đất nước là những gì gần gũi, thân thương:

Mượn hình thức trò chuyện, tâm tình với một ng con gái yêu thương, nhà thơ đã định nghĩa đất nước theo cách riêng của mình, theo cách đặc biệt của thơ. Và ở đọan thơ tiếp theo, vận dụng tính đơn lập của tiếng Việt, NKĐ đã tách từ “Đất nước” thành hai thành tố “đất” và “nước” để có thể đi sâu vào khái niệm, biến khái niệm “đất nước” trừu tượng thành cụ thể, gợi cảm:

“Đất là nơi anh đến trường…nỗi nhớ thầm”

Ý thơ rất mới mẻ, cụ thể. Đất nứơc trở thành những gần gũi, thân thương, gắn bó với mỗi ng. Thân thương như mái trường ta học, như dòng sông em tắm, như góc phố, đình làng, ao sen, lũy tre, cây đa, bến nước – nơi lứa đôi hò hẹn. Một không gian nhỏ, chỉ hai ng biết, hai ng hay rất riêng tư nhưng cũng đậm đà hồn quê hương xứ sở. Đất nước còn thân thương như câu ca dao tình yêu quen thuộc cất lên từ mỗi xóm làng:

“Khăn thương nhớ ai khăn rơi xuống đất

Khăng thương nhớ ai khăn vắt lên vai”

Đất nước mênh mông không phải tự nhiên mà có:

Vẫn mạch cảm xúc thiết tha, nhà thơ say sưa lí giải:

“Đất là nơi con chim phượng hòang…đất nứơc là nơi dân mình đòan tụ”

Lấy ý từ những câu dân ca Huế mượt mà, câu thơ đưa ng đọc về với không gian thân thương. Những từ “núi bạc, biển khơi” mang âm hưởng thành ngữ dân gian, gợi ra một đất nước mênh mông, giàu đẹp. Sự mênh mông, giàu đẹp đó ko tự nhiên mà có đc, nó gắn với thời gian đằng đẵng, dài lâu, liên tục, bền bỉ mà nhân dân ta đã đổ bao mồ hôi, nước mắt và cả máu nữa, để xây dựng bờ cõi đất nước thành dải đất chữ S thân thuơng, cho “dân mình đòan tụ” trong yêu thương tự hào bởi:

Đất nứơc là nơi chim về, rồng ở:

“Đất là nơi chim về…bọc trứng”

Những hình tượng quen thuộc trong thần thọai, truyền thuyết như “chim, rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trăm trứng” cùng tụ về trong trường liên tưởng của nhà thơ. Sự hội tụ ấy làm bật lên ý thơ có tầm khái quát cao: dân tộc ta là “con rồng cháu tiên, trai tài gái sắc”, đất nứơc ta là “đất lành chim về, đất thiêng rồng ở”, dân tộc Việt là anh em một nhà, cùng đc sinh ra từ bọc trăm trứng của cha Lạc Long Quân và mẹ Âu Cơ. Một đất nước có cội nguồn văn hóa và truyền thống lâu đời rất đỗi thân thương và tự hào như thế, chính là “Đất nước của nhân dân”

  1. Trách nhiệm với đất nước: Đất nứơc qua cách cảm nhận của NKĐ không khô khan, trừu tượng mà tươi rói cảm xúc. Đất nước gắn liền với đời sống, số phận của từng cá nhân ở mọi phương diện: lịch sử, địa lí, văn hóa. Đất nứơc còn là sự kết tinh sâu sắc những giá trị tinh thần từ quá khứ “những ai đã khuất”, đến hiện tại “những ai bây giờ” và tương lai “yêu nhau và sinh con đẻ cái”. Đặc biệt, mỗi thế hệ, mỗi cá nhân, đều gắn bó với đất nước, nhất là trách nhiệm của thế hệ hôm nay vô cùng nặng nề nhưng vinh quang: Chúng ta vừa phải gánh vác những công việc nhọc nhằn mà ông cha giao lại, vừa phải “dặn dò con cháu chuyện mai sau” một cách ân cần, chu đáo, để các thế hệ sau sẽ tiếp tục đưa đất nứơc đi xa, đến một chân trời hòa bình, hạnh phúc, ấm no, giàu mạnh. Đó là mơ mộng, là khát vọng của thời đại nhà thơ nhưng là hiện thực tất yếu của tương lai. Ước mơ ấy, ngày nay đã thành sự thật. Lời thơ trong sáng, ấp ủ niềm tin giữa những ngày đánh Mĩ của nhà thơ thật cao đẹp và đáng quý.

Vì sự mưu sinh, mỗi ng có thể làm ăn và lập nghiệp ở bất cứ nơi đâu, nhưng trong thẫm sâu tâm hồn, mỗi chung ta đều mang trong ng dòng máu Lạc Hồng. Những 5giờ khắc thiêng liêng nhất, niềm tự hào đối với truyền thống dân tộc lại trỗi dậy mãnh liệt:

“Hằng năm ăn đâu làm đâu…giỗ Tổ”

Hai chữ “cúi đầu” đầy yêu thương thành kính với đất nước. Ở đây, nhà thơ đã phát hiện ra một chân lí giản dị mà sâu sắc

“Trong anh và em hôm nay…một phần đất nước”

Giọng thơ tâm tình, với lối xưng hô anh – em tha thiết, nhà thơ như nhắn nhủ: đất nước ko chỉ tồn tại khách thể, mà đã hóa thân trong máu xương mỗi ng, trở thành một phần tâm hồn trí tuệ của “anh và em”. Sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh cộng đồng là tư tưởng chung của thời đại. “Khi hai đứa cầm tay‟ tình yêu lứa đôi riêng tư đã tự mang trong nó vẻ đẹp hài hòa nồng thắm của tâm hồn dân tộc. “Khi chúng ta cầm tay mọi ng”, tình yêu của hai đứa gắn bó với cái chung của tình yêu đất nước. Mỗi chúng ta đã nối vòng tay lớn vào cộng đồng, tạo nên một khối đại đòan kết dân tộc, làm cho đất nước “vẹn tròn to lớn”, trường tồn và phát triển.

Trách nhiệm với đất nước, cũng chính là trách nhiệm với chính bản thân mình bởi

“Đất nước là máu xương của mình”

Vì thế, mỗi chúng ta đều tự nhiên gắn bó với đất nước bằng tình yêu thiết tha, san sẻ với cộng đồng bằng ý thức trách nhiệm và khi cần có thế “hóa thân”bằng hành động hi sinh cho đất nứơc. Động từ “hóa thân” đc nhà thơ sử dụng ko chỉ phù hợp với màu sắc dân gian của chương thơ mà còn diễn ta sâu sắc sự tự nguyên dâng hiến trọn vẹn cho đất nước để bất tử hóa cùng non sông của mỗi ng dân. Điệp ngữ “phải biết” vừa như một mệnh lệnh, vừa là tiếng nói thúc giục của con tim, tạo thành chất trữ tình chính luận sâu sắc

Tiểu kết: Được bao bọc trong không khí của văn học dân gian, hình tượng đất nứơc trên trang thơ của NKĐ thơ mộng, trữ tình như từ xa xưa vọng về, bình dị mà thân thương gắn bó 6thiết tha với mỗi ng dân. Cảm nhận về đất nứơc tản mạn mà thống nhất, sâu sắc. Hai chữ “đất nứơc” đc viết hoa và điểm lại nhiều lần như một con mắt thơ đầy kính yêu, tự hào. Nhà thơ định nghĩa về đất nước bằng thơ, lời thơ lấp lánh màu sắc của huyền thọai dân gian, vừa lung linh vẻ đẹp trí tuệ, vừa thiết tha cảm xúc, tạo nhiều âm vang trong lòng ng đọc

So sánh: Nếu “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi mang đậm sắc thái hiện đại, gắn liền với cuộc kháng chiến chống Pháp đau thương nhưng anh dũng và kiên cường thì“Đất nước” của NKĐ lại đậm đà phong vị dân gian, gắn với cội nguồn văn hóa của dân tộc. Cùng tỏa sáng tình yêu và niềm tự hào đối với đất nứơc, nhưng mỗi bài thơ có một vẻ đẹp riêng, khiến cho cảm hứng về quê hương trở nên đa dạng, hấp dẫn.

  1. Đất nước \ của nhân dân – tư tưởng cốt lõi: Nếu như phần đầu khúc ca, tác giả nói về lịch sử cùng với định nghĩa đất nước bằng thơ theo cách riêng của mình. Thì bốn mươi bảy dòng thơ tiếp theo nhà thơ đi sâu vào tư tưởng đất nước của nhân dân bằng cách nhìn tòan diện không gian địa lí và thời gian lịch sử.
  2. Phương diện địa lí: “Những ng vợ nhớ chồng…Bà Đen, Bà Điểm”

Tư tưởng đất nước của nhân dân dẫn nhà thơ đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lý. Bằng thủ pháp liệt kê độc đáo, ng đọc được tiếp nhận một phát hiện mới rất thú vị: những danh lam thắng cảnh trên đất nước ta như Vịnh Hạ Long, những di tích văn hóa như Hòn Vọng Phu, Núi Bút, Non Nghiên, những di tích lịch sử như Làng Gióng, Đất Tổ trải dài trên khắp đất nước ta. Tất cả không chỉ là địa hình núi sông thuần túy mà tạo hóa đã ban tặng, mà còn đc cảm nhận như một sự đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những cảnh ngộ, số phận của nhân dân 7và thấm đẫm vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân: thủy chung, yêu nước, hiếu học… Nếu ko có những ng vợ VN chung thủy đợi chồng, mòn mỏi qua bao cuộc chiến tranh và li tán thì ko thể có cảm nhận Núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái. Phải chăng truyền thuyết Thánh Gióng cưỡi ngựa sắt, nhổ tre làng đánh giặc Ân đã khiến ao đầm làng gióng lấp lánh vẻ đẹp của tinh thần yêu nước? Một truyền thuýet Hùng Vương nên địa hình núi sông hùng vĩ quanh đền Hùng mới đc gọi là “Chín mươi chín…đất tổ HV”. Niềm tự hào về mảnh đất thiêng, về xứ sở thanh bình dạt dào sông nước đã hóa thành tên gọi Cửu Long – tên một dòng sông xanh thẫm đất phương Nam. Truyền thống hiếu học của những ng học trò nghèo VN bao đời đã đc tạc ghi trong tên gọi “Núi Bút, Non Nghiên”. Cuộc sống bình dị và sự đóng góp thầm lặng, khai khẩn đất hoan của những ng dân đã đặt tên cho non núi “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Đến cả “con cóc, con gà quê hương” cũng “góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, thành đất nước dung dị mà tươi đẹp Hình ảnh núi sông hội tụ lấp lánh qua những vầng thơ, soi bóng tâm hồn của những cuộc đời vô danh, càng thấm thía một điều bình dị: Đất nước của nhân dân, đất nước mang màu sắc dân gian, dân dã, thiêng liêng, gần gũi… “Và ở đâu…núi sông ta”

Ý thơ đc nâng lên tầm khái quát, sự hóa thân bóng hình của nhân dân vào đất nước đã lý giải chính nhân dân là ng tạo dựng, đã đặt tên, ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, miền đất

  1. Phương diện lịch sử: Đó là nhìn ở phương diện ko gian địa lí, còn nhìn ở phương diện lịch sử – thời gian, nhà thơ cũng đã khẳng định tư tưởng Đất nước của nhân dân. Chính tư tưởng này đã chi phối toàn bộ suy nghĩ of nhà thơ khi nhìn vào lịch sử bốn ngàn năm đất nước:

“Em ơi em…nuôi cái cùng con”

Khi nói về lịch sử của đất nước, NKĐ ko nhắc đến các triều đại tên tuổi như Đinh, Lý, Trần, Lê, cũng ko nhắc đến những anh hùng đã từng đc khắc tên trong sử sách, nhà thơ chỉ tập trung nói về những con ng vô danh, bình thường. Đó là “họ”, là “lớp lớp, con gái, con trai” đã lao động chiến đấu suốt bốn nghìn năm để dựng nứơc và giữ nước. Họ là Nhân dân. Tên tuổi họ chưa một lần đc khắc ghi trong sử vàng dân tộc “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng cuộc đời thầm lặng cua mỗi ng đã “hóa núi sông ta”. Cảnh sắc núi sông gắn liền với tâm hồn dân tộc, khí phách of giống nòi. Cái bình dị tồn tại quanh ta, hòa quyện với cái cao cả, thiêng liêng, cho thấy vẻ đẹp vĩnh hằng of đất nước và sự trường tồn of dân tộc gắn liền với muôn triệu nhân dân of mọi thế hệ, trôi theo dòng chảy văn hóa đất nước: “Có biết bao ng con gái con trai…làm ra Đất Nước”

  1. Phƣơng diện văn hóa:

Khi nhìn vào phương diện văn hóa, nhà thơ cũng khẳng định vai trò of nhân dân: “Họ giữ và truyền cho ta….mỗi chuyến di dân”

Đất nước of nhân dân ko chỉ hiện diện ở bề rộng of ko gian địa lí, ở chiều dài of thời gian lịch sử mà còn ở thẳm sâu của tâm hồn, tầm cao of lí trí giống nòi, bề dày of văn hóa, phong tục. Nhân dân ko chỉ lao động, chiến đấu, mà con là những ng sáng tạo ra văn hóa dân tộc. Hàng lọat những động từ đc liệt kê “giữ, truyền, chuyền, đắp, be, trồng cây, hái trái” thể hiện sự cần cù, siêng năng, tinh thần chăm lo lao động của bao thế hệ VN. Những “hạt lúa, hòn than, tiếng nói”đều rất giản dị nhưng lại chính là sự sống of mỗi cá nhân, sự sống of cả dân tộc, là nền văn hóa, là hồn thiêng sông núi mà chính nhân dân đã sáng tạo, giữ gìn, truyền qua muôn đời, tạo thành bản sắc văn hóa VN.

Mạch cảm xúc này dâng lên thành cao trào, để nhà thơ khẳng định một chân lí: “Để đất nứơc này là…ca dao thần thọai”

“Đất nước of nhân dân” cũng chính là “đất nước of ca dao thần thọai”, bởi nói đến nhân dân là nói đến những nét đẹp bình dị mà tinh túy, những nét đẹp này vẫn lấp lánh trong ca dao, thần thọai. Hay nói cách khác “ca dao thần thọai”chính là sáng tác of nhân dân, phản ánh đời sống, tâm tư, tình cảm of nhân dân.

Nếu Lí Thường Kiệt với Nam Quốc Sơn Hà đã phải dùng “đế cư, thiên thư” để trang trọng hóa đất nước, nếu Nguyễn Đình Chiểu với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, phải nhờ đến “Một mối gia thư đồ sộ, hai vầng nhật nguyệt chói lòa” để thiêng liêng hóa đất nước, thì với hệ thống từ ngữ giản dị, mang đậm văn hóa dân gian, NKĐ đã bình dị hóa đất nước, làm cho đất nước hóa thân trong tâm hồn và cụôc sống của mỗi ng dân trong đất nước này.

“Dạy anh biết yêu em…ko sợ dài lâu…sông xuôi”

Ở đọan thơ này, nhà thơ đã vận dụng và chuyển ý sáng tạo những câu ca dao thành lời thơ đằm thắm, ca ngợi nhân dân, ca ngợi bản sắc dân tộc. Trong cả kho tàng ca dao dân ca phong phú của dân tộc, nhà thơ đã chọn lọc ba câu đểe nói về ba phương diện truyền thống của nhân dân. Đó là sự say đắm trong tình yêu nhân văn – “dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi”, đó là quý trọng lối sống tình nghĩa – “biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” và một phẩm chất nữa là bền bỉ kiên cường trong chiến đấu giữ nước – “biết trồng tre…dài lâu”

Vẫn là ý và hình ảnh của những câu ca dao, vẫn gợi ý tứ của ca dao nhưng đã trở thành một câu thơ, gắn bó với toàn mạch cảm xúc của chương V. Đó chính là nét đặc biệt of chương thơ Đất nước. Cái gì đã làm cho nước VN tồn tại mà ko xóa nhòa bản sắc of mình? Cái gì đã làm cho con ng VN có một truyền thống văn hiến rực rỡ? Chính là nhân dân VN đã sống rất đôn hậu, nhiệt tình, đời thường, ngay cả những khi hòan cảnh lịch sử phá vỡ ko khí đời thường đó. Đọan thơ khép lại bằng hình ảnh “dòng sông” và “câu hát” đem lại cảm nhận: đất nứơc ta đẹp hiền hoà và vĩnh cửu như một dòng sông vô tận, chảy từ quá khứ đến hiện tại và vĩnh hằng với tương lai.

Trên dòng sông đất nước, âm vang những sắc màu và giai điệu văn hóa VN, phẩm chất tâm hồn VN vô cùng tự hào và yêu quý. Thán từ “ôi” mang một cảm xúc vỡ òa giữ dòng chảy văn hóa. “Gợi trăm màu” là một cách hình tượng hóa ngôn ngữ, nhưng đồng thời cũng là sự kì vọng về tinh thần hội nhập nhưng biết giữ gìn văn hóa đối với thế hệ mai sau. Đây chính là nội dung triết lí sâu sắc, một cấu trúc quy nạp đấm chất trữ tình đầy sáng tạo của nhà thơ.

  1. Chủ đề tư tưởng và đặc điểm nghệ thuật:
  2. Nghệ thuật: Đọan thơ trích trong chương V, giàu chất trữ tình chính luận, vừa đc viết bằng chiều sâu trí tuệ, chiều cao văn hóa, vừa đc viết bằng những rung động mãnh liệt of cảm xúc nên rất dễ đi vào lòng ng. Lời thơ đậm đà chất liệu văn hóa văn học dân gian, đc lấy cảm hứng từ ca dao, dân ca, cổ tích, truyền thuuyết nên đậm đà sắc thái dân tộc, mở ra một đất nứoc thơ mộng trữ tình từ xa xưa vọng về gần gũi, thân thương. Đặc biệt, chương thơ rất ít vần, nó có chất thơ là nhờ vào việc xây dựng hình ảnh, giọng điệu thơ trầm bổng thiết tha, mang âm hưởng of ca dao, dân ca.
  3. Nội dung – chủ đề – so sánh: Tư tưởng đất nước of nhân dân ko phải đến NKĐ mới có. Tư tưởng này đã có một quá trình dài để khẳng định trong lịch sử văn học dân tộc, từ những tác phẩm văn học trugn đại như Bình ngô đại cáo of Nguyễn Trãi, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyển Đình Chiểu. Trong Bình ngô, Nguyễn Trãi viết:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Đó chính là sự đề cao vai trò of nhân dân trong cuộc kháng chiến chống ngọai xâm. Còn trong Văn tế của Nguyễn Đình Chiểu, ca ngợi ng anh hùng giữ nước là ng chíen sĩ nguồn gốc nông dân. Đó là hình ảnh ng nông dân lam lũ, côi cút bứơc 11vào cuộc chiến đấu, họ hi sinh nhưng là hi sinh bi tráng vì quê hương đất nước. Đến thơ văn hiện đại như Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy, Lửa đèn của Phạm Tiến Duật, vai trò of nhân dân với Đất nước cũng đã tiếp tục đc đề cao.

Trong Đất nước, Nguyễn Đình Thi viết:

“Ôm đất nước những ng áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng”

Còn trong bài Tre VN, nhà thơ đã mượn hình tượng cây tre để nói đến những phẩm chất bình dị of nhân dân trong lao động và chiến đấu để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc:

“Thân gầy guộc, lá mong manh

Mà sao nên lũy nên thành tre ơi”

Như vậy, đề cao vai trò nhân dân với đất nứơc là cả một truyền thống lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc. Tuy nhiên, để tư tưởng đó trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm mọi biểu hiện tinh tế nhất of hình tượng đất nứoc, lại đc cảm nhận một cách toàn diện, sâu sắc trên nhiều bình diện thì đó là một đóng góp đặc sắc of NKĐ ở chương thơ này. Tác phẩm đã tạo nên những rung động âm vang trong lòng ng đọc chính là nhờ những cảm xúc chân thành từ sự trải nghiệm of bản thân mà nói lên những suy nghĩ chung of cả thể hệ đối với đất nước. Góp thêm một thành công cho dòng thi ca về đất nước, làm sâu sắc thêm những nhận thức về đất nước và nhân dân bằng tiếng nói nghệ thuật đậm đã chất dân gian là vẻ đẹp riêng of chương thơ Đất nước của NKĐ.

Kết bài tham khảo : Tuy ra đời cách đây hơn bốn mươi năm nhưng cho đến nay tư tưởng của bản trường ca “ Mặt đường khát vọng” vẫn còn nguyên giá trị. Riêng tôi, là một người con của đất nước anh hùng tôi luôn quý trọng những thành quả mà cha ông để lại, luôn cố gắng gìn giữ và phát huy những giá trị của dân tộc góp sức mình vào xây dựng đất nước vì bởi “Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân”.

Xem thêm
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12 (trang 1)
Trang 1
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12 (trang 2)
Trang 2
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12 (trang 3)
Trang 3
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12 (trang 4)
Trang 4
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12 (trang 5)
Trang 5
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12 (trang 6)
Trang 6
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12 (trang 7)
Trang 7
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12 (trang 8)
Trang 8
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12 (trang 9)
Trang 9
Kiến thức cơ bản và những dạng đề thi về bài Đất nước - Nguyễn Khoa Điềm Văn 12 (trang 10)
Trang 10
Tài liệu có 56 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống