Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Bắc sơn hay nhất, gồm 8 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Bắc sơn Ngữ văn lớp 9.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Bắc sơn dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 9:
BẮC SƠN
I. Tác giả
- Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960)
- Quê quán: làng Dục Tú, Từ Sơn, Bắc Ninh nay thuộc xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội
- Cuộc đời và sự nghiệp sáng tác:
+ Năm 1930, ông tham gia các hoạt động yêu nước của thanh niên học sinh ở Hải Phòng
+ Năm 1943 ông gia nhập nhóm Văn hóa cứu quốc bí mật và được bầu làm Tổng thư ký Hội Truyền bá Quốc ngữ Hải Phòng. Sau đó ông tiếp tục hoạt động ở Hà Nội, Nam Định và Phúc Yên.
+ Năm 1951, ông tham gia chiến dịch biên giới
+ Ông được tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật năm 1996
- Tác phẩm tiêu biểu: Bốn năm sau, An Tư công chúa, Truyện Anh Lục…
II. Tìm hiểu chung tác phẩm
1. Thể loại: kịch
2. Hoàn cảnh sáng tác
Vở kịch Bắc Sơn được Nguyễn Huy Tưởng sáng tác và đưa lên sân khấu vào đầu năm 1946 trong không khí sôi sục của những năm đầu cách mạng
3. Tóm tắt
Xoay quanh các sự kiện diễn ra trong gia đình cụ Phương, dân tộc Tày ở Bắc Sơn, vào thời gian đầu của khởi nghĩa. Cụ Phương và con trai là Sáng tích cực tham gia phong trào, trong khi bà vợ và cô con gái lại ngại ngần, xa lánh. Thơm (con gái cụ Phương) có chồng là Ngọc, một thư kí quèn trong bộ máy cai trị của giặc ở Bắc Sơn. Hám tiền, hám danh, Ngọc cam tâm làm tay sai cho Pháp, giúp chúng đánh phá phong trào cách mạng, bắt bớ cán bộ, bắn giết du kích. Sau cái chết của cụ Phươngvà Sáng, Ngọc càng lộ rõ bộ mặt Việt gian bán nước. Hắn dẫn lính truy lùng các cán bộ lãnh đạo phong trào. Thái và Cửu chạy nhầm vào chính nhà hắn và đã được Thơm (vợ hắn) che chở, cứu thoát. Biết tin Ngọc sẽ dẫn giặc Pháp tấn công du kích, Thơm băng rừng suốt đêm để báo tin cho du kích kịp thời đối phó. Lúc trở về, cô chạm trán với Ngọc nên đã bị hắn bắn chết, nhưng chính Ngọc lại bị trúng đạn của Pháp.
4. Bố cục
- Phần 1: Lớp I: Hoàn cảnh của Thơm.
- Phần 2: Lớp II: Thái và Cửu – hai cán bộ cách mạng bị truy đuổi, chạy vào nhà Thơm.
- Phần 3: Lớp III: Thơm đóng kịch qua mắt Ngọc – Ngọc sấp ngửa ra đi.
5. Giá trị nội dung
Đoạn trích thể hiện những xung đột diễn ra trong nội tâm nhân vật Thơm, thúc đẩy diễn biến tâm trạng nhân vật để đi tới bước ngoặt quan trọng, làm nổi bật vẻ đẹp và sự chuyển biến trong nhận thức của nhân vật Thơm
6. Giá trị nghệ thuật
Tác giả thành công trong việc xây dựng tình huống kịch: tình huống éo le, bất ngờ, bộc lộ rõ xung đột và thúc đẩy hành động kịch phát triển, tác giả đã tổ chức được các đối thoại với những nhịp điệu, giọng điệu khác nhau, phù hợp với từng giai đoạn của hành động kịch
III. Dàn ý phân tích tác phẩm
1. Tình huống kịch
- Khi Thái, Cửu bị Ngọc truy đuổi chạy vào đúng nhà Thơm (vợ Ngọc), tình huống này buộc buộc nhân vật Thơm phải có chuyển biến thái độ, dứt khoát đứng về phía cách mạng.
2. Nhân vật Thơm
- Hoàn cảnh:
+ Cha, em trai: hi sinh.
+ Mẹ: bỏ đi
- Còn một người thân duy nhất là Ngọc - chồng
+ Sống an nhàn, được chồng chiều chuộng (sắm sửa, may mặc…).
- Tâm trạng: Luôn day dứt, ân hận về cha, mẹ.
- Thái độ với chồng:
+ Băn khoăn, nghi ngờ chồng làm Việt gian.
+ Tìm cách dò xét.
+ Cố níu chút hi vọng về chồng
- Hành động:
+ Che giấu Thái, Cửu – hai chiến sĩ cách mạng ngay trong buồng của mình.
+ Khôn ngoan, che mắt Ngọc bảo vệ cho 2 chiến sĩ cách mạng.
⇒ Nghệ thuật miêu tả ⇒ Hành động táo bạo, bất ngờ ⇒ Là người có bản chất trung thực, lòng tự trọng, nhận thức về cách mạng nên đã biến chuyển thái độ, đứng hẳn về phía cách mạng.
⇒ Khẳng định chân lí: Cuộc đấu tranh cách mạng ngay cả khi bị đàn áp khốc liệt cũng sẽ không thể bị tiêu diệt, vẫn có thể thức tỉnh quần chúng, cả với những người ở vị trí trung gian như Thơm
3. Các nhân vật khác:
* Nhân vật Ngọc:
- Vốn là một nho lại, nuôi tham vọng ngoi lên để thỏa mãn ham muốn về quyền lực, địa vị và tiền bạc.
- Khởi nghĩa Bắc Sơn bùng nổ, y thù hằn cách mạng, truy lùng những chiến sĩ cách mạng, đặc biệt là Thái và Cửu.
⇒ Là một người hám lợi, hám danh
* Nhân vật Thái và Cửu:
- Là nhân vật phụ, xuất hiện trong chốc lát.
- Thái: bình tĩnh, sáng suốt, củng cố được niềm tin của Thơm vào những người cách mạng.
- Cửu: hăng hái nhưng nóng nảy, thiếu sự chín chắn. Anh nghi ngờ, định bắn Thơm, nhưng sau hiểu và tin Thơm.
⇒ Những chiến sĩ cách mạng kiên cường trung thành đối với Tổ quốc, cách mạng, đất nước…
IV. Bài phân tích
Nguyễn Huy Tưởng là một nhà viết kịch tài ba của Việt Nam, ông đã để lại rất nhiều vở kịch hay, có giá trị về nội dung cũng như tư tưởng như vở kịch “Vĩnh biệt cửu trùng đài”… nhưng tác phẩm kịch mở đầu cho sự nghiệp sáng tác kịch về đề tài chiến tranh phải kể đến vở kịch “Bắc Sơn”, đây là vở kịch viết về đề tài cách mạng, qua đó cũng thể hiện được nhiều xung đột kịch được nhà văn hé mở và giải quyết một cách khéo léo và cuối cùng, qua những xung đột ấy đã khắc họa được thành công vẻ đẹp của nhân Thơm, người đã đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, bỏ qua những tình cảm cá nhân mà một lòng đi theo và ủng hộ Cách mạng.
Đoạn trích trong sách giáo khoa thuộc hồi bốn của vở kịch “Bắc Sơn”. Ở trong hồi này, nhân vật trung tâm của những xung đột và hành động kịch xoay quanh cuộc đối thoại của hai nhân vật Thơm và Ngọc. Và cuối cùng, sau sự đấu tranh nội tâm dữ dội cùng với sự day dứt, đau khổ khôn nguôi thì Thơm cũng quyết định đi theo và tin tưởng cách mạng, một lòng ủng hộ phong trào Bắc Sơn, đứng về phía Cách mạng thay vì bênh vực người chồng đầu gối tay ấp nhưng lại là tên Việt gian bán nước của mình. Ta có thể thấy qua tác phẩm quyết định này của Thơm không hề dễ dàng chút nào, và xoay quanh bao nhiêu xung đột kịch thì Nguyễn Huy Tưởng cũng đã giải quyết một cách khéo léo, để cho nhân vật Thơm đi theo cách mạng cũng là tư tưởng, lòng tin của ông dành cho cuộc khởi nghĩa này.
Cái tạo nên sự hấp dẫn của các vở kịch không chỉ là những nhân vật kịch, tình huống kịch mà còn là những xung đột kịch mà các nhà viết kịch khéo léo lồng vào, tạo ra sự đấu tranh của các nhân vật sau đó thì gỡ nút thắt của những xug đột kịch ấy bằng những giải quyết, những lựa chọn sáng suốt, qua đó để làm nổi bật vẻ đẹp của nhân vật kịch cũng như thể hiện được ý niệm, quan điểm của nhà văn trong đó. Trong vở kịch Bắc Sơn, cụ thể ở hồi mười bốn này thể hiện được những xung đột kịch gay cấn, đẩy nhân vật Thơm vào những sự đau khổ, day dứt và cuối cùng phải đưa ra những lựa chọn đầy khó khăn, theo ai và bỏ ai, theo chồng phản Cách mạng hay theo cách mạng mà phản bội lại tình cảm vợ chồng.
Thơm là con gái của cụ Phương và là chị gái của Sáng. Đây đều là hai chiến sĩ tham gia vào cuộc khời nghĩa Bắc Sơn. Thế nhưng hoàn cảnh mới thật trái ngang làm sao khi cô lại là vợ của một tên việt gian tên là Ngọc. Chính hắn là kẻ đã chỉ điểm cho quân Pháp khiến cho chúng tấn công vào đại bản doanh của quân khởi nghĩa, gây những thiệt hại vô cùng to lớn cho quân khởi nghĩa. Và thật không may mắn khi bố của Thơm và em trao đều đã hi sinh trong cuộc đàn áp ấy. Ngọc là kẻ ích kỉ và tham lam nên lúc nào cũng chỉ muốn tìm những cán bộ để tố cáo với thực dân Pháp nhằm lấy được khoản tiền thưởng của mình. Tình huống đã bất ngờ xảy ra khi hai chiến sĩ mà Ngọc đang lùng bắt là Thái và Cửu lại lọt vào trong chính ngôi nhà của Thơm và Ngọc. Chính trong hoàn cảnh này, xung đột đã được đẩy lên cao trào khi Thơm đã mưu trí đánh lừa Ngọc để giấu cán bộ, bảo về tính mạng của những người theo Đảng.
Màn kịch được bắt đầu bằng cuộc đối thoại của hai vợ chồng. Tuy Ngọc bao che thân phận là tay sai chỉ điểm cho giặc của mình. Thế nhưng, Thơm vẫn nghi ngờ về thân phận của hắn do những lời đồn của những người xung quanh. Thế nhưng, Ngọc lại là một kẻ gian manh, xảo trá. Hắn lừa dối người vợ nhẹ dạ và trong sáng của mình, dùng những lời lẽ nịnh bợ để khiến cho Thơm mất đi sự cảnh giác và tin vào những lời nói của hắn. Thậm chí, khi Thơm nhìn, hắn đã hoảng hốt “Mắt cứ như mắt chú ấy”. Ngay lúc Thơm ngỏ ý nghi ngờ Ngọc đi bắt Thái và Cửu - hai chiến sĩ của cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn giống như cha và em trai của Thơm thì cô đã thấy Ngọc tỏ thái độ muốn bao che, lấp liếm bằng những lời nói dối của mình. Thế nhưng, bằng con mắt quan sát, cô đã nhìn thấy được bản chất của hắn qua những biểu hiện và lời nói của hắn. Trước đây, vốn là một người luôn an phận thủ thường, thế nhưng, sau khi được cha và em trai phân tích thì cô cũng hiểu được đâu là việc đúng đắn, thấy được ánh mắt giả dối của chồng cô cũng khuyên chồng nên dừng lại vì cô hiểu đó chính là một việc làm sai trái và không có lợi ích cả hơn nữa đó chính là một hành vi bán nước mà thôi. Biết không thể thay đổi được suy nghĩ của Thơm, Ngọc đã lừa dối Thơm bằng cách nói rằng Thái chính là mật thám khiến cho Thơm bị lẫn lộn và không thể tìm ra được sự thật. Đó chính là những bi kịch và xung đột trong lòng của cô, cô không muốn tin chồng mình là kẻ bán nước, nhưng linh tính lại mách bảo cho cô điều đó mà cô cũng không biết phải làm thế nào khi những nghi ngờ của mình được sáng tỏ.
Tình huống thứ hai diễn ra khi Thơm đã tin tưởng vào đoàn quân Bắc Sơn. Cũng chính là lúc này, xung đột thứ hai lại xảy ra giữa ba nhân vật: Cửu - Thơm và Thái. Lúc ấy Cửu rút súng ra định bắn Thơm vì cho rằng Thơm cũng giống như người chồng ham hư vinh của mình. Thế nhưng ngay lập tức, Thái đã ngăn hành động ấy lại chính điều đó đã làm cho Thơm được cảm hóa hoàn toàn, đứng về phía những người cách mạng, cũng nhờ có điều ấy mà Thơm đã cố gắng giúp đỡ, giải thoát thành công cả hai người chiến sĩ thoát khỏi vòng vây của kẻ địch, lừa được Ngọc và những kẻ đi cùng để bắt hai người chiến sĩ.
Trong hoàn cảnh ấy, Thơm thể hiện thái độ hốt hoảng, cuống quýt gần như khóc, nghẹn ngào. Tâm trạng ấy không phải là do sợ cho bản thân mà chính là đan xen nỗi lo lắng về sinh mạng những chiến sĩ đang ở trong nhà mình, cùng nỗi uất ức khi thấy tận mắt: “Có cả Tây. Ngọc cũng đi vào đấy”. Thơm đã đứng hẳn về phía cách mạng khi hành động ngoan ngoãn và mau lẹ, thân mật như một người em gái để quyết tâm bảo vệ họ.
Không chỉ che giấu cho những người cách mạng, Thơm còn phải thể hiện hết sự khôn khéo và bình tĩnh để đánh lạc hướng Ngọc. Trong giờ phút này, khi biết rõ bộ mặt thật của Ngọc, cô đã đóng một vai kịch bất đắc dĩ nhưng cũng rất tỉnh táo như nhằm vạch rõ chân tướng của Ngọc. Màn đối thoại lần thứ hai giữa Thơm và Ngọc tạo được sự hồi hộp căng thẳng của một cuộc đấu trí. Giờ phút này, không chỉ tìm cách che chở cho những cán bộ cách mạng đang ẩn nấp ngay trong buồng của mình, nói to nhằm đánh động cảnh báo để họ đề phòng kẻ địch, Thơm còn muốn Ngọc bộc lộ chân tướng Việt gian nên cô vờ như muốn níu giữ, vừa tìm cách vuốt ve lòng tự ái của Ngọc.
Màn kịch với những tình huống đột biến liên tục trong bối cảnh ngôi nhà của Thơm đã tạo nên những bước ngoặc tâm trạng dứt khoát của nhân vật. Qua đó, chúng ta nhận ra một con người có lòng tự trọng, ngay thẳng, tuy còn có lúc ngây thơ, cả tin nhưng khi biết rõ sự thật đã lột xác để trở thành một con người bình tĩnh, can đảm, quyết tâm bảo vệ cách mạng đến cùng. Nguyễn Huy Tưởng đã thành công trong việc khắc hoạ tính cách nhân vật kịch qua ngôn ngữ và hành động kịch rất tự nhiên.
Bắc Sơn đã có sức cuốn hút công chúng bởi lẽ tác phẩm đem lại hình ảnh chân thực về những chiến sĩ cách mạng trong những ngày sục sôi của khởi nghĩa Bắc Sơn. Qua đó, nhà văn còn khẳng định tấm lòng của nhân dân không rời xa cách mạng ngay cả trong giờ phút nguy nan nhất. Qua hình tượng nhân vật Thơm, công chúng còn có dịp chứng kiến sức cảm hoá của cách mạng với quần chúng. Chính mối quan hệ này đã làm nên sức sống lâu bền của tác phẩm.
V. Một số lời bình về tác phẩm
Ngay sau Cách mạng tháng Tám, giữa lúc nghệ thuật sân khấu còn nhiều lúng túng, khó khăn trong việc thể hiện cuộc sống mới, vở kịch Bắc Sơn ra đời đã đáp ứng đòi hỏi của tình hình, nên rất mong được hoan nghênh. Ngay những lần đầu tiên nó đã gây được một tiếng vang rộng rãi. Có thể nói đó là vở kịch nói đầu tiên biểu hiện thành công chủ đề cách mạng, đã trực tiếp đưa lên sân khấu hình ảnh một cuộc khởi nghĩa gay go nhưng thắng lợi, với hình tượng những con người “nhận đường” đến với cách mạng.
(Nguyễn Văn Long, Từ điển văn học)
I. Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Huy Tưởng: một nhà văn chủ chốt của nền văn học Việt Nam.
- Khái quát về đoạn trích: thuộc lớp 2,3 hồi 4 của kịch "Bắc Sơn": đoạn trích đã thể hiện xung đột gay gắt giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù, đồng thời thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật Thơm,
II. Thân bài
1. Tình huống kịch
- Khi Thái, Cửu bị Ngọc truy đuổi chạy vào đúng nhà Thơm (vợ Ngọc), tình huống này buộc buộc nhân vật Thơm phải có chuyển biến thái độ, dứt khoát đứng về phía cách mạng.
2. Nhân vật Thơm
- Hoàn cảnh:
+ Cha, em trai: hi sinh.
+ Mẹ: bỏ đi.
- Còn một người thân duy nhất là Ngọc - chồng.
+ Sống an nhàn, được chồng chiều chuộng (sắm sửa, may mặc…).
- Tâm trạng: Luôn day dứt, ân hận về cha, mẹ.
- Thái độ với chồng:
+ Băn khoăn, nghi ngờ chồng làm Việt gian.
+ Tìm cách dò xét.
+ Cố níu chút hi vọng về chồng.
- Hành động:
+ Che giấu Thái, Cửu – hai chiến sĩ cách mạng ngay trong buồng của mình.
+ Khôn ngoan, che mắt Ngọc bảo vệ cho 2 chiến sĩ cách mạng.
⇒ Nghệ thuật miêu tả ⇒ Hành động táo bạo, bất ngờ ⇒ Là người có bản chất trung thực, lòng tự trọng, nhận thức về cách mạng nên đã biến chuyển thái độ, đứng hẳn về phía cách mạng.
⇒ Khẳng định chân lý: Cuộc đấu tranh cách mạng ngay cả khi bị đàn áp khốc liệt cũng sẽ không thể bị tiêu diệt, vẫn có thể thức tỉnh quần chúng, cả với những người ở vị trí trung gian như Thơm.
3. Nhân vật Ngọc
- Là nhân vật giả nhân giả nghĩa.
- Ham muốn địa vị, quyền lực, tiền tài.
- Làm tay sai cho giặc (Việt gian).
- Tên Việt gian bán nước đê tiện, đáng khinh, đáng ghét.
⇒ Là một người hám lợi, hám danh.
4. Nhân vật Thái, Cửu
- Bị truy đuổi - chạy vào nhà Thơm.
- Thái: giữ lại, tươi cười, định chạy ra cửa ⇒ Hành động bình tĩnh, sáng suốt.
- Cửu: vẻ mặt thất sắc, chĩa súng định bắn thất vọng, hoài nghi ⇒ Nóng nảy, hăng hái nhưng thiếu chín chắn.
⇒ Những chiến sĩ cách mạng kiên cường trung thành đối với Tổ quốc, cách mạng, đất nước…
III. Kết bài:
- Khẳng định lại những nét tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của đoạn trích:
+ Nghệ thuật: Cách tạo dựng tình huống sử dụng ngôn ngữ đối thoại.
+ Nội dung: Thể hiện diễn biến nội tâm nhân vật Thơm – người phụ nữ có chồng theo giặc – đứng hẳn về phía cách mạng.
Nguyễn Huy Tưởng (1912 – 1960) quê ở xã Dục Tú, huyện Đông Anh, Hà Nội, viết văn, làm báo từ trước 1945. Sau Cách mạng tháng Tám, ông có nhiều đóng góp cho cách mạng và kháng chiến. Các tác phẩm của ông phản ánh hiện thực, đậm chất anh hùng và không khí lịch sử. Năm 1996, ông được Nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.
Vở kịch Bắc Sơn được ông sáng tác và đưa lên sân khấu đầu năm 1946, trong khí thế sôi sục mở đầu kháng chiến. Bối cảnh của vở kịch là cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (1940 I 1941) và nội dung xoay quanh những biến cố xảy ra trong gia đình cụ Phương, dân tộc Tày. Cụ Phương cùng con trai là Sáng hăng hái tham gia chiến đấu. Còn bà cụ và cô con gái là Thơm lại ngại ngần, xa lánh. Cuộc khởi nghĩa giành được thắng lợi bước đầu. Tổ chức của ông giáo Thái là cán bộ Đảng đến giúp nhân dân củng cố phong trào. Quân Pháp do Ngọc (chồng của Thơm) dẫn đường đã kéo vào chiếm lại Vũ Lăng, đàn áp dã man quần chúng và truy lùng những cán bộ lãnh đạo. Quân khởi nghĩa phải rút vào rừng. Cụ Phương trong lúc dẫn đường, bị giặc Pháp bắn đã hi sinh. Trước cái chết của cha và em trai Thơm, bộ mặt Việt gian bán nước của tên Ngọc dần dần lộ rõ. Thơm vô cùng đau xót và ân hận. Ở hồi 4 của vở kịch Bắc Sơn Nguyễn Huy Tưởng đã xây dựng một tình huống đặc biệt để thể hiện xung đột gay gắt giữa lực lượng cách mạng và kẻ thù; đồng thời phản ánh diễn biến nội tâm phức tạp của nhân vật Thơm – một cô gái có chồng theo giặc, từ chỗ thờ ơ đến chỗ đứng hẳn về phía cách mạng. Qua đó, tác giả khẳng định sức thuyết phục to lớn của chính nghĩa.
Sự kiện chính của hồi 4 như sau: Thái cùng một cán bộ phong trào là Cửu bị giặc truy lùng ráo riết, vô tình chạy nhầm vào nhà Thơm, mà Ngọc – chồng Thơm lại đang dẫn lính đuổi bắt hai người. Thơm nhanh trí che giấu và cứu thoát họ. Bằng hành động ấy, Thơm đã dứt khoát đứng hẳn sang hàng ngũ cách mạng. Sau đó, biết tin Ngọc dẫn đường cho quân Pháp lên đánh úp lực lượng du kích, Thơm đã luồn rừng đi suốt đêm đến báo để họ kịp thời đối phó. Lúc quay về, bất ngờ gặp Ngọc, Thơm đã bị y bắn; nhưng chính Ngọc lại chết vì trúng đạn của quân Pháp. Nội dung hồi 4 cho thấy nghệ thuật viết kịch rất già dặn của Nguyễn Huy Tưởng. Thành công nổi bật là tác giả đã tạo dựng nên tình huống bất ngờ, gay cấn để đẩy mâu thuẫn lên tới đỉnh điểm, bộc lộ tâm lí và tính cách nhân vật. Thơm là vợ Ngọc – một tên tay sai đắc lực cho thực dân Pháp. Đã quen với cuộc sống an nhàn và ngại gian khổ nên Thơm không tham gia vào phong trào khởi nghĩa, mặc dù cha và em trai là những quần chúng tích cực. Tuy thế, ở Thơm vẫn chưa mất đi bản chất trung thực, lòng tự trọng và tính thương người. Thơm quý trọng ông giáo Thái là cán bộ được tổ chức cử đến giúp dân đẩy mạnh phong trào khởi nghĩa. Vì lực lượng yếu và thiếu kinh nghiệm nên phong trào cách mạng bị giặc đàn áp, cha và em trai Thơm đều hi sinh. Thơm ân hận và đau đớn khi biết chồng mình vì hám tiền, hám danh mà sẵn sàng làm tay sai cho Pháp, dẫn giặc về đốt phá bản làng, giết hại đồng bào.
Tâm trạng và hành động của Thơm được tác giả miêu tả trong hoàn cảnh éo le: cuộc khởi nghĩa bị khủng bố, cha và em trai đã hy sinh, mẹ đau đớn đến điên dại bỏ nhà đi. Thơm chỉ còn người thân duy nhất là Ngọc, nhưng y đã dần dần lộ rõ bộ mặt Việt gian bán nước. Bằng số tiền thưởng của bọn Pháp, Ngọc đã thỏa mãn những nhu cầu vật chất của vợ chồng hắn như tậu nhà mới, mua sắm nữ trang, quần áo… Tuy vậy, Thơm vẫn sống trong day dứt và ân hận. Hình ảnh người cha lúc hi sinh, những lời trăng trối cuối cùng của ông, khẩu súng trao lại cho Thơm, sự hi sinh của đứa em trai, nhất là tình cảnh thương tâm của người mẹ. Tất cả những hình ảnh ấy luôn ám ảnh, giày vò tâm trí cô. Sự nghi ngờ của Thơm đối với Ngọc ngày càng tăng. Trong những lần trò chuyện với chồng, Thơm luôn tìm cách dò xét ý nghĩ và hành động của chồng để tìm hiểu sự thật, còn Ngọc thì luôn kiếm cớ lảng tránh. Tuy vậy, Thơm vẫn cố níu lấy một chút hy vọng: Đã chắc gì những lời đồn?… Nhưng tiền thì lấy đâu mà lắm thế?…. Một tình huống xảy ra hoàn toàn bất ngờ đối với Thơm, buộc cô phải lựa chọn thái độ dứt khoát: Thái và Cửu là hai cán bộ cách mạng bị bọn giặc truy lùng, đã chạy nhầm vào chính nhà Thơm, tức là nhà Ngọc. Ban đầu, Thơm hoảng sợ khi nghe tiếng súng nổ rất gần và sự xuất hiện đột ngột của Thái và Cửu. Nhưng với bản chất trung thực và lương thiện, cùng với sự quý mến sẵn có dành cho Thái và cả sự hối hận, tất cả những điều đó đã thôi thúc Thơm hành động một cách mau lẹ và khôn ngoan, không sợ nguy hiểm để che giấu Thái và Cửu ngay trong buồng ngủ của mình. Thơm nói với hai cán bộ cách mạng bằng giọng tự tin và quyết đoán: “Hai ông đừng nói nữa. Ngọc nó về. Hai ông đừng đi đâu, hãy tạm ở đây, may ra…” Khi Ngọc về đến nhà, Thơm đã khôn ngoan, bình tĩnh che mắt Ngọc để bảo vệ họ. Lúc đầu, Thơm giả vờ ngủ gật để hướng sự chú ý của Ngọc sang việc khác.
Tiếp đến Thơm kể chuyện ở nhà nhớ Ngọc ra sao rồi bảo Ngọc mời những kẻ đang lùng bắt cán bộ lên nhà chơi. Thơm khéo léo nói những lời tình cảm để Ngọc ra lệnh cho bọn truy lùng rút lui. Đồng thời cũng chính lúc này, Thơm đã nhận rõ bộ mặt Việt gian cùng sự xấu xa bỉ ổi của chồng. Điều đó sẽ dẫn đến hành động chủ động của cô ở hồi cuối: khi biết Ngọc sẽ dẫn đường cho quân Pháp vào rừng lùng bắt những người khởi nghĩa, cô đã luồn tắt rừng suốt đêm để báo tin cho du kích kịp thời đối phó. Bằng cách đặt nhân vật vào hoàn cảnh căng thẳng và tình huống gay cấn, tác giả đã thể hiện đời sống nội tâm phức tạp với những nỗi day dứt, đau xót và ân hận của Thơm, để rồi cô đã hành động dứt khoát, đứng hẳn về phía cách mạng. Qua nhân vật Thơm, Nguyễn Huy Tưởng khẳng định rằng ngay cả khi gặp khó khăn, bị kẻ thù đàn áp khốc liệt, phong trào cách mạng vẫn không thể bị tiêu diệt và nó vẫn có khả năng thức tỉnh quần chúng, ngay cả với những người ở vị trí trung gian.
Trong hồi 4, bản chất xấu xa của nhân vật Ngọc đã được tác giả miêu tả đầy đủ. Vốn chỉ là một gã thư ký quèn, địa vị thấp kém trong bộ máy cai trị của thực dân, Ngọc nuôi tham vọng ngoi lên để thỏa mãn ham muốn địa vị, quyền lực và tiền tài. Khi cuộc khởi nghĩa nổ ra, bộ máy cai trị của thực dân ở châu Bắc Sơn bị lật đổ, Ngọc thù hận cách mạng. Y cam tâm làm tay sai cho giặc, trực tiếp dẫn quân Pháp về đánh Vũ Lăng – căn cứ của lực lượng khởi nghĩa.
Càng ngày, Ngọc càng bộc lộ bản chất tàn bạo. Y ra sức truy lùng cán bộ cách mạng, đặc biệt là Thái và Cửu. Để che giấu hành động xấu xa của mình, Ngọc ra sức chiều chuộng vợ. Tuy vậy, tâm địa và tham vọng đen tối của Ngọc vẫn cứ lộ ra trước mắt Thơm, đặc biệt là khi Ngọc không giấu diếm thái độ ghen tức và ý đồ thẳng tay trừng trị “thằng Tốn” nào đó ở trong làng. Xây dựng một nhân vật phản diện như Ngọc, tác giả không đơn thuần tập trung vào hắn những cái xấu, cái ác mà bên cạnh đó vẫn chú ý khắc họa tính cách riêng.
Kịch Bắc Sơn là một trong những tác phẩm tạo nên tên tuổi của Nguyễn Huy Tưởng. Viết về chủ đề cách mang, vở kịch ca ngợi tinh thần chiến đấu và vai trò của các cán bộ cách mạng trong việc định hướng tư tưởng đấu tranh của nhân dân. Qua đó, tác giả biểu dương tinh thần yêu nước và ý chiến quật cường chiến đấu của quần chúng. Hồi IV của vở kịch là một trong những đoạn nổi bật nhất với tình huống gấp gáp, thể hiện bước ngoặt kịch tính về cả tâm lí nhân vật và diễn biến sự kiện. Tính bi tráng là hơi thở nổi bật của hồi kịch này, được thể hiện qua hình tượng người phụ nữ dân tộc Tày tiêu biểu cho hàng ngàn quần chúng nhân dân đã và đang trên con đường giác ngộ cách mạng.
Tính bi tráng, bi là bi ai, buồn bã, cồn trắng là hùng tráng, thể hiện vẻ đẹp lý tưởng. Bi tráng là đau thương, mất mát về một thời quá khứ oai hùng, vừa có tính bi thương, lại không hề kém phần gân guốc, hùng dũng. Trong vở kịch Bắc Sơn, tính bi tráng được thể hiện ở tinh thần cách mạng. bộc lộ qua những nút thắt tâm lí nhân vật và hình tượng nhân vật người phụ nữ đang trên con đường giác ngộ - cô Thơm. Chất anh hùng ca không được miêu tả trực tiếp, nhưng qua những cử chỉ, hành động, lời nói của nhân vật, cái bi tráng được bộc lộ một cách rõ nét và ngày càng có xu hướng tăng tiến. Hồi năm của vở kịch kể về cảnh Ngọc dẫn Tây truy đuổi hai cán bộ Cách mạng là anh Cửu và giáo Thái. Rơi vào tình huống nguy kịch, hai người chạy trốn vào nhà anh Đốc người quen, ai ngờ lại đúng phải nhà tên Ngọc mới mua được. Cửu rút súng định bắn Thơm, vợ Ngọc vì cho rằng cô cũng là Việt gian nhưng Thái đã kịp ngăn cản vì tin rằng Thơm mang dòng máu yêu nước của cha cô. Đúng lúc ấy, Ngọc ghé qua nhà sau khi đã lùng sục nhà bà Lục, bác Chui,... Thơm nhanh trí đẩy hai cán bộ vào buồng và chỉ chỗ trốn, đồng thời tỏ ra bình thản trước mặt Ngọc để hắn không nghi ngờ và nhanh chóng rời đi
Tính bi tráng của vở kịch nằm ở mặt tình huống. Tình huống kịch tính, căng thẳng và hồi hộp. Thơm mang tiếng là vợ Việt gian, nhưng cô lại là người che giấu, bảo vệ cán bộ Cách mạng. Trái với suy nghĩ "Vợ Việt gian thì cũng là Việt gian" của anh Cửu, đứng trước áp lực Ngọc chuẩn bị vào nhà, tiếng chó săn sủa râm ran, tiếng chân người rầm rập, Thơm lo lắng: "Chết nổi, hai ông bị chúng nó đuổi phải không? Làm thế nào bây giờ?". Bản thân cô thực sự lo lắng, cố gắng tìm cách giúp đỡ hại cán bộ cách mạng. Bị đẩy vào tình huống nguy cấp, Thơm bộc lộ tính cách quyết liệt, khéo léo và có bước ngoặt tâm lý rõ ràng trên con đường giác ngộ Cách mạng. Lời nói như lời thề: "Tôi không bảo hai ông đâu. Tôi chết thì chết, chứ tôi không bảo hai ông đâu" là đỉnh cao của tính bi tráng về mặt tình huống của vở kịch. Cái bi tráng ở đây là chất anh hùng trong sự cùng khổ, trong tình huống khó khăn ngàn cân treo sợi tóc, những con người một lòng vì Cách mạng đã thể hiện tinh thần quả cảm, không đầu hàng trước khó khăn thử thách. "Có lối thông ra ngoài đấy, khép cửa buồng lại''. khép lại tình huống đầy căng thẳng, kịch tính. Vợ một tên Việt gian sừng sỏ đã che giấu, bảo vệ cán bộ Cách mạng cho thấy, Thơm đã hoàn toàn giác ngộ, thể hiện tấm lòng của nhân dân với đường lối của Đảng.
Tính bi tráng cũng thể hiện ở xung đột giữa Thơm và Ngọc. Trong từng hành động và lời nói, Ngọc dần bộc lộ bản mặt bán nước, một tay sai đắc lực cho bọn Tây. Đêm nào hắn cũng đi lùng bắt cán bộ. Hắn được thưởng rất nhiều tiền từ việc làm bất nhân tính của hắn, hắn mơ hàm cửu phẩm, lúc nào cũng nghĩ đến danh tính: "Chỉ mình là đen, không có danh phận gì, lép vế trong làng quá!". Ngoài ra, hắn còn đặt điều bôi nhọ anh Thái, phá bỏ hình tượng về anh Thái trong mắt Thơm. Với Thơm, anh Thái là người "bỏ cả cửa nhà đi làm cách mạng", "cả vùng này, có ai ghét ông ấy đâu!", như Ngọc lại bịa đặt: "mật thám cho Tây đấy ", lúc thì lại bảo anh Cửu và ông Thái là "hai cái thằng tướng cướp. Bắt được hai thằng ấy thì cũng được vài ngàn đồng". Chính từ những mâu thuẫn về mặt tư tưởng giữa Thơm và Ngọc như vậy đã gây ra những xung đột tâm lý từ phía Thơm. Khi ông Thái và anh Cửu đang trốn trong buồng nhà Thơm, ở dưới là lý trưởng, bọn tay sai, bọn lính Tây đang lùng sục và cả Ngọc, chồng của Thơm, tình huống này đã thể hiện tính bi tráng điển hình. Ngọc chần chừ trong nhà, nán lại nói chuyện với Thơm, đếm tiền, cười cợt, ngắm vợ, rồi còn thốt lên: "Chắc là nó còn ở đấy, nhất định là nó còn ở đấy!...". Đứng trước tình huống như vậy, Thơm không tỏ ra sốt ruột dù trong lòng như lửa đốt mà tỏ ra rất nhẹ nhàng, tình cảm, dùng lời nói ngọt ngào:"Mai thì ở nhà mà ngủ cho nó lại sức" thể hiện thái độ ân cần, quan tâm, đồng thời khéo léo thúc đẩy Ngọc đi: "Thế nào có đi không?" lúc nghe tiếng quan gọi. Thơm đóng kịch giỏi hay là vì quá lo lắng cho hai cán bộ mà cô đã dìm nỗi sợ hãi của mình xuống. Qua mắt được tên Việt gian khôn ngoan, mà người đó còn là chồng mình, tác giả đã thể hiện tâm trạng nhân vật đầy tính bi tráng, trong khó khăn, gian khổ nhưng luôn ứng biến kịp thời, lộ rõ chất anh hùng, dũng cảm chảy trong huyết thống.
Tính bi tráng trong hồi IV vở kịch Bắc Sơn được thể hiện qua nhiều khía cạnh, từ nhân vật đến tình huống. Nói về tính bi tráng trong khuôn khổ Vũ Lăng nói riêng hay chính là toàn thể lãnh thổ Việt Nam, những người chiến sĩ nhân dân dũng cảm, không ngại xả thân vì đất nước. Bằng ngòi bút sắc sảo và cách xây dựng tình huống truyện kịch tính, Nguyễn Huy Tưởng thể hiện sự tin tưởng vào con đường cách mạng - con đường duy nhất để đi tới độc lập dân tộc, đồng thời thể hiện sự thương yêu và trân trọng với những người thật thà, chân phương mà giàu sức sống, giàu lòng quyết chiến quyết thắng.