Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 11 tài liệu tác giả tác phẩm Vội vàng hay nhất, gồm 10 trang đầy đủ những nét chính về văn bản như:
Các nội dung được Giáo viên nhiều năm kinh nghiệm biên soạn chi tiết giúp học sinh dễ dàng hệ thống hóa kiến thức từ đó dễ dàng nắm vững được nội dung tác phẩm Vội vàng Ngữ văn lớp 11.
Mời quí bạn đọc tải xuống để xem đầy đủ tài liệu tác phẩm Vội vàng Ngữ văn lớp 11:
VỘI VÀNG
Bài giảng: Vội vàng
Tặng Vũ Đình Liên
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất;
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi.
Của ong bướm này đây tuần trăng mật;
Này đây hoa của đồng nội xanh rì;
Này đây lá của cành tơ phơ phất;
Của yến anh này đây khúc tình si;
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi,
Mỗi sáng sớm, thần Vui hằng gõ cửa;
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.
Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,
Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.
Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!
Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,
Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...
Con gió xinh thì thào trong lá biếc,
Phải chăng hờn vì nỗi phải bay đi?
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...
Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng,
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi;
- Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!
1. Tác giả
*Tiểu sử
- Xuân Diệu (1916- 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu.
- Quê: Can Lộc – Hà Tĩnh nhưng sống với mẹ ở Quy Nhơn.
- Năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn.
- Cuối năm 1940, ông vào Mĩ Tho (nay là Tiền Giang) làm viên chức tham tá thương chánh.
- Năm 1942, ông quay lại Hà Nội sống bằng nghề viết văn.
- Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh.
- Trong kháng chiến, Xuân Diệu di tản lên chiến khu Việt Bắc, hoạt động văn nghệ cách mạng.
- Hòa bình lập lại, Xuân Diệu về sống và làm việc tại Hà Nội đến khi mất.
*Sự nghiệp văn học
- Phong cách sáng tác:
+ Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca đương đại một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.
+ Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.
- Tác phẩm tiêu biểu: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960)... Ngoài ra ông còn viết văn xuôi và tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học.
*Vị trí và tầm ảnh hưởng
- Là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.
- Xuân Diệu là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.
- Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn.
- Ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996).
2. Tác phẩm
a. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác: In trong tập Thơ thơ (1938) – tập thơ đầu tay và cũng là tập thơ khẳng định vị trí của Xuân Diệu – Nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.
b. Thể loại: Thơ tám chữ.
c. Phương thức biểu đạt: Biểu cảm
d. Ý nghĩa nhan đề:
- Nhan đề Vội vàng có ý nghĩa khái quát một quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực của nhà thơ Xuân Diệu:
+ Đó là một thái độ sống gắn bó, yêu quí cuộc đời, biết tận hưởng tất cả những vẻ đẹp, những giá trị của cuộc sống trần gian.
+ Vội vàng không đồng nghĩa với lối sống chỉ biết đến hưởng thụ, ích kỉ, đề cao vật chất mà mà phải biết tận hưởng một cách cao đẹp; tận hưởng đi cùng với nâng niu, sáng tạo.
- Nhan đề này còn gián tiếp phê phán thái độ sống, thờ ơ, lãng quên, trốn tránh thực tại…
e. Bố cục: 3 phần
- Đoạn 1 (13 câu thơ đầu): Bộc lộ tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.
- Đoạn 2 (Câu 14 tới câu 29): Thể hiện sự nuối tiếc về kiếp người và thời gian.
- Đoạn 3 (còn lại): Giục giã cuống quýt, vội vàng để tận hưởng tuổi trẻ và cuộc đời.
f. Giá trị nội dung:
- Một cái tôi ham sống, ham tận hưởng được thể hiện rõ qua bài thơ.
- Cái tôi của Xuân Diệu trong bài thơ tiêu biểu cho cái tôi thời đại Thơ mới:
+ Ý thức sâu sắc về sự yêu đời nhưng vẫn mang nỗi lo âu.
+ Triết lý sống, tuyên ngôn sống cuỗng quýt, vội vàng, và khát khao giao cảm với đời.
+ Quan niệm nhân sinh, quan niệm thẩm mĩ mới mẻ.
g. Giá trị nghệ thuật:
- Sự kết hợp giữa, mạch cảm xúc và, mạch luận lí.
- Cách nhìn, cách cảm mới và những sáng tạo độc đáo về hình ảnh thơ.
- Sử dụng ngôn từ nhịp điệu dồn dập, sôi nổi, hối hả, cuồng nhiệt.
1. Phần 1: Tình yêu tha thiết với cuộc sống nơi trần thế
a. Bốn câu đầu: khát vọng lạ lùng của thi nhân
- Bốn câu đầu diễn tả khát vọng lạ lùng của thi nhân:
Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi
⇒ Nhà thơ muốn đoạt quyền tạo hóa tắt nắng, buộc gió để làm ngưng đọng vẻ đẹp của tự nhiên màu đừng nhạt, hương đừng bay. Điệp từ tôi kết hợp động từ tính thái thể hiện những cảm xúc nồng nàn mãnh liệt của thi nhân.
b. Chín câu tiếp theo: bức tranh thiên nhiên mùa xuân nồng nàn, tươi mới, tràn đầy sức sống
- Thi nhân muốn làm ngưng đọng vẻ đẹp của tự nhiên bởi, bức tranh đẹp quá, vườn xuân mơn mởn – bữa tiệc trần gian. Xuân Diệu làm sống dậy nét quyến rũ, điệu tình tứ, vẻ kì thú của thiên nhiên bằng sự quan sát mô tả tinh tế:
+ Ong bướm đang thời kì làm mật
+ Hoa của đồng nội xanh rì
+ Sự chuyển động của cành tơ phơ phất
+ Khúc hót yến anh làm say mê lòng người
+ Ánh mặt trời như phát ra từ cặp mắt của người con gái đẹp ánh sáng chớp hàng mi.
- Tính từ chỉ màu sắc (xanh rì), âm thanh (khúc tình si), kết hợp với các hình ảnh (hoa đồng nội, cành tơ, ong bướm) tạo nên bức tranh xuân dồi dào sinh lực. Khơi dậy vẻ tinh khôi, hấp dẫn, đầy xuân tình của cảnh.
- Điệp từ này đây, được đặt ở các vị trí khác nhau diễn tả bước chân hăm hở của thi nhân. Mỗi bước chân là một sự khám phá phát hiện vẻ đẹp của mùa xuân.
- Bức tranh xuân không phải bây giờ mới có nhưng đến bây giờ Xuân Diệu mới nhìn thấy. Bằng cặp mắt xanh non, biếc rờn, Xuân Diệu lần đầu tiên ngơ ngác, vui sướng, nhìn cái gì cũng thấy say mê, đáng yêu. Cuộc sống mùa xuân bày ra trước mắt Xuân Diệu như một bữa tiệc trần gian đang mời gọi con người say mê thưởng thức.
⇒ Với Xuân Diệu, bức tranh xuân tươi đẹp không phải tìm đâu xa mà ở ngay chính trần gian à quan niệm nhân sinh mới mẻ, tích cực (so với các nhà thơ lãng mạn cùng thời).
- Thiên nhiên đẹp, nhưng với Xuân Diệu đẹp nhất là con người giữa tuổi trẻ và tình yêu.
+ Quan niệm mĩ học mới: con người là chuẩn mực cho cái đẹp của tự nhiên. Do vậy, thi sĩ đã sáng tạo nên những hình ảnh độc đáo mới lạ:
Và này đây ánh sáng chớp hàng mi…
Mỗi buổi sớm thần Vui hằng gõ cửa
Tháng giêng ngon như một cặp môi gần
- Xuân Diệu luôn miêu tả người thiếu nữ qua những ấn tượng cụ thể: Tháng giêng làtháng đầu tiên của mùa xuân, của một năm được thi sĩ so sánh với cặp môi gần của thiếu nữ. → Một cách so sánh rất mới mẻ, rất Xuân Diệu.
- Vườn xuân đẹp, con người đẹp, thi sĩ dã say sưa tận hưởng vẻ đẹp của trần gian, của cuộc đời:
Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa
Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân
- Nhưng niềm vui của thi nhân không trọn vẹn. Nửa bên này dấu chấm là mùa xuân, nửa bên kia là giới hạn của cuộc đời nên thi sĩ vội vàng tận hưởng, hoài xuân, tiếc xuân ngay giữa mùa xuân. Đó là nội dung luận lí là việc lập thuyết của Xuân Diệu về lẽ sống vội vàng trong phần một này.
⇒ Bằng cách nhìn tình tứ, cách cảm nhận tinh tế về thiên nhiên, con người, nhà thơ đã bày ra một bữa tiệc trần gian và niềm cảm xúc ngây ngất trước cảnh sắc ấy.
2. Phần 2: Quan niệm mới mẻ của nhà thơ về thời gian – tình yêu – tuổi trẻ
Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già
Lòng tôi rộng nhưng lượng trời cứ chật
Không cho dài thời trẻ của nhân gian,
Quan niệm mới về thời gian, tuổi trẻ
- Bằng các cặp từ đối lập, giọng tranh luận, biện bác, nhịp điệu sôi nổi khẩn trương, Xuân Diệu đã chống đối, tranh cãi lại quan niệm xưa: thời gian tuần hoàn (quan niệm xuất phát từ cái nhìn tĩnh). Xuân Diệu chọn quan niệm khác: thời gian tuyến tính, một đi không trở lại.
→ Vì thế mỗi khoảnh khắc trôi qua là mất đi vĩnh viễn. Quan niệm này xuất phát từ cách nhìn động, rất biện chứng về tuổi trẻ.
- Nhà thơ lấy cái hữu hạn của đời người để làm thước đo thời gian, thậm chí lấy quãng thời gian ngắn nhất, giàu ý nghĩa trong sinh mệnh con người. Đó là tuổi trẻ, mùa xuân có thể tuần hoàn nhưng tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại:
Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn
Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại
- Giới hạn lớn nhất của đời người ấy là thời gian. Vì thế cảm nhận về thời gian của Xuân Diệu đầy tính mất mát:
Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,
Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt
- Mỗi khoảnh khắc đang lìa bỏ hiện tại để trở thành quá khứ được hình dung như một cuộc chia lìa, một mất mát. Đó là lời than thở, là sự tàn phai của vạn vật, là không gian đang tiễn biệt thời gian:
Con gió xinh thì thào trong lá biếc
Phải chăng hờn nỗi phải bay đi
Chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi,
Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?
- Bước vào độ tàn phai, cảnh vật buồn bã, u ám, héo úa, hương sắc phôi pha.
- Với cách nhìn ấy, Xuân Diệu đã ý thức sâu sắc giá trị lớn nhất của đời người là tuổi trẻ – tình yêu. Đó là cách nhìn nhận tích cực đầy tính nhân văn của tác giả.
- Để khắc phục giới hạn của thời gian, Xuân Diệu đã đưa ra một phương thức sống: sống vội vàng, sống gấp gáp tận hưởng vẻ đẹp cuộc sống: Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm
- Trình bày quan niệm về thời gian tuổi trẻ, tình yêu, thực chất đó là cách luận lí, cách lập thuyếtsống vội vàng của Xuân Diệu ở phần này.
3. Phần 3: Lời kêu gọi sống vội vàng, giục giã, cuống quýt
- Đối với Xuân Diệu, sống vội vàng, gấp gáp chưa đủ mà còn tăng cường độ, dồn nén, cường độ sống:
+ Ngôn từ được tổ chức đặc biệt, cộng hưởng theo chiều tăng tiến: ôm chưa đủ còn muốn riết cho chặt lại. Riết chưa thỏa còn ham mê một cách quá mức say cánh bướm với tình yêu, muốn thâu trong một cái hôn nhiều, cho no nê, đã đầy. Cuối cùng là cắn vào xuân hồng. Một cách nói táo bạo rất Xuân Diệu.
+ Điệp cú pháp: tác giả muốn diễn tả cảm xúc mãnh liệt của thi sĩ. Cái tôi đã hòa vào cái ta khiến âm điệu của tâm hồn say sưa, chuếch choáng.
+ Nhịp thơ, thể thơ linh hoạt khiến hơi thơ tràn đi thành cao trào cảm xúc.
+ Tính từ chỉ xuân sắc, trạng thái được dùng khéo léo, chuyển tải được tình yêu mãnh liệt và táo bạo của cái tôi thi sĩ.
- Cái tôi của thi sĩ:
+ Có ý thức về giá trị đời sống cá thể, ý thức nhân bản, nhân văn rất cao.
+ Một niềm tha thiết với cuộc sống trần thế, với niềm vui trần thế.
+ Một khát khao sống mãnh liệt và một tâm thế sống cuồng nhiệt.
⇒ Đoạn thơ thể hiện một cái tôi yêu đời, yêu sống tha thiết cuồng nhiệt. Đằng sau tiếng nói yêu đời ấy là một quan niệm nhân sinh tích cực: Hãy sống cao độ những phút giây của tuổi trẻ!
1. Mở bài: Giới thiệu đoạn 3 bài thơ Vội vàng
Ví dụ: Xuân Diệu có những tác phẩm rất nổi tiếng, một tác phẩm thơ có sự kết hợp nhuần nhuyễn và độc đáo về mạch cảm xúc và triết lý sâu sắc là bài thơ Vội vàng. Bài thơ thể hiện niềm say mê cái đẹp của thiên nhiên, niềm yêu thiên nhiên sâu sắc của tác giả trong cuộc sống. Bên cạnh niềm say mê thiên nhiên và cuộc sống thì tác giả còn thể hiện khát vọng sống, khát vọng tình yêu cuồng nhiệt và hối hả của cuộc sống. Chúng ta cùng đi tìm hiểu đoạn 3 của bài thơ để hiểu rõ về khát vọng sống, khát vọng tình yêu cuồng nhiệt và hối hả của cuộc sống.
2. Thân bài:
2.1. Bức tranh thiên nhiên được hiện lên một lần nữa:
- Câu cảm thán “mau đi thôi” thể hiện sự tận hưởng thiên nhiên, cuộc sống , tận hưởng thời gian và cuộc sống
- Khát vọng sống mãnh liệt, khát vọng được yêu thương
2.2. Sự cảm nhận của tác giả qua các giác quan của cơ thể:
- Các hình ảnh mây, gió, nước, bướm,
Tác giả cảm nhận cuộc sống và thiên nhiên qua thị giác, khứu giác, thính giác,…
+ Thị giác cảm giác mơn trớn của thiên nhiên
+ Khứu giác cảm nhận được mùi hương đẹp đẽ của thiên nhiên
+ Thính giác cảm nhận được âm thanh của thiên nhiên
+ Tình yêu cuồng nhiệt, mãnh liệt của tác giả
3. Kết bài: Nêu cảm nhận của em về đoạn 3 bài thơ Vội vàng
Ví dụ: Đoạn 3 bài thơ vội vàng thể hiện khát vọng sống, khát vọng tình yêu cuồng nhiệt và hối hả của cuộc sống. Tình yêu ấy được tác giả cảm nhận qua các giác quan cơ thể hết sức tinh tế và sâu sắc.
Video bài văn mẫu Phân tích khổ cuối trong bài thơ Vội vàng
“Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu trích trong tập thơ “Thơ và Thơ” của nghệ sĩ tài năng Xuân Diệu. Bài thơ là tiếng nói tâm hồn yêu đời, yêu cuộc sống, thiết tha với tuổi trẻ của Xuân Diệu. Mười câu thơ cuối bài chính là khúc hát khép lại bài thơ với những quan niệm nhân sinh sâu sắc.
“Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn”
Nếu như ở những vần thơ trên tác giả dùng “tôi” thì ở đây Xuân Diệu lại dùng “Ta”. Theo như Chu Văn Sơn lý giải: “Ở trên, tác giả xưng ”tôi” để đối thoại với đồng loại, ở dưới lại xưng “ta” để đối diện với sự sống”. Dưới con mắt của tác giả, sự sống hiện lên “mơn mởn”. Từ láy “mơn mởn” miêu tả sức sống căng tràn, tươi mới. Chính cái “mơn mởn” của sự sống khiến tác giả như tham lam “muốn ôm” lấy tất cả. Sự sống ấy rộng lớn lắm, bao la lắm nhưng nghệ sĩ ấy vẫn muốn ôm lấy, giữ chặt lấy.
Nhịp thơ như gấp rút, giọng thơ như dồn dập, cảm xúc như dâng trào bật lên thành những ước nguyện cao đẹp:
“Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng"
Những gì thi sĩ muốn là được giao cảm với thiên nhiên, với sự sống: từ mây, gió, cánh bướm đến tình yêu, cỏ cây, non nước. Mức độ giao cảm cũng dần mãnh liệt hơn: từ “ôm”, “riết”, đến “say”, “thâu”, và sau cùng là “cắn”. Từng lần từ “ Ta muốn” vang lên là từng ước nguyện được nói lên. Nhân vật trữ tình như muốn ôm hết vào lòng mình “mây đưa và gió lượn”, muốn đắm say với “cánh bướm tình yêu”, muốn gom hết vào lồng ngực trẻ trung ấy “một cái hôn nhiều”. Muốn thu hết vào hồn nhựa sống dạt dào “Và non nước, và cây, và cỏ rạng”. Điệp từ “ta muốn” cùng nhịp thơ dồn dập như diễn tả hơi thở gấp gáp của thi nhân và nhịp điệu hối hả của trái tim vội vàng. Phải chăng thi sĩ Xuân Diệu của chúng ta đang nồng nhiệt đối rối rít, cuống quýt, như muốn cùng lúc giang tay ôm hết cả vũ trụ, cả cuộc đời, mùa xuân vào lòng mình? Phải chăng sống vội vàng, sống hối hả, sống nhiệt huyết như thế với Xuân Diệu mới được gọi là sống trọn vẹn?
Lý giải cho những ham muốn của mình, thi nhân có viết:
“Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,
Cho no nê thanh sắc của thời tươi”
Điệp từ “cho” với nhịp độ tăng tiến diễn tả Xuân Diệu muốn tận hưởng cuộc sống cho đến “no nê”, “chếnh choáng”, “đã đầy”. Trong cảm xúc dạt dào, trước cuộc sống “mơn mởn” ấy, Xuân Diệu nhận ra cuộc đời chỉ đẹp khi sống hết mình, khi đam mê hết mình, khi hòa hết mình vào cái khoảnh khắc tươi đẹp nhất của tuổi đời con người – tuổi trẻ.
Mỗi một lần khao khát “Ta muốn” thì lại đi liền với một động từ chỉ trạng thái yêu đương mỗi lúc một mạnh mẽ, nồng nàn hơn và rồi đến cuối cùng, tác giả phải thốt lên:
“– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi !”
“ Xuân hồng” hai từ thôi mà nghe sao mềm mại thế, nghe đằm thắm thế. Mùa xuân không chỉ còn là tên gọi mà mùa xuân trong thơ Xuân Diệu trở nên có hồn, có sức sống. Mùa xuân ấy đẹp, ngọt ngào như đôi môi người thiếu nữ khiến “ Ta muốn cắn vào ngươi”. Mùa xuân là cái hữu hình, làm sao thi nhân có thể cắn? Đúng thi nhân không thể cắn nhưng thi nhân có thể hòa mình vào mùa xuân, có thể say đắm trong cơn tình dịu ngọt của mùa xuân.
Khổ thơ cuối với ngôn từ đậm chất thơ Mới, thoát khỏi những vi phạm của quy luật chặt chẽ thơ ca trung đại đã diễn tả không chỉ cảm xúc mãnh liệt của Xuân Diệu trước cuộc đời, trước tuổi trẻ mà còn ẩn ý về một cái tôi trữ tình tràn đầy sự thèm khát được sống, được tận hưởng một cách cuồng nhiệt những thanh sắc của cuộc đời.
Xuân Diệu được mệnh danh là ông hoàng thơ tình Việt Nam, là “nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới” (Hoài Thanh). Ông đem đến cho thơ ca đương thời một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới mẻ, thể hiện quan niệm sống mới, quan niệm thẩm mĩ độc đáo cùng nữ các tân nghệ thuật táo bạo. Được in trong tập “Thơ thơ”, “Vội vàng” là bài thơ tiêu biểu cho nhịp sống vội vàng, cuống quýt của Xuân Diệu. Là người yêu đời, ham sống tha thiết, mãnh liệt nên trong bất cứ hoàn cảnh nào, Xuân Diệu không bao giờ bỏ cuộc, vẫn cứ bám chặt vào cuộc đời. Trong tâm thế sống “Chẳng bao giờ chán nản”, Xuân Diệu đã có giải pháp tích cực khi ước muốn níu giữ mùa xuân không thành. Sau lời hối thúc, giục giã phải sống mau, sống vội, Xuân Diệu say sưa cụ thể hóa lẽ sống vội vàng bằng lẽ sống thiết thực. Với thi sĩ, vội vàng không đơn thuần chỉ là sống gấp sống vội mà còn là sống với cường độ cao nhất: “Sống toàn tâm, toàn trí, toàn hồn”:
Ta muốn ôm
Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;
Ta muốn riết mây đưa và gió lượn;
Ta muốn say cánh bướm với tình yêu
Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều
Và non nước, và cây, và cỏ rạng
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
– Hỡi xuân hồng! Ta muốn cắn vào ngươi”
Mở đầu khúc thơ cuối là câu thơ ba chữ được tách riêng ra đặt chính giữa khổ thơ. Câu thơ làm nổi bật lên hình ảnh một cái tôi ham hố đang dang rộng cánh tay ôm hết, ôm khắp, ôm trọn tất cả sự sống mơn mởn non tơ đang bày ra trước mắt. Điệp ngữ “ta muốn” còn lặp đi lặp lại với mật độ dày đặc ở những câu tiếp theo. Khát khao tận hưởng cuộc sống non tơ đang trào dâng mãnh liệt ngày càng nồng nàn và cháy bỏng hơn trong trái tim yêu đời đến tham lam của Xuân Diệu. Đại từ nhân xưng “tôi” bất ngờ chuyển hóa thành “ta”. Trước sự sống rộng lớn bao la của vũ trụ, thi sĩ cần xưng ta chăng? Hay ở đây thi sĩ đang nói lên khát vọng của bao người, hối thúc, lay tỉnh bao người hãy sống mãnh liệt, hãy sống tận độ trong từng phút giây cho nên phải xưng “ta”?
Say đắm thiên nhiên, cảnh trời, Xuân Diệu muốn tận hưởng thiên nhiên và sự sống. Dĩ nhiên, với một trái tim xanh non biếc rờn, thiên nhiên và sự sống mà Xuân Diệu khát khao phải là thiên nhiên giữa thời tươi, phải là sự sống mới bắt đầu mơn mởn, phải là xuân hồng căng mọng, quyến rũ. Điều ấy có nghĩa là Xuân Diệu tham lam, ham hố tận hưởng tất cả những gì ngon nhất, đẹp nhất của sự sống. Nàng xuân mà Xuân Diệu đắm đuối hết sức thanh tân quyến rũ, rạo rực xuân sắc, đắm đuối xuân tình. Đến với thiên nhiên, đến với mùa xuân như đến với người tình tuyệt vời của mình, thi sĩ tình tự với thiên nhiên, ái ân cùng sự sống. Hàng loạt động từ mạnh theo trình tự tăng tiến lần lượt xuất hiện trong các dòng thơ: “ôm”, “ riết”, “say”, “thâu”, “cắn” là biểu hiện của tình yêu ngày càng say đắm mãnh liệt. Ôm chọn khắp, riết thật chặt, say sưa mê đắm và đỉnh điểm là cắn. Xuân Diệu đã tận hưởng thiên nhiên như tận hưởng ái tính. Hình ảnh “thâu trong một cái hôn nhiều” rất Tây. Đi liền đó là câu thơ thừa thãi liên từ “và”: “và non nước, và cây, và cỏ rạng”. Chính sự lặp lại có vẻ như thừa thãi ấy lại là một sáng tạo rất hiện đại của Xuân Diệu. Sự lặp lại liên tiếp liên từ “và” trong một dòng thơ đã truyền đến người đọc một cảm xúc hăm hở cuồng nhiệt của một gã suy tình trước tình nhân đắm đuối.
Xuân Diệu tận hưởng sự sống mơn mởn như tận hưởng ái tình và phải đạt đến độ no nê, đã đầy, chênh choáng. Nghĩa là phải thỏa thuê, ngây ngất, mê đi, lịm đi:
Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng
Cho no nê thanh sắc của thời tươi
Xuân Diệu hiện ra đúng là một gã si tình chếnh choáng men say. Hàng loạt điệp từ “cho” liên tiếp lặp lại dồn đầy cảm xúc yêu đương cuồng nhiệt, mãnh liệt đến vô biên, tuyệt đích. Lời yêu cháy bỏng không thể kìm nén trong lòng, thì thầm trong trái tim mà vang lên thành lời đối thoại dõng dạc, trực tiếp: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!”. Đọc câu thơ, ta tưởng nhu thi sĩ đang muốn hét lo lên để cả đất trời, vũ trụ hiểu được niềm yêu cuồng nhiệt của mình. Ôm, riết, say, thâu chưa đủ, no nê, đã đầy, chếnh choáng vẫn chưa thỏa mà phải cắn vào xuân hồng, phải tận hưởng bằng cả tâm hồn, bằng cả trái tim đắp đuối, ham hố mới thỏa niềm khát khao. Ở đây, dường như có để biểu đạt niềm yêu đời cuồng nhiệt vô biên của mình, Xuân Diệu đã dùng đến yếu tố phi lí, phi hiện thực. Cũng chính vì thế mà câu thơ: “Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” trở thành một trong những vần thơ độc đáo, táo bạo nhất trong thơ hiện đại. Cùng với “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, Xuân Diệu đã làm cả một cuộc cách mạng lớn trong thi ca để trở thành nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.
“Với những nguồn cảm hứng mới, yêu đương và tuổi xuân, dù lúc vui hay lúc buồn, Xuân Diệu cũng ru thanh niên bằng giọng yêu đời, thấm thía”. Và khúc thơ cuối trong “Vội vàng” là một trong những khúc thơ tiêu biểu trong giọng thơ yêu đời nhát. Đọc đoạn thơ, ta như nghe thấy giọng nói, hơi thở, nhịp đập sôi nổi bồng bột trong trái tim thi sĩ. Qua bài thơ “Vội vàng”, ta thấy được phần nào cái nhịp sống vội vàng, niềm say mê cuộc đời mãnh liệt của Xuân Diệu. Đồng thời, ta còn thấy được một thông điệp vô cùng ý nghĩa, sâu sắc của Xuân Diệu: Hãy sống vội vàng, sống hết mình trong những khoảnh khắc tuyệt đẹp nhưng lại mong manh của tuổi thanh xuân bởi thời gian trôi đi sẽ kéo theo mùa xuân và tuổi trẻ, cả những ước mơ, khát vọng.