Văn bản Một thời đại trong thi ca – Hoài Thanh - Ngữ văn lớp 11 - Nội dung, tác giả, tác phẩm

Tải xuống 2 3.5 K 1

Tài liệu nội dung chính bài Một thời đại trong thi ca Ngữ văn lớp 11 gồm 2 trang đầy đủ bố cục, tóm tắt, phương thức biểu đạt, thể loại, ngôi kể, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật giúp học sinh nắm được những nét chính của văn bản.

Một thời đại trong thi ca

Bài giảng: Một thời đại trong thi ca

T – Ngữ văn lớp 11 (ảnh 1) 

 Tìm hiểu chung về văn bản:

1. Văn bản Một thời đại trong thi ca

[...] Bây giờ hãy đi tìm cái điều ta cho là quan trọng hơn: tinh thần thơ mới.

Giá các nhà thơ mới cứ viết những câu như hai câu vừa trích trên này thì tiện cho ta biết mấy. Nhưng chính Xuân Diệu còn viết:

Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;
Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt.

Với một nhà thơ cũ tả cảnh thu lại có những câu nhí nhảnh và lả tơi:

Ô hay! Cánh cũng ưa người nhỉ!
Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?

Giá trong thơ cũ chỉ có những trần ngôn sáo ngữ, những bài thơ chúc tụng, những bài thơ vịnh hết cái này đến cái nọ, mà các nhà thơ mới lại chỉ làm những bài kiệt tác thì cũng tiện cho ta biết mấy. Khốn nỗi, cái tầm thường, cái lố lăng chẳng phải của riêng một thời nào và muốn hiểu tinh thần thơ cho đúng đắn, phải sánh bài hay với bài hay vậy.

Âu là ta đành phải nhận rằng trời đất không phải dựng lên cùng một lần với thế hệ chúng ta. Hôm nay đã phôi phai từ hôm qua và trong cái mới vẫn còn rớt lại ít nhiều cái cũ. Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau và muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể.

Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời nay – hay thơ mới – có thể gồm lại trong hai chữ tôi và ta. Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi. Nói giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta. Nhưng chúng ta hãy tìm những chỗ khác nhau.

Ngày thứ nhất – ai biết đích ngày nào – chữ tôi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, nó thực bỡ ngỡ. Nó như lạc loài nơi đất khách. Bởi nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ này: quan niệm cá nhân. Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân. Chỉ có đoàn thể: lớn thì quốc gia, nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả. Cũng có những bậc kì tài xuất đầu lộ diện. Thảng hoặc họ cũng ghi hình ảnh họ trong văn thơ. Và thảng hoặc trong văn thơ họ cũng dùng đến chữ tôi để nói chuyện với người khác. Song dầu táo bạo đến đâu họ cũng không một lần nào dám dùng chữ tôi để nói chuyện với mình, hay – thì cũng thế - với tất cả mọi người. Mỗi khi nhìn vào tâm hồn họ hay đứng trước loài người mênh mông, hoặc họ không tự xưng, hoặc họ ẩn mình sau chữ ta, một chữ có thể chỉ chung nhiều người. Họ phải cầu cứu đoàn thể để trốn cô đơn. Chẳng trách gì tác phẩm họ vừa ra đời, đoàn thể đã dành làm của chung, lắm khi cũng chẳng thèm ghi tên của họ. Ở phương Tây, nhất là từ khi có đạo Thiên Chúa, không bao giờ cá nhân lại bị rẻ rúng đến thế.

 

Bởi vậy cho nên, khi chữ tôi, với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Nó cứ luôn luôn đi theo những chữ anh, chữ bác, chữ ông đã thấy chướng. Huống bây giờ nó đến một mình!

Nhưng, ngày một ngày hai, nó mất dần cái vẻ bỡ ngỡ. Nó được vô số người quen. Người ta lại còn thấy nó đáng thương. Mà thật nó tội nghiệp quá!

Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiên ngang ngày trước. Chữ ta với họ to rộng quá. Tâm hồn của họ chỉ vừa thu trong khuôn khổ chữ tôi. Đừng có tìm ở họ cái khí phách ngang tàng của một thi hào đời xưa như Lý Thái Bạch, trong trời đất chỉ biết có thơ. Đến chút lòng tự trọng cần để khinh cảnh cơ hàn, họ cũng không có nữa:

Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt,
Cơm áo không đùa với khách thơ

Không biết trong khi rên rỉ như thế Xuân Diệu có nghĩ đến Nguyễn Công Trứ, một người đồng quận, chẳng những đã đùa cảnh nghèo mà còn lấy cảnh nghèo làm vui.

Nhưng ta trách gì Xuân Diệu! Xuân Diệu, nhà thơ đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại, chỉ nói cái khổ sở, cái thảm hại của hết thảy chúng ta.

Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, ta phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, ta điên cuồng với Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, ta đắm say cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên đã khép, tình yêu không bền, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn bơ vơ. Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận.

Cả trời thực, trời mộng vẫn nao nao theo hồn ta.

Thực chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn và nhất là xôn xao như thế. Cùng lòng tự tôn, ta mất luôn cả cái bình yên thời trước.

Thời trước, dầu bị oan khuất như Cao Bá Nhạ, dầu bị khi bỏ như cô phụ trên bến Tầm Dương, vẫn còn có thể nương tựa vào một cái gì không di dịch. Ngày nay lớp thành kiến phủ trên linh hồn đã tiêu tan cùng lớp hoa hoè phú trên thi tử. Phương Tây đã giao trả hồn ta lại cho ta. Nhưng ta bàng hoàng vì nhìn vào đó ta thấy thiếu một điều, một điều cần hơn trăm nghìn điều khác: một lòng tin đầy đủ.

Đó, tất cả cái bi kịch đương diễn ngấm ngầm, dưới những phù hiệu dễ dãi, trong hồn người thanh niên.

Bi kịch ấy họ gửi cả vào tiếng Việt. Họ yêu vô cùng thứ tiếng trong mấy mươi thế kỷ đã chia sẻ vui buồn với cha ông. Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt. Tiếng Việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua. Đến lượt họ, họ cũng muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng.

Nhưng do đó trong thất vọng sẽ nảy mầm hy vọng.

Chưa bao giờ như bây giờ họ hiểu câu nói can đảm của ông chủ báo Nam phong: “Truyện Kiều còn, tiếng ta còn; tiếng ta còn, nước ta còn”.

Chưa bao giờ như bây giờ họ cảm thấy tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt.

Chưa bao giờ như bây giờ họ thấy cần phải tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai.

2. Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Hoài Thanh (1909 - 1982), tên khai sinh là Nguyễn Đức Nguyên.

- Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo yêu nước.

- Quê ở xã Nghi Trung, huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.

- Khi còn đi học, ông từng tham gia phong trào yêu nước, bị thực dân Pháp bắt giam.

- Từ những năm 30 của thế kỉ XX, ông bắt đầu viết văn.

- Tháng 8 năm 1945, ông tham gia khởi nghĩa và làm Chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc ở Huế.

- Sau cách mạng, ông hoạt động chủ yếu trong ngành Văn hóa cứu quốc ở Huế.

- Hoài Thanh là nhà phê bình văn học xuất sắc nhất của văn học Việt Nam hiện đại.

- Năm 2000, ông được nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

- Một số công trình nghiên cứu: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Có một nền văn hóa Việt Nam (1946), Quyền sống của con người trong “Truyện Kiều” của Nguyễn Du…

2. Tác phẩm

Xuất xứ

- Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn Thi nhân Việt Nam, tổng hợp một cách sâu sắc phong trào thơ mới.

- Đoạn trích trong SGK thuộc phần cuối của bài tiểu luận.

3. Bố cục

- Phần 1 (từ đầu đến đại thể): đặt vấn đề tinh thần Thơ mới.

- Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): sự phân biệt thơ cũ và Thơ mới; cảm xúc chủ đạo của Thơ mới.

- Phần 3 (còn lại): niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của Thơ mới.

4. Tóm tắt

Văn bản được chia làm ba phần chính. Mở đầu văn bản tác giả Hoài Thanh đề cập đến cái khó khăn trên con đường đi tìm tinh thần trong thơ mới. Đối với tác giả điều này vô cùng khó khăn, trong cả việc đưa ra và so sánh các tác phẩm và đặt chúng trong bối cảnh của thời đại. Và tác giả đã giúp chúng ta nhận diện thơ mới và thơ cũ một cách khái quát nhất. Sau khi tìm được tinh thần thơ mới, tác giả đi vào cốt lõi làm nên tinh thần thơ mới đó chính là cái “tôi” cá nhân. Khi cái “tôi” xuất hiện thì quá xa lạ vì họ đã quá quen thuộc với cái “ta” chung và khá rộng. Vả lại cái “tôi” xuất hiện trong bối cảnh tăm tối của đất nước, cả bầu trời của dân tộc đang bị bao phủ bởi bóng ngoại xâm. Ông cũng nói đến cái tôi xuất hiện bởi các nhà tri thức tiểu tư sản như: Xuân Diệu, Huy Cận, Nguyễn Bính, Hàn Mặc Tử,.. lúc bây giờ cũng đi vào bế tắc, mất niềm tin khi đứng trước bối cảnh thời đại. Và những nhà thơ mới họ tìm lại niềm tin bằng cách gửi vào tình yêu tiếng việt. Họ tìm vào quá khứ, vào dĩ vãng để quên đi hiện tại bi thương. Cái bi kịch ngấm ngầm được các nhà thơ gửi vào tiếng Việt để chống chọi với hiện tại, để giữ lòng tin vào ngày mai.

5. Phương thức biểu đạt

- Nghị luận, biểu cảm

6. Thể loại

- Tiểu luận

7. Giá trị nội dung

- Tác phẩm đã nêu rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới: Lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ

8. Giá trị nghệ thuật

- Nghệ thuật lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo, văn phong tinh tế, tài hoa, giàu cảm xúc

Sơ đồ tư duy Phân tích Một thời đại trong thi ca 

Phân tích tác phẩm Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh năm 2021

Dàn ý chi tiết Phân tích Một thời đại trong thi ca

1. Mở bài

- Giới thiệu về Hoài Thanh: Hoài Thanh là nhà phê bình, nghiên cứu văn học xuất sắc tài hoa. Ông được bạn học yêu thích và ngưỡng mộ ở lĩnh vực phê bình thơ.

- Giới thiệu về tác phẩm: Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn “Thi nhân Việt Nam” - một công trình xuất sắc trong sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh đề cập đến nhiều vấn đề thơ Mới.

- Giới thiệu về đoạn trích: Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã nêu rõ đặc trưng tinh thần của thơ Mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó.

2. Thân bài

Phân tích theo bố cục 3 phần

2.1. Tác giả đưa ra tiêu chí xác định tinh thần cùng giá trị của thơ Cũ và Thơ mới: Là phải căn cứ vào cái đại thể và cái hay của mỗi thời.

- Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu lên nguyên tắc chung của việc đánh giá thơ Mới là chỉ căn cứ vào cái Hay của đại thể mỗi thời.

- Theo tác giả cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ Mới là:

+ Thơ Cũ, thơ Mới đều có bài hay, bài dở.

* Các nhà thơ Mới không chỉ viết ra những câu thơ hoàn hoàn cách tân, hiện đại mà vẫn gợi lại những hình ảnh thân thuộc muôn thuở của thơ ca truyền thống như Xuân Diệu:

Người giai nhân: bến đợi dưới cây

Tình du khách: thuyền qua không.

* Trong khi đó thơ Cũ lại có những câu “nhí nhảnh và lả lơi”.

Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ

Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?

Theo Hoài Thanh thời đại nào cũng có những tác phẩm hay, tác phẩm dở.

+ Cái khó thứ hai giữa thơ Cũ và thơ Mới vẫn có sự giao thoa, ảnh hưởng:

* Cái hôm nay phôi thai từ cái hôm qua, trong cái mới vẫn có cái cũ rơi rớt lại.

=> Từ đây nhà nghiên cứu đưa ra nguyên tắc nhận diện:

- Không căn cứ vào cục bộ và cái dở của thơ mỗi thời.

- Phải căn cứ vào cái đại thể, cái hay của mỗi thời.

=> Cách nhìn nhận của tác giả như vậy là khách quan khoa học và biện chứng.

Video bài văn mẫu Phân tích Một thời đại trong thi ca

2.2. Nêu ra đặc trưng tinh thần của thơ Mới.

Tinh thần thơ Cũ - chữ TA

Tinh thần thơ Mới - chữ TÔI

- Theo Hoài Thanh điều cốt lõi mà thơ Mới mang đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ chính là chữ TÔI - ý thức về bản thân.

- Khi tìm tòi đặc điểm của thơ Mới, tác giả luôn phân tích cái Tôi trong nhiều mối quan hệ để làm nổi rõ bản chất của nó. Đặt cái Tôi trong quan hệ với cái Ta để tìm ra những chỗ giống và khác nhau.

2.3.

a) Tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của chữ Ta và chữ Tôi trong thơ ca.

- Chữ “Tôi” chính là ý thức cá nhân

- Chữ “Ta” là ý thức cộng đồng.

=> Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại song song trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Thời trước, cái Ta lấn át nên cái Tôi không có cơ hội để nảy nở, còn thời nay cái tôi trỗi dậy giành quyền sống tự do. Phong trào thơ Mới nảy sinh chính từ sự trỗi dậy mạnh mẽ đó.

- Chữ “Ta” và chữ “Tôi” trong thơ Cũ và thơ Mới có gì khác nhau:

+ Chữ “Ta” trong thơ Cũ gắn liền với mối quan hệ gia đình, quốc gia, giống như giọt nước trong biển cả không có bản sắc riêng.

+ Chữ “Tôi”: bản sắc riêng, quan niệm cá nhân.

* Nhận xét lập luận:

- Các bước lập luận theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể. Trật tự mạch lạc, bảo đảm tư duy logic, sức thuyết phục cao.

b) Tác giả đề cập đến sự phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó.

- Chữ “Tôi” với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại “đáng thương” tội nghiệp bởi vì:

+ Thi nhân mất hết cái cốt cách hiện ngay ngày trước.

+ Cái Tôi đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh bơ vơ, muốn thoát nhưng không được: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ… Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.

- Âm điệu của câu văn lúc cân đối nhịp nhàng, lúc bất ngờ gấp gáp, lúc chùng xuống suy tư.

- Tác giả sử dụng rất nhiều tính từ, động từ chỉ trạng thái tâm lý giàu sức biểu cảm: rộng, sâu, lạnh…

- Phân tích sự tương phản giữa khát vọng thoát thân với thực tế tù túng, bi kịch thi sĩ lãng mạn:
 Thoát lên tiên - Động tiên đã khép

Phong lưu trong trường tình - Tình yêu không bền

Điên cuồng - Điên cuồng rồi tỉnh

Đắm say - Say đắm bơ vơ

=> Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ, giải tỏa bi kịch đời mình vào tiếng Việt, dồn tình yêu quê hương trong tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống, tìm về dĩ vãng làm chỗ dựa tinh thần.

3. Kết bài

- Bài tiểu luận hấp dẫn, lôi cuốn và làm rung động tâm hồn bao thế hệ người đọc bởi phương pháp luận khoa học, văn phong tài hoa, tinh tế, cách viết giàu hình ảnh, so sánh gợi liên tưởng Hoài Thanh đã giúp chúng ta thêm hiểu biết trân trọng và những sáng tạo của thơ Mới. Hoài Thanh xứng đáng là nhà phê bình xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

Bài văn mẫu: Phân tích tác phẩm Một thời đại trong thi ca - mẫu 1

Nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận, so sánh giữa thơ mới- thơ cũ, vài nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới; tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Ở mỗi góc cạnh của vấn đề, tác giả lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng kèm theo những ý kiến sắc sảo và tinh tế.

Tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Để khẳng định được tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ “ tôi”trong quá trình phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Nét chung của thơ cũ là thiên về cái “ta”, thiên về ý thức cộng đồng và để làm rõ ý thức này, Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng. ” Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Như vậy nhìn qua tất cả thì thơ cũ gồm cả chữ” ta”, họ cầu cứu đoàn thể để chống lại sự cô đơn.

Thơ mới lại nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân, “dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này “ đó là quan niệm cá nhân”.

Thứ ba là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên là sự xuất hiện và tiếp nhận của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm thì còn có rất nhiều sự bỡ ngỡ. Nó giống như một kẻ lạc loài ở nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Vì chúng ta đã quen nhìn cuộc sống trong mình có cái “ta”. Bây giờ, nó xuất hiện thì làm sao lại tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng theo thời gian, chữ “tôi” đó dần dần được chấp nhận và đã làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ của ban đầu.

Cuối cùng tác giả đã chỉ ra một hướng lớn trong phong trào thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi”:” đời của chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta lại đi tìm bề sâu”. “mất bề rộng” là không còn thiên về cái chung, cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu chính là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Tâm hồn của các nhà thơ thu mình trong chữ “tôi” nên luôn cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo cho nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát: “ chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”.

Cách dẫn dắt và lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất đòn bẩy để xác định nỗi thương không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. Thế đấy, nỗi buồn của thơ mới được hiện lên như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm.

Bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận rất khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa rất tinh tế với giọng văn của người trong cuộc cùng những chia sẻ đúng như quan niệm thi nhân “ lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt những khái niệm đó vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh biểu cảm. Các câu văn được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn cuốn hút người đọc. Chính điều này đã mang được tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn thật hợp lý, logic, ngôn ngữ đặc sắc, dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm có bài phê bình nào có thể làm được. Đoạn trích đã đi sâu tập trung giải thích cho sự ra đời và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấy thái độ trân trọng cổ vũ của tác giả, cho thấy sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm lòng của nhà thơ mới đối với toàn dân tộc ta

Bài văn mẫu: Phân tích tác phẩm Một thời đại trong thi ca - mẫu 2

Hoài Thanh là một nhà phê bình được đánh giá là một nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học xuất sắc nhất. Cuốn sách nổi tiếng “một thời đại trong thi ca” là tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi nhân Việt Nam. Đó cũng chính là một trong những công trình xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của tác giả. Và cũng dễ nhận thấy được nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận và có cả những sự so sánh giữa thơ mới- thơ cũ. Trong tác phẩm đó cũng chính là một vài nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới. Ta có thể nhận thấy được đó chính là cái tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Và ở mỗi góc cạnh của vấn đề, tác giả lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng kèm theo những ý kiến sắc sảo và tinh tế biết bao nhiêu.

Và ấn tượng với đoạn mở đầu cho đoạn trích thì tác giả đưa ra để xác định cho thơ mới. Ta như thấy được theo như Hoài Thanh thì muốn hiểu được thời đại thi ca thì phải có sự so sánh. Và cái sự so sánh này dường như cũng đã chỉ ra các cách xác định của tác giả luôn mang tính khoa học bởi vì chỉ những câu hay mới được trở thành thước đo để tính giá trị sản phẩm mà thôi. Điều thứ hai đáng nói ở đây có lẽ chính là phải như căn cứ vào tổng thể chứ không thể nhìn vào tiểu tiết. Nghĩa là phải dựa vào cái chung nhất sau đó mới có thể nói những cái riêng biệt và đơn lẻ ra để có thể tổng hợp và đánh giá sao cho chân thực nhất.

Và một điều đáng nói ở đây có lẽ chính là tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Cũng như là để khẳng định được tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ “ tôi”trong quá trình phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Ta như có thể thấy được chính những nét chung của thơ cũ là thiên về cái “ta”, thiên về ý thức cộng đồng và để làm rõ ý thức này. Đặc biệt hơn nữa là chính Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng”. Ta như thấy được chính xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Và khi nói về cá nhân thì dường như chính cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Như vậy, khi mà nhìn qua tất cả thì thơ cũ gồm cả chữ” ta”, họ cầu cứu đoàn thể để chống lại sự cô đơn như thật lạc long biết bao nhiêu.

Thơ mới dường như cũng đã như lại nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân,“dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay chính là một tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và có thể khẳng định rằng khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này “ đó là quan niệm cá nhân”.

Thứ ba đáng nói ở đây cũng chính là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên có thể nói đến chính là sự xuất hiện và tiếp nhận của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm thì còn có rất nhiều sự bỡ ngỡ. Nó dường như thật là giống như một kẻ lạc loài ở nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu biết bao nhiêu. Cũng chính vì chúng ta đã quen nhìn cuộc sống trong mình có cái “ta”. Bây giờ, chính cái “tôi” nó như lại xuất hiện thì làm sao lại tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng có thể nói cái “tôi” theo thời gian, chữ “tôi” đó dần dần được chấp nhận và đã làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ của ban đầu.

Cuối cùng ta cũng như đã thấy được chính tác giả đã chỉ ra một hướng lớn trong phong trào thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi” kia thì dường như đời của chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta lại đi tìm bề sâu”. “mất bề rộng” là không còn thiên về cái chung một sợi dây liên hệ như trước nữa. Và đó chính là cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu chính là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Ta có thể thấy được có lẽ chính tâm hồn của các nhà thơ thu mình trong chữ “tôi” nên luôn cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo cho nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu quả đúng là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát rất hay là“ chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”.

Có thể thấy được chính cách dẫn dắt và lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, cũng với sự so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất như để làm đòn bẩy để xác định nỗi thương không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. Thế đấy, ta như thấy được những nỗi buồn của thơ mới được hiện lên như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm như âm ỉ nhưng không lúc nào thôi mạnh mẽ cả.

Quả thực chính bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận rất khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa rất tinh tế với giọng văn của người trong cuộc. Và như cùng những chia sẻ đúng như quan niệm thi nhân như đã “ lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt hơn nữa ta có thể thấy ở đây đó chính là những khái niệm đó vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh biểu cảm. Các câu văn dường như cũng đã được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn cuốn hút người đọc. Có lẽ vì chính điều này đã mang được tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn của Hoài Thanh ta như thất được thật hợp lý, logic ,ngôn ngữ đặc sắc, dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm có bài phê bình nào có thể làm được.

Đoạn trích dường như đã đi sâu cũng như thật tập trung giải thích cho sự ra đời và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấy thái độ trân trọng cổ vũ của tác giả, đồng thời cũng đã như cho thấy sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm lòng của nhà thơ mới đối với toàn dân tộc ta vậy.

Tài liệu có 2 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống