Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12

Tải xuống 17 5.5 K 55
 

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Tài liệu bài Sóng ( Xuân Quỳnh ) môn Ngữ văn lớp 12, tài liệu bao gồm 17 trang, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kỳ thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

TÀI LIỆU BÀI THƠ SÓNG

Bài giảng: Sóng

  1. Tác giả
    • Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt nổi bật của thế hệ nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước.
    • Thơ Xuân Quỳnh thể hiện một trái tim phụ nữ hồn hậu, chân thành, luôn khao khát tình yêu, biết nâng niu hạnh phúc đời thường bình dị.
  2. Tác phẩm
    • “Sóng” được sáng tác vào năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ được sáng tác ở bãi biển Diêm Điền, mang âm hưởng của những con sóng biển, ẩn vào đó là những con sóng lòng đang khao khát tình yêu mãnh liệt.
    • Bài thơ có hai hình tượng luôn song song và tương trợ lẫn nhau, đó là hình tượng “Sóng” và “Em”, cả hai đã cùng nhau tạo nên nét riêng biệt cho bài thơ nói riêng và tiêu biểu về nhiều mặt cho hồn thơ Xuân Quỳnh.
  3. Bố cục bài thơ “Sóng”

Nội dung 1: Những trạng thái khác nhau và quy luật tự nhiên của sóng và đó cũng chính là những cung bậc tình yêu của người phụ nữ. (Khổ 1 và Khổ 2). 

Khổ 1: Những trạng thái khác nhau của sóng cũng như những cung bậc tình yêu của người phụ nữ khi yêu. Và qua đó thể hiện một quan niệm mới mẻ về tình yêu – yêu là tự nhận thức, là vươn tới những cái rộng lớn. 

Khổ 2: Mượn quy luật tự nhiên của sóng, tác giả khẳng định tình yêu luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ. 

Nội dung 2: Điểm khởi đầu bí ẩn của sóng giống điểm khởi đầu và sự nhiệm màu, khó nắm bắt của tình yêu. (Khổ 3 và Khổ 4) 

Khổ 3: Những băn khoăn, suy nghĩ về khởi nguồn của tình yêu khi nhà thơ đứng trước sự mênh mông của biển lớn. 

Khổ 4: Lý giải nguồn gốc của sống, qua đó nhà thơ tự bâng khuâng về khởi nguồn của tình yêu thật khó nắm bắt, khó lý giải. 

Nội dung 3: Sóng luôn vận động như tình yêu gắn liền với những khát khao, trăn trở không yên, như người phụ nữ khi yêu luôn da diết nhớ nhung, cồn cào ước vọng về một tình yêu vững bền, chung thủy. (Khổ 5 + Khổ 6 + Khổ 7 + Khổ 8) 

Khổ 5: Nỗi nhớ của sóng về bờ cũng như nỗi nhớ của em luôn dành cho anh, luôn hướng về anh. 

Khổ 6: Thể hiện tiếng lòng cũng như sự thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu. 

Khổ 7: Niềm tin mãnh liệt của nhà thơ vào tình yêu đích thực. 

Khổ 8: Những băn khoăn, lo lắng, những trực cảm, lo âu trong tình yêu của nhà thơ nhưng vẫn có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu chân thành. 

Nội dung 4: Tình yêu là khát vọng muôn đời của con người, trước hết là người phụ nữ (nhân vật trữ tình) muốn dâng hiến cả cuộc đời cho một tình yêu đích thực. (Khổ 9)  

  1. Một số nhận định hay về nhà thơ Xuân Quỳnh và bài thơ “Sóng”
  • “Xuân Quỳnh – một cô gái mồ côi nghèo khổ: lớn lên giữa một thời kì đất nước phải đương đầu với vô vàn khó khăn về kinh tế, về chiến tranh... Nhưng Xuân Quỳnh chẳng khác nào một cây xương rồng kiên cường và kì diệu trên sa mạc, đã vắt kiệt sức mình để nở những bông hoa quý cho cuộc đời.” – Nguyễn Thu Phương (Lớp Cl63, DHSPHN)
  • “Tôi tin rằng, không phải 30 năm, mà hi vọng rằng các thế hệ sau vẫn tiếp tục tìm thấy ở trong những tác phẩm của Xuân Quỳnh tình yêu cuộc sống, yêu thêm con người, yêu thêm đất nước để làm cho cuộc sống đẹp hơn.” – Nhà văn Ngô Thảo nghẹn ngào cho biết.
  • “Đọc thơ xuân Quỳnh, người ta không có cảm giác như tác giả cố ý làm thơ, mà thơ chị tự nhiên, nhẹ nhàng, là tiếng nói chân thật từ sâu trong tâm hồn chứ không cố gắng gượng ép bản thân phải sáng tác về những triết lý khô khăn. vì vậy, giọng thơ của chị thủ thỉ tâm tình, dạt dào những đợt sóng tình cảm, lúc thì nhẹ nhàng vỗ về, lúc lại cuồn cuộn dâng trào” – Nhà phê bình văn học Lưu Khánh Thơ (em chồng nhà thơ Xuân Quỳnh).
  • “Sóng không chỉ là tên một thi phẩm đã gây xốn xang cho nhiều thế hệ bạn đọc. Sóng không chỉ là biểu trưng cho một hồn yêu chưa từng nguội yên. Sóng còn là một nguồn sống, nguồn năng lượng mà nữ thi sĩ ấy đã truyền lại cho thế hệ sau qua mỗi tiếng thơ của mình. Và, lâu nay, lòng thơ của chúng ta, người mờ người tỏ, người đang yêu, người đã yêu, đều từng thầm thu thầm phát thứ sóng đặc biệt ấy: Đó chính là Sóng Xuân Quỳnh.” – T.S Chu Văn Sơn
  • Được xem là một trong những người viết thơ tình hay nhất trong nền thơ Việt Nam từ sau Cách mạng, Xuân Quỳnh đem đến cho bạn đọc một tình yêu vừa nồng nhiệt, táo bạo, vừa tha thiết, dịu dàng, vừa giàu trực cảm, vừa lắng sâu những trải nghiệm, suy tư.
  • “Không còn phân biệt được sóng tạo nên Xuân Quỳnh, hay Xuân Quỳnh đã tạo nên sóng. Chỉ biết rằng chị sinh ra là để dành cho thơ. Dù đầu đời, vốn học vấn còn chưa cao, nhưng hồn thơ ở người con gái đất La Khê – Hà Đông ấy đã luôn dồi dào và dạt dào sức sống” – T.S Chu Văn Sơn.
  • “Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật, rất thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả trong tình yêu. Chị không quanh co, không giấu diếm một điều gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị. Thành thật, đây là cốt lõi thơ trong Xuân Quỳnh” - Võ Văn Trực
  • Dù viết về tình yêu đôi lứa hay tình yêu Tổ quốc, về thế giới trẻ thơ hồn nhiên, trong trắng hay những quan hệ nhân sinh muôn vẻ, thơ Xuân Quỳnh vẫn nổi bật ở vẻ đẹp nữ tính.
  • “Bài thơ Sóng là một cuộc hành trình khởi đầu từ sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thuở.” – G.S Trần Đăng Suyền.
  • “Sóng là bài thơ đặc sắc viết về tình yêu, rất tiêu biểu cho phong cách của Xuân Quỳnh.Qua hình tượng sóng, trên cơ sở sự tương đồng, hòa hợp giữ sóng và em, bài thơ diễn tả tình yêu của người phụ nữ thiết tha, nồng nàn, chung thủy, muốn vượt lên thử thách của thời gian và sự hữu hạn của đời người. Bài thơ cho thấy tình yêu là một thứ tình cảm cao đẹp, một hạnh phúc lớn lao của con người.”
  • “Ở mỗi tập thơ của xuân Quỳnh, những bài viết về tình yêu thường để lại nhiều ấn tượng hơn cả. Với giọng điệu thơ hết sức tự nhiên, bài thơ Sóng thể hiện một tình yêu sâu sắc, bồi hồi, thao thức đến cả trong giấc mơ. Dù có những gian truân cách trở, nhưng tình yêu bao giờ cũng đẹp, cũng đến được tận cùng hạnh phúc như con sóng nhỏ đến với bờ.” – Trích Nhà thơ việt Nam hiện đại, G.S Phong Lê chủ biên, Viện Văn học, NXB KHXH, 1984.
  • “Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời... Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khôn cùng của chúng. Ở đó trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhòai giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi, tình yêu và cách trở, ra đi và trở lại, chảy trôi phiêu bạt và trụ vững kiên gan, tổ ấm và dòng đời, sóng và bờ, thuyền và biển, nhà ga và con tàu, trời xanh và bom đạn, gió Lào và cát trắng, cỏ dại và nắng lửa, thủy chung và trắc trở, xuân sắc và tàn phai, ngọn lửa cô đơn và đại ngàn tối sẫm...” – T.S Chu Văn Sơn
  • “Nhà thơ Xuân Quỳnh viết bài thơ Sóng năm 1967, khi mà chị đã từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu. Song, người phụ nữ này vẫn còn ấp ủ biết bao hy vọng, vẫn phơi phới một niềm tin:

Cuộc đời tuy dài thế 

Năm tháng vẫn đi qua 

Như biển kia dẫu rộng  Mây vẫn bay về xa. 

Bài thơ được kết thúc ở chính cái điểm đỉnh của niềm khao khát tột độ:  

Làm sao được tan ra 

Thành trăm con sóng nhỏ 

Giữa biển lớn tình yêu 

Để ngàn năm còn vỗ

  Sóng là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng; vừa mãnh liệt, sôi nổi; vừa hồn nhiên, trong sáng; vừa ý nhị, sâu xa. Sau này, khi nếm trải nhiều, giọng thơ Xuân Quỳnh không còn phơi phới bốc men say nữa, nhưng cái khát vọng tình yêu vẫn mãi tồn tại trong trái tim giàu có yêu thương của chị.” - (GS Nguyễn Đăng

Mạnh & PTS Trần Đăng Xuyền, Những bài văn hay, Nxb Đồng Nai, 2003, tr. 135) 

 

PHÂN TÍCH CHI TIẾT BÀI THƠ

Tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca, nhiều nhà thơ nổi tiếng viết rất hay về tình yêu. Trước đó, ông hoàng của thơ tình Xuân Diệu cũng đã mượn hình tượng “Biển” để bày tỏ tình yêu của mình; Đến với Xuân Quỳnh, chị lại mượn hình tượng “Sóng” để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, phức tạp vừa tha thiết, sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khao khát yêu đương.  

Trong bài thơ, song song với hình tượng “Sóng” là hình tượng “Em”. “Sóng” là hình ảnh ẩn dụ cho tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân của cái tôi trữ tình. Hai nhân vật “sóng” và “em”, tuy hai nhưng lại là một, tuy một những lại là hai. Có lúc phân đôi ra để soi chiếu, làm nổi bật sự tương đồng; có lúc lại hòa nhập vào nhau để tạo nên sự cộng hưởng. Hai hình tượng này song song với nhau từ đầu đến cuối bài thơ, vừa soi sáng vừa bổ sung cho nhau nhằm diễn tả một cách quyết liệt hơn, sâu sắc hơn và thấm thía hơn khát vọng tình yêu đang dâng trào trong trái tim nữ thi sĩ, trong trái tim những người trẻ đang yêu. 

Nội dung 1: Những trạng thái khác nhau và quy luật tự nhiên của sóng và đó cũng chính là những cung bậc tình yêu của người phụ nữ. (Khổ 1 và Khổ 2). 

Khổ 1: Những trạng thái khác nhau của sóng cũng như những cung bậc tình yêu của người phụ nữ khi yêu. Và qua đó thể hiện một quan niệm mới mẻ về tình yêu – yêu là tự nhận thức, là vươn tới những cái rộng lớn. 

Dữ dội và dịu êm 

Ồn ào và lặng lẽ 

Sông không hiểu nổi mình 

Sóng tìm ra tận bể 

- 2 câu đầu: Những trạng thái đối cực khác nhau của sóng như tình yêu có nhiều cung bậc, trạng thái và như tâm hồn người phụ nữ có những mặt mâu thuẫn mà thống nhất. 

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

 + Những trạng thái đối cực của sóng dựa vào kết cấu nghệ thuật đối lập – song hành giữa các cụm từ: “dữ dội – dịu êm”; “ồn ào – lặng lẽ”. 

“Dữ dội”, “ồn ào”: khi nối tiếp nhau xô bờ, khi phong ba bão tố, khi cuồn cuộn dâng trào từng đợt sóng biển... 

“Dịu êm”, “lặng lẽ”: khi sóng gió qua đi, khi trời yên biển lặng, khi hiền hòa với vẻ đẹp vốn có... 

+ Phép ẩn dụ: “Sóng” là hình ảnh ẩn dụ cho những cung bậc, trạng thái cảm xúc và tâm hồn của người phụ nữ khi yêu. 

“Dữ dội”, “ồn ào” với những ghen tuông hờn dỗi, với những nhớ mong da diết, cồn cào, với những giận hờn vô cớ... 

“Dịu êm”, “lặng lẽ” với vẻ nữ tính dịu dàng, với vẻ yểu điệu duyên dáng vốn có... 

+ Đó là những mặt mâu thuẫn mà thống nhất, bởi những trạng thái đối cực đó được kết nối với nhau thông qua điệp từ “và” làm cho chúng trở nên hài hòa, dễ thương. 

+ Đặc sắc nghệ thuật trong hai câu đầu nằm ở việc: tác giả đặt các từ “dịu êm”, “lặng lẽ” ở cuối câu tạo điểm nhấn. 

- 2 câu sau: Diễn tả hành trình tìm tới biển khơi như hành trình của tình yêu hướng về cái vô biên, tuyệt đích, như tâm hồn người phụ nữ không chịu chấp nhận sự chật hẹp, tù túng. 

Sông không hiểu nổi mình 

Sóng tìm ra tận bể 

+ Biện pháp nhân hóa: diễn tả hành trình tìm tới biển lớn của sóng. 

“Sông” là không gian chật hẹp, tù túng... Chính vì quá chật hẹp, tù túng nên sông không thể hiểu được những khát vọng lớn lao của sóng, vậy nên sóng quyết vươn ra biển lớn, vươn ra đại dương bao la để thỏa sức vùng vẫy. 

“Bể” là biển cả, là đại dương mênh mông, là khoảng không gian bao la rộng lớn... Ở đây sẽ có những đợt sóng mạnh hơn, dữ dội hơn, mãnh liệt hơn để sóng khám phá, sóng thỏa sức vẫy vùng... 

+ Phép ẩn dụ: Đó chính là hành trình của tình yêu hướng về cái vô biên, tuyệt đích; là tâm hồn người phụ nữ không chấp nhận, không cam chịu một tình yêu nhỏ bé, tầm thường mà sẵn sàng vươn tới tình yêu cao cả, rộng lớn. 

+ Đây là một quan niệm mới mẻ, hiện đại trong tình yêu: người con gái thời hiện đại khi yêu là tự nhận thức; là không đứng yên thụ động mà chủ động vươn tới những điều cao cả, lớn lao. Quan niệm này được thể hiện thành công nhờ vào kiểu nói nhấn mạnh “không hiểu nổi”, “tìm ra tận”...  

Khổ 2: Mượn quy luật muôn đời của sóng, tác giả khẳng định khát vọng tình yêu luôn thường trực trong trài tim tuổi trẻ. 

Ôi con sóng ngày xưa 

Và ngày sau vẫn thế 

Nỗi khát vọng tình yêu 

Bồi hồi trong ngực trẻ  - 2 câu đầu: quy luật muôn đời của sóng. 

Ôi con sóng ngày xưa 

Và ngày sau vẫn thế

 + Thán từ: “Ôi” thể hiện nỗi thổn thức của trái tim đang yêu khi nhận ra quy luật muôn đời của sóng biển với những cung bậc trạng thái khác nhau. 

+ Quy luật muôn đời của sóng là luôn mang trong mình những cung bậc trạng thái khác nhau, và cũng những cung bậc trạng thái ấy luôn tồn tại ở hai dạng đối cực. 

+ Nghệ thuật đối lập: giữa con sóng “ngày xưa – ngày sau”. Sóng là thế, muôn đời vẫn thế, vẫn luôn mang trong mình những cung bậc khác nhau như tình yêu tuổi trẻ, không bao giờ đứng yên.  - 2 câu sau: nhà thơ mượn quy luật của sóng để khẳng định khát vọng tình yêu luôn thường trực trong trái tim tuổi trẻ. 

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ

  + Tính từ chỉ trạng thái: “khát vọng – bồi hồi” diễn tả nhịp sống trong lồng ngực tuổi trẻ. Nếu đại dương bao la vô tận mang nhịp đập sóng biển thì trong lồng ngực tuổi trẻ lại thổn thức với muôn điệu yêu thương. 

+ Tuổi trẻ sinh ra là để yêu, tình yêu làm cho tuổi trẻ phải bồi hồi, xao xuyến. Những cảm xúc “xao xuyến”, “bồi hồi” chính là gia vị ngọt ngào trong tình yêu, nó đã tạo nên cái “bồi hồi trong ngực trẻ”.  

Nội dung 2: Điểm khởi đầu đầy bí ẩn của sóng giống điểm khởi đầu và sự nhiệm màu, khó nằm bắt của tình yêu. 

Cách phân tích 1: Phân tích theo khổ thơ để làm sáng ý: “Điểm khởi đầu đầy bí ẩn của sóng giống điểm khởi đầu và sự nhiệm màu, khó nắm bắt của tình yêu.”  

Khổ 3: Những băn khoăn, suy nghĩ về sự khởi nguồn (khởi đầu) của sóng cũng như tình yêu khi nữ thi sĩ đứng trước biển lớn. 

Trước muôn trùng sóng bể 

Em nghĩ về anh, em 

Em nghĩ về biển lớn 

Từ nơi nào sóng lên? 

+ Điệp ngữ “Em nghĩ”: 2 lần, thể hiện nỗi niềm băn khoăn của nữ thi sĩ về “anh, em” chính là suy nghĩ về tình yêu của hai đứa; về “biển lớn” chính là suy nghĩ về khởi nguồn của “sóng”.  

+ Nỗi niềm băn khoăn, trăn trở của nhà thơ hoàn toàn có căn cứ khi đứng trước “muôn trùng sóng bể” và nghĩ về tình yêu của mình. Bởi sóng biển bao la, mênh mông, rộng lớn như vậy biết khởi đầu từ đâu và kết thúc từ đâu? Sự khởi nguồn đó như một điều gì đó thật bí ẩn khiến con người ta càng muốn khám phá, mà càng khám phá lại càng bí ẩn. 

+ Câu hỏi tu từ: “Từ nơi nào sóng lên?” là tiền đề cho những suy tư, trăn trở về tình yêu của nữ thi sĩ ở khổ thơ thứ tư. 

Khổ 4: Lý giải nguồn gốc bí ẩn của sóng, qua đó nhà thơ tự bâng khuâng về điểm khởi đầu đầy bí ẩn và sự nhiệm màu, khó nắm bắt của tình yêu.  

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu? 

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau 

+ Câu thơ đầu: Lý giải nguồn gốc của sóng là từ gió, nghĩa là sóng biển có được là do gió, nhờ có gió mà sóng lên. 

+ Câu thơ thứ 2, 3: nhà thơ lại không lý giải được nguồn gốc của gió và đành bất lực với cái lắc đầu thật dễ thương: “Em cũng không biết nữa”. “Không biết” ở đây là không thể lý giải được nguồn gốc của sóng và đó cũng chính là cội nguồn của tình yêu, bởi tình yêu là một hiện tượng tâm lý xuất phát từ trái tin mà trái tim thì cũng có những lý lẽ riêng của nó mà ta không thể nào lý giải được. 

Liên hệ: Như ông hoàng thơ tình Xuân Diệu cũng từng băn khoăn đi tìm định nghĩa về tình yêu “Đố ai định nghĩa được tình yêu” hay: 

Làm sao định nghĩa được tình yêu 

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều  

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt 

Bằng mây nhè nhẹ, gió đìu hiu 

Và một nhà thơ cổ điển người Pháp cũng đã từng “đau đầu” khi định nghĩa về tình yêu mà buộc phải thốt lên về cái khó nắm bắt của nó rằng: “Tình yêu là điều mà con người không thể hiểu nổi, không thể định nghĩa nổi và không thể diễn giải được thành lời.”  

+ Câu thơ cuối “Khi nào ta yêu nhau?”, nữ thi sĩ băn khoăn tự hỏi về khởi điểm tình yêu của mình và nhận ra sự nhiệm màu: Tình yêu cũng giống như sóng biển, gió trời vậy, làm sao có thể hiểu được, làm sao có thể lý giải hay định nghĩa được một cách rạch ròi. 

Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy 

Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu (Thi hào Tagor) 

+ Chính vì không thể rạch ròi như từng phép toán với những đáp án chính xác tuyệt đối nên tình yêu chân thành không toan tính, không vụ lời thì càng yêu say đắm, càng say đắm thì càng khó lý giải mà không thể lý giải thì càng lại thiêng liêng và cao quý. 

Cách phân tích 2: Chọn ý thơ phân tích để làm sáng tó ý: “Điểm khởi đầu đầy bí ẩn của sóng giống điểm khởi đầu và sự nhiệm màu, khó nắm bắt của tình yêu.”  

(Lưu ý: Các em nghe hướng dẫn trong video bài giảng) - Điểm khởi đầu đầy bí ẩn của sóng biển:  

+ Trước sự bao la, mênh mông của sóng biển nữ thi sĩ băn khoăn trăn trở và nghĩ về khởi điểm của sóng. 

+ Và tự hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?” và tự trả lời: “Sóng bắt đầu từ gió” + Nhưng lại không lý giải được rõ ràng nguồn gốc cũng như khởi điểm của sóng, bởi đó là một điều bí ẩn mà con người mãi không thể lý giải được. 

  • Và sự bí ẩn đó cũng giống như điểm khởi đầu và sự nhiệm màu, khó nắm bắt của tình yêu vậy.

+ Khi còn ta say đắm trong men tình, đặc biệt là người phụ nữ bởi những cô gái luôn mang trong mình trái tim mong manh, dễ vỡ khi họ đã yêu và dành trọn tình yêu của mình thì chắc chắn sẽ băn khoăn, trăn trở đi tìm khởi điểm của tình yêu. 

+ Và càng tìm thì càng không thể xác định được: “Vì sao ta yêu nhau” hay “Khi nào ta yêu nhau?” bởi tình yêu thuộc về lý lẽ của con tim mà đã là lý lẽ của con tim thì chẳng thể nào xác định được. Và điều đó làm tôi nhớ đến một câu hát rất hay của ca sĩ Tóc Tiên: “Chọn con tim hay là nghe lý trí”, thật khó!  Nội dung 3: Sóng luôn vận động như tình yêu gắn liền với những khát khao, trăn trở không yên, như người phụ nữ khi yêu luôn da diết nhớ nhung, cồn cào ước vọng về một tình yêu vững bền, chung thủy. (Khổ 5 + Khổ 6 + Khổ 7 + Khổ 8) 

Khổ 5: Nỗi nhớ của sóng luôn hướng về bờ cũng như nỗi nhớ của em dành cho, luôn hướng về anh.  Con sóng dưới lòng sâu Con sóng trên mặt nước Ôi con sóng nhớ bờ Ngày đêm không ngủ được Lòng em nhớ đến anh Cả trong mơ còn thức + Cấu trúc khổ thơ khác biệt: 6 câu thơ. + Các biện pháp: nhân hóa và ẩn dụ, điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp; hình thức đối lập cùng kiểu giãi bày tình cảm mộc trực. 

  • 2 câu đầu: nỗi nhớ bao trùm cả không gian lẫn thời gian: “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước”, “ngày – đêm” không ngủ được…

Con sóng dưới lòng sâu

 Con sóng trên mặt nước 

+ Lặp cấu trúc: “Con sóng...” 

+ Phép đối: “dưới lòng sâu” – “trên mặt nước” tạo nên sự trùng điệp, mênh mông của những con sóng với nhiều dạng thức khác nhau. 

+ Ẩn dụ: Đó cũng là nỗi nhớ của em dành cho anh. Sóng là em, em chính là sóng, cũng giống như sóng, tâm hồn em cũng vô vàn những phức tạp và khó hiểu, cũng nhớ anh bao trùm cả không gian và thời gian. 

⇨ Xuân Quỳnh vô cùng tinh tế khi mượn hình ảnh sóng động để ẩn dụ cho nỗi niềm, tình yêu của người phụ nữ khi yêu. 

  • 2 câu sau: Cách nói có cường điệu nhưng đúng và chân thành biểu hiện nỗi nhớ của một tình yêu mãnh liệt.

Ôi con sóng nhớ bờ 

Ngày đêm không ngủ được 

+ Sóng bất chấp không gian rộng lớn “dưới lòng sâu – trên mặt nước”, bất chấp cả thời gian “ngày đêm” để vươn về bờ đến nỗi “không ngủ được”.  

+ Nỗi nhớ của sóng, dù sóng trên mặt nước hay con sóng dưới lòng sâu thì tất cả đều nhớ bờ, đều hướng về bờ mà vỗ.  

  • 2 câu thơ cuối: Mượn hình tượng sóng để nói lên nỗi nhớ vẫn chưa đủ, chưa thỏa mãn, nhà thơ trực tiếp bộc lộ nỗi nhớ của mình qua hai câu thơ phá vỡ cấu trúc toàn bài.

Lòng em nhớ đến anh 

Cả trong mơ còn thức 

+ Xuân Quỳnh đã mạnh dạn bày tỏ nỗi nhớ một cách trực tiếp, điều đó cho thấy nét hiện đại trong quan niệm về tình yêu của nữ thi sĩ. 

+ Sự tương đồng giữa sóng và em: Sóng nhớ bờ và em nhớ anh, đó là quy luật của tình yêu, tình yêu luôn luôn song hành cùng nỗi nhớ. 

+ Nỗi nhớ không chỉ hiện lên lúc ý thức được (khi thức) mà còn gắn với tiềm thức (ngủ vẫn nhớ).

Như vậy, nỗi nhớ là luôn hiện hữu trong tâm trí của người phụ nữ khi yêu. 

Khổ 6: Tiếng lòng thể hiện sự thủy chung của người phụ nữ trong tình yêu. 

Dẫu xuôi về phương Bắc

 Dẫu ngược về phương Nam 

Nơi nào em cũng nghĩ 

Hướng về anh một phương 

+ Phép đối “dẫu xuôi – dẫu ngược”, “phương Bắc – phương Nam” để khẳng định lòng thủy chung: dù ở phương nào, nơi nào cũng chỉ “hướng về anh một phương”. 

+ Cách nói ngược “xuôi Bắc – ngược Nam” (người ta vẫn hay nói “vào Nam ra Bắc” có nghĩa là “xuôi phương Nam, ngược phương Bắc” mới đúng). Trong cái mênh mông của đất trời, đã có phướng bắc, phương nam thì cũng có phương anh. Đây chính là “phương tâm trạng”, “phương” của người phụ nữ đang yêu say đắm, thiết tha. 

+ Tình yêu có thể làm cho phương hướng đảo lộn, nhưng quan trọng nhất là “phương anh” thì em vẫn luôn hướng về, một lòng thủy chung son sắt. 

Khổ 7: Niềm tin vào sóng sẽ trở về với biển dù gặp muôn trùng khó khăn, trắc trở cũng như niềm tin vào tình yêu đích thực.  

Ở ngoài kia đại dương 

Trăm ngàn con sóng đó 

Con nào chẳng tới bờ 

Dù muôn vời cách trở 

+ Sóng dù gặp muôn trùng khó khăn, cách trở, xa xôi vạn dặm vẫn luôn hướng về bờ, bờ là bến đích cuối cùng. 

+ Ẩn dụ: Cũng như tình yêu của em và anh, muốn đến được bến bờ hạnh phúc thì phải cùng nhau vượt qua mọi khó khăn, thách thức. 

+ Và gian nan và thử thách là điều không thể thiếu trong tình yêu, nhưng khi đã cùng nhau vượt qua thì sẽ là tình yêu bền vững. 

Khổ 8: Những băn khoăn, lo lắng, trăn trở không yên trong tình yêu của nhà thơ, nhưng vẫn có niềm tin mãnh liệt vào tình yêu chân thành.  

Cuộc đời tuy dài thế 

Năm tháng vẫn di qua 

Như biển kia dẫu rộng 

Mây vẫn bay về xa

 + Phép so sánh: Lấy cái không gian để nói thời gian, lấy thời gian để nói cái hữu hạn của đời người trước vũ trụ bao la. 

Liên hệ: thơ Xuân Diệu 

Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật 

Không cho dài thời trẻ của nhân gian 

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn  Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại 

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi 

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời 

+ Tình yêu chân thành sẽ vượt qua tất cả, không vì những khó khăn, thách thức mà chia rẽ đôi lứa.  Nội dung 4: Tình yêu là khát vọng muôn đời của con người, trước hết là người phụ nữ (nhân vật trữ tình) muốn dâng hiến cả cuộc đời cho một tình yêu đích thực. (Khổ 9) 

Làm sao được tan ra 

Thành trăm con sóng nhỏ

 Giữa biển lớn tình yêu 

Để ngàn năm còn vỗ 

+ Sóng khao khát “được tan ra” để hòa chung vào nhịp vỗ của đại dương bao la, để hòa tình yêu bé nhỏ của mình vào biển lớn; để được sống hết mình với tình yêu chỉ với mong muốn được hóa thân vào cái chung vĩnh hằng. 

+ Tình yêu của em cũng vậy, cũng muốn hòa vào biển lớn tình yêu của nhân loại để bất tử hóa tình yêu với thời gian. Đây chính là ý nghĩ và cách yêu táo bạo của người phụ nữ hiện đại. 

➢ Đây chính là khát vọng mãnh liệt, tha thiết của người phụ nữ với trái tim đôn hậu, chân thành, giàu trực cảm. 

  1. Nét đặc sắc trong nghệ thuật
  • Thể thơ 5 chữ được vận dụng một cách sáng tạo, thể hiện nhịp vỗ của sóng biển, nhịp đập của tiếng lòng thi sĩ.
  • Các biện pháp nghệ thuật nhưu điệp từ, điệp ngữ, điệp cú pháp góp phân tạo nên nhịp điệu nồng nàn, say đắm, thích hợp cho việc diễn tả nỗi nhớ mãnh liệt: sóng (11 lần), con sóng (3 lần), dưới lòng sâu – trên mặt nước, dẫu xuôi – dẫu ngược...  
  • Xuân Quỳnh đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành các cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đắp đổi nhau về bằng - trắc nữa.
  • Nhịp điệu trong bài Sóng thật đa dạng, mô phỏng cái đa dạng của nhịp sóng:

Dữ dội và dịu êm (2/3) 

Ồn ào và lặng lẽ (2/3)  

Sông không hiểu nổi mình (1/2/2) 

Sóng tìm ra tận bể (1/2/2)  

Em nghĩ về anh, em (3/1/10  

Em nghĩ về biển lớn (3/2) 

Từ nơi nào sóng lên... (3/2) 

Ngoài ra, các cặp câu đối xứng xuất hiện liên tiếp, câu sau thừa tiếp câu trước, tựa như những đợt sóng xô bờ, sóng tiếp sóng dào dạt:  

Dữ dội và dịu êm 

Ồn ào và lặng lẽ  

Con sóng dưới lòng sâu 

Con sóng trên mặt nước  

Dẫu xuôi về phương bắc 

Dẫu ngược về phương nam  

Mở rộng cuối bài:  

“Sóng” ở đây ta có thể hiểu là bài thơ “Sóng” với những cung bậc, trạng thái khác nhau tượng trưng cho những cung bậc cảm xúc của người phụ nữ khi yêu. Mà bên cạnh đó ta cũng nên hiểu theo hướng rộng hơn, Đó còn là “sóng thơ” náu sẵn trong hồn đã thầm dẫn lối cho Xuân Quỳnh ra với biển lớn thi ca để trở thành một nhà thơ có tên tuổi nổi bật trong nền thơ Việt Nam hiện đại. Bởi như chính chị đã nói: “Nếu không làm thơ nữa, Xuân Quỳnh không còn là mình. Thơ thực sự là nghiệp dĩ của chị”.  

Mở rộng cho kết bài: gắn giải thưởng với sức sống của nhà thơ trong lòng độc giả. 

  • Giải thưởng “Nhà nước về văn học nghệ thuật” năm 2001.

Với giải thưởng “Nhà nước về văn học nghệ thuật” năm 2001, Xuân Quỳnh xứng đáng là một trong những gương mặt nữ sáng giá nhất của nền thơ ca Việt Nam hiện đại. Với những gì chị đã cống hiến thì công chúng yêu nghệ thuật hôm qua, hôm nay và mai sau sẵn sàng dành cho chị vị trí đẹp nhất, sáng nhất, lung linh nhất để “Sóng mang tên Xuân Quỳnh” tìm về vỗ mãi. 

  • Giải thưởng “Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật” vào ngày 30/3/2017, do chính Chủ tịch nước Trần Đại Quang đã ký quyết định số 602, (Quyết định ghi rõ: Tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh cho cố nhà thơ Nguyễn Thị Xuân Quỳnh).

Với nhiều giải thưởng cao quý, mà gần đây nhất là giải thưởng “Hồ Chí Minh về Văn học và Nghệ thuật”, nữ thi sĩ mang tên Xuân Quỳnh đã được vinh danh ở hạng mục cao nhất dành cho những nghệ sĩ có nhiều đóng góp với chính thể Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Và điều ấy hoàn toàn xứng đáng, mặc dù khi bầu, hội đồng giải thưởng đã từng quên bỏ phiếu. Với vị trí ấy, dường như trong lòng mỗi người yêu nghệ thuật như chúng ta hôm nay ở đây cũng đã dành sẵn trong lòng mình một bến bờ để cho “Sóng” mang tên hai tiếng “Xuân Quỳnh” tìm về vỗ mãi. 

 

Xem thêm
Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12 (trang 1)
Trang 1
Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12 (trang 2)
Trang 2
Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12 (trang 3)
Trang 3
Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12 (trang 4)
Trang 4
Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12 (trang 5)
Trang 5
Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12 (trang 6)
Trang 6
Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12 (trang 7)
Trang 7
Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12 (trang 8)
Trang 8
Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12 (trang 9)
Trang 9
Tài liệu bài Sóng (Xuân Quỳnh) môn Ngữ văn lớp 12 (trang 10)
Trang 10
Tài liệu có 17 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống