Văn bản Người trong bao – Sê-khốp - Ngữ văn lớp 11 - Nội dung, tác giả, tác phẩm

Tải xuống 2 6.2 K 1

Tài liệu nội dung chính bài Người trong bao Ngữ văn lớp 11 gồm 2 trang đầy đủ bố cục, tóm tắt, phương thức biểu đạt, thể loại, ngôi kể, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật giúp học sinh nắm được những nét chính của văn bản.

Người trong bao

Bài giảng: Người trong bao

T – Ngữ văn lớp 11 (ảnh 1)

 Tìm hiểu chung về văn bản:

1. Văn bản Người trong bao

(Lược đoạn mở đầu: Bác sĩ I-van I-va-nứt và Bu-rơ-kin, giáo viên trung học đi săn về quá muộn, đành phải nghỉ đêm tại nhà kho của ông trưởng xóm ở cuối làng Mi-rô-nô-xkôi-ê. Tại đây, Bu-rơ-kin đã kể cho bác sĩ I-van nghe chuyện về Bê-li-cốp.)

Đây này, chẳng phải tìm đâu xa, cách đây khoảng hai tháng, ở thành phố có một người mới chết tên là Bê-li-cốp, bạn đồng nghiệp của tôi, một giáo viên dạy tiếng Hy Lạp. Chắc là anh cũng đã nghe tên ông này rồi. Hắn ta nổi tiếng về điều là lúc nào cũng vậy, thậm chí cả vào khi rất đẹp trời, hắn đều đi giày cao su, cầm ô và nhất thiết là mặc áo bành tô ấm cốt bông. Ô hắn để trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao bằng da hươu; và khi rút chiếc dao nhỏ để gọt bút chì thì chiếc dao ấy cũng đặt trong bao; cả bộ mặt hắn ta nữa dường như cũng ở trong bao vì lúc nào hắn cũng giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bẻ đứng lên. Hắn đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông, và khi ngồi lên xe ngựa thì bao giờ cũng cho kéo mui lên. Nói tóm lại, con người này lúc nào cũng có khát vọng mãnh liệt thu mình vào trong một cái vỏ, tạo ra cho mình một thứ bao có thể ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài. Cuộc sống làm hắn khó chịu, ghê tởm đối với hiện tại, lúc nào hắn cũng ca ngợi quá khứ, ngợi ca những gì không bao giờ có thật. Mấy thứ ngôn ngữ cổ mà hắn dạy đối với hắn thật ra cũng chỉ là một thứ giày cao su, một thứ ô che mà nhờ đó hắn có thể trốn tránh được cuộc sống thực.

- Ồ, tiếng Hy Lạp nghe thật là tuyệt vời, êm tai. – Hắn ta nói với vẻ ngọt ngào. Và như để chứng minh cho lời nói của mình, hắn nheo mắt lại, giơ một ngón tay lên và thốt ra tiếng: - Anthrópos!

Cả ý nghĩ của mình, Bê li cốp cũng cố giấu vào bao. Đối với hắn, chỉ có những chỉ thị, thông tư, những bài báo cấm đoán điều này điều nọ mới là những cái rõ ràng.

Hắn có một thói quen kì quặc là đi hết nhà này đến nhà khác nơi bọn chúng tôi ở. Hắn đến nhà giáo viên nào đó chẳng hạn, kéo ghế ngồi, chẳng nói chẳng rằng, mắt nhìn xung quanh như tìm kiếm vật gì. Hắn cứ ngồi im như phỗng thế rồi độ một giờ sau thì cáo từ. Hắn gọi đó là “cách duy trì những mối quan hệ tốt với bạn đồng nghiệp”. Bọn giáo viên chúng tôi đều sợ hắn. Thậm chí cả hiệu trưởng cũng sợ hắn. Anh thử nghĩ mà xem, giáo giới chúng tôi là bọn người biết suy nghĩ, rất nghiêm chỉnh, được giáo dục qua các tác phẩm của Tuốc-ghê-nhép và Sê-drin, thế mà cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy đã khống chế cả trường học chúng tôi suốt mười lăm năm trời. Mà đâu phải chỉ có trường học! Cả thành phố nữa ấy! Các bà các cô tối thứ bảy không dám tổ chức diễn kịch tại nhà nữa, sợ rằng nhỡ hắn biết thì lại phiền, giới tu hành khi có mặt hắn không dám ăn thịt và đánh bài. Dưới ảnh hưởng của những kẻ như Bê-li-cốp, trong vòng mươi, mười lăm năm trở lại đây, dân chúng trong thành phố đâm ra sợ tất cả. Sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ... [...]

- Bê-li-cốp ở ngày cùng một nhà với tôi, - Bu-rơ-kin nói tiếp, - cùng một tầng, cửa đối diện nhau. Tôi với hắn vẫn thường xuyên giáp mặt nhau, và tôi biết rõ sinh hoạt ở nhà của hắn. Ở nhà hắn cũng sống thế thôi: cũng vẫn mặc áo khoác ngoài, đội mũ, đóng cửa, cài then, có đủ sự ngăn cấm và hạn chế, lúc nào cũng sợ nhỡ xảy ra chuyện gì. [...]

Buồng ngủ của Bê-li-cốp chật như cái hộp. Khi nằm ngủ, hắn kéo chăn trùm đầu kín mặt. Trong buồng nóng bức, ngột ngạt, gió thổi ngoài cửa sổ đóng kín mít, lửa reo trong lò, có tiếng thở dài nghe dễ sợ vọng lên từ dưới bếp...

Nằm trong chăn, hắn cảm thấy rờn rợn. Hắn sợ nhỡ ra lại có chuyện gì, sợ kẻ trộm chui vào nhà. Sau đó suốt đem hắn nằm mơ toàn những điều khủng khiếp; và buổi sáng, khi cùng đi đến trường với tôi, mặt hắn tái nhợt, rầu rĩ.

(Lược thuật một đoạn: Tuy sống thu mình, đơn độc, nhút nhát, nghi kị nhưng Bê-li-cốp cũng đã tính chuyện lấy vợ. Đó là Va-ren-ca, chị gái của Cô-va-len-cô, một giáo viên vừa mới về trường. Va-ren-ca tuổi chừng ba mươi, tính tình hồn nhiên, nhí nhảnh, hay nói, hay hát, hay cười. Hai chị em có vẻ sống tự do, phóng khoáng. Sự xuất hiện của hai chị em nhà này đã làm xao động không khí tỉnh lẻ buồn chán. Thấy Bê-li-cốp có vẻ thích Va-ren-ca, mọi người nghĩ ra trò gán ghép hai người. Ý định lấy vợ dần choáng ngợp tâm trí, nhưng hắn cứ lần lữa, đắn đo, suy tính vì cứ sợ thế này thế nọ. Hắn gầy đi và hình như lại muốn chui sâu hơn trong cái bao của mình. Nhưng một chuyện bất ngờ xảy ra: Hôm trước, vừa nhận được bức tranh châm biếm “Một người tình si” của “một cậu ngỗ nghịch nào đó” thì hôm sau, trong buổi đi chơi chủ nhật. Bê-li-cốp ngạc nhiên đến hoảng hốt khi tận mắt chứng kiến cảnh hai chị em Va-ren-ca và Cô-va-len-cô phóng xe đạp vụt qua. Buổi tối, Bê-li-cốp quyết định đến nhà Va-ren-ca, nhưng cô lại đi vắng nên chỉ gặp người em).

Bê-li-cốp ngồi yên, chẳng nói chẳng rằng chừng độ mười phút rồi lên tiếng:

- Tôi tìm đến anh để giãi bày tâm sự. Tôi rất buồn bực anh ạ. Có một tên vô lại nào đó đã vẽ châm biếm tối và một người gần gũi với cả hai chúng ta. Tôi thấy có nghĩa vụ phải nói quả quyết với anh rằng tôi chẳng hề có liên quan gì tới một chuyện như thế... Tôi chẳng hề làm điều gì sơ suất để cho mọi người giễu cợt như vậy. Lúc nào tôi cũng xử sự như một người tử tế đứng đắn. [...] Còn một điều nữa tôi muốn nói với anh. Tôi thì vào nghề đã lâu, còn anh thì mới bắt đầu đi làm, nên với tư cách là bạn đồng nghiệp đi trước, tôi thấy có nghĩa vụ phải nhắc nhở anh đôi điều. Anh đã đi xe đạp và cách trò giải trí ấy hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên.

- Vì sao vậy? – Cô-va-len-cô hỏi lại bằng giọng trầm trầm.

- Chẳng lẽ điều này lại còn cần phải giải thích nữa sao? Chẳng lẽ đó lại là điều khó hiểu ư? Nếu thầy giáo đi xe đạp thì học sinh sẽ làm gì? Lũ trẻ còn thiếu nước đi đầu xuống đất thôi. Vả lại nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hôm qua tôi sợ phát kinh lên đấy! Khi tôi nhìn thấy chị của anh, mắt tôi hoa lên. Đàn bà con gái mà đi xe đạp thì quả là chuyện kinh khủng!

- Nhưng mà ông muốn cái gì mới được chứ?

- Tôi chỉ muốn mỗi một điều là nhắc bảo anh. Anh còn trẻ, tương lai anh còn ở phía trước, anh cần phải xử sự rất, rất thận trọng. Thế mà anh đã buông thả! Ô! Anh đã buông thả mình quá chừng! Anh mặc áo thêu ra đường, đi ngoài phố lúc nào anh cũng cầm theo sách này sách nọ, rồi bây giờ lại còn cưỡi xe đạp nữa. Chuyện anh và chị anh đi xe đạp mà đến tai ông hiệu trưởng, rồi đến tai ông thanh tra... Lúc ấy còn ra cái thể thống gì nữa không?

- Việc ta và chị ta đi xe đạp chẳng liên quan gì đến ai ca? – Cô-va-len-cô nói, mặt đỏ gay. – Con nào thằng nào thò mũi vào chuyện riêng của nhà ta, ta cho chầu Diêm Vương tất!

Bê-li-cốp tái mặt đứng dậy.

- Nếu anh nói với tôi bằng cái giọng như thế thì tôi không thể tiếp tục nữa. – Hắn ta nói. Và tôi cũng yêu cầu anh khi có mặt tôi, đừng bao giờ ăn nói như thế về cấp trên. Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền.

- Hoá ra là ta đã nói gì động đến chính quyền sao? – Cô-va-len-cô hỏi, mắt hằn học nhìn Bê-li-cốp. – Xin ông để cho ta yên! Ta là người trung thực và với những người như “quý ngài” ta không muốn nói chuyện. Ta không ưa những tên mách lẻo.

Bê-li-cốp bối rối, luống cuống mặc lại áo ngoài, vẻ mặt đầy hoảng hốt. Bởi đó là lần đầu tiên trong đời hắn phải nghe những lời nói thô bạo đến thế.

- Anh có thể nói gì tuỳ anh. – Hắn vừa nói vừa bước ra ngoài hành lang dẫn xuống cầu thang. – Tôi chỉ muốn báo trước cho anh rằng có thể có người đã nghe được cuộc nói chuyện này. Và để cho không ai có thể xuyên tạc câu chuyện vừa rồi và để khỏi có điều gì chẳng lành xảy ra, tôi sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng nội dung câu chuyện hôm nay... trên những nét chính. Tôi sẽ phải làm việc đó.

- Báo cáo hả? Này, đi mà báo cáo này!

Cô-van-len-cô túm lấy cổ áo hắn từ phía sau rồi xô mạnh. Bê-li-cốp lộn nhào xuống cầu thang, đôi giày cao su lộc cộc đập vào bậc gỗ. Cầu thang khá cao, nhưng hắn đã lăn xuống dưới một cách bình yên vô sự. Hắn đứng dậy sờ lên mũi xem cặp kính có còn nguyên vẹn không. Nhưng đúng vào lúc hắn xuống cầu thang thì Va-ren-ca và hai bà nữa cùng đi đâu về. Họ đứng ở dưới và nhìn lên – điều này đối với Bê-li-cốp là kinh khủng hơn cả. Thà tự vặt cổ, bẻ gãy chân mình đi còn hơn là biến thành trò cười cho thiên hạ. Bây giờ thì trước sau gì cả thành phố chả biết. Chuyện sẽ đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra. Chao ôi! Thế rồi lại nhỡ xảy ra chuyện gì nữa chứ! Họ sẽ lại vẽ tranh châm biếm khác, rồi mọi chuyện dẫn đến chỗ là người ta sẽ ép mình về hưu...

Khi hắn đứng dậy, Va-ren-ca nhận ra hắn. Cô ta nhìn bộ mặt nực cười của hắn, nhìn chiếc bành tô nhăn nhúm, đôi giày cao su, không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Cô ta tưởng hắn vô ý trượt ngã. Không nén được, cô ta cười phá lên vang khắp khu nhà:

- Ha – ha – ha!

Cái tiếng cười âm vang, lanh lói “ha – ha – ha” đó đã chấm dứt tất cả: chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời của Bê-li-cốp. Hắn không còn nghe thấy Va-ren-ca nói gì, không còn nhìn thấy gì nữa. Trở về đến nhà, việc đầu tiên là hắn cất tấm ảnh để trên bàn đi, sau đó lên giường nắm và không bao giờ dậy nữa.

Khoảng ba ngày sau, tôi sang nhà Bê-li-cốp. Hắn nằm trong màn, đắp chăn kín và im lặng. Hỏi thì hắn chỉ đáp “không” hay “có” thôi, không nói thêm điều gì.

Một tháng sau, Bê-li-cốp chết. Bấy giờ, khi nằm trong quan tài, vẻ mặt hắn trông hiền lành, dễ chịu, thậm chí còn có vẻ tươi tỉnh nữa, cứ hệt như hắn mừng rằng cuối cùng hắn đã chui vào trong cái bao mà từ đó không bao giờ phải thoát ra nữa. Phải rồi, thế là hắn đã đạt được mục đích cuộc đời! [...]

Từ nghĩa địa trở về, lòng chúng tôi đều cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng chưa đầy một tuần sau, cuộc sống đã lại diễn ra như cũ, nặng nề, mệt nhọc, vô vị, một cuộc sống chẳng bị chỉ thị nào cấm đoán nhưng cũng chẳng được tự do hoàn toàn, chẳng tốt đẹp hơn trước. Trên thực tế, Bê-li-cốp đã chầu âm phủ nhưng hiện còn bao nhiêu là người trong bao, trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu kẻ như thế nữa!

(Lược đoạn cuối: Bu-rơ-kin ngừng kể, bước ra khỏi nhà. Trăng lên. Đã nửa đêm. Vạn vật chìm trong im lặng. Bác sĩ I-van trầm ngâm: “Đó, vấn đề là ở chỗ đó. Chúng ta sống chui rúc ở thành phố này trong không khí ngột ngạt. Chúng ta viết những thứ giấy tờ vô dụng, đánh bài đánh bác – những cái đó không phải là một thứ bao sao? Chúng ta sống cả đời bên những kẻ vô công rồi nghề, những xui nguyên giục bị, những mụ đàn bà nhàn rỗi ngu si, chúng ta nói và nghe đủ thứ chuyện nhảm nhí, vô nghĩa – đó chẳng phải là một thứ bao sao?”. Chính đấy mới là điều đáng nói! Và cuối cùng, I-va-nứt kết luận: “Không thể sống mãi như thế được!”.)

2. Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- An-tôn Páp-lô-vích Sê-khốp (1860 - 1904) là nhà văn người Nga kiệt xuất, sinh ra và lớn lên trong một gia đình buôn bán nhỏ ở thị trấn Ta-gan-rốc, bên bờ A-dốp.

- Năm 1884, ông tốt nghiệp khoa Y, trường Đại học Tổng hợp Mát-xcơ-va, Sê-khốp vừa làm bác sĩ nông thôn vừa viết báo viết văn, đồng thời tham gia nhiều công việc xã hội, giáo dục, văn hóa.

 

- Năm 1887, ông được nhận Giải thưởng Pu-skin của Viện Hàn lâm khoa học Nga.

- Năm 1900, Sê-khốp được bầu làm Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm khoa học Nga.

- Một số tác phẩm:

  • Truyện ngắn và truyện vừa: Anh béo và anh gầy, Con kỳ nhông, Phòng số 6, Đảo Xa-kha-lin…
  • Kịch: Hải âu, Cậu bé Va-nhi-a, Ba chị em, Vườn anh đào…

=> Sê-khốp là đại biểu lớn cuối cùng của văn học hiện thực Nga nửa cuối thế kỉ XIX, nhà cách tân thiên tài về thể loại truyện ngắn và kịch nói.

2. Tác phẩm

Hoàn cảnh sáng tác

- Người trong bao (1898) được sáng tác trong thời gian nhà văn dưỡng bệnh ở I-an-ta trên bán đảo Crưm, biển Đen.

- Lúc bấy giờ, xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế nặng nề cuối thế kỉ XIX. Môi trường xã hội đã đẻ ra lắm kiểu người kỳ quái.

- Nguyễn Tuân từng ca ngợi: “Truyện Bê-li-cốp là một áng văn đả kích lên tuyệt đỉnh: hình thù, tên họ nhân vật đã thành một cái sự, đã thành một hình dung từ ngày nay vẫn còn tác dụng lớn”.

3. Bố cục

- Mở truyện: cuộc trò truyện ở gần nhà kho giữa bác sĩ thú y và thầy giáo

- Thân truyện: chân dung và tính cách nhân vật Bê-li-cốp

- Kết truyện: nhận xét của bác sĩ thú y- người nghe truyện

4. Tóm tắt

 Bê-li-cốp là một giáo viên dạy tiếng Hi Lạp ở thành phố nhỏ nước Nga, ông nổi tiếng với phong cách ăn mặc hết sức đặc biệt. Quanh năm ông đều đi giày cao su, cầm ô và luôn luôn phải mặc thêm áo bành tô ấm cốt bông. Ông luôn để những dụng cụ cá nhân của mình vào một cái bao. Bê-li-cốp khát khao thu mình vào trong một cái vỏ, tạo cho mình một vỏ bọc để ngăn cách bảo vệ bản thân không phải chịu những ảnh hưởng, tác động từ bên ngoài. Vì nó là cuộc sống khiến Bê-li-cốp cảm thấy khó chịu và sợ hãi vì vậy, ông luôn có ý nghĩ không thực, luôn ngợi ca quá khứ, mơ tưởng về những thứ không tồn tại. Ngay cả ý nghĩ ông cũng sợ có người biết được, ông luôn cố giữ như cất giấu vào bao. Bê-li-cốp có thói quen rất kì quặc đó là đi hết nhà các giáo viên cùng dạy. Đến bất kỳ nhà nào, ông cũng kéo ghế ngồi rồi chẳng nói bất kỳ điều gì, chỉ nhìn xung quanh như đang tìm kiếm thứ gì đó, khoảng một giờ sau thì ông ra về. Ai cũng sợ ông, từ giáo viên đến hiệu trưởng, hiệu phó. Tuy sống cô đơn, một mình, nhưng ông cũng nghĩ đến việc sẽ cưới vợ. Và người đó là Va-ren-ca, là chị gái của Cô-va-len-cô, giáo viên trẻ mới ra trường. Có người đã gửi cho Bê-li-cốp một bức tranh châm biếm. Ngày chủ nhật hôm sau, Bê-li-cốp chứng kiến cảnh hai chị em Va-ren-ca phóng xe vút qua khiến Bê-li-cốp vô cùng ngạc nhiên và hoảng hốt. Nên tối hôm đó, Bê-li-cốp đã đến nhà Va-ren-ca để góp ý hai chị em họ. Hai người họ cãi nhau, Bê-li-cốp dọa sẽ báo cáo sự việc này với hiệu trưởng nên Cô-va-len-cô đã túm áo và xô mạnh khiến Bê-li-cốp ngã nhào xuống cầu thang. Va-len-ca cười lớn, làm Bê-li-cốp cảm thấy nhục nhã vội vàng trở về nhà. Một tháng sau, Bê-li-cốp qua đời, mọi người cảm thấy nhẹ nhõm nhưng không lâu sau, lối sống cũ đã trở lại vì tính cách của Bê-li-cốp đã ảnh hưởng quá lớn đối với mọi người.

5. Phương thức biểu đạt

- Tự sự, miêu tả, biểu cảm

6. Thể loại

- Truyện ngắn

7. Ngôi kể

- Ngôi thứ nhất

8. Giá trị nội dung

- Qua hình tượng người trong bao tác giả phê phán sâu sắc lối sống hèn nhát, bạc nhược, bảo thủ và ích kỉ của một bộ phận tri thức Nga cuối thế kỉ XIX

- Từ đó nhà văn khẩn thiết thức tỉnh mọi người: Không thể sống mãi như thế được

9. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật điển hình, giọng kể chậm dãi vừa giễu cợt vừa châm biếm, mỉa mai, u buồn

Sơ đồ tư duy Phân tích truyện ngắn Người trong bao

Phân tích truyện ngắn Người trong bao của Sê-khốp năm 2021

Dàn ý chi tiết Phân tích truyện ngắn Người trong bao

1. Mở Bài:

- Sê-khốp - nhà văn suất sắc của nền văn học Nga thế kỉ XIX,nhắc đến sê-khốp người ta nghĩ ngay đến những tác phẩm đã đi vào lịch sử văn học Nga và nhân loại như 1 kiệt tác. Sê-khốp đã để lại cho đời hơn 500 truyện ngắn. Truyện của ông thường đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa cho xã hội và nhân bản sâu sắc

2. Thân Bài:

- Truyện ngắn "Người trong bao" được sê-khốp viết trong 1 bối cảnh xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề cuối thế kỉ XI X. Đọc người trong bao có lẽ người đọc sẽ nhớ mãi hình ảnh cái bao vô hình mà Bêlicốp mang trong mình từ ngoại hình, trang phục

- mọi đồ dùng đều ở trong bao: chiếc đồng hồ, con dao, cái ô, thuốc...

- trang phục: kín mít cố che giấu hết con người của mình. Chân đi giày cao su, đội mũ lụp xụp.

- phòng ngủ của bêlicốp: kín như 1 cái hộp , khi ngủ thì đắp kín chăn

=> Belicop luôn muốn thu mình trong 1 cái vỏ bọc

* Lối sống của Bêlicốp:

- Belicop luôn làm theo những thông tư, chỉ thị nghị quyết hết sức máy móc dập khuôn. Bởi vì hắn luôn sợ hãi , làm theo nghị quyết là để được an toàn.

- đặc biệt Belicop luôn cho rằng mình sống đúng, sống mẫu mực, y luôn săm soi người khác, rình mò họ, ai có biểu hiện sống khác y là y hăm dọa, rồi đi báo cáo thanh tra, cấp trên, Belicop trở thành nỗi sợ hãi của tất cả mọi người.

- ngay cả việc chọn nghề Belicop cũng chọn sự an toàn, dạy tiếng Hy Lạp cổ,1 môn học không có gì sai, không có gì mới. Mối tình với va-ren-ca

- Belicop yêu Va-ren-ca 1 cô gái xinh đẹp ở thành phố về, Bêlicốp yêu tha thiết, cháy bỏng trong lòng,nhưng khi bị mọi người phát hiện trêu chọc, y lại sợ hãi đến mức không thể bày tỏ tình yêu.

- khi nhìn thấy Va-ren-ca đi xe đạp Bêlicốp sợ hãi đến mức tan biến cả tình yêu

- Bêlicốp cấm Cô-va-len-cô không được sống như thế, doạ sẽ đi báo thanh tra, khiến cô Va-len-cô nổi đóa, xô ngã Belicop xuống cầu thang. Đúng lúc đó Va-ren-ca nhìn thấy và cười oà lên, Belicop sợ hãi đến mức ốm và chết.
 * Cái chết của Bê Li Cốp:

- khi Belicop chết, gương mặt hắn mãn nguyện bởi vì từ nay được chui vào trong cái bao vĩnh viễn.

- lối sống của Bêlicốp là do sự hèn nhát và hà khắc của xã hội, nhân vật Bêlicốp đáng thương hơn đáng trách....

3. Kết Bài:

- Từ đó nhà văn đã lên tiếng phản đối xã hội, chính sự hà khắc của luật lệ, của chính quyền chuyên chế, đã giết chết sáng tạo làm cho con người ta luôn sợ cấp trên, không dám có ý nghĩ của riêng mình. Tâm lý hèn nhát ấy đã lây lan cho tất cả mọi người, người ta sợ Bêlicốp tố cáo với cấp trên, sợ đến mức họ không dám làm gì nữa.

- Những việc như diễn kịch, ăn thịt không dám làm, ngay cả những việc tiến bộ như viết thư làm quen, đọc sách... Lối sống ấy đã kìm hãm biến cuộc sống con người thành địa ngục, tác phẩm là lời kêu gọi, phải có được 1 cuộc sống khác mà trước hết phải thay đổi xã hội.

Video bài văn mẫu Phân tích Người trong bao

Bài văn mẫu: Phân tích truyện ngắn Người trong bao – mẫu 1

Sê-khốp (1860-1904) là một trong những cây đại thụ của rừng văn học Nga, đã để lại nhiều kịch bản và hơn năm trăm truyện ngắn. Tác phẩm của Sê-khốp làm hiện lên toàn cảnh xã hội nước Nga cuối thế kỉ XIX ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thủ nặng nề dưới thời Sa hoàng.

Truyện ngắn "Người trong bao" được Sê-khốp viết vào năm 1898. Qua nhân vật Bê-li-cốp, tác giả châm biếm và đả kích người trí thức Nga sống tầm thường, hủ lậu, hèn nhát và giáo điều, đê tiện và dung tục; đồng thời chỉ ra lối sống ấy đã để lại nhiều di hại đầu độc tâm hồn người, đầu độc cuộc sống, gây ảnh hưởng và hậu quả nặng nề, dai dẳng trong xã hội nước Nga. Cái bao mang hàm nghĩa về một kiếp người, một lối sống, một xã hội đen tối, tù túng, nặng nề mà không sao thoát ra được, chết rồi cũng không thoát ra được!

Cuộc đời của anh giáo chức tỉnh lẻ Bê-li-cốp là những trang hài, là một bức tranh biếm hoạ cười ra nước mắt. Chả thế mà cô giáo Va-ren-ca đã "cười phá lên" khi Bê-li-cốp bị xô ngã "lộn nhào" xuống chân cầu thang, và cô đã "oà lên khóc" khi hắn đã nằm trong bao đi chầu âm phủ !

Bê-li-cốp, giáo viên trung học dạy tiếng Hi Lạp cổ. Hắn quen sống trong tù túng, nô lệ. Với hắn thì "nếu không có chỉ thị nào cho phép thì ta không được làm. Hắn sống vì quá khứ, như một kẻ mang bệnh tâm thần, lúc nào cũng sống trong tâm trạng "sợ hãi", "lo âu", "nhút nhát" . Hắn chỉ có một chút niềm vui do bệnh nghề nghiệp sinh ra. Hắn nói "ngọt ngào”: "Ôi, tiếng Hi Lạp nghe thật tuyệt vời êm tai", rồi "nheo mắt lại", "giơ một ngón tay lên" và thốt ra tiếng: "An-thro-pos”. Phải chăng lúc đó gã Bê-li-cốp hạnh phúc nhất. Chắc lúc ấy hắn đã thò đầu ra khỏi cái bao trong khoảnh khắc!

Bê-li-cốp sống một cách kì quặc, vừa lập dị vừa lẩm cẩm. Con người hắn cuộc đời hắn, từ cử chỉ, hành động đến ngôn ngữ sinh hoạt. Hắn như đã bị cầm tù, đã bị nhốt vào bao. Quanh năm suốt tháng, nắng mưa, ngay cả mùa hạ hắn vẫn khoác áo bành tô ấm cốt bông! Lúc nào chân cũng đi giày cao su. Chiếc ô, đồng hồ quả quýt, con dao nhỏ để gọt bút chì... tất cả đều đút trong bao. Ngồi xe ngựa, hắn bắt phải hạ mui xe. Bộ mặt hắn cũng được giấu kín trong bao, đó là cái cổ áo bành tô cổ bẻ. Lỗ tai hắn cũng nhét bông. Mọi ý nghĩ, hắn "cũng giấu vào bao". Với hắn thì cái bao là một thứ vỏ bọc để "ngăn cách, bảo vệ hắn khỏi những ảnh hưởng bên ngoài". Nhưng thật hài hước, đầu óc hắn cũng chỉ là một cái bao cổ hủ để bọc lấy những chỉ thị, thông tư, những bài báo quy định cấm đoán điều này điều nọ mà hắn cho là "rõ ràng". Hắn vừa hèn vừa đáng thương! Hắn thật tội nghiệp!

Qua các chi tiết nói về cái bao, Sê-khốp châm biếm một loại "linh hồn chết" trong xã hội Nga cuối thế kỉ XIX, đó là loại trí thức sống lạc hậu, cổ hủ, nô lệ, mù quáng, sống cuộc đời chật hẹp, quẩn quanh tù túng.

Cách sống của Bê-li-cốp cũng rất kì lạ. Hắn có một thói quen "kì quặc". Hắn thường đến các nhà giáo viên, như hắn nói đến để "duy trì những mối quan hệ tốt với bạn bè". Nhưng hắn đến mà "chẳng nói chẳng rằng", cứ “ngồi im như phỗng", mắt thì nhìn quanh "như tìm kiếm vật gì", độ một giờ sau thì cáo từ. Tính hắn hâm hay hắn là một mật vụ lân la dò xét? Vì thế, giáo viên nào trong trường cũng sợ hắn. Cả hiệu trưởng, oai quyền thế cũng sợ hắn. Cả thành phố đều sợ hắn. Các bà, các cô không dám diễn kịch vào tối thứ bảy vì sợ rằng "nhỡ hắn biết thì lại phiền". Giới tu hành không dám ăn thịt và đánh bài khi có mặt hắn. Bê-li-cốp như một bóng ma, một hung thần gieo rắc sợ hãi, làm cho dân chúng trong thành phố suốt một thời gian dài mười lăm năm trời “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, sợ giúp đỡ người nghèo, sợ dạy học chữ...".

Sê-khốp đã chỉ ra và cho thấy loại người trong bao, lối sống trong bao thật vô cùng đáng sợ. Loại người ấy, lối sống ấy đã toả chiết tâm hồn người, bao phủ lên khắp mọi nơi một bóng đen đáng sợ.

Vì quanh năm suốt tháng tự nhốt mình trong bao nên Bê-li-cốp sống như một người bệnh tưởng, trầm cảm. Hắn sợ ánh sáng, sợ bóng tối, sợ trộm vào nhà, sợ lão nấu bếp cắt cổ hắn. Nhà lúc nào cũng đóng chặt cửa, cài then, chăn trùm đầu kín mít lúc ngủ, ở nhà mùa hè cũng như mùa đông, lúc nào hắn cũng mặc áo khoác ngoài. Suốt đêm, "hắn toàn mơ những điều khủng khiếp" vì thế buổi sáng đến trường, mặt hắn "tái nhợt, rầu rĩ" một cách thảm hại! Lối sống đó là sống khổ, sống mà như chết. Bê-li-cốp đã tự cầm tù mình, đày đọa mình, gây đau khổ cho thân mình. Hắn thật đáng thương hại.

Hóm hỉnh và ý vị biết bao khi Sê-khốp nói về bi kịch ái tình của người trong bao. Cô giáo Va-ren-ca khoảng ba mươi tuổi mới về trường, thế là nữ thần ái tình đến gõ trái tim Bê-li-cốp. Trên bàn trong ngôi nhà "chật như cái hộp", hắn trân trọng đặt tấm ảnh người đẹp. Ý định lấy vợ choáng ngợp tâm hồn hắn, nhưng vì quen sống trong bao nên hắn cứ lần lữa đắn đo, suy tính, lúc nào mặt mày cũng nhợt nhạt đáng thương. Hắn bị gán ghép, rồi hắn có vẻ thích Va-ren- ca... Thế là bức tranh biếm hoạ "An-thro-pos si tình" (kẻ si tình) được gửi đến tất cả các giáo viên ở hai trường nam nữ, giáo viên chủng viện, các viên chức và cả Bê-li-cốp nữa. Bức biếm hoạ mới gợi tình làm sao: hình ảnh "Bê-li-cốp đang đi, chân xỏ trong giày mưa, quần túm ống, tay cầm ô, tay khoác tay Va-ren-ca". Chà! Người trong bao lãng mạn và đa tình quá! Nhưng Bê-li-cốp lại bị sốc, bị bức tranh châm biếm gây cho hắn "một ấn tượng nặng nề".

Sê-khốp đã tạo nên những chi tiết điển hình, những tình huống điển hình để khắc họa tính cách của Bê-li-cốp người trong bao. Dư vị chua cay, hài hước của câu chuyện càng trở nên hấp dẫn, lôi cuốn.

Bê-li-cốp chẳng gặp "hên" một chút nào! Ngày chủ nhật, mùng một tháng năm hôm ấy, thầy trò cả trường trung học tổ chức cùng đi ra ngoài thành phố vào rừng chơi. Nhưng anh chàng Bê-li-cốp đã bỏ về giữa chừng. Giữa đường hắn bất ngờ thấy hai chị em Va-ren-ca cưỡi xe đạp phóng qua. Cô chị "mặt mày ửng đỏ... vui vẻ, hớn hở" gào to: "Trời hôm nay đẹp thật, đẹp tuyệt, đẹp ghê gớm!". Bê-li-cốp "ngẩn người ra", như bị choáng, bị ma ám: "Mặt mày đang từ xanh mét chuyển sang trắng bệch". Người trong bao phàn nàn, trách cứ: "Chẳng lẽ giáo viên và đàn bà, con gái lại có thể cưỡi xe đẹp, làm như thế coi sao tiện?".

Phải chăng hắn là một kẻ cổ hủ đáng cười? Phải chăng hắn là một nhà mô phạm đang bảo vệ nên đạo đức chính thống?

Suối ngày hôm sau, người trong bao đau khổ dằn vặt, bực dọc, toàn thân run lên", thậm chí hắn bỏ cả buổi lên lớp, bỏ cả cơm trưa. Tối hôm đó, dù đang tiết mùa hạ, nhà đạo đức bèn "mặc áo ấm" lần mò đến nhà hai chị em Va-ren- ca. Cô chị đi vắng, hắn chỉ gặp được người em. Hắn thật thà thanh minh về bức tranh châm biếm. Hắn khẳng định nhân cách "tử tế, đứng đắn" của mình. Lấy tư cách là "bạn đồng nghiệp đi trước", hắn nhắc nhở kẻ "mới bắt đầu đi làm" đôi điều. Hắn chê trách việc đi xe đạp của hai chị em Va-ren-ca "hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên". Hắn cảnh cáo việc đi xe đạp ấy là thiếu gương mẫu, là trái pháp luật, trái nội quy vì "chưa có chỉ thị nào cho phép thì không được làm". Hắn bày tỏ thái độ nào là "phát kinh lên", nào là mắt hoa lên" khi nhìn thấy cảnh đàn bà, con gái đi xe đạp! Hắn khuyên nhủ Cô- va-len-cô phải xử sự "thận trọng", không được buông thả quá chừng như mặc áo thêu ra đường, trong tay còn cầm sách này nọ, lại còn cưỡi xe đạp nữa. Hắn nhắc nhở nếu chuyện ấy đến tai ông hiệu trưởng, ông thanh tra thì "còn ra cái thể thống gì”.

Khi bị Cô-va-len-cô cự lại, hắn răn dạy: "Anh cần phải có thái độ kính trọng đối với chính quyền". Hắn doạ "sẽ báo cáo với ngài hiệu trưởng nội dung câu chuyện" đã xảy ra mà hắn đã nói với Cô-va-len-cô.

Cuộc đôi co diễn ra. Cô-va-len-cô “thô bạo" chỉ vào mặt Bê-li-cốp và bảo hắn là "tên mách lẻo”, rồi túm lấy cổ áo hắn, tống cổ ra khỏi nhà. Người trong bao "lộn nhào xuống chân cầu thang”. Sự việc diễn ra đầy kịch tính. Khi Bê-li- cốp "sờ lên mũi xem cặp kính có còn nguyên vẹn không", thì hai người đàn bà và Va-ren-ca bỗng từ đâu xuất hiện, nhìn thấy. Bê-li-cốp đau khổ cảm thấy thà "tự vặt cổ” còn hơn là biến thành trò cười cho thiên hạ. Hắn vô cùng lo sợ câu chuyện sẽ đến tai ngài hiệu trưởng, ngài thanh tra. Người ta sẽ vẽ tranh châm biếm hắn, sẽ ép hắn về hưu...

Có bao chi tiết bi hài. Nhất là khi Va-ren-ca "cười phá lên vang khắp khu nhà". Tiếng cười "ha-ha-ha!" lảnh lót, âm vang ấy "đã chấm dứt tất cả”: "chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt cả cuộc đời của Bê-li-cốp". Cái ngã của Bê-li-cốp xuống chân cầu thang, điệu cười "lảnh lót" của Va-ren-ca có giá trị và ý nghĩa phê phán một cách chua cay lối sống giáo điều, dung tục của hạng người trong bao. Kẻ hủ lậu lên mặt đạo đức giả, dạy đời bằng bài học luân lý cổ lỗ đã bị Sê- khốp châm biếm qua một tình huống bi hài.

Chỉ một tháng sau bị xô ngã, Bê-li-cốp chết. Trước khi đi chầu Diêm Vương, hắn không quên cất tấm ảnh Va-ren-ca để trên bàn đi. Hắn nằm trong quan tài với vẻ mặt "hiền lành, dễ chịu, tươi tỉnh". Phải chăng hắn "mừng" vì được "chui vào cái bao" vĩnh viễn. Đám ma hắn được cử hành trong một buổi , trời mưu dầm âm u". Lúc hạ huyệt, Va-ren-ca "bỗng oà lên khóc". Nàng khóc vì thương tiếc một thiên tình sử chăng? Nàng khóc vì thương hại một con người bảo thủ, cổ hủ từng làm trò cười cho thiên hạ chăng?

Sau khi Bê-li-cốp chết, lúc đầu ai cũng cảm thấy nhẹ nhàng, thoải mái. Nhưng rồi chưa đầy một tuần sau, ai cũng cảm thấy "nặng nề, mệt nhọc, vô vị" vì cuộc sống đã lại diễn ra như cũ, "chẳng tốt đẹp gì hơn trước". Một Bê-li-cốp chết, một người trong bao đã về chầu âm phủ nhưng còn lại bao nhiêu người trong bao, và "trong tương lai cũng sẽ còn bao nhiêu người như thế nữa!". Sê- khốp đã chỉ rõ: lối sống tầm thường, hủ lậu, giáo điều, dung tục đã đầu độc con người, đầu độc cuộc sống, sẽ gây bao hậu quả nặng nề, sẽ tồn tại dai dẳng trong xã hội Nga những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX.

Mọi quái thai, mọi ung nhọt trong xã hội xưa nay đâu dễ một sớm một chiều mà tiệt nọc, mà bị quét sạch! Một Bê-li-cốp chết đi nhưng sẽ còn lại bao nhiêu Bê-li-cốp nữa. Chí Phèo đã ngoẻo nhưng Thị Nở vẫn còn, và cái lò gạch cũ vẫn còn đó. Cái loại người "mũ nỉ che tai", “vòi rụt cổ", "hủ lậu mà tinh tướng" thời nào, xã hội nào chẳng có!

Phải biết coi khinh lối sống cổ hủ, coi khinh tính cách bọn người trong bao. Phải biết sống và dám sống với tinh thần tự chủ, sống có trí tuệ và đạo đức của con người mới. Đọc truyện "Người trong bao", ta tự hỏi bản thân mình phải sống như thế nào cho đáng sống:

Sê-khốp đã có một lối viết khá hấp dẫn. Diễn biến câu chuyện được kể một cách tự nhiên, chân thực và sinh động. Nhân vật Bê-li-cốp từ vật dụng, cử chỉ, hành động, ý nghĩ đến lối sống được thể hiện bằng nhiều chi tiết rất điển hình. Hắn là sản phẩm tất yếu của một xã hội tù túng, trì trệ.

Nhân vật Va-ren-ca là một nét vẽ tương phản đầy ấn tượng. Nàng yêu đời, sống hồn nhiên, hay hát, hay cười, động một tí là cười phá lên. Cuộc sống tự do, phóng túng của hai chị em Va-ren-ca đã làm xao động cái không khí buồn thảm nơi tỉnh lẻ và đã làm "rách nát" cái bao của Bê-li-cốp, đẩy hắn ta xuống nằm yên trong quan tài - cái bao nơi âm phủ. Bức tranh biếm hoạ, cái ngã cầu thang, cái chết lặng lẽ và đám ma của Bê-li-cốp có giá trị và ý nghĩa phê phán, châm biếm sâu cay.

"Người trong bao" là một truyện ngắn đầy dư vị đưa độc giả "tự đi tìm bóng mình và soi vào bóng người" để mà sống có ý nghĩa hơn như văn hào Lỗ Tấn đã nói.

Bài văn mẫu: Phân tích truyện ngắn Người trong bao – mẫu 2

An – tôn Páp – lô – vích Sê – khốp là nhà văn Nga kiệt xuất, ông sinh ra và lớn lên trong một gia đình buôn bán nhỏ ở thị trấn Ta – gan – róc bên bờ biển A – dốp. Ông đã để lại hơn 500 truyện ngắn và truyện vừa, trong đó có nhiều tác phẩm đặc sắc. Những tác phẩm của ông rất giản dị nhưng lại đặt ra nhiều vấn đề có ý nghĩa xã hội. Người trong bao là truyện ngắn nổi tiếng của ông, câu chuyện kể về một con người mắc chứng bệnh sợ hãi, sống, chết đều thảm hại.

Truyện kể về nhân vật Bê – li – cốp, một giáo viên dạy tiếng Hi Lạp có cuộc sống dị thường và tôn sùng quá khứ. Anh ta mắc chứng sợ hãi nên không bao giờ dám bộc lộ ý nghĩa cá nhân của mình trước người khác. Anh ta thường đi giày cao su, che ô, mặc quần áo kín mít, đeo kính đen, đêm ngủ thì trùm chăn kín mít cả mặt để tạo cảm giác an toàn. Trong một lần, Bê – li – cốp định ngỏ lời cầu hôn với Va – ren – ca, chị gái của đồng nghiệp thì đã có kẻ nào đó vẽ bức tranh châm biếm về anh. Hôm sau thì anh ta lại nhìn thấy Va – ren – ca cùng Cô – va – len phóng xe rất nhanh ở ngoài đường, anh đến để góp ý nhưng đã khiến cho Cô – va – len nổi nóng rồi đẩy anh xuống cầu thang khiến anh ngã lộn nhào. Vừa lúc đó thì Va – ren – ca về, cô nghĩ anh tự ngã nên đã đứng cười một cách nhạo bang. Từ đó khi ai hỏi anh ta gì thì anh ta chỉ trả lời có hoặc không, một tháng sau thì anh ta chết.

Trong nhà đề, tác giả đã đặt cho đứa con tinh thần của mình là “Người trong bao” chỉ với 3 từ ngắn ngủi nhưng nó đã hiện lên một phong thái của một con người ẩn dật, lo sợ, lúc nào cũng cần một cái gì đó che chắn, bảo vệ mình khỏi bị ảnh hưởng bởi những thứ đến từ bên ngoài. Cái bao đó là tác giả muốn đặt tới với nhân vật Bê – li – cốp để nói lên tính cách, lối sống phổ biến trong tầng lớp trí thức Nga cuối thế kỉ XIX.

Câu chuyện xoay quanh một con người với cuộc sống khép kín và tư tưởng cổ hủ đến lạc hậu vì nỗi sợ hãi và chẳng chịu chia sẻ với ai. Đó không phải là một cuộc sống tốt đẹp, nó khiến cho con người dễ rơi vào trạng thái trầm cảm và sợ hãi với mọi thứ. Có thể khái quát con người và tính cách cửa Bê-li-cốp bằng những hình ảnh, từ ngữ như hèn nhát, cô độc, máy móc, giáo điều, thu mình trong “bao”, trong vỏ ốc và cảm thấy yên tâm, mãn nguyện về lối sống đó.

Ngoại hình của nhân vật Bê – li – cốp được tác giả khắc họa “hắn đều đi giày cao su, cầm cái ô và nhất thiết là mặc áo bành tổ ấm cốt bông”, “ô hắn để trong bao, chiếc đồng hồ quả quýt cũng để trong bao; và khi rút chiếc dao nhỏ để gọt bút chì thì chiếc dao ấy cũng được đặt trong bao. Cả bộ mặt hắn ta nữa, dường như cũng để trong bao vì lúc nào hắn cũng giấu mặt sau chiếc cổ áo bành tô bè dựng đứng lên”. “Hắn đeo kính râm, mặc áo bông chần, lỗ tai nhét bông và khi ngồi trong xe ngựa thì bao giờ cũng cho kéo mui lên”. Mới qua vài dòng viết về nhân vật, ta đã cảm thấy một con người dị thường luôn sợ hãi với mọi thứ xung quanh mình.

Hắn có một thói quen mà tác giả viết “hắn đến nhà giáo viên nào đó chẳng hạn, kéo ghế ngồi, chẳng nói chẳng rằng…” chính là cách mà hắn giữ mối quan hệ với giáo viên trong trường.

Tính cách của hắn thì là con người thích áp đặt, biểu hiện rõ nhất trong cuộc đối thoại với Cô – va – len khi nhìn thấy chị em cô phóng xe nhanh đi trên phố. Hắn nói: “Tôi thì vào nghề đã lâu, còn anh thì mới bắt đầu đi làm, nên với tư cách là bạn đồng nghiệp đi trước, tôi thấy có nghĩa vụ phải nhắc nhở với anh đôi điều. Anh đã đi xe đạp và cái trò giải trí ấy hoàn toàn không hợp với tư thế của một nhà giáo dục thiếu niên”. Một con người có suy nghĩ áp đặt tư tưởng và buộc người khác phải tuân theo đến cổ hủ, đến không biết đúng sai, đến mức khiến cho người khác khó chịu đến khôn cùng. Và hắn đã bị Cô – va – len đẩy xuống cầu thang vì quá bức bối và khó chịu với hắn.

Một con người lúc nào cũng sống theo kiểu bao che kín mít, không chịu hòa nhập với mọi người, với thiên nhiên, luôn luôn sợ hãi một điều gì đó sẽ ảnh hưởng với chính mình. Lúc nào cũng thu hẹp bộ não của mình trong những suy nghĩ tiêu cực và hèn nhát, quả là một con người trí thức nhưng tầm nhận thức quá hạn hẹp.

Bê – li – cốp đã biến cuộc sống của mình làm nỗi sợ hãi cho tất cả mọi người. “thế mà cái thằng cha quanh năm đi giày cao su và mang ô ấy đã khống chế cả trường học chúng tôi suốt mười lăm năm trời”. Cả thành phố cũng sợ hắn, cả các bà, các mẹ cũng sợ hắn, ngay cả giới tu hành khi gặp hắn cũng không dám ăn thịt hay đánh bài. Một lối sống xấu làm ảnh hưởng tới cuộc sống của rất nhiều người trong xã hội. Ngay cả những bản tính vốn có của người khác cũng bị hắn làm cho mất dần mất “sợ nói to, sợ gửi thư, sợ làm quen, sợ đọc sách, giúp đỡ người nghèo, dạy học chữ…”

Bê-li-cốp là một nhân vật điển hình sắc nét mà Sê-khốp đã xây dựng thành công trong truyện ngắn này – kiểu “người trong bao”, một sản phẩm của xã hội Nga đang ngạt thở trong bầu không khí chuyên chế bảo thu nặng nề cuối thế kỉ XIX.

Hắn chết, có lẽ cái chết do Cô – va – len xô hắn quá mạnh vì từ ngày hắn bị ngã đó, hắn cứ nằm im trên giường và không bao giờ dậy nữa. Nhưng sâu xa hơn đó chính là cái lối sống trong bao của hắn, hắn ngã, hắn bị Va – ren – ca cười đó chính là nỗi nhục lớn, chấm dứt chuyện cưới xin, chấm dứt luôn cả cuộc đời của hắn. Một câu gần cuối bài đã đưa con người ta vào những suy nghĩ triết lý sâu xa “Bấy giờ, khi nằm trong quan tài, vẻ mặt hắn trông hiền lành, dễ chịu, thậm chí còn có vẻ tươi tỉnh nữa, cứ hệt như hắn mừng rằng cuối cùng hắn đã được chui vào trong bao mà từ đó không bao giờ phải thoát ra nữa. Phải rồi, thế là hắn đã đạt được mục đích cuộc đời”.

Hình ảnh cái bao ở đây chính là cái vỏ bọc do con người tạo ra muốn xa lánh với thế giới bên ngoài, sống một cuộc sống bạc nhược, ích kỉ. Tư tưởng chủ đề của tác phẩm là phê phán lối sống hèn nhát, bảo thủ, ích kỷ của một bộ phận trí thức Nga cuối thế kỉ XIX.

Câu chuyện mang một ý nghĩa xã hội sâu sắc. Nguyễn Tuân từng ca ngợi: “Truyện Bê – li – cốp là một áng văn đả kích lên đến tuyệt đỉnh: hình thù, tên họ nhân vật đã thành một cái sự, đã thành một hình dung từ ngày nay vẫn còn tác dụng lớn”.

Tài liệu có 2 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống