Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tác phẩm Viếng lăng Bác gồm đầy đủ nội dung, dàn ý phân tích, bố cục, tóm tắt hay nhất. Tài liệu có 5 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Viếng lăng Bác Ngữ văn lớp 9.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Viếng lăng Bác – nội dung, dàn ý phân tích, bố cục, tóm tắt:
Bài giảng: Viếng lăng Bác
I. Vài nét về tác giả
- Viễn Phương ( 1928-2005) tên thật là Phan Thanh Viễn
- Quê quán: An Giang
- Sự nghiệp sáng tác:
+ Trong kháng chiến chống Pháp và Mĩ, ông hoạt động ở chiến trường Nam Bộ, là một cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mĩ cứu nước
+ Năm 1952, trường ca “ Chiến thắng Hòa Bình” của ông được giải nhì khi Nam Bộ tổ chức giải thưởng tổng kết văn học nghệ thuật
+ Khi Chi hội văn nghệ Nam Bộ được tổ chức ông được bầu làm Ban chấp hành.
+ Tác phẩm tiêu biểu: “Anh hùng mìn gạt”, “Như mây mùa xuân”, “Lòng mẹ”,…
- Phong cách sáng tác: Thơ của Viễn Phương giàu cảm xúc nhưng không bi lụy, thơ ông nền nã, thì thầm, bâng khuâng
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài thơ được viết vào tháng 4 năm 1976, khi cuộc kháng chiến chống Mĩ kết thúc thắng lợi, đất nước nước thống nhất, lăng Bác Hồ mới được khánh thành, Viễn phương ra Bắc thăm Bác, nhà thơ đã viết bài thơ này và được in trong tập “Như mây mùa xuân” năm 1978
2. Bố cục
- Khổ 1: Cảm xúc của tác giả trước không gian, cảnh vật bên ngoài lăng
- Khổ 2: Cảm xúc trước đoàn người vào lăng viếng Bác
- Khổ 3: Cảm xúc khi vào lăng, nhìn thấu di hài Bác
- Khổ 4: Những tình cảm, cảm xúc trước lúc ra về
3. Giá trị nội dung
- Bài thơ thể hiện lòng thành kính và niềm xúc động sắc của nhà thơ nói riêng và mọi người nói chung khi đến thăm lăng Bác
4. Giá trị nghệ thuật
- Bài thơ viết theo thể thơ bảy chữ, giọng điệu thơ trang trọng tha thiết, có nhiều hình ảnh thơ đẹp lãng mạn gợi nhiều xúc cảm
III. Dàn ý phân tích tác phẩm
1. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả Viễn Phương- là một cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời chống Mĩ cứu nước
- Vài nét về bài thơ “Viếng lăng Bác”- bài thơ là dòng cảm xúc nghẹn ngào của tác giả khi đến thăm lăng, nó còn là một nén hương thơm dâng lên chủ tịch Hồ Chí Minh
2. Thân bài
a. Niềm xúc động nghẹn ngào khi đến thăm lăng Bác (khổ 1)
- “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” : nhân dân miền Nam xưng con với Bác vì Bác như một người cha nhân hậu hiền từ
- Nhà thơ dùng từ “thăm”: nói giảm nói tránh để giảm nhẹ đi nỗi đau , mặc dù Bác đã đi xa nhưng trong tâm trí mỗi người Bác luôn sống mãi
- Từ láy “bát ngát” hiện lên trước mắt mà một màu xanh ngút ngàn trải dài và lan ra quanh lăng
- Hình ảnh hàng tre mang nghĩa thựclà những khóm tre quanh lăng nhưng còn mang nghĩa ẩn dụ chỉ phẩm chất con người Việt Nam bất khuất kiên cường, ngay thẳng có tinh thần yêu thương, đùm bọc
⇒ Tác giả đứng trước lăng bác với cảm xúc nghẹn ngào “ôi”, xưng hô “con”…
b. Cảm xúc trước đoàn người vào lăng viếng Bác ( khổ 2)
- Ẩn dụ “mặt trời “ : Bác là mặt trời của dân tộc mang ánh sáng ấm áp cho cuộc sống của dân tộc, đồng thời thể hiện niềm yêu mến kính trọng Bác
- Sử dụng điệp ngữ “ngày ngày”: chỉ thời gian vô tận, tấm lòng của người dân chưa bao giờ thôi nhớ Bác
- Hình ảnh ẩn dụ “tràng hoa” : chỉ những người vào lăng viếng Bác kết thành tràng hoa rực rỡ huy hoàng, mỗi người mang một bông hoa của lòng thành kính, sự yêu mến và niềm ngưỡng vọng lãnh tụ
- “bảy mươi chín mùa xuân”: là hoán dụ chỉ cuộc đời Bác đẹp như những mùa xuân, đó còn là tuổi thọ của Bác
⇒ Sự biết ơn công lao to lớn của chủ tịch Hồ Minh, niềm thành kính của người dân Việt Nam với vị lãnh tụ của dân tộc
c. Cảm xúc khi vào lăng, nhìn thấy di hài Bác (Khổ 3)
- “Giấc ngủ bình yên”: nói giảm nói tránh nhằm giảm đi nỗi đau, vừa thể hiện thái độ nâng niu, trân trọng giấc ngủ của Bác.
- “vầng trăng sáng dịu hiền”: nhân hóa chỉ ánh đèn tỏa ra từ lăng, đó cũng là ẩn dụ chỉ vẻ đẹp tâm hồn thanh cao của Người
- “Trời xanh”: ẩn dụ Bác trường tồn, vĩnh hằng cùng non sông đất nước
- Nhà thơ dùng nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi cảm giác “nghe nhói ở trong tim”, nhà thơ như nghe thấy nỗi đau cứ nhức nhối như cắt cứa trong tim mình
⇒ Cảm xúc trong lăng của nhà thơ với Bác thành kính mà xúc động
d. Những tình cảm, cảm xúc trước lúc ra về ( Khổ 4)
- “Mai về miền Nam thương trào nước mắt”: cảm xúc trực tiếp lưu luyến không muốn rời xa
- Phép liệt kê, ẩn dụ “con chim, đóa hoa, cây tre” cùng với điệp ngữ “muốn làm”: niềm dâng hiến tha thiết,mãnh liệt, muốn làm một điều gì đó vì Bác
- Hình ảnh cây tre được lặp lại tạo kết cấu đầu cuối tương ứng
⇒ Chủ thể “con” đến đây không xuất hiện thẻ hiện ước nguyện này không phải của riêng tác giả mà là của tất cả mọi người, của dân tộc ta đối với Bác
3. Kết bài
- Tổng kết những thành công về nội dung, nghệ thuật làm nên bài thơ:
+ Với thể thơ 8 chữ, giọng điệu thiết tha, sâu lắng, sử dụng linh hoạt các biện pháp tu từ quen thuộc, ngôn ngữ thơ giản dị mà cô đọng
+ Thể hiện niềm xúc động, thành kính, và nỗi đau xót của nhà thơ trước sự ra đi của Bác, ước nguyện là được ở mãi bên Bác, đang lên Bác tất cả lòng tôn kính và biết ơn…
Sơ đồ tư duy Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác
Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác – mẫu 1
"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha."
Nỗi mong chờ và ao ước của đồng bào miền Nam được Bác vào thăm không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ. Viễn Phương - nhà thơ trẻ miền Nam - được vinh dự ra thăm lăng Bác. Tác giả đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già dân tộc. Xúc động tận đáy lòng, Viễn Phương viết bài "Viếng lăng Bác". Đây là bài thơ gợi cho em niềm cảm xúc sâu xa nhất.
Cảm xúc đầu tiên mà em cảm nhận được từ bài thơ có lẽ vì bài thơ thể hiện được tình cảm chân thành và giản dị của đồng bào Nam Bộ muốn nhắn gửi, nhờ Viễn Phương nói hộ cùng Bác nỗi mong chờ và mong đợi Bác vào thăm.
Xúc động dạt dào, mở đầu bài thơ, tác giả viết:
"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre! Xanh xanh Việt Nam"
Tình cảm của nhà thơ rất chân thành và cũng rất gần gũi. Đối với người chiến sĩ miền Nam được ra thăm lăng Bác là một điều rất vinh dự. Nhưng không vì thế mà giảm mất tình yêu thương của tác giả đối với Bác. Câu thơ ấm áp tình người với cách xưng hô thân mật "con". Bởi tất cả mọi người đều là những người con trung hiếu của Bác, xem Bác như "là cha, là bác, là anh". Tình người bao la, giản dị, tình dân tộc đằm thắm mến yêu. Đoạn thơ đã tạo nên một không khí ấm áp, gần gũi.
Video bài văn mẫu Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác
Tác giả khéo léo chọn hình ảnh cây tre, hình ảnh thân thuộc của đất nước để mở bài thơ rộng hơn. Xa hơn nhưng cũng gần gũi hơn bao giờ hết. Nhắc đến hình ảnh cây tre, ta lại nghĩ tới đất nước, tới dân tộc Việt Nam với bao đức tính cao quý. Tre anh dũng trong chiến đấu, tre yêu thương giúp đỡ dân tộc, tre hi sinh cho thế hệ mai sau và tre cũng rất anh hùng bất khuất:
"Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường"
Tre đã vất vả, chịu nhiều nắng mưa nhưng vẫn hiên ngang đứng giữa trời xanh, như dân tộc ta không bao giờ khuất phục bọn giặc cướp nước "Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng".
Theo đoàn người, tác giả vào thăm lăng Bác, nhà thơ nhìn thấy:
"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ."
"Mặt trời" ngày ngày đi qua trên lăng là mặt trời của đất, nguồn sáng lớn nhất, rực rỡ và vĩnh viễn trên thế gian. Nhưng mặt trời ấy còn thấy và nhận ra một mặt trời khác, một "'mặt trời trong lăng" rất đỏ. Mặt trời trên cao được nhân hóa, nhìn mặt trời trong lăng bằng đôi mắt của mặt trời. Một hình ảnh chứa chan bao tôn kính đối với Bác Hồ vĩ đại. Bằng hình ảnh ẩn dụ, nhà thơ đã ví Bác là mặt trời. Người là mặt trời đỏ rực màu cách mạng sẽ mãi mãi chiếu sáng đường chúng ta đi bằng sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Đây là nét nghệ thuật sáng tạo của tác giả.
Độc đáo hơn, nhà thơ còn sáng tạo một hình ảnh khác nữa để ca ngợi Bác:
"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân."
Hình ảnh những dòng người đi trong thương nhớ kết thành những tràng hoa không chỉ là hình ảnh tả thực so sánh những dòng người xếp thành hàng dài vào lăng Bác trông như những tràng hoa vô tận. Nó còn có nghĩa tượng trưng: Cuộc đời của họ đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang đến dâng lên Người những gì tốt đẹp nhất. "Dâng bảy mươi chín mùa xuân" - đây là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân và đã làm ra những mùa xuân cho đất nước, cho con người.
Nhà thơ vào lăng, được nhìn thấy Bác nằm trong giấc ngủ bình yên giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ dịu hiền. Ánh sáng ấy nơi Bác nằm được nhà thơ miêu tả như ánh sáng một vầng trăng hiền dịu:
"Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!"
Ánh sáng của những ngọn đèn mờ ảo trong lăng gợi nhà thơ sự liên tưởng thật là thú vị "ánh trăng". Tác giả đã thể hiện sự am hiểu của mình về Bác qua sự liên tưởng kì lạ đó. Bởi trăng với Bác từng là đôi bạn tri âm tri kỉ. Ánh trăng bát ngát ngoài trời đã từng vào thơ Bác trong nhà lao, trên chiến trận, giờ đây trăng cũng đến để ru giấc ngủ ngàn thu cho Người. Với hình ảnh "vầng trăng sáng dịu hiền" dụng ý nhà thơ còn muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Người có lúc như mặt trời ấm áp, có lúc dịu hiền như ánh trăng rằm. Bác của chúng là là vậy. "Mặt trời", "vầng trăng", "trời xanh" đó là những cái mênh mông bao la của vũ trụ được nhà thơ ví như cái bao la rộng lớn trong tình thương của Bác. Đó cũng là biểu hiện sự vĩ đại, rực rỡ, cao siêu của con người và sự nghiệp của Bác. Biết rằng Bác vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng và tâm trí nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao. Nhưng nhà thơ vẫn không khỏi thấy nhói đau trong lòng khi đứng trước thi thể của Người: "Mà sao nghe nhói ở trong tim". Nỗi đau như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức của tác giả. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ.
Còn đứng trong lăng Bác, nhưng khi nghĩ đến lúc phải xa Bác, Viễn Phương thấy bịn rịn không muốn dứt. Tình cảm của nhà thơ trong suốt thời gian trên luôn sâu lắng, đau lặng lẽ nhưng đến giây phút này, Viễn Phương không thể nào ngăn được nữa để cho tình cảm theo dòng nước mắt tuôn trào, dâng lên cao và tha thiết nhất "mơ về miền Nam thương trào nước mắt". Chỉ nghĩ đến việc về miền Nam, tác giả cũng đã "trào nước mắt", luyến tiếc khi chia tay, bịn rịn không muốn xa nơi Bác nghỉ, ở câu thơ này, tác giả không sử dụng một nghệ thuật gì cả, chỉ là lời nói giản dị, là tình thương sâu lắng tự tấm lòng nhưng lại làm cho ta xúc động, bài thơ thêm giàu cảm xúc. Một cách nói không hoa mĩ, chân thành như người dân Nam Bộ, nhưng lại lắng trong đó nỗi thương yêu đau đớn không có gì có thể nói và tả được.
Tác giả thay mặt cho nhân dân miền Nam bày tỏ niềm thương tiếc vô hạn đối với vị cha già dân tộc. Câu nói giản dị ấy làm người đọc thêm hiểu và đồng cảm với cảm xúc của Viễn Phương, bởi lời nói đó đều xuất phát từ muôn triệu trái tim bé nhỏ cùng chung nỗi đau không khác gì tác giả. Được gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng không bao giờ ta muốn xa Bác bởi Người ấm áp quá, rộng lớn quá. Ước nguyện thành kính của Viễn Phương cũng là mong ước chung của những người đã hoặc chưa một lần nào gặp Bác:
"Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này."
Từ ngữ "muốn làm" được lặp đi lặp lại nhiều lần trong đoạn thơ thể hiện được ước muốn, sự tự nguyện của tác giả. Hình ảnh cây tre lại xuất hiện khép bài thơ lại một cách khéo léo. Một mong ước chân thành của nhà thơ. Tác giả muốn làm con chim hằng ngày ca hót cho Bác yên ngủ, làm đóa hoa tỏa hương thơm ngào ngạt, cùng muôn đóa hoa khác làm đẹp nơi Bác nghỉ. Và vui sướng nhất khi được làm cây tre trung hiếu đứng mãi bên Bác canh từng giấc ngủ của Người. Cánh hoa ấy, tiếng chim hót và cây tre trung hiếu ấy giữ mãi cho Người giấc ngủ bình yên. Viễn Phương nói lên mong ước của mình cũng như là ước nguyện của tất cả chúng ta muốn được gần Bác để được lớn lên một chút:
"Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta
Ta bỗng lớn ở bên Người một chút."
Bác của chúng ta là vậy. Người giàu tình thương yêu, giàu đức hi sinh và đời Người thì vô cùng giản dị. Đất nước ta mất Bác như mất người cha vĩ đại, người cha luôn luôn dành cho nhân loại tình thương vô bờ bến.
Bài thơ "Viếng lăng Bác" thật giàu hình ảnh, giàu cảm xúc, mấy ai đọc bài thơ mà không thấy rung động trong lòng. Bằng cách sử dụng điêu luyện những biện pháp tu từ một cách sáng tạo, tác giả đã thể hiện tình cảm ngọt ngào đằm thắm lại rất giản dị chân thành đối với Bác. Nhà thơ đã truyền được cảm xúc của mình đến với người đọc chính bởi cảm xúc của cả đồng bào Nam Bộ nói riêng của dân tộc nói chung. Chúng ta những cháu ngoan của Bác Hồ cũng xin nguyện như Viễn Phương làm cây tre trung hiếu, làm bông hoa đẹp, làm tiếng chim hay và làm muôn ngàn công việc tốt để dâng lên Người.
Bài văn mẫu Phân tích bài thơ Viếng Lăng Bác – mẫu 2
Viễn Phương là cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam thời kì kháng chiến chống Mỹ. Đề tài trong thơ ông viết về vị lãnh tụ vĩ đại. Bài thơ “ Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976 khi đất nước thống nhất, lăng Bác được khánh thành và tác giả được vào thăm lăng Bác. Bài thơ là cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng bác, khi vào trong lăng Bác và những cảm xúc dâng trào cùng những ước nguyện khi ra về.
Thơ của Viễn Phương có một giọng điệu nhẹ nhàng giàu cảm xúc. Giọng điệu ấy được thể hiện rõ ràng ngay ở lời xưng hô:
Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp Mưa sa đứng thẳng hàng
Mở đầu là lời xưng hô “con - Bác” thật thân mật gần gũi như người thân trong gia đình, giữa cha với con. Lời xưng hô ấy là lời chào giới thiệu đứa con ở miền Nam ra thăm lăng Bác. Cách nói giảm nói tránh “thăm lăng Bác” dường như trong lòng Viễn Phương Bác vẫn còn sống mãi để giờ đây người con xa xôi ra thăm cha. Đến với lăng Bác nhà thơ bắt gặp hình ảnh “hàng tre trong sương xanh ngát” bốn mùa. Hàng tre ấy được trồng quanh lăng Bác gợi trong lòng cảm giác quen thuộc trở về với quê hương. Cây tre là loài cây bé nhỏ dẻo dai không chịu khuất phục bão táp mưa sa. Ngắm nhìn hàng tre mà nhà thơ không khỏi bồi hồi xúc động “Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam”. Dòng cảm xúc trào dâng được thể hiện bằng từ “ôi” cùng nghệ thuật ẩn dụ hàng tre xanh xanh tượng trưng cho cả dân tộc Việt Nam đang hội tụ quây quần bên lăng Bác.
Không chỉ nhìn thấy hàng tre mà Viễn Phương còn nhìn thấy hình ảnh mặt trời:
Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân.
Điệp từ “ngày ngày” chỉ thời gian đều đặn như một vòng quay ngày nào mặt trời của thiên nhiên đem nguồn sáng đến trái đất. Mặt trời ấy cũng đi qua trên lăng sưởi ấm nơi Bác yên nghỉ. Ngắm nhìn mặt trời của thiên nhiên mà nhà thơ liên tưởng đến “mặt trời trong lăng” hình ảnh ẩn dụ chỉ Bác Hồ là nhà thơ muốn ca ngợi công lao to lớn của Bác với đất nước, với dân tộc. Có thể nói Bác đã cống hiến cả cuộc đời cho dân tộc đánh dấu bằng bảy mươi chín mùa xuân. Chính vì thế dù đã đi xa nhưng mọi người vẫn nhớ về Bác ngày nào cũng như ngày nào những người con từ khắp mọi miền tổ quốc với những bộ trang phục đẹp chậm rãi tiến về phía lăng Bác giống như một “tràng hoa” nghệ thuật ẩn dụ dòng người với không khí trang nghiêm thành kính đều hướng về phía lăng Bác với lòng thành kính biết ơn.
Có thể nói người con ở miền Nam xa xôi gặp người cha kính yêu là một khát khao “Miền Nam mong Bác nỗi mong cha” và giờ đây niềm khao khát đã trở thành hiện thực. Bước chân vào lăng dòng cảm xúc nhà thơ lại trào dâng khi thấy hình ảnh:
Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim.
Không khí trong lăng thật yên tĩnh với hình ảnh Bác nằm với tư thế thanh thản và đang trong giấc ngủ bình yên. Cách nói giảm nói tránh trong tâm tưởng nhà thơ Bác vẫn còn sống mãi. Ngắm nhìn Bác mà nhà thơ lại xúc động khi nghĩ đến những năm tháng đất nước còn chiến tranh Bác có nhiều đêm không ngủ “Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.” Giờ đây đất nước thống nhất Bác mới có giấc ngủ bình yên. Người nằm đó mà xung quanh là ánh sáng trong trẻo của vầng trăng. Vầng trăng trên trời cao kia cũng đi vào trong lăng soi sáng nơi Người yên nghỉ. Dường như giữa người và thiên nhiên bao giờ cũng có sự giao hòa trăng đã trở thành đề tài trong thơ Bác và trở thành người bạn tri kỷ. Hay vầng trăng kia là chỉ Bác người có tâm hồn trong sáng thanh cao. Cách biểu đạt nghệ thuật ẩn dụ “trời xanh” ví Bác như bầu trời cao rộng mà nhà thơ muốn ngợi ca sự vĩ đại trường tồn vĩnh cửu của người như hóa thân vào non sông đất nước sánh ngang cùng trời đất sống mãi trong lòng người. Cặp từ “vẫn biết - mà sao” lí trí tâm tưởng luôn khẳng định Bác vẫn còn sống nhưng trở lại hiện thực người đã đi xa một tổn thất lớn của dân tộc. Người mãi mãi đi làm cho lòng người đau nhói nỗi đau quặn thắt không nói lên lời.
Chính vì vậy mà khi chân còn ở trên đất Bác nghĩ đến ngày mai trở về nhà thơ cảm thấy buồn, xúc động lưu luyến không muốn xa rời. Dòng cảm xúc ấy rất tự nhiên, chân thành tuôn trào thành giọt nước mắt để rồi nhà thơ bày tỏ những ước nguyện:
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này...
Viễn Phương muốn làm con chim để dâng tiếng hót hay nhất của mình nơi lăng Bác, muốn làm bông hoa để khoe hương khoe sắc làm đẹp nơi Bác yên nghỉ, muốn làm cây tre để đứng canh cho giấc ngủ của Người. Nghệ thuật ẩn dụ “con chim, nhành hoa, cây tre” chỉ nhà thơ Viễn Phương người muôn hóa thân vào những gì nhỏ bé nhưng đẹp đẽ để được gần gũi nơi Bác yên nghỉ. Điệp ngữ “muốn làm” điệp cấu trúc điệp cách phô diễn càng làm cho những ước nguyện chân thành tha thiết. Hình ảnh cây tre trung hiếu còn là lời thề thiêng liêng nguyện trung thành với lý tưởng của người. Hình ảnh cây tre kết thúc ở cuối bài tạo cách kết thúc đầu cuối tương ứng.
Bài thơ kết cấu của thể thơ tám chữ, từ ngữ hay, giàu cảm xúc, hình ảnh đẹp “mặt trời, vầng trăng…” cách biểu đạt của nghệ thuật ẩn dụ cùng với giọng điệu nhẹ nhàng trang nghiêm thành kính đã diễn tả cảm xúc của nhà thơ khi đứng trước lăng Bác, vào trong lăng Bác và lúc ra về. Đó là tâm trạng của tất cả mọi người khi đến nơi đây. Và với những bài thơ của Tố Hữu hay “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ, “Người đi tìm hình của nước” của Chế Lan Viên các tác giả không chỉ đóng góp những bài thơ hay viết về Bác Hồ mà còn muốn ca ngợi về Người bằng tình cảm xuất phát từ tận đáy lòng, bằng tình yêu quý tự hào và biết ơn.
Bài thơ đã cho thấy tình cảm của Viễn Phương nói riêng và cả của dân tộc nói chung dành cho Bác. Qua đó em rất yêu quý và tự hào về Bác em hứa sẽ cố gắng học tập, thực hiện tốt năm điều Bác Hồ dạy để trở thành người công dân tốt.