Một thời đại trong thi ca - Tác giả tác phẩm – Ngữ văn lớp 11

Tải xuống 6 10.3 K 15

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 11 tài liệu tác giả tác phẩm Một thời đại trong thi ca  hay nhất, gồm 6 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:

Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Một thời đại trong thi ca Ngữ văn lớp 11.

Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu tác phẩm Một thời đại trong thi ca Ngữ văn lớp 11:

MỘT THỜI ĐẠI TRONG THI CA

Bài giảng: Một thời đại trong thi ca

(Hoài Thanh)

A. Nội dung tác phẩm

     Trong tiểu luận này, Hoài Thanh đã nêu một vấn đề quan trọng là đi tìm tinh thần Thơ mới. Tác giả đã đưa ra nguyên tắc nhận diện tinh thần Thơ mới: Không căn cứ vào cục bộ và bài dở, phải căn cứ vào đại thể và bài hay. Xác định tinh thần Thơ mới là chữ “tôi” trong Thơ mới đối lập với chữ “ta” trong thơ cũ và cho thấy bi kịch của cái Tôi trong Thơ mới. Cuối cùng chỉ ra sự vận động của cái “tôi” và việc giải quyết bi kịch thời đại của nó bằng cách gửi cả vào tình yêu tiếng Việt.

Tác giả tác phẩm Một thời đại trong thi ca - Ngữ văn lớp 11 (ảnh 1)

B. Đôi nét về tác phẩm

1. Tác giả

*Tiểu sử:

- Hoài Thanh (1909 – 1982), tên khai sinh Nguyễn Đức Nguyên.

- Quê ở Nghi Trung, Nghi Lộc, Nghệ An, xuất thân trong một gia đình nhà Nho nghèo.

- Trước cách mạng:

+ Tham gia các phong trào yêu nước ngay từ thời đi học và bị thực dân Pháp bắt giam.

+ Tham gia cách mạng Tháng Tám và làm chủ tịch Hội Văn hóa cứu quốc ở Huế.

- Sau cách mạng Tháng Tám:

+ Chủ yếu hoạt động trong ngành Văn hóa – nghệ thuật và từng giữ nhiều chức vụ quan trọng: Tổng thư ký Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam, Hội Văn nghệ Việt Nam, Tổng thư ký Hội Liên Hiệp văn học nghệ thuật Việt Nam…

*Sự nghiệp văn học:

- Các tác phẩm chính: Văn chương và hành động (1936), Thi nhân Việt Nam (1942), Nói chuyện thơ kháng chiến(1950)…

- Phong cách phê bình:

+ Là nhà lý luận phê bình xuất sắc của nền Văn học Việt Nam hiện đại: “lấy hồn tôi để hiểu hồn người”

+ Cách phê bình của ông nhẹ nhàng, tinh tế gần gũi và giàu cảm xúc, hình ảnh. Có sự kết hợp giữa tính khoa học với tính văn chương logic, độc đáo.

- Năm 2000 ông được nhận giải thưởng HCM về văn học nghệ thuật.

2. Tác phẩm

a. Vị trí đoạn trích:

- Đoạn trích thuộc phần đầu của quyển Thi Nhân Việt Nam, là phần cuối của tiểu luận Một thời đại trong thi ca.

- Giá trị văn bản: tổng kết một cách sâu sắc toàn diện của phong trào thơ Mới.

*Văn bản Thi nhân Việt Nam

-  Là bản tổng kết sự kiện văn học lớn: phong trào thơ mới – cuộc cách mạng trong thi caViệt Nam đầu thế kỉ XX.

- Bố cục: 3 phần

+ Phần 1: Cung chiêu anh hồn Tản Đà và Tiểu luận một thời đại trong thi ca (Nguồn gốc quá trình phát triển của thơ mới; sự phân hóa của thơ mới; định nghĩa thơ mới và sự phân biệt thơ mới với thơ cũ).

+ Phần 2: 169 bài thơ của 46 nhà thơ (1932 – 1941)

+ Phần 3: Nhỏ to – lời tác giả.

⇒ Cuốn tiểu luận có giá trị lớn trong việc tổng kết một chặng đường thơ và nêu lên được đặc trưng cơ bản của thơ mới.

b. Hoàn cảnh sáng tác: Năm 1942.

c. Thể loại: Phê bình văn học.

d. Phương thức biểu đạt: Nghị luận.

e. Bố cục: 3 phần:

+ Phần 1 (Từ đầu ... phải nhìn vào đại thể): Nguyên tắc để xác định tinh thần thơ mới.

+ Phần 2 (Tiếp theo ... rẻ rúng đến thế): Tinh thần thơ mới: chữ tôi

+ Phần 3 (Còn lại): Sự vận động của thơ mới xung quanh cái tôi và bi kịch của nó.

f. Giá trị nội dung:

- Chỉ ra được nội dung cốt lõi của tinh thần thơ mới: cái tôi và nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên hồi bấy giờ.

- Đánh giá được thơ mới trong cả ý nghĩa văn chương và xã hội.

g. Giá trị nghệ thuật:

- Kết hợp một cách hài hòa giữa tính khoa học và tính văn chương nghệ thuật.

- Luận điểm khoa học, chính xác, mới mẻ; kết cấu và triển khai hệ thống luận điểm cũng như nghệ thuật lập luận rất chặt chẽ, logic.

- Các biện pháp nghệ thuật được sử dụng một cách khéo léo, tài tình có khả năng khơi gợi và tạo sức cuốn hút lớn....

C. Đọc hiểu văn bản

1. Nguyên tắc để xác định tinh thần Thơ mới

- Khó khăn:

+ Ranh giới giữa thơ mới thơ cũ không phải lúc nào cũng rõ ràng, dễ nhận ra.

+ Cả thơ mới và thơ cũ đều có những cái hay, cái dở.

⇒ Nhận xét: Bằng những câu văn giả định, cảm thán, với một giọng điệu thân mật, gần gũi, thiết tha, bức xúc mà chân thành, tác giả đã nêu lên được cái khó khăn mà cũng là cái khao khát của kẻ yêu văn quyết tìm cho được tinh thần thơ mới.

- Nguyên tắc xác định:

+ Phương pháp so sánh: Sánh bài hay với bài hay, không căn cứ vào bài dở.

+ Cái nhìn biện chứng, nhiều chiều, không phiến diện: Nhìn vào đại thể, không nhìn vào cục bộ. 

⇒ Nhận xét: Nguyên tắc ấy có sức thuyết phục, khách quan, đúng đắn. Bởi vì:

- Cái dở thời nào cũng có nó chẳng tiêu biểu gì hết, nó cũng không đủ tư cách đại diện cho thời đại và nghệ thuật luôn có sự tiếp nối giữa cái cũ và cái mớ.

- Đồng thời nhìn nhận đánh giá phải nhìn nhận toàn diện.

2. Tinh thần thơ mới

- Tinh thần thơ mới bao gồm trong chữ "tôi":

+ Bản chất chữ "tôi": Quan niệm con người cá nhân trong sự giải phóng, trỗi dậy, bùng nổ của ý thức cá nhân (cái nghĩa tuyệt đối của nó).

+ Hành trình: chập chững, lạ lẫm – được quen biết – được cho là đáng thương và tội nghiệp.

⇒ Nhận xét:

- Thơ cũ là tiếng nói của cái ta, gắn liền với đoàn thể, cộng đồng, dân tộc.

- Thơ mới là tiếng nói của cái tôi với nghĩa tuyệt đối, gắn liền với cái riêng, cái cá nhân, cá thể.

- Thủ pháp nghệ thuật so sánh, đối chiếu được kết hợp chặt chẽ với cái nhìn biện chứng, lịch sử, nhiều chiều:

+ Đặt cái tôi trong mối quan hệ đối chiếu với cái ta.

+ Đặt cái tôi trong mối quan hệ với thời đại, với tâm lí người thanh niên đương thời để phân tích, đánh giá.

+ Đặt cái tôi trong cái nhìn lịch sử để nhận định: Lịch sử xuất hiện, lịch sử phát triển, lịch sử tiếp nhận...

3. Sự vận động của thơ mới xung quanh cái "tôi" và bi kịch của nó

- Cái tôi đáng thương và đáng tội nghiệp:

+ Mất cốt cách hiên ngang: không có khí phách ngang tàng như Lí Bạch, không có lòng tự trọng khinh cảnh cơ hàn như Nguyễn Công Trứ.

+ Rên rỉ, khổ sở, thảm hại.

+ Thiếu một lòng tin đầy đủ vào thực tại, tìm cách thoát li thực tại nhưng lại rơi vào bi kịch.

→ Cách trình bày có tính khái quát cao (về sự bế tắc của cái tôi Thơ mới và phong cách riêng của từng nhà văn). Lập luận logic, chặt chẽ nhưng cách diễn đạt lại giàu cảm xúc và có tính hình tượng.

- Các hướng mà nhà Thơ mới đào sâu:

+ Thế Lữ: Thoát lên tiên.

+ Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên: Điên cuồng.

+ Xuân Diệu: Say đắm.

+ Huy Cận: Ngẩn ngơ buồn.

→ Tuyệt vọng, càng đi sâu càng lạnh.

- Bi kịch của người thanh niên thời ấy:

+ Cô đơn, buồn chán, tìm cách thoát li thực tại vì thiếu lòng tin vào thực tại nhưng cuối cùng vẫn rơi vào bế tắc (Đây cũng chính là đặc trưng cơ bản của thơ mới).

+ Cái tôi bi kịch này “đại biểu đầy đủ nhất cho thời đại” nên nó vừa có ý nghĩa văn chương vừa có ý nghĩa xã hội.

- Giải quyết bi kịch: Gửi cả vào tiếng việt.

+ Họ yêu vô cùng thứ tiếng đã chia sẻ buồn vui với cha ông.

+ Họ dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt.

+ Tiếng Việt là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ đã qua.

+ Họ muốn mượn tấm hồn bạch chung để gửi nỗi băn khoăn riêng.

+ Họ tin rằng tiếng ta còn, nước ta còn.

+ Họ cần tìm về dĩ vãng để vin vào những gì bất diệt đủ bảo đảm cho ngày mai.

D. Sơ đồ tư duy

Một thời đại trong thi ca

Sơ đồ tư duy Phân tích Một thời đại trong thi ca 

Phân tích tác phẩm Một thời đại trong thi ca của Hoài Thanh năm 2021

Dàn ý chi tiết Phân tích Một thời đại trong thi ca

1. Mở bài

- Giới thiệu về Hoài Thanh: Hoài Thanh là nhà phê bình, nghiên cứu văn học xuất sắc tài hoa. Ông được bạn học yêu thích và ngưỡng mộ ở lĩnh vực phê bình thơ.

- Giới thiệu về tác phẩm: Một thời đại trong thi ca là tiểu luận mở đầu cuốn “Thi nhân Việt Nam” - một công trình xuất sắc trong sự nghiệp văn chương của Hoài Thanh đề cập đến nhiều vấn đề thơ Mới.

- Giới thiệu về đoạn trích: Đoạn trích là phần cuối của bài tiểu luận với lập luận chặt chẽ khoa học và một phong cách nghệ thuật tài hoa, tác giả đã nêu rõ đặc trưng tinh thần của thơ Mới là cái tôi cá nhân và số phận đầy bi kịch của nó.

2. Thân bài

Phân tích theo bố cục 3 phần

2.1. Tác giả đưa ra tiêu chí xác định tinh thần cùng giá trị của thơ Cũ và Thơ mới: Là phải căn cứ vào cái đại thể và cái hay của mỗi thời.

- Mở đầu đoạn trích, tác giả nêu lên nguyên tắc chung của việc đánh giá thơ Mới là chỉ căn cứ vào cái Hay của đại thể mỗi thời.

- Theo tác giả cái khó trong việc tìm ra tinh thần của thơ Mới là:

+ Thơ Cũ, thơ Mới đều có bài hay, bài dở.

* Các nhà thơ Mới không chỉ viết ra những câu thơ hoàn hoàn cách tân, hiện đại mà vẫn gợi lại những hình ảnh thân thuộc muôn thuở của thơ ca truyền thống như Xuân Diệu:

Người giai nhân: bến đợi dưới cây

Tình du khách: thuyền qua không.

* Trong khi đó thơ Cũ lại có những câu “nhí nhảnh và lả lơi”.

Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ

Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?

Theo Hoài Thanh thời đại nào cũng có những tác phẩm hay, tác phẩm dở.

+ Cái khó thứ hai giữa thơ Cũ và thơ Mới vẫn có sự giao thoa, ảnh hưởng:

* Cái hôm nay phôi thai từ cái hôm qua, trong cái mới vẫn có cái cũ rơi rớt lại.

=> Từ đây nhà nghiên cứu đưa ra nguyên tắc nhận diện:

- Không căn cứ vào cục bộ và cái dở của thơ mỗi thời.

- Phải căn cứ vào cái đại thể, cái hay của mỗi thời.

=> Cách nhìn nhận của tác giả như vậy là khách quan khoa học và biện chứng.

Video bài văn mẫu Phân tích Một thời đại trong thi ca

2.2. Nêu ra đặc trưng tinh thần của thơ Mới.

Tinh thần thơ Cũ - chữ TA

Tinh thần thơ Mới - chữ TÔI

- Theo Hoài Thanh điều cốt lõi mà thơ Mới mang đến cho thi đàn Việt Nam lúc bấy giờ chính là chữ TÔI - ý thức về bản thân.

- Khi tìm tòi đặc điểm của thơ Mới, tác giả luôn phân tích cái Tôi trong nhiều mối quan hệ để làm nổi rõ bản chất của nó. Đặt cái Tôi trong quan hệ với cái Ta để tìm ra những chỗ giống và khác nhau.

2.3.

a) Tác giả luận giải về nội dung và biểu hiện của chữ Ta và chữ Tôi trong thơ ca.

- Chữ “Tôi” chính là ý thức cá nhân

- Chữ “Ta” là ý thức cộng đồng.

=> Hai ý thức này là hai tiếng nói tồn tại song song trong đời sống tinh thần của mỗi con người. Thời trước, cái Ta lấn át nên cái Tôi không có cơ hội để nảy nở, còn thời nay cái tôi trỗi dậy giành quyền sống tự do. Phong trào thơ Mới nảy sinh chính từ sự trỗi dậy mạnh mẽ đó.

- Chữ “Ta” và chữ “Tôi” trong thơ Cũ và thơ Mới có gì khác nhau:

+ Chữ “Ta” trong thơ Cũ gắn liền với mối quan hệ gia đình, quốc gia, giống như giọt nước trong biển cả không có bản sắc riêng.

+ Chữ “Tôi”: bản sắc riêng, quan niệm cá nhân.

* Nhận xét lập luận:

- Các bước lập luận theo trật tự từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, từ khái quát đến cụ thể. Trật tự mạch lạc, bảo đảm tư duy logic, sức thuyết phục cao.

b) Tác giả đề cập đến sự phản ứng của xã hội trong quá trình tiếp nhận nó.

- Chữ “Tôi” với cái nghĩa tuyệt đối của nó lại “đáng thương” tội nghiệp bởi vì:

+ Thi nhân mất hết cái cốt cách hiện ngay ngày trước.

+ Cái Tôi đem đến cho tâm hồn họ nỗi buồn lạnh bơ vơ, muốn thoát nhưng không được: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ Tôi. Mất bề rộng ta đi tìm bề sâu, càng đi càng thấy lạnh. Ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ… Ta ngơ ngẩn buồn trở về hồn ta cùng Huy Cận”.

- Âm điệu của câu văn lúc cân đối nhịp nhàng, lúc bất ngờ gấp gáp, lúc chùng xuống suy tư.

- Tác giả sử dụng rất nhiều tính từ, động từ chỉ trạng thái tâm lý giàu sức biểu cảm: rộng, sâu, lạnh…

- Phân tích sự tương phản giữa khát vọng thoát thân với thực tế tù túng, bi kịch thi sĩ lãng mạn:
 Thoát lên tiên - Động tiên đã khép

Phong lưu trong trường tình - Tình yêu không bền

Điên cuồng - Điên cuồng rồi tỉnh

Đắm say - Say đắm bơ vơ

=> Các nhà thơ lãng mạn cũng như “người thanh niên” bấy giờ, giải tỏa bi kịch đời mình vào tiếng Việt, dồn tình yêu quê hương trong tiếng Việt, lấy tinh thần nòi giống, tìm về dĩ vãng làm chỗ dựa tinh thần.

3. Kết bài

- Bài tiểu luận hấp dẫn, lôi cuốn và làm rung động tâm hồn bao thế hệ người đọc bởi phương pháp luận khoa học, văn phong tài hoa, tinh tế, cách viết giàu hình ảnh, so sánh gợi liên tưởng Hoài Thanh đã giúp chúng ta thêm hiểu biết trân trọng và những sáng tạo của thơ Mới. Hoài Thanh xứng đáng là nhà phê bình xuất sắc của văn học Việt Nam hiện đại.

Bài văn mẫu: Phân tích tác phẩm Một thời đại trong thi ca - mẫu 1

Nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận, so sánh giữa thơ mới- thơ cũ, vài nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới; tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Ở mỗi góc cạnh của vấn đề, tác giả lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng kèm theo những ý kiến sắc sảo và tinh tế.

Tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Để khẳng định được tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ “ tôi”trong quá trình phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Nét chung của thơ cũ là thiên về cái “ta”, thiên về ý thức cộng đồng và để làm rõ ý thức này, Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng. ” Xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Còn cá nhân, bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Như vậy nhìn qua tất cả thì thơ cũ gồm cả chữ” ta”, họ cầu cứu đoàn thể để chống lại sự cô đơn.

Thơ mới lại nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân, “dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này “ đó là quan niệm cá nhân”.

Thứ ba là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên là sự xuất hiện và tiếp nhận của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm thì còn có rất nhiều sự bỡ ngỡ. Nó giống như một kẻ lạc loài ở nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu. Vì chúng ta đã quen nhìn cuộc sống trong mình có cái “ta”. Bây giờ, nó xuất hiện thì làm sao lại tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng theo thời gian, chữ “tôi” đó dần dần được chấp nhận và đã làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ của ban đầu.

Cuối cùng tác giả đã chỉ ra một hướng lớn trong phong trào thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi”:” đời của chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta lại đi tìm bề sâu”. “mất bề rộng” là không còn thiên về cái chung, cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu chính là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Tâm hồn của các nhà thơ thu mình trong chữ “tôi” nên luôn cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo cho nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát: “ chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”.

Cách dẫn dắt và lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất đòn bẩy để xác định nỗi thương không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. Thế đấy, nỗi buồn của thơ mới được hiện lên như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm.

Bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận rất khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa rất tinh tế với giọng văn của người trong cuộc cùng những chia sẻ đúng như quan niệm thi nhân “ lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt những khái niệm đó vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh biểu cảm. Các câu văn được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn cuốn hút người đọc. Chính điều này đã mang được tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn thật hợp lý, logic, ngôn ngữ đặc sắc, dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm có bài phê bình nào có thể làm được. Đoạn trích đã đi sâu tập trung giải thích cho sự ra đời và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấy thái độ trân trọng cổ vũ của tác giả, cho thấy sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm lòng của nhà thơ mới đối với toàn dân tộc ta

Bài văn mẫu: Phân tích tác phẩm Một thời đại trong thi ca - mẫu 2

Hoài Thanh là một nhà phê bình được đánh giá là một nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học xuất sắc nhất. Cuốn sách nổi tiếng “một thời đại trong thi ca” là tiểu luận mở đầu cho cuốn Thi nhân Việt Nam. Đó cũng chính là một trong những công trình xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn chương của tác giả. Và cũng dễ nhận thấy được nội dung của cuốn sách này đề cập đến rất nhiều vấn đề như nguồn gốc của thơ mới, cuộc tranh luận và có cả những sự so sánh giữa thơ mới- thơ cũ. Trong tác phẩm đó cũng chính là một vài nét về con đường phát triển Thơ mới, đặc điểm về hình thức thể loại và triển vọng trước mắt của Thơ mới. Ta có thể nhận thấy được đó chính là cái tinh thần cốt lõi của Thơ mới và hình ảnh cái tôi trong mỗi tác phẩm. Và ở mỗi góc cạnh của vấn đề, tác giả lại có những nhận định với những khía cạnh rất riêng kèm theo những ý kiến sắc sảo và tinh tế biết bao nhiêu.

Và ấn tượng với đoạn mở đầu cho đoạn trích thì tác giả đưa ra để xác định cho thơ mới. Ta như thấy được theo như Hoài Thanh thì muốn hiểu được thời đại thi ca thì phải có sự so sánh. Và cái sự so sánh này dường như cũng đã chỉ ra các cách xác định của tác giả luôn mang tính khoa học bởi vì chỉ những câu hay mới được trở thành thước đo để tính giá trị sản phẩm mà thôi. Điều thứ hai đáng nói ở đây có lẽ chính là phải như căn cứ vào tổng thể chứ không thể nhìn vào tiểu tiết. Nghĩa là phải dựa vào cái chung nhất sau đó mới có thể nói những cái riêng biệt và đơn lẻ ra để có thể tổng hợp và đánh giá sao cho chân thực nhất.

Và một điều đáng nói ở đây có lẽ chính là tinh thần thơ mới là sự khẳng định của cái “tôi”. Cũng như là để khẳng định được tinh thần Thơ mới tác giả đã đưa ra những biện luận cụ thể về nội dung của chữ “ tôi”trong quá trình phân biệt chữ “tôi” với “ta”. Ta như có thể thấy được chính những nét chung của thơ cũ là thiên về cái “ta”, thiên về ý thức cộng đồng và để làm rõ ý thức này. Đặc biệt hơn nữa là chính Hoài Thanh đã nhìn trong lối sống nói chung và nhìn trong văn học nói riêng”. Ta như thấy được chính xã hội Việt Nam từ xưa không có cá nhân chỉ có đoàn thể lớn thì quốc gia nhỏ thì gia đình. Và khi nói về cá nhân thì dường như chính cái bản sắc của cá nhân chìm đắm trong gia đình, trong quốc gia như giọt nước trong biển cả”. Như vậy, khi mà nhìn qua tất cả thì thơ cũ gồm cả chữ” ta”, họ cầu cứu đoàn thể để chống lại sự cô đơn như thật lạc long biết bao nhiêu.

Thơ mới dường như cũng đã như lại nghiêng về “cái tôi” và “ý thức cá nhân,“dựa trên đại thể tất cả tinh thần thời nay hay chính là một tinh thần của thơ mới gồm hai trong chữ “tôi”- ý thức cá nhân của mỗi người” và có thể khẳng định rằng khi thơ mới xuất hiện nó mang một quan niệm chưa từng thấy ở xứ sở này “ đó là quan niệm cá nhân”.

Thứ ba đáng nói ở đây cũng chính là biểu hiện và ý nghĩa của cái tôi. Đầu tiên có thể nói đến chính là sự xuất hiện và tiếp nhận của cái “tôi”. Trước tiên khi cái tôi xuất hiện trên văn đàm thì còn có rất nhiều sự bỡ ngỡ. Nó dường như thật là giống như một kẻ lạc loài ở nơi đất khách bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu biết bao nhiêu. Cũng chính vì chúng ta đã quen nhìn cuộc sống trong mình có cái “ta”. Bây giờ, chính cái “tôi” nó như lại xuất hiện thì làm sao lại tránh khỏi sự bỡ ngỡ. Nhưng có thể nói cái “tôi” theo thời gian, chữ “tôi” đó dần dần được chấp nhận và đã làm cho nó đã mất dần đi vẻ bỡ ngỡ của ban đầu.

Cuối cùng ta cũng như đã thấy được chính tác giả đã chỉ ra một hướng lớn trong phong trào thơ mới. Đi sâu vào cái “tôi” kia thì dường như đời của chúng ta nằm trong vòng cái “tôi”, mất bề rộng ta lại đi tìm bề sâu”. “mất bề rộng” là không còn thiên về cái chung một sợi dây liên hệ như trước nữa. Và đó chính là cái cộng đồng của thơ cũ, còn đi tìm bề sâu chính là đi tìm cái tôi, đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Ta có thể thấy được có lẽ chính tâm hồn của các nhà thơ thu mình trong chữ “tôi” nên luôn cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo cho nên thường gọi đó là “cái tôi tội nghiệp”. Xuân Diệu quả đúng là một nhà thơ đầy đủ nhất của thời đại ấy vậy mà chỉ nói tới cái cô đơn, khổ sở, thảm hại của cái ta trong những vần thơ của mình. Từ đó Hoài Thanh đã khái quát rất hay là“ chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”.

Có thể thấy được chính cách dẫn dắt và lập luận của tác giả càng trở nên chặt chẽ hơn khi đưa ra các ví dụ cụ thể, cũng với sự so sánh liên tưởng và nhất là dẫn ra những câu chuyện về Cao Bá Nha, của cô Phụ trên bến Cầm Dương có tính chất như để làm đòn bẩy để xác định nỗi thương không nơi nương tựa của những nhà thơ mới. Thế đấy, ta như thấy được những nỗi buồn của thơ mới được hiện lên như một bi kịch diễn ra ngấm ngầm như âm ỉ nhưng không lúc nào thôi mạnh mẽ cả.

Quả thực chính bài tiểu luận có tính chặt chẽ, lập luận rất khoa học, lời văn của Hoài Thanh vừa sắc sảo, vừa rất tinh tế với giọng văn của người trong cuộc. Và như cùng những chia sẻ đúng như quan niệm thi nhân như đã “ lấy hồn tôi để hiểu hồn người”. Đặc biệt hơn nữa ta có thể thấy ở đây đó chính là những khái niệm đó vốn khô khan, qua những trình bày, giải thích của tác giả đã được chuyển thành những hình ảnh biểu cảm. Các câu văn dường như cũng đã được cân chỉnh, hợp lí với giọng văn cuốn hút người đọc. Có lẽ vì chính điều này đã mang được tính nhạc cho bài văn. Cách dẫn dắt đoạn văn của Hoài Thanh ta như thất được thật hợp lý, logic ,ngôn ngữ đặc sắc, dung dị dễ hiểu mà vẫn súc tích là một trong những điều mà hiếm có bài phê bình nào có thể làm được.

Đoạn trích dường như đã đi sâu cũng như thật tập trung giải thích cho sự ra đời và phát triển của thơ mới. Qua đó, chúng ta cũng có thể nhìn thấy thái độ trân trọng cổ vũ của tác giả, đồng thời cũng đã như cho thấy sự xuất hiện ý thức cá nhân trong thơ ca và tấm lòng của nhà thơ mới đối với toàn dân tộc ta vậy.

Tài liệu có 6 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống