Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 tài liệu sơ đồ tư duy bài Những đứa trẻ hay nhất, gồm 10 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Những đứa trẻ Ngữ văn lớp 9.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu Sơ đồ tư duy bài Những đứa trẻ dễ nhớ, ngắn nhất - Ngữ văn lớp 9:
NHỮNG ĐỨA TRẺ
I. Tác giả
- Mác-xim Go-rơ-ki (1868-1936) là một nhà văn người Nga của thế kỉ 20, ông tên thật là A-lếch-xây Pê-scop.
- Quê quán: Ông sinh tại thành phố công nghiệp Nizhni Novgorod trên bờ sông Vôn-ga trong một gia đình lao động.
- Ông mồ côi cha từ khi 13 tuổi.
- Ngay từ thời thơ ấu, Go-rơ-ki đã phải chịu một sự giáo dục nghiệt ngã, hà khắc của ông ngoại.
- Khi lên 10 tuổi, mồ côi cả cha lẫn mẹ, ông đã phải lăn vào đời để kiếm sống, ông làm đủ nghề, có lúc ông phải đi ăn xin.
- Ông rất ham đọc sách và chính niềm đam mê này cùng những bươn trải đã giúp ông nảy sinh cảm hứng và năng lực áng tác văn chương.
- Những tác phẩm tiêu biểu của ông: Bộ ba tiểu thuyết tự thuật: Thời thơ ấu (1913-1914), Kiếm sống (1916), Những trường đại học của tôi (1923) và Người mẹ (1906-1907).
II. Tìm hiểu chung tác phẩm
1. Thể loại: tiểu thuyết
2. Xuất xứ:
Những đứa trẻ là một đoạn trích trong chương IX của tiểu thuyết Thời thơ ấu của nhà văn Nga Mác-xim Go-rơ-ki (1868-1936).
3. Tóm tắt
Gần một tuần trôi qua ba đứa trẻ hàng xóm lại ra sân chơi và rủ A-li-ô-sa chơi cùng. Trong cuộc trò chuyện với ba anh em con nhà ông đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp, A-li-ô-sa có hỏi mẹ chúng, chúng buồn vì mẹ của chúng đã mất còn bố chúng lấy một người mẹ khác. Để an ủi ba đứa trẻ, A-li-ô-sa đã kể cho chúng nghe những câu chuyện cổ tích mà bà câu hay kể. Tuy nhiên bố của ba đứa trẻ xuất hiện và cấm đoán A-li-ô-sa không được chơi với ba đứa trẻ nữa. Bất chấp sự ngăn cấm, những đứa trẻ vẫn tìm cách chơi với nhau, an ủi nhau bằng cách kể cho nhau nghe những câu chuyện vui buồn.
4. Bố cục: 3 phần
- Phần 1: (Từ đầu đến… ấn em nó cúi xuống): Điều tạo nên tình bạn giữa bốn đứa trẻ đó chính là qua những câu chuyện mà chúng chia sẻ với nhau.
- Phần 2: (Tiếp theo đến… cấm không được đến nhà tao): Những rào cản xuất hiện khi ông của ba đứa trẻ nhà giàu ngăn cấm chúng không được chơi với A-li-ô-sa.
- Phần 3: (Còn lại): Tình bạn của những đứa trẻ không kết thúc bởi rào cản xã hội mà chúng vẫn duy trì và gìn giữ tình bạn đó.
5. Giá trị nội dung
Đoạn trích kể lại tình bạn thân thiết giữa A-li-ô-sa và ba đứa trẻ hàng xóm con ông đại tá sống thiếu tình thương, bất chấp sự cách biệt và cản trở của địa vị xã hội.
6. Giá trị nghệ thuật
Đoạn trích thành công bởi cách kể chuyện nhẹ nhàng giàu hình ảnh, có sự đan xen giữa chuyện đời thường và truyện cổ tích. Việc không gắn danh xưng cho bọn trẻ khiến câu chuyện mang ý nghĩa khái quát và đậm màu sắc cổ tích.
III. Dàn ý phân tích tác phẩm
1. Hoàn cảnh đáng thương của những đứa trẻ
- Ba anh em con nhà ông đại tá và A-li-ô-sa là những đứa trẻ thuộc những gia đình có địa vị xã hội khác nhau:
+ A-li-ô-sa ở với ông bà, cậu thường hay bị ông đánh, niềm an ủi duy nhất là người bà luôn yêu thương cậu.
+ Ba đứa trẻ con ông đại tá tuy sống trong gia đình giàu có nhưng lại thiếu tình yêu thương khi mẹ chúng mất, bố chúng đi lấy một người khác.
⇒ Những đứa trẻ có hoàn cảnh đáng thương.
2. Tình bạn tuổi thơ trong sáng của những đứa trẻ
- Tình bạn nảy nở giữa A-li-ô-sa và ba đứa trẻ hàng xóm, bất chấp cách biệt về địa vị xã hội:
+ Chúng cùng nhau trò chuyện, đối thoại với những chú chim ⇒ Sự ngây thơ trong sáng.
+ Ba đứa trẻ hàng xóm chia sẻ với A-li-ô-sa về người mẹ của chúng.
+ A-li-ô-sa lại chia sẻ với chúng về những câu chuyện cổ tích mà bà cậu bé thường hay kể cho cậu bé nghe.
⇒ Với tâm hồn trong sáng nhạy cảm, bốn đứa trẻ ríu rít chơi với nhau, sự đồng cảm về cảnh ngộ đã gắn bó những tâm hồn tuổi thơ như chúng.
3. Tình bạn trong sáng bị ngăn cấm
- Tình bạn trong sáng của bốn đứa trẻ bị ngăn cấm bởi người bố đại tá của ba đứa hàng xóm:
+ Lão đại tá già xuất hiện với bộ ria trắng, đầu đội chiếc mũ xù lông đã thô bạo “nắm lấy vai đuổi A-li-ô-sa ra khỏi cổng”
+ Trận đòn của ông ngoại cùng sự đặt điều mách lẻo của bác Pi-ốt đã khiến A-li-ô-sa bị ngăn cấm không được chơi với mấy đưa con của lão đại tá.
⇒ Chính người lớn với sự thờ ơ, không quan tâm tới cảm xúc của những đứa trẻ đã khiến tình bạn đẹp đẽ của chúng bị ngăn cấm.
4. Mặc dù bị ngăn cấm, tình bạn ấy vẫn tiếp diễn
- Mặc cho vấp phải những sự ngăn cấm từ hai bên thì tình bạn trong sáng của tuổi thơ vẫn tiếp tục:
+ A-li-ô-sa vẫn tiếp tục chơi với ba đứa bé kia và quan hệ giữa chúng nó “càng ngày càng trở nên thích thú”.
+ Chúng đã bí mật khoét ra “một lỗ hổng hình bán nguyệt”, núp dưới bụi hương mộc rậm rạp “nói chuyện khe khẽ với nhau”, chúng nó chuyện về cuộc sống, về những con chim, về nhiều chuyện trẻ con khác.
⇒ Một tình bạn trong sáng hồn nhiên mà không gì có thể phá vỡ được.
IV. Bài phân tích
Đề tài về trẻ thơ luôn luôn có sức hấp dẫn đối với bạn đọc ở mọi lứa tuổi. Người lớn thì muốn đọc để được sống lại giây phút tuổi thơ của mình. Trẻ thơ thì muốn đọc để xem người ta nói gì về thế hệ của mình, để biết những bạn nhỏ khác sống như thế nào, có giống mình hay không,… Mác-xim Go-rơ-ki, một nhà văn đại tài đã viết một tác phẩm kinh điển mang tên Thời thơ ấu. Đoạn trích “Những đứa trẻ” chính là trích ra từ tác phẩm này. Nội dung của nó mang đầy chất thơ và thể hiện được tài năng của người kể chuyện.
Những chuyện được kể trong “Những đứa trẻ” là những chuyện có thật xảy ra vào lúc A-li-ô-sa (tên thân mật hồi nhỏ của tác giả) được chín, mười tuổi. Mặc dù sau đó nhiều năm ông mới viết tác phẩm nhưng người đọc vẫn thấy rung động sâu sắc trước những đứa trẻ ngây thơ thiếu thốn tình thương nhờ tài kể chuyện của một tâm hồn đa cảm như ông. Những nhân vật chính trong đoạn trích đó là cậu bé A-li-ô-sa mồ côi cha lại không có mẹ, thường bị ông ngoại đánh đòn. Ba cậu con trai lão đại úy sống trong cảnh giàu sang nhưng sớm mồ côi mẹ và phải sống dưới sự khắt khe của bố và dì ghẻ. Tuy thuộc những tầng lớp khác nhau nhưng hoàn cảnh thiếu tình thương giống nhau nên chúng dễ thân thiết, đồng cảm, tuy bị ông đại úy cấm đoán nhưng tình bạn của chúng vẫn cứ tiếp diễn. Và tình cảm ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng M. Go-rơ-ki sau này để cho đến ngày trưởng thành, những chuyện mà ông đã cùng trải qua với những đưa trẻ hàng xóm vẫn còn in đậm.
Tình bạn chân chính sẽ không vì bất cứ lí do gì mà tan vỡ. Dù bị cấm đoán nhưng chúng vẫn tìm mọi cách để duy trì tình bạn. Phải là một tình bạn thắm thiết thì chúng mới vượt qua rào cản, sự ngăn cấm để tiếp tục chơi với nhau như vậy. Chúng trèo lên cái xe trượt tuyết cũ ở dưới mái hiên nhà kho để “ngắm nghía” và trò chuyện cùng nhau. Đó cũng là nơi ba đứa trẻ nhà đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp tâm sự về cuộc sống của mình, về người mẹ đẻ đã mất, về người mẹ mới mà trong các câu chuyện cổ tích thường gọi là dì ghẻ. Với suy nghĩ của một cậu bé, A-li-ô-sa tin rằng mẹ của ba đứa trẻ kia sẽ trở về, sẽ sống lại nhờ nước phép. Cậu kể cho những đứa trẻ về các câu chuyện cổ tích của bà ngoại khiến chúng lặng yên, chăm chú nghe. Bỗng “một ông già với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài lùng thùng màu nâu nhạt như của thầy tu, đầu đội chiếc mũ xù lông” đến và dọa A-li-ô-sa: “Cấm không được đế nhà tao”. Đó là đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp. Ông nắm chặt vai cậu bé A-li-ô-sa khiến cậu “sợ đến phát khóc” nhưng chưa kịp khóc òa lên thì cậu “đã ở ngoài đường rồi”. Go-rơ-ki đã kể lại một cách tỉ mỉ kỉ niệm xa xưa ấy, đã làm cho mỗi chúng ta cảm động nhớ lại những chuyện vui buồn thời bé thơ, nhớ lại những kỉ niệm ấm áp về tình bạn dưới mái trường tiểu học ngày nào… Một cơ hội đã đến để 3 anh em nhà kia mời A-li-ô-sa cùng sang chơi. Một lần chơi trò ú tim, đứa em út non nót ngây thơ và khờ dại đã ngồi vào gầu và rơi xuống giếng. A-li-ô-sa chợt nhìn thấy, nhảy phắt xuống sân và kêu to: “Ngã xuống giếng rồi!”. Chú đã đến kịp thời để cùng hai đứa anh kéo thằng em út lên, thoát hiểm. Thằng bé ướt sũng, bàn tay rớm máu, “mặt tái xanh nhưng vẫn mỉm cười”. Chúng bàn nhau cách nói dối “em ngã vào vũng nước”. Trước lúc đưa em về nhà, thằng anh lớn đã “gật đầu” và “chìa tay” cho A-li-ô-sa và nói: “Cậu chạy đến nhanh lắm!”. Sự việc diễn ra quá nhanh, đến nỗi A-li-ô-sa lúc nhìn lại cành cây mà từ đó, chú nhảy xuống cứu bạn “vẫn còn rung rung và một chiếc lá vàng rụng xuống”. Có thể nói, sự nhanh nhẹn và tấm lòng của A-li-ô-sa trong việc ứng cứu đứa bé là một “chiến công”, một thử thách cho tình bạn của chú với anh em nhà nọ một tuần sau đó. Hàng rào ngăn cách vô hình đã bị lũ trẻ phá tung. Và chỉ mấy ngày sau, ba anh em lại kéo nhau ra sân chơi, thằng anh lớn nhìn thấy A-li-ô-sa trên cây đã thân mật gọi: “Xuống đây chơi với chúng tớ”. Đó là tiếng gọi của bạn bè. Là niềm thương yêu tin cậy. Là phần thưởng, là giây phút hạnh phúc nhất đối với A-li-ô-sa mà chú mong đợi bấy nay. Với tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, bốn đứa bé như bốn con chim non ríu rít chơi với nhau. A-li-ô-sa hỏi chúng nó có bị đánh không. Chúng trao đổi với nhau về chuyện bắt chim nuôi chim, về chim bạch yến… Cả bốn đứa bé đều cùng cảnh ngộ “mồ côi mẹ”, sự đồng cảm về cảnh ngộ đã gắn bó tâm hồn tuổi thơ. A-li-ô-sa kể cho chúng nghe chuyện mụ dì ghẻ phù thủy… Bốn đứa bé “ngồi sát vào nhau như những chú gà con”. Đây là những khoảnh khắc thần tiên của chúng. Thằng bé nhất thì “mím chặt môi và phồng má lên”. Một đứa thì “chống khuỷu tay lên đầu gối…” và quàng lên vai em nó.
Bốn đứa trẻ này đang chơi thân với nhau, bỗng người lớn đã xông vào “phá đám”. Lão đại tá già xuất hiện với bộ ria trắng, đầu đội chiếc mũ xù lông đã thô bạo “nắm lấy vai” và đuổi A-li-ô-sa ra khỏi cổng với lời đe dọa: “Cấm không được đến chỗ tao!”. Rồi trận đòn của ông ngoại. Sự đặt điều mách lẻo, sự để ý “theo dõi” của bác Piốt. Ông ngoại đã nghiêm cấm cháu không được chơi với mấy đứa con lão đại tá, v.v… nhưng tuổi thơ và tình bạn trong sáng của tuổi thơ, ai có thể ngăn cấm và li gián được? Vì thế A-li-ô-sa vẫn tiếp tục chơi với 3 đứa bé kia và quan hệ giữa chúng nó “càng ngày càng trờ nên thích thú”. Chẳng có “ải quan”, “bức tường thành” nào ngăn cách được bốn đứa trẻ! Mọi định kiến giai cấp, mọi sự ngăn cấm và đòn roi đối với chúng nó chẳng có nghĩa lý gì. Giữa bức tường và hàng rào nhà ông đại tá, có một cây du, một cây bồ đề và một bụi hương mộc rậm rạp, “một lỗ hổng hình bán nguyệt” đã được bí mật khoét ra. Chính tại đây ba đứa con trai đại tá, một đứa đứng canh, hai đứa “ngồi xổm hoặc quỳ nói chuyện khe khẽ với nhau”. Chúng nói về cuộc sống buồn, về những con chim, nhiều chuyện trẻ con khác,… Chúng nghe A-li-ô-sa kể chuyện cổ tích. Có một chi tiết rất thú vị là mỗi lần kể chuyện, nửa chừng quên mất chỗ nào, A-li-ô-sa lại chạy về hỏi bà… Chúng vẫn chơi vui, vẫn tâm tình, vẫn chan hòa trong niềm thơ ấu cổ tích. Một tình bạn trong sáng, hồn nhiên.
Không chỉ làm nổi bật tình bạn của những đứa trẻ, đoạn trích này còn khắc họa hình ảnh người bà ngoại hiền từ của A-li-ô-sa. Những truyện cổ tích bà kể là nền tảng vững chắc để M.Go-rơ-ki có được sự nghiệp văn học đồ sộ, trở thành nhà văn nổi tiếng được nhiều thế hệ bạn đọc thế giới biết đến. Tuy không được nhà văn miêu tả chi tiết nhưng chúng ta có thể cảm nhận được bà là một người nhân hậu và rất yêu thương cháu. Câu nói của thằng lớn nhà đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp nói cũng là lời khẳng định của tác giả: “Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt”. Bà luôn là người yêu thương, gần gũi, chăm sóc các cháu một cách chu đáo nhất. Chính bà cũng là người đưa cháu đến với thế giới cổ tích, những câu chuyện thấm đượm tính nhân văn và tình người cao đẹp. Câu nói của thằng lớn khiến A-li-ô-sa thấy “dường như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm chứ không phải mười một năm”.
Có thể nói tình bạn và tình yêu thương bà là những tình cảm đậm đà, trong sáng thiêng liêng của tuổi thơ. Đọc những dòng tự thuật trên đây, ta thấy chất thơ dào dạt trên trang văn của M.Go-rơ-ki. Qua đoạn trích, chúng ta thấy A-li-ô-sa tuy còn nhỏ nhưng đã biết thương người, biết an ủi, san sẻ nỗi bất hạnh của các bạn gần như cùng cảnh ngộ. Rõ ràng, sự phân biệt giai cấp, giàu nghèo trong xã hội không thể nào ngăn cản được tình bạn trong sáng của tuổi thơ. Tình bạn ấy là của cải tinh thần vô giá trong cuộc sống tinh thần của mỗi con người.
V. Một số lời bình về tác phẩm
1.
Mác-xim Go-rơ-ki thuộc trong số những nhà văn Xô viết tài năng nảy sinh từ nhân dân. Từ một cậu bé mồ côi nghèo khổ nhưng với ý chí, nghị lực phi thường, lòng khát khao hiểu biết, niềm say mê học hỏi, ông đã vượt lên số phận, vươn tới ánh sáng văn hóa trở thành một trong những nhà văn lớn nhất của thế kỉ XX.
Thực ra họ và tên thật của ông là A-lếch-xây Mac-xi-mô-vích Pê-scốp. Go-rơ-ki là bút danh của ông khi bước chân vào làng văn. Trong tiếng Nga, Go-rơ-ki có nghĩa là “cay đắng”. Go-rơ-ki tự nhận mình là nhà văn của sự cay đắng. Đó là sự cay đắng của số đông người lao động mà Go-rơ-ki cảm thông, thấu hiểu và đã viết lên trên những trang sách của mình. Đó cũng chính là sự cay đắng mà bản thân ông đã từng nếm tari, lớn lên và trưởng thành từ đó.
…
Để kiếm sống, cậu bé A-lếch-xây đã phải trải qua khá nhiều nghê. Có những việc rất vất vả, lam lũ như bới rác. Có những việc phải đòi hỏi kiên trì, khéo tay như vẽ tượng thánh. Đi ở - tuy không lam lũ, bẩn thỉu như bới rác nhưng lại phải nhanh chân, nhanh mắt, nhanh tay, không biết đến nghỉ ngơi để tuân theo ý chủ nhà. Đi bẫy chim – sướng hơn cả - nhưng đâu phải để bẫy chơi mà là để kiếm tiền; cho nên những lúc không bẫy được coi như nhịn đói. A-lếch-xây còn phải làm công việc nặng nhọc như của người lớn nữa: bốc vác, phụ bếp trên tàu thủy. Cậu chẳng nề hà bất cứ việc gì, miễn là có thể kiếm được tiên nuôi bản thân và một phần nào đó giúp nuôi bà. Nhưng có việc cho đã là may. Đã có lúc vì không kiếm được việc, hai bà cháu phải đi ăn xin để tạm qua ngày. Những lúc ấy thật cực hết chỗ nói. Nhưng chính từ những ngày cay cực ấy, A-lếch-xây thấm thía nhiều điều, nhiều bài học quý giá.
(Hà Thị Hòa, Chân dung các nhà văn thế giới)
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả và đoạn trích Những đứa trẻ
2. Thân bài:
* Khái quát về nội dung của đoạn trích:
– Đoạn trích kể về cậu bé tên là Aliosa là một cậu bé bất hạnh, cuộc đời em trải qua nhiều thăng trầm, biến cố. Cha mẹ chẳng may qua đời từ khi Aliosa còn rất nhỏ, để lại mình em đơn độc giữa dòng đời nhiều sóng gió. Cậu bé ở với ông bà ngoại. Nhưng ông ngoại em lại là người nóng nảy và có khuynh hướng bạo lực. Nhưng bù lại em có bà ngoại . Bên cạnh đó, có những đứa trẻ con của một vị đại tá hách dịch, hàng xóm nhà bà em, chúng chính là bạn cũng là niềm vui cho tuổi thơ dữ dội của cậu bé được an ủi phần nào.
* Phân tích tình huống truyện:
– Mở đầu đầu đoạn trích tác giả kể về sự gặp gỡ tình cờ của cậu bé Aliosa với những đứa trẻ con nhà đại tá, khi cậu bé đang ngồi đu mình trên một cành cây cao.
– Tại sao cậu bé Aliosa lại muốn được chơi với những đứa trẻ nhà đại tá? Vì cậu bé cảm thấy cô đơn, không có bạn bè. Cậu bé say mê nhìn những đứa trẻ và ước mơ được chơi chung với chúng.
– Tình huống làm quen và kết bạn như thế nào? Rồi một lần Aliosa đã có cơ hội để có thể tiếp cận lũ trẻ con nhà đại tá. Lần đó đứa em út con nhà đại tá bị ngã xuống giếng Aliosa đã cùng hai người anh của nó cứu nó thoát khỏi chiếc giếng đó, khiến cho bọn trẻ rất nể phục và hàng rào ngăn cản chúng đã được tháo bỏ.
– Lời mời gọi đầu tiên thể hiện điều gì? “Xuống đây chơi với tớ” đó là lời mời mà cậu bé Aliosa mong chờ từ rất lâu. Cũng kể từ đây, Aliosa và bọn trẻ chơi với nhau vô cùng thân thiết xóa tan mọi rào cản, nghi ngại.
– Tình bạn của bọn trẻ chứng tỏ điều gì? Chúng ngồi bên nhau cùng nghe Aliosa kể chuyện cổ tích. Tất cả đều rất vui vẻ háo hức, đó là những khoảng khắc hạnh phục nhất đời của cậu bé Aliosa.
– Sự xuất hiện đột ngột của lão đại tá, sự cấm đoán của lão đối với Aliosa nói lên điều gì? Nhưng những giờ phút hạnh phúc đó nhanh chóng tan biến, như mưa bóng mây, lão đại tá trở về nhà và nhìn thấy Aliosa liền giận dữ đuổi cậu bé và cấm từ nay không cho chú bé được qua lại với con mình.
– Hành động khoét lỗ lên hàng rào của bọn trẻ nói lên điều gì? Tình bạn giữa cậu bé và những đứa trẻ con nhà đại tá vô cùng trong trẻo, thánh thiện nên không có gì ngăn trở được chúng đến với nhau.
– Tình bạn thân thiết của bọn trẻ đáng trân trọng như thế nào? Những chú chim nhỏ thật tội nghiệp, một tình bạn ngây thơ, trong sáng lại bị chia cắt, cấm cản bởi thói đời phân chia giai cấp sang - hèn, bởi sự tính toán, mưu mô của người lớn.
3. Kết bài:
– Nêu vắn tắt cảm nghĩ về tác phẩm: Bằng lối viết chân thật, giản dị, xúc động tác giả đã kể lại quãng đời tuổi thơ của mình với những lời văn sâu sắc, vừa xen lẫn sự tủi nhục, buồn khổ vừa có sự ngây thơ, trong sáng. Tình bạn của ông là một dấu ấn khó quên đối với người đọc khi xem cuốn hồi ký này.
Chắc hẳn mỗi chúng ta đều có những kỉ niệm về tuổi thơ của mình. Đó có thể là những ngày tháng đầy ắp niềm vui, tiếng cười nhưng cũng có thể đó là một tuổi thơ đong đầy nước mắt. Nhưng cho dù là kỉ niệm vui hay buồn thì mỗi khi nhớ lại, nó gợi cho chúng ta rất nhiều cảm xúc. Và nhà văn Mác-xim Go-rơ-ki đã tái hiện thời thơ ấu của mình trong đoạn trích “Những đứa trẻ”.
Mác-xim Go-rơ-ki (1868 - 1936) có tên thật là A-lếch-xây Pê-scốp. Theo tiếng Nga, bút danh này có nghĩa là “cay đắng”, qua đó bạn đọc thế giới có thể hình dung được những khó khăn, bất hạnh, khổ cực mà ông phải trải qua trong cuộc đời. Đoạn trích “Những đứa trẻ” thuộc chương IX của cuốn tiểu thuyết tự thuật “Thời thơ ấu” được sáng tác năm 1913 - 1914.Nội dung đoạn trích này kể về việc A-li-ô-sa không thấy ba anh em con của đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp ra sân chơi sau một tuần xảy ra sự kiện thằng em nhỏ nhảy vào gàu rơi xuống giếng. Chúng bị cấm không được chơi với A-li-ô-sa nhưng sau đó “chúng xuất hiện và ồn ào hơn trước”.Dù bị cấm đoán nhưng những đứa trẻ vẫn tiếp tục tình bạn với nhau. Chúng gặp nhau bằng nhiều cách và kể cho nhau nghe những câu chuyện cổ tích của bà hay câu chuyện về những con chim.Những đứa trẻ ấy đều là những đứa trẻ sống thiếu tình thương từ gia đình. Cậu bé A-li-ô-sa sống với ông bà ngoại do bố cậu đã mất còn mẹ thì đi lấy chồng khác. Bà ngoại cậu hết mực thương yêu, chăm sóc cháu nhưng ông ngoại lại là một người nóng tính, dữ tợn. A-li-ô-sa không nhận được tình thương của bố mẹ và cả ông ngoại của mình. Còn những đứa trẻ con nhà đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp sống với bố và mẹ mới vì mẹ đẻ của chúng đã mất nên đại tá lấy vợ khác.Ông ấy đã đánh và cấm không cho chúng chơi với A-li-ô-sa. Hành động cấm đoán ấy có lẽ xuất phát từ sự đối ngược nhau về hoàn cảnh sống. Ba đứa trẻ sống trong một gia đình quan chức có kinh tế khá giả, sung túc còn A-li-ô-sa sống trong một gia đình thường dân, kinh tế sa sút.Tuy có sự cách biệt về địa vị xã hội nhưng chúng đều giống nhau ở hoàn cảnh sống thiếu tình thương của cha mẹ. Chính điều ấy đã khiến những đứa trẻ gắn bó thân thiết với nhau bằng sự hồn nhiên, vô tư của tuổi thơ. Tình bạn trong trắng giữa chúng được bắt nguồn từ sự mất mát, thiếu thốn đời sống tình cảm từ những người sinh ra chúng.Tình bạn chân chính sẽ không vì bất cứ lí do gì mà tan vỡ. Dù bị cấm đoán nhưng chúng vẫn tìm mọi cách để duy trì tình bạn. Phải là một tình bạn thắm thiết thì chúng mới vượt qua rào cản, sự ngăn cấm để tiếp tục chơi với nhau như vậy. Chúng trèo lên cái xe trượt tuyết cũ ở dưới mái hiên nhà kho để “ngắm nghía” và trò chuyện cùng nhau. Đó cũng là nơi ba đứa trẻ nhà đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp tâm sự về cuộc sống của mình, về người mẹ đẻ đã mất, về người mẹ mới mà trong các câu chuyện cổ tích thường gọi là dì ghẻ.Với suy nghĩ của một cậu bé, A-li-ô-sa tin rằng mẹ của ba đứa trẻ kia sẽ trở về, sẽ sống lại nhờ nước phép. Cậu kể cho những đứa trẻ về các câu chuyện cổ tích của bà ngoại khiến chúng lặng yên, chăm chú nghe. Bỗng “một ông già với bộ ria trắng, mình vận chiếc áo dài lùng thùng màu nâu nhạt như của thầy tu, đầu đội chiếc mũ xù lông” đến và dọa A-li-ô-sa: “Cấm không được đế nhà tao”. Đó là đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp. Ông nắm chặt vai cậu bé A-li-ô-sa khiến cậu “sợ đến phát khóc” nhưng chưa kịp khóc òa lên thì cậu “đã ở ngoài đường rồi”.Ngỡ tưởng bọn trẻ vì sự dọa nạt của người lớn mà trở nên cách biệt nhưng chúng vẫn chơi với nhau và cảm thấy rất vui thích. A-li-ô-sa đã “khoét một lỗ hổng hình bán nguyệt” ở hàng rào để nói chuyện với lũ trẻ. Chúng “ngồi xổm hoặc quỳ xuống nói chuyện khe khẽ với nhau” và một trong ba đứa trẻ kia phải đứng canh để đề phòng sự xuất hiện của người bố. Câu chuyện của những đứa trẻ xoay quanh cuộc sống buồn tẻ của chúng, chuyện về những con chim đang sống như thế nào và “nhiều chuyện trẻ con khác”.A-li-ô-sa kể cho chúng nghe những truyện cổ tích của bà, khi nào quên cậu lại chạy về hỏi bà kiến ba đứa trẻ rất thích thú. Chúng “ngồi sát vào nhau, giống như những chú gà con”. Thằng anh lớn thì mỉm cười, thằng bé nhất thì “mím chặt môi và phồng má lên, còn thằng kia thì chống khuỷu tay lên đầu gối, tay kia quàng lên vai em nó ấn em nó cúi xuống” để tránh sự bắt gặp của người bố. Khoảng cách và sự phân hóa giàu nghèo không thể ngăn cách tình bạn keo sơn, sâu sắc của những đứa trẻ. Chúng gắn bó với nhau bằng những gì hồn nhiên, trong sáng nhất. Tình bạn chân thành ấy không có sự hà khắc nào chia rẽ được.Không chỉ làm nổi bật tình bạn của những đứa trẻ, đoạn trích này còn khắc họa hình ảnh người bà ngoại hiền từ của A-li-ô-sa. Những truyện cổ tích bà kể là nền tảng vững chắc để Go-rơ-ki có được sự nghiệp văn học đồ sộ, trở thành nhà văn nổi tiếng được nhiều thế hệ bạn đọc thế giới biết đến. Tuy không được nhà văn miêu tả chi tiết nhưng chúng ta có thể cảm nhận được bà là một người nhân hậu và rất yêu thương cháu.Câu nói của thằng lớn nhà đại tá Ốp-xi-an-ni-cốp nói cũng là lời khẳng định của tác giả: “Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt”. Bà luôn là người yêu thương, gần gũi, chăm sóc các cháu một cách chu đáo nhất. Chính bà cũng là người đưa cháu đến với thế giới cổ tích, những câu chuyện thấm đượm tính nhân văn và tình người cao đẹp. Câu nói của thằng lớn khiến A-li-ô-sa thấy “dường như nó đã sống trên trái đất này một trăm năm chứ không phải mười một năm”.Đoạn trích này nằm trong cuốn tiểu thuyết tự thuật được kể theo ngôi thứ nhất, người kể chuyện xưng “tôi” khiến câu chuyện trở nên chân thật và vô cùng hấp dẫn. Những gì xảy ra trong tác phẩm cũng là những gì mà tác giả Go-rơ-ki trải qua vì đặc trưng của thể loại này là nhà văn tự kể chuyện về cuộc đời của mình.“Những đứa trẻ” có sự kết hợp của các yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận và các yếu tố li kì tạo được hứng thú nơi bạn đọc. Sự đan xen giữa những câu chuyện đời thường và những câu chuyện cổ tích về người mẹ, người bà đã tạo nên một không gian truyện đầy chất thơ và thấm đẫm tình người.
Bằng lối kể chuyện giàu hình ảnh, nhà văn đã tái hiện lại sinh động tình bạn thân thiết thời thơ ấu của ông với những đứa trẻ nhà hàng xóm vượt qua những khoảng cách xã hội, sự ngăn cấm của gia đình để gắn bó với nhau. Mác-xim Go-rơ-ki đã mang đến cho bạn đọc những trang văn tuyệt vời. Qua đó, chúng ta có thể hiểu thêm phần nào về cuộc đời, bản thân con người của nhà văn.
Bộ ba tự truyện của Gorki (Thời thơ ấu, Kiếm sống, Những trường đại học của tôi) là những trang văn có chỗ thấm đầy lệ, có nơi có những tiếng thở dài, cũng có nụ cười tiếng hát, có những dặm đường đầy thử thách của một chú bé, một chàng trai có những tấm lòng tràn đầy nhân hậu mênh mông.
Đọc chương 9 tập "Thời thơ ấu", dõi theo hành trình của cậu bé Pê-scốp, lòng chúng ta xôn xao rung động trước vẻ đẹp một tâm hồn thơ bé. Tình bạn, tình yêu bà của bé A-li ô-sa Pê-scốp nhiều rung động, chứa chan.Pê-scốp đã sớm nếm trải nhiều cay đắng, bất hạnh. Lên mười tuổi thì cả cha lẫn mẹ đều lần lượt qua đời. Ông ngoại dữ đòn. Chỉ có bà ngoại dịu hiền, yêu thương đứa cháu côi cút hết mực. Những chuyện cổ tích bà kể, những bài thánh ca bà hát như hương hoa ngào ngạt ướp vào tâm hồn tuổi thơ A-li-ô-sa. Cháu chỉ còn biết tìm đến thế giới loài chim, cháu bẫy chim, nuôi chim để nghe chim hót. Khao khát tình thương và tình bạn.Nhà nghèo, ít được đến trường nên A-li-ô-sa ngồi vắt vẻo trên cành cây nhìn sang một cái sân rộng, có lúc phải nhìn qua khe hở hàng rào nhìn ba anh em nhà láng giềng chơi. Khuôn mặt tròn, mắt xám với màu áo xanh cùng những trò chơi lạ của ba anh em đã làm chú ta rất thích. Chúng chơi rất thú vị, vui vẻ và không bao giờ cãi nhau. A-li-ô-sa thích cách ăn vận, thích thái độ săn sóc của chúng đối với nhau ...Mỗi khi đứa em nhỏ. một thằng bé "ngộ nghĩnh và lanh lợi" bị ngã thì hai thằng anh lại cười vui, rồi xúm vào đỡ em dậy, hoặc lấy khăn tay, lấy lá cây ngưu bàng lau các ngón tay và quần cho em. Tiếng nói của đứa anh thứ hai, nói một cách hiền hậu "Em lóng ngóng quá" làm cho Aliôsa chú ý. Cả 3 anh em đều khỏe mạnh, rất nhanh nhẹn, chan hòa yêu thương, không bao giờ cãi nhau hoặc gian lận cả! Aliôsa đã ngắm nhìn say mê, tưởng như chú đang cùng chơi vui vẻ với chúng.Chú phải leo lên cành cây, lúc thì "huýt sáo gọi chúng", lúc thì "hét lên hoặc cười thật to để 3 anh em nhà nọ nhìn thấy ..., chúng thì thầm bàn bạc gì với nhau, chúng nói khẽ với nhau điều gì, ... nên đã làm cho Aliôsa "ngượng quá bèn tụt xuống đất". Có một cái gì ngăn cách hai thế giới tâm hồn tuổi thơ, hay là hàng rào, hay là ..., điều đó làm cho Aliôsa cảm thấy tủi và "cô đơn" nhiều lắm!Go-rơ-ki đã kể lại một cách tỉ mỉ kỉ niệm xa xưa ấy, đã làm cho mỗi chúng ta cảm động nhớ lại những chuyện vui buồn thời bé thơ, nhớ lại những kỉ niệm ấm áp về tình bạn dưới mái trường Tiểu học ngày nào... Một cơ hội đã đến để 3 anh em nhà kia mời Aliôsa cùng sang chơi. Một lần chơi trò ú tim, đứa em út non nớt ngây thơ và khờ dại đã ngồi vào gầu và rơi xuống giếng.Aliôsa chợt nhìn thấy, nhảy phắt xuống sân và kêu to: "Ngã xuống giếng rồi!". Chú đã đến kịp thời để cùng hai đứa anh kéo thằng em út lên, thoát hiểm. Thằng bé ướt sũng, bàn tay rớm máu, "mặt tái xanh nhưng vẫn mỉm cười". Chúng bàn nhau cách nói dối "em ngã vào vũng nước".Trước lúc đưa em vào nhà, thằng anh lớn đã "gật đầu" và "chìa tay" cho Aliôsa và nói: "Cậu chạy đến nhanh lắm!". Sự việc diễn ra quá nhanh, đến nỗi Aliôsa lúc nhìn lại cành cây mà từ đó, chú nhảy xuống cứu bạn "vẫn còn rung rung và một chiếc lá vàng rụng xuống". Có thể nói, sự nhanh nhẹn và tấm lòng của Aliôsa trong việc ứng cứu đứa bé là một "chiến công", một thử thách cho tình bạn của chú với anh em nhà nọ một tuần sau đó.Hàng rào ngăn cách vô hình đã bị lũ trẻ phá tung. Và chỉ mấy ngày sau, ba anh em lại kéo nhau ra sân chơi, thằng anh lớn nhìn thấy Aliôsa trên cây đã thân mật gọi: "Xuống đây chơi với chúng tớ". Đó là tiếng gọi của bạn bè. Là niềm thương yêu tin cậy. Là phần thưởng, là giây phút hạnh phúc nhất đối với Aliôsa mà chú mong đợi bấy nay.Vốn tâm hồn trong sáng, nhạy cảm, bốn đứa bé như bốn con chim non ríu rít chơi với nhau. Aliôsa hỏi chúng nó có bị đánh không. Chúng trao đổi với nhau về chuyện bắt chim nuôi chim, về chim Bạch yến... Chúng nói với nhau về mẹ và dì ghé. Cả bốn đứa bé đều cùng cảnh ngộ "mồ côi mẹ", sự đồng cảm về cảnh ngộ đã gắn bó tâm hồn tuổi thơ.Aliôsa kể cho chúng nghe "Chuyện mụ dì ghẻ phù thủy" ... Bốn đứa bé "ngồi sát vào nhau như những chú gà con". Đây là những khoảnh khắc thần tiên của chúng. Thằng bé nhất thì "mím chặt môi và phồng má lên". Một đứa thì "chống khuỷu tay lên đầu gối... " và quàng lên vai em nó. Chúng im lặng lắng nghe cổ tích.Ở đời, xưa và nay, tình bạn luôn luôn được thử thách qua cảnh giàu nghèo, sang hèn, lúc thành đạt, v.v ... Ở người lớn và trẻ em có tình bạn thủy chung, có thứ tình bạn "nắng sớm, chiều mưa", v.v ... Bốn đứa trẻ này đang chơi thân với nhau, bỗng người lớn đã xông vào "phá đám". Lão đại tá già xuất hiện với bộ ria trắng, đầu đội chiếc mù xù lông đã thô bạo "nắm lấy vai" và đuổi Aliôsa ra khỏi cổng với lời đe dọa: "Cấm không được đến chỗ tao!".
Rồi trận đòn của ông ngoại. Sự đặt điều mách lẻo, sự để ý "theo dõi" của bác Piốt. Ông ngoại đã nghiêm cấm cháu không được chơi với mấy đứa con lão đại tá, v.v ... nhưng tuổi thơ và tình bạn trong sáng của tuổi thơ, ai có thể ngăn cấm và li gián được? Vì thế Aliôsa vẫn tiếp tục chơi với 3 đứa bé kia và quan hệ giữa chúng nó "càng ngày càng trở nên thích thú". Chẳng có "ải quan", "bức tường thành" nào ngăn cách được bốn đứa trẻ!Mọi định kiến giai cấp, mọi sự ngăn cấm và đòn roi đối với chúng nó chẳng có nghĩa lý gì. Giữa bức tường và hàng rào nhà ông đại tá, có một cây du, một cây bồ đề và một bụi hương mộc rậm rạp, "một lỗ hổng hình bán nguyệt" đã được bí mật khoét ra. Chính tại đây ba đứa con trai đại tá, một đứa đứng canh, hai đứa "ngồi xổm hoặc quỳ nói chuyện khe khẽ với nhau".Chúng nói về cuộc sống buồn, về những con chim, nhiều chuyện trẻ con khác, ... Chúng nghe Aliôsa kể chuyện cổ tích. Có một chi tiết rất thú vị là mỗi lần kể chuyện, nửa chừng quên mất chỗ nào, Aỉiôsa lại chạy về hỏi bà ... Chúng vẫn chơi vui, vẫn tâm tình, vẫn chan hòa trong niềm thơ ấu cổ tích. Một tình bạn trong sáng, hồn nhiên.Ba anh em con nhà đại tá mồ côi mẹ, chịu cảnh dì ghẻ, chúng lại không còn bà. Còn Aliôsa, tuy thỉnh thoảng vẫn bị ông ngoại đánh đòn, nhưng em còn có bà ngoại. Bà là dòng sữa cổ tích ngọt ngào nuôi dưỡng tâm hồn em. Bà là chỗ dựa tinh thần bảo vệ che chở cháu khi bị người lớn đặt điều. Ta hãy nghe bà trả lời dứt khoát bác Piốt:"Ôi chà, bác Piốt, tự bác đặt điều ra thì có, nó không chửi bác như vậy đâu!. Mỗi lần Aliôsa quên một tình tiết nào đó trong cổ tích, chạy về hỏi bà, em đã làm cho bà "rất hài lòng". Chú đã tự hào kể bao nhiêu chuyện tốt đẹp vé bà ngoại mình, đã làm cho 3 anh em nhà đại tá xúc động. Cả 3 anh em đều buồn và thằng anh lớn đã thở dài nói: "Có lẽ tất cả các bà đều rất tốt, bà mình trước đây cũng rất tốt".Đó là một câu nói giản dị của một em bé đã trải qua nhiều bất hạnh. Những bạn nhỏ nào đó đã từng được nghe bà ru, bà kể chuyện cổ tích, từng được bà ôm ấp gãi lưng cho ? Những bạn nhỏ nào đó trong cơn mơ từng thấy bà hiền hậu đang cầm "quả thị Tấm Cám" trên tay ? Và những ai đó khi cất tiếng chào đời chưa một lần nào được nhìn thấy mái tóc bà, nụ cười hiền hậu của bà sẽ xúc động biết bao khi nghe một đứa bé "thở dài" nói trong ngao ngán "bà mình trước cũng rất tốt".Có thể nói tình bạn và tình yêu thương bà là những tình cảm đậm đà, trong sáng, thiêng liêng của tuổi thơ. Đọc những dòng tự thuật trên đây, ta thấy chất thơ dào dạt trên trang văn của Go-rơ-ki – Ta biết yêu bà, yêu bạn. Ta lớn lên và được sống tin cậy trong tình yêu thương mênh mông. Thiếu tình thương, tuổi thơ buồn lắm vì phải trải qua những tháng ngày u ám cô đơn,
Từ khi có bạn, được chơi trong tình bạn, những em bé mồ côi như có ánh nắng đem lại sự ấm áp cho tâm hồn. Go-rơ-ki đã nói rất cảm động điều đó. Tính chân thực, hồn nhiên và truyền cảm tạo nên vẻ đẹp văn chương đích thực của "Thời thơ ấu".