Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Cảm nhận Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten hay nhất, gồm 7 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 9 bài văn mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
CẢM NHẬN CHÓ SÓI VÀ CỪU TRONG THƠ NGỤ NGÔN CỦA LA PHÔNG-TEN
Bài giảng: Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
Cảm nhận Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten – mẫu 1
Nghệ thuật là thế giới của sự sáng tạo độc đáo, bằng cách nhìn nhận đa chiều, đa diện của người nghệ sĩ, số phận của từng nhân vật trong mỗi tác phẩm được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau, không đơn thuần chỉ là cách nhìn khô khan, cứng nhắc, một chiều như những văn bản khoa học thường thấy, mà người nghệ sĩ chú tâm đi vào sâu tâm hồn và số phận của từng nhân vật, đem đến cho độc giả những quan Điểm mới, thú vị và sâu sắc. Tác phẩm Chó sói và Cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten của Hi-pô-lít Ten, là một tác phẩm xuất sắc lột tả được các khía cạnh đặc sắc của quan điểm nghệ thuật trên.
Mở đầu tác phẩm, Hi-pô-lít Ten đưa vào một trích đoạn trong bài thơ ngụ ngôn Chó sói và cừu non của Buy-phông. Cừu ta hiện lên với dáng vẻ của một “thần dân” chính hiệu, khúm núm, sợ sệt và rất thật thà đúng kiểu một dân đen khi gặp quân vương tối cao. Buy-phông thấy ở cừu sự hèn nhát “ngu ngốc và sợ sệt”, thích “tụ tập thành bầy” để cảm thấy an toàn hơn, lại còn đặc biệt “đần độn”, “không biết trốn tránh nguy hiểm”, nhiều khi ta còn cảm thấy chúng rất lười biếng và bị động khi “ở đâu là cứ đứng nguyên ở đấy, ngay dưới trời mưa, ngay trong tuyết rơi”. Ông còn chỉ ra tính thích “yên ổn”, muốn đi vào lối mòn đã có sẵn của loài cừu, chúng chỉ đi khi con đầu đàn bước đi, thậm chí hài hước hơn là con đầu đàn, vốn phải dẫn dắt, chỉ huy lại cũng cứ đứng ỳ ra, và chỉ chịu lê bước đi bị người chăn cừu thôi thúc hoặc chó xua đi. Đó là cách nhìn dõi theo tự nhiên, theo những tập tính sinh học của loài cừu, khó có thể thay đổi. Nhưng với đôi mắt thương cảm và tinh thần nghệ thuật đầy nhân văn của mình, La Phông-ten lại thấy cừu hiện lên với một dáng vẻ khác, thân thương và gần gũi đến thế. Tình mẫu tử của cừu cũng sâu sắc chẳng khác gì con người, khi cừu mẹ nghe thấy tiếng rên bé xíu xiu của con, nó đã tìm ra ngay con mình trong đám đông toàn cừu là cừu. Hình ảnh người phụ nữ thương con đầy cảm động hiện lên khi cừu mẹ “đứng yên trên nền đất lạnh và bùn lầy, vẻ nhẫn nhục, mắt nhìn lơ đãng phía trước cho đến khi con đã bú xong”, một sự cam chịu, hi sinh đầy buồn rầu, cừu cũng biết yêu thương và lo lắng cho đứa con bé bỏng của mình, tình mẫu tử thật thiêng liêng quá, nó chẳng phân biệt bất kỳ giống loài nào cả.
Với chó sói, Buy-phông nhìn nhận nó với một ánh mắt trực quan và khoa học, chúng “thù ghét mọi sự kết bè, kết bạn”, đi theo bầy chỉ để hợp tác cùng săn mồi, xong cuộc chúng lại trở về với “sự lặng lẽ và cô đơn của chúng” . Sói mang “bộ mặt lấm lét, dáng vẻ hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hôi gớm ghiếc, bản tính hư hỏng,…”, tất cả đều là những đặc điểm có thực của loài chó sói, và người ta cảm thấy chúng thật đáng ghét “lúc sống thì có hại, lúc chết thì vô dụng”, không được tích sự gì cả, không như loài cừu, chí ít thì như cừu vẫn có thể cho chúng ta bộ lông hoặc sữa của chúng. Cả Buy-phông và La Phông-ten đều có cái nhìn chung về sói, chúng là loài máu lạnh vô tình là “bạo chúa khát máu”. Nhưng qua ánh mắt sâu sắc, tinh tế La Phông-ten còn nhận ra, kỳ thực sói cũng “đáng thương” chẳng kém chi loài cừu, chúng có một cuộc sống bị khinh miệt, ghét bỏ là những “tên trộm cướp, đầy bất hạnh và khốn khổ”, ngay từ khi ra đời chúng đã bị ấn định với cái số phận là một “gã vô lại”, với thân hình “gầy trơ xương” nghèo hèn, phải chịu cảnh “đói dài” và “luôn bị ăn đòn”, âu cũng thật đáng thương. Chúng chẳng thể thay đổi số phận của mình bằng cách cố gắng hay một cách nào khác, chúng cũng đang bất lực và vô vọng trước cuộc sống này chăng? Sói chỉ là bậc quân vương với những chú cừu ngây thơ, yếu đuối, nhưng bậc quân vương này cũng thật hài hước, bởi chúng chẳng có tài cán gì, chỉ biết hóa rồ vì quá đói, và càng trở nên ngu xuẩn khi toàn bị mắc bẫy nhiều hơn. Mãi rồi người ta cũng không biết chó sói vì độc ác mà khổ sở, hay là vì cuộc sống khó khăn quá mà trở nên độc ác, nhưng chung quy lại chúng cũng đáng thương và tội nghiệp, chật vật một cách vụng về với cuộc sống, có lẽ điều thông minh nhất trong đời là chúng biết săn mồi theo bầy, có sự hợp tác lẫn nhau. Như vậy bằng sự so sánh của mình Hi-pô-lít Ten đã chỉ ra những nét đối lập trong việc nhìn nhận sự vật, hiện tượng của một khoa học gia và một nhà văn. Buy-phông nghiên cứu về cừu và sói bằng cái nhìn trung thực, chú tâm vào những gì biểu hiện trên thực tế, tập tính tự nhiên của giống loài và đưa ra những kết luận không mang theo nhiều tình cảm cá nhân. Còn với La Phông-ten, ông biểu trưng cho trường phái những nghệ sĩ có cái nhìn đầy nhân văn, tích cực, chăm chú đi sâu hơn vào nội tâm của nhân vật cừu và sói, lý giải cho tập tính vốn được coi là bản chất của chúng. Ông dùng trí tưởng tượng phong phú cùng tâm hồn phóng khoáng của mình, đưa những đặc điểm vốn đáng ghét, xấu xí phơi bày ra bằng một góc độ khác nhẹ nhàng hơn, bằng đôi mắt thương cảm và sự thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ trần thế.
Với lời lẽ thuyết phục, dẫn chứng lập luận sâu sắc, chặt chẽ, Chó sói và Cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten, xứng đáng là một tác phẩm nghiên cứu văn học xuất sắc. Vừa chỉ ra được sự khác biệt giữa khoa học và nghệ thuật, đồng thời đưa ra quan điểm: Nghệ thuật là sức sáng tạo mạnh mẽ, mang đậm dấu ấn về cách nhìn nhận, tư tưởng riêng của mỗi một nghệ sĩ, càng khẳng định tài năng, tinh thần nhân văn, cách nhìn đa chiều của La Phông-ten trong việc sáng tạo và cảm nhận về hình tượng chó sói và cừu với tác phẩm thơ ngụ ngôn Chó sói và cừu.
Sơ đồ tư duy
Dàn ý chi tiết
I. Mở bài
- Vài nét về tác giả Hi-pô-lít Ten: tác giả tài năng với nhiều vai trò: triết gia, sử gia, nghiên cứu văn học.
- Đoạn trích Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten trích “La Phông- ten và thơ ngụ ngôn” là một đoạn trích tiêu biểu mà thông qua việc bàn luận về hai hình tượng chó sói và cừu, tác giả đã khéo léo làm rõ đặc trưng của sáng tác nghệ thuật
II. Thân bài
1. Hình tượng cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten
- Đưa ra dẫn chứng nhận định: Con cừu non trong thơ La-phông-ten tội nghiệp, buồn rầu và dịu dàng
- So sánh hình tượng cừu dưới ngòi bút của Buy-phông: thấy con cừu ngu ngốc và sợ sệt => ngòi bút miêu tả chính xác những đặc tính của con vật => sự chính xác của ngòi bút khoa học
⇒ Hình tượng cừu trong thơ La-phông- ten: Thấy chú cừu thân thương và tốt bụng
- Dẫn chứng: Con cừu mẹ chạy tới khi nghe tiếng khóc của con cừu con, nhận ra con trong “cả đám đông cừu”, đứng yên trên “đất lạnh và bùn lầy” chờ con ⇒ Có tình cảm mẫu tử như con người
⇒ Khẳng định La-phong-ten đã động lòng thương cảm những chú cừu như thế => Nhà thơ phản ánh hiện thực bằng suy nghĩ, tình cảm của mình
2. Hình tượng sói trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten
- Đưa ra nhận định: Chó sói trong thơ La-phông-ten đáng thương, là một tên trộm cướp nhưng khốn khổ và bất hạnh, một gã vô lại, luôn đói dài và luôn bị ăn đòn
- So sánh hình tượng sói dưới ngòi bút của Buy-phông: thù ghét mọi sự kết bạn, dáng vẻ hoang dã, bản tính hư hỏng, thật đáng ghét, lúc sống thì có hại, chết rồi thì vô dụng ⇒ cái nhìn khách quan, chân thực của nhà khoa học => Buy-phông dựng bi kịch của sự độc ác
⇒ Hình tượng cừu trong thơ La-phông- ten: cũng là bạo chúa khát máu, giọng khàn khàn, tiếng gầm dữ dội nhưng vụng về => Kẻ săn mồi ăn tươi nuốt sống loài vật yếu ớt, bé nhỏ, một tên tàn bạo, lí sự cùn nhưng nhìn sâu lại thấy khía cạnh khác: khổ sở, vụng về => LPT dựng hài kịch về sự ngu ngốc
⇒ Gửi gắm đặc trưng của sáng tác nghệ thuật: Khác với các nhà khoa học nhìn mọi vật dưới lăng kính khách quan, chính xác, các nhà thơ sáng tác tác phẩm nghệ thuật dựa trên hiện thực được nhìn qua cách cảm nhận của riêng mình
III. Kết bài
- Khái quát những nét nghệ thuật tiêu biểu làm nên thành công đoạn trích: cách trình bày và sắp xếp luận điểm chặt chẽ giàu thuyết phục, dẫn chứng khoa học…
- Cho đến nay đoạn trích Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten nói riêng và công trình “La Phông- ten và thơ ngụ ngôn” vẫn được đánh giá là công trình xuất sắc của Hi-po-lít- ten
Bài văn mẫu khác
Cảm nhận Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten – mẫu 2
Văn bản Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten là của Hi-pô-lít Ten (1828 – 1893), viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp, nhà nghiên cứu văn học, vị triết gia, sử gia lỗi lạc của Pháp trong thế kỉ XIX. Qua văn bản này, tác giả đã chỉ ra sự khác nhau giữa Buy-phông (1707 – 1788) nhà vạn vật học và La Phông-ten (1621 – 1695), nhà thơ ngụ ngôn Pháp khi nói về con chó sói và con cừu.
Phần thứ nhất nói về con cừu. Buy-phông trong công trình khoa học của mình, đã mô tả và chỉ ra những đặc tính tự nhiên của con cừu như ngu ngốc và sợ sệt, hay tụ tập thành bầy, co cụm lại với nhau, sợ sệt và đần độn, chỉ biết đứng nguyên trong mưa hay trên tuyết, chỉ biết làm theo con đầu đàn nếu không bị gã chăn cừu thôi thúc hay bị chó xua đi.Còn La Phông-ten trong bài thơ ngụ ngôn của mình, đã chỉ ra đời sống tâm hồn của con cừu. Con cừu rất "thân thương và tốt bụng". Nghe tiếng cừu con kêu thì cừu mẹ liền chạy tới, nó có thể nhận ra con mình trong đàn cừu, nó đứng yên trên miền đất lạnh và bùn lầy cho con bú xong, với vẻ nhẫn nhục, mắt nhìn lơ đãng. Có thể nói, hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten còn ngụ ý về tình mẫu tử và đức hy sinh của người mẹ trong cuộc đời. Đúng như Hi-pô-lít Ten đã nói: "La Phông-ten đã động lòng thương cảm với bao nỗi buồn rầu và tốt bụng như thế... "
Phần thứ hai nói về con sói. Chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten là một tên trộm cướp nhưng khốn khổ và bất hạnh. Mắt thì lấm lét, cơ thể gầy gò, bị truy đuổi. Nó là "một gã vô lại, luôn luôn đói dài và luôn luôn bị ăn đòn". Buy-phông đã nói lên bản năng của chó sói, một thú dữ, hoang dã. Chúng chỉ biết kết bầy lúc săn mồi, khi cuộc chinh chiến đã xong xuôi thì mỗi con một nơi, sống lặng lẽ và cô đơn. Bộ mặt lấm lét, dáng vẻ hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hôi gớm ghiếc... là đặc tính tự nhiên của loài sói.Sói trong thơ La Phông-ten là một bạo chúa. Hắn vu khống đặt điều. Hắn gầm lên. Và cuối cùng "Sói nhai Chiên nhỏ, chẳng cần đôi co". Nếu nhà bác học Buy - phông chỉ nhìn thấy sói là con vật có hại thì nhà thơ với đầu óc phóng khoáng và trí tưởng tượng đã phát hiện ra những khía cạnh khác: Con sói độc ác mà khổ sở, thường bị mắc mưu, vụng về, bị đói meo, và vì đói mà hóarồ! Buy-phông "dựng một vở bi kịch về sự độc ác" (thú dữ hoang dã), còn La Phông-ten "dựng một vở hài kịch về sự ngu ngốc" (bị đói khát, mắc mưu và ăn đòn).
Qua sự so sánh và khám phá, văn bản của Hi-pô-lít Ten đã chỉ ra sự khác biệt giữa hai loại văn bản khoa học và văn bản nghệ thuật. Văn bản khoa học đi sâu nghiên cứu những đặc điểm tự nhiên, rút ra những phán đoán về đặc tính, về tính chất của sự vật. Văn bản nghệ thuật xây dựng hình tượng, miêu tả đời sống tâm hồn, sự vật bằng tưởng tượng.
Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn là một văn bản nghệ thuật. Chó sói là một bạo chúa, độc ác, quỷ quyệt. Cừu là một thần dân, một vật tế thần đau khổ, đáng thương.
Cảm nhận Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten – mẫu 3
Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông – ten là những hình tượng nghệ thuật vừa cụ thể vừa khái quát. Qua ngòi bút phóng khoáng và tâm hồn nghệ thuật của mình, ông đã khiến chúng có tiếng nói, có cảm xúc, có đời sống tâm hồn như con người, và đồng thời qua đó cũng thể hiện những khía cạnh khác nhau của cuộc sống.
Chú cừu non trong bài thơ ngụ ngôn cũng biết “lí sự” đâu ra đó trước lão sói già nham hiểm và độc ác : Chú uống nước phía dưới, làm sao khuấy đục nước ở phía trên nguồn được? Chú còn đang bú tí mẹ, thì làm sao có thể nói xấu lão sói từ… năm ngoái? Điều đó cho ta thấy chú cừu non vừa thông minh lại vừa cứng cỏi trước kẻ thù. Bên cạnh đó, nhà thơ còn thấy được ở những chú cừu sự thân thương và tốt bụng. Nghe tiếng cừu con kêu thì cừu mẹ liền chạy tới, nó có thể nhận ra con mình trong đàn cừu, nó đứng yên trên miền đất lạnh và bùn lầy cho con bú xong, với vẻ nhẫn nhục, mắt nhìn lơ đãng. Có thể nói, hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten còn ngụ ý về tình mẫu tử và đức hi sinh của người mẹ trong cuộc đời. Còn hình tượng chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten cũng được tác giả nhân cách hóa để bản chất gian ác và điêu trá hiện lên rõ nét. Chó sói vu khống cừu non đến mức trắng trợn và phi lí. Hễ cừu non “cãi” được điều này thì chó sói lại vu cho điều khác, khiến “tội” của cừu non càng ngày càng nặng. Qua “chân dung” của con sói già trong bài thơ, La Phông- ten muốn ám chỉ hạng người xấu xa, độc ác chuyên cậy thế, cậy quyền áp bức kẻ yếu đuối, luôn lấy câu chân lí thuộc kẻ mạnh làm phương châm sống ở đời. Nhưng bên cạnh sự độc ác, nham hiểm, nhà thơ còn nhìn thấy ở chó sói khía cạnh đáng thương. Nó là một tên trộm cướp nhưng khốn khổ và bất hạnh. Mắt thì lấm lét, cơ thể gầy gò, bị truy đuổi. Nó là một gã vô lại, luôn luôn đói dài và luôn luôn bị ăn đòn. Nhà thơ hiểu rằng những tật xấu của chó sói là do nó vụng về, vì chẳng có tài trí gì, nên nó luôn đói meo, và vì đói nên nó hóa rồ. Từ thế giới tự nhiên, chó sói và cừu non đã được nhà thơ La Phông-ten đưa vào thế giới văn chương với tính cách khái quát rõ nét, tiêu biểu cho những hạng người cụ thể trong xã hội.
H-Ten đã so sánh, chỉ ra sự giống và khác nhau ở hai hình tượng này trong sáng tác của La Phông-ten (một tác giả văn học) và Buy-phông (một nhà khoa học) thông qua hình tượng chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten. Qua việc so sánh ấy tác giả ngụ ý một thông điệp về đặc trưng của sáng tác nghệ thuật: sáng tác nghệ thuật bao giờ cũng mang đậm dấu ấn cách nhìn và cách nghĩ riêng của người sáng tác.
Nghệ thuật là thế giới của sự sáng tạo độc đáo, bằng cách nhìn nhận đa chiều, đa diện của người nghệ sĩ, số phận của từng nhân vật trong mỗi tác phẩm được thể hiện bằng nhiều cách khác nhau, không đơn thuần chỉ là cách nhìn khô khan, cứng nhắc, một chiều như những văn bản khoa học thường thấy, mà người nghệ sĩ chú tâm đi vào sâu tâm hồn và số phận của từng nhân vật, đem đến cho độc giả những quan điểm mới, thú vị và sâu sắc. Tác phẩm Chó sói và Cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten của Hi-pô-lít Ten, là một tác phẩm xuất sắc lột tả được các khía cạnh đặc sắc của quan điểm nghệ thuật trên.
Mở đầu tác phẩm, Hi-pô-lít Ten đưa vào một trích đoạn trong bài thơ ngụ ngôn Chó sói và cừu non của Buy-phông. Cừu ta hiện lên với dáng vẻ của một “thần dân” chính hiệu, khúm núm, sợ sệt và rất thật thà đúng kiểu một dân đen khi gặp quân vương tối cao. Buy-phông thấy ở cừu sự hèn nhát “ngu ngốc và sợ sệt”, thích “tụ tập thành bầy” để cảm thấy an toàn hơn, lại còn đặc biệt “đần độn”, “không biết trốn tránh nguy hiểm”, nhiều khi ta còn cảm thấy chúng rất lười biếng và bị động khi “ở đâu là cứ đứng nguyên ở đấy, ngay dưới trời mưa, ngay trong tuyết rơi”. Ông còn chỉ ra tính thích “yên ổn”, muốn đi vào lối mòn đã có sẵn của loài cừu, chúng chỉ đi khi con đầu đàn bước đi, thậm chí hài hước hơn là con đầu đàn, vốn phải dẫn dắt, chỉ huy lại cũng cứ đứng ỳ ra, và chỉ chịu lê bước đi bị người chăn cừu thôi thúc hoặc chó xua đi. Đó là cách nhìn dõi theo tự nhiên, theo những tập tính sinh học của loài cừu, khó có thể thay đổi.
Nhưng với đôi mắt thương cảm và tinh thần nghệ thuật đầy nhân văn của mình, La Phông-ten lại thấy cừu hiện lên với một dáng vẻ khác, thân thương và gần gũi đến thế. Tình mẫu tử của cừu cũng sâu sắc chẳng khác gì con người, khi cừu mẹ nghe thấy tiếng rên bé xíu xiu của con, nó đã tìm ra ngay con mình trong đám đông toàn cừu là cừu. Hình ảnh người phụ nữ thương con đầy cảm động hiện lên khi cừu mẹ “đứng yên trên nền đất lạnh và bùn lầy, vẻ nhẫn nhục, mắt nhìn lơ đãng phía trước cho đến khi con đã bú xong”, một sự cam chịu, hi sinh đầy buồn rầu, cừu cũng biết yêu thương và lo lắng cho đứa con bé bỏng của mình, tình mẫu tử thật thiêng liêng quá, nó chẳng phân biệt bất kỳ giống loài nào cả.
Với chó sói, Buy-phông nhìn nhận nó với một ánh mắt trực quan và khoa học, chúng “thù ghét mọi sự kết bè, kết bạn”, đi theo bầy chỉ để hợp tác cùng săn mồi, xong cuộc chúng lại trở về với “sự lặng lẽ và cô đơn của chúng” . Sói mang “bộ mặt lấm lét, dáng vẻ hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hôi gớm ghiếc, bản tính hư hỏng,…”, tất cả đều là những đặc điểm có thực của loài chó sói, và người ta cảm thấy chúng thật đáng ghét “lúc sống thì có hại, lúc chết thì vô dụng”, không được tích sự gì cả, không như loài cừu, chí ít thì như cừu vẫn có thể cho chúng ta bộ lông hoặc sữa của chúng. Cả Buy-phông và La Phông-ten đều có cái nhìn chung về sói, chúng là loài máu lạnh vô tình là “bạo chúa khát máu”.
Nhưng qua ánh mắt sâu sắc, tinh tế La Phông-ten còn nhận ra, kỳ thực sói cũng “đáng thương” chẳng kém chi loài cừu, chúng có một cuộc sống bị khinh miệt, ghét bỏ là những “tên trộm cướp, đầy bất hạnh và khốn khổ”, ngay từ khi ra đời chúng đã bị ấn định với cái số phận là một “gã vô lại”, với thân hình “gầy trơ xương” nghèo hèn, phải chịu cảnh “đói dài” và “luôn bị ăn đòn”, âu cũng thật đáng thương. Chúng chẳng thể thay đổi số phận của mình bằng cách cố gắng hay một cách nào khác, chúng cũng đang bất lực và vô vọng trước cuộc sống này chăng? Sói chỉ là bậc quân vương với những chú cừu ngây thơ, yếu đuối, nhưng bậc quân vương này cũng thật hài hước, bởi chúng chẳng có tài cán gì, chỉ biết hóa rồ vì quá đói, và càng trở nên ngu xuẩn khi toàn bị mắc bẫy nhiều hơn. Mãi rồi người ta cũng không biết chó sói vì độc ác mà khổ sở, hay là vì cuộc sống khó khăn quá mà trở nên độc ác, nhưng chung quy lại chúng cũng đáng thương và tội nghiệp, chật vật một cách vụng về với cuộc sống, có lẽ điều thông minh nhất trong đời là chúng biết săn mồi theo bầy, có sự hợp tác lẫn nhau.
Như vậy bằng sự so sánh của mình Hi-pô-lít Ten đã chỉ ra những nét đối lập trong việc nhìn nhận sự vật, hiện tượng của một khoa học gia và một nhà văn. Buy-phông nghiên cứu về cừu và sói bằng cái nhìn trung thực, chú tâm vào những gì biểu hiện trên thực tế, tập tính tự nhiên của giống loài và đưa ra những kết luận không mang theo nhiều tình cảm cá nhân. Còn với La Phông-ten, ông biểu trưng cho trường phái những nghệ sĩ có cái nhìn đầy nhân văn, tích cực, chăm chú đi sâu hơn vào nội tâm của nhân vật cừu và sói, lý giải cho tập tính vốn được coi là bản chất của chúng. Ông dùng trí tưởng tượng phong phú cùng tâm hồn phóng khoáng của mình, đưa những đặc điểm vốn đáng ghét, xấu xí phơi bày ra bằng một góc độ khác nhẹ nhàng hơn, bằng đôi mắt thương cảm và sự thấu hiểu sâu sắc nỗi khổ trần thế.
Với lời lẽ thuyết phục, dẫn chứng lập luận sâu sắc, chặt chẽ, Chó sói và Cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten, xứng đáng là một tác phẩm nghiên cứu văn học xuất sắc. Vừa chỉ ra được sự khác biệt giữa khoa học và nghệ thuật, đồng thời đưa ra quan điểm: Nghệ thuật là sức sáng tạo mạnh mẽ, mang đậm dấu ấn về cách nhìn nhận, tư tưởng riêng của mỗi một nghệ sĩ, càng khẳng định tài năng, tinh thần nhân văn, cách nhìn đa chiều của La Phông-ten trong việc sáng tạo và cảm nhận về hình tượng chó sói và cừu với tác phẩm thơ ngụ ngôn Chó sói và cừu.
Văn bản Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten là của Hi-pô-lít Ten (1828 – 1893), viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp, nhà nghiên cứu văn học, vị triết gia, sử gia lỗi lạc của Pháp trong thế kỉ XIX.
Qua văn bản này, tác giả đã chỉ ra sự khác nhau giữa Buy-phông (1707 – 1788) nhà vạn vật học và La Phông-ten (1621 – 1695), nhà thơ ngụ ngôn Pháp khi nói về con chó sói và con cừu.
Phần thứ nhất nói về con cừu. Buy-phông trong công trình khoa học của mình, đã mô tả và chỉ ra những đặc tính tự nhiên của con cừu như ngu ngốc và sợ sệt, hay tụ tập thành bầy, co cụm lại với nhau, sợ sệt và đần độn, chỉ biết đứng nguyên trong mưa hay trên tuyết, chỉ biết làm theo con đầu đàn nếu không bị gã chăn cừu thôi thúc hay bị chó xua đi.
Còn La Phông-ten trong bài thơ ngụ ngôn của mình, đã chỉ ra đời sống tâm hồn của con cừu. Con cừu rất "thân thương và tốt bụng". Nghe tiếng cừu con kêu thì cừu mẹ liền chạy tới, nó có thể nhận ra con mình trong đàn cừu, nó đứng yên trên miền đất lạnh và bùn lầy cho con bú xong, với vẻ nhẫn nhục, mắt nhìn lơ đãng. Có thể nói, hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten còn ngụ ý về tình mẫu tử và đức hy sinh của người mẹ trong cuộc đời. Đúng như Hi-pô-lít Ten đã nói: "La Phông-ten đã động lòng thương cảm với bao nỗi buồn rầu và tốt bụng như thế... "
Phần thứ hai nói về con sói. Chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten là một tên trộm cướp nhưng khốn khổ và bất hạnh. Mắt thì lấm lét, cơ thể gầy gò, bị truy đuổi. Nó là "một gã vô lại, luôn luôn đói dài và luôn luôn bị ăn đòn".
Buy-phông đã nói lên bản năng của chó sói, một thú dữ, hoang dã. Chúng chỉ biết kết bầy lúc săn mồi, khi cuộc chinh chiến đã xong xuôi thì mỗi con một nơi, sống lặng lẽ và cô đơn. Bộ mặt lấm lét, dáng vẻ hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hôi gớm ghiếc... là đặc tính tự nhiên của loài sói.
Sói trong thơ La Phông-ten là một bạo chúa. Hắn vu khống đặt điều. Hắn gầm lên. Và cuối cùng "Sói nhai Chiên nhỏ, chẳng cần đôi co". Nếu nhà bác học Buy - phông chỉ nhìn thấy sói là con vật có hại thì nhà thơ với đầu óc phóng khoáng và trí tưởng tượng đã phát hiện ra những khía cạnh khác: Con sói độc ác mà khổ sở, thường bị mắc mưu, vụng về, bị đói meo, và vì đói mà hóa rồ!
Buy-phông "dựng một vở bi kịch về sự độc ác" (thú dữ hoang dã), còn La Phông-ten "dựng một vở hài kịch về sự ngu ngốc" (bị đói khát, mắc mưu và ăn đòn).
Qua sự so sánh và khám phá, văn bản của Hi-pô-lít Ten đã chỉ ra sự khác biệt giữa hai loại văn bản khoa học và văn bản nghệ thuật. Văn bản khoa học đi sâu nghiên cứu những đặc điểm tự nhiên, rút ra những phán đoán về đặc tính, về tính chất của sự vật. Văn bản nghệ thuật xây dựng hình tượng, miêu tả đời sống tâm hồn, sự vật bằng tưởng tượng.
Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn là một văn bản nghệ thuật. Chó sói là một bạo chúa, độc ác, quỷ quyệt. Cừu là một thần dân, một vật tế thần đau khổ, đáng thương.
Học thơ văn, ta cần nắm rõ đặc trưng của văn bản nghệ thuật, đó là ngôn ngữ hình tượng và biểu cảm được tưởng tượng, hư cấu.
Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông – ten là những hình tượng nghệ thuật vừa cụ thể vừa khái quát. Qua ngòi bút phóng khoáng và tâm hồn nghệ thuật của mình, ông đã khiến chúng có tiếng nói, có cảm xúc, có đời sống tâm hồn như con người, và đồng thời qua đó cũng thể hiện những khía cạnh khác nhau của cuộc sống. Chú cừu non trong bài thơ ngụ ngôn cũng biết “lí sự” đâu ra đó trước lão sói già nham hiểm và độc ác : Chú uống nước phía dưới, làm sao khuấy đục nước ở phía trên nguồn được? Chú còn đang bú tí mẹ, thì làm sao có thể nói xấu lão sói từ… năm ngoái? Điều đó cho ta thấy chú cừu non vừa thông minh lại vừa cứng cỏi trước kẻ thù. Bên cạnh đó, nhà thơ còn thấy được ở những chú cừu sự thân thương và tốt bụng. Nghe tiếng cừu con kêu thì cừu mẹ liền chạy tới, nó có thể nhận ra con mình trong đàn cừu, nó đứng yên trên miền đất lạnh và bùn lầy cho con bú xong, với vẻ nhẫn nhục, mắt nhìn lơ đãng. Có thể nói, hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten còn ngụ ý về tình mẫu tử và đức hi sinh của người mẹ trong cuộc đời. Còn hình tượng chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten cũng được tác giả nhân cách hóa để bản chất gian ác và điêu trá hiện lên rõ nét. Chó sói vu khống cừu non đến mức trắng trợn và phi lí. Hễ cừu non “cãi” được điều này thì chó sói lại vu cho điều khác, khiến “tội” của cừu non càng ngày càng nặng. Qua “chân dung” của con sói già trong bài thơ, La Phông- ten muốn ám chỉ hạng người xấu xa, độc ác chuyên cậy thế, cậy quyền áp bức kẻ yếu đuối, luôn lấy câu chân lí thuộc kẻ mạnh làm phương châm sống ở đời. Nhưng bên cạnh sự độc ác, nham hiểm, nhà thơ còn nhìn thấy ở chó sói khía cạnh đáng thương. Nó là một tên trộm cướp nhưng khốn khổ và bất hạnh. Mắt thì lấm lét, cơ thể gầy gò, bị truy đuổi. Nó là một gã vô lại, luôn luôn đói dài và luôn luôn bị ăn đòn. Nhà thơ hiểu rằng những tật xấu của chó sói là do nó vụng về, vì chẳng có tài trí gì, nên nó luôn đói meo, và vì đói nên nó hóa rồ. Từ thế giới tự nhiên, chó sói và cừu non đã được nhà thơ La Phông-ten đưa vào thế giới văn chương với tính cách khái quát rõ nét, tiêu biểu cho những hạng người cụ thể trong xã hội.
Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của la phông- ten - mẫu 1
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Từ lời ca dao đến trong trang viết của các thi sĩ trung đại, hiện đại, tình mẫu tử đã trở thành nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn. Và đến Chế Lan Viên- một trong những tên tuổi hàng đầu của thế kỉ XX, một lần nữa, ông đã làm mới cho đề tài này bởi những vần thơ ngọt ngào qua bài “Con cò”.Xuyên suốt bài thơ là hình ảnh con cò. Thơ Chế Lan Viên vốn giàu cảm xúc và triết lí, ông viết về con cò nhưng cũng là để ngợi ca tình mẫu tử thiêng liêng!
Mở đầu bài thơ, với hình ảnh gợi cảm, cách giới thiệu con cò một cách tự nhiên, hợp lí đã đưa ta đến với tình yêu con của người mẹ khi con còn nằm trên nôi qua lời hát ru quen thuộc. Vậy là khi con còn tấm bé, mẹ đã bên con, hát ru con ngủ với khúc ru quen thuộc tự bao đời có hình ảnh con cò:
“Con cò bay la
Con cò bay lả
Con cò cổng phủ
Con cò Đồng Đăng”
Và:
“Con cò ăn đêm
Con cò xa tổ
Cò gặp cành mềm
Cò sợ xáo măng”
Lời thơ gợi hình ảnh con còn bé, mẹ âu yếm bế con trên tay, hát bằng những lời ru quen thuộc và hình ảnh cánh cò chập chờn bay trong lời ru của mẹ. Dường như hát ru con, mẹ đã hình dung ra rằng rồi trong đường tương lai,có lúc con sẽ vấp ngã, sẽ gặp khó khăn nhưng con hãy cứ say giấc ngủ bởi mẹ luôn ở bên chở che cho con “Cành có mềm, mẹ đã sẵn tay nâng” và dòng sữa ngọt ngào của mẹ sẽ nuôi con khôn lớn “Sữa mẹ nhiều, con ngủ chẳng phân vân”. Từ hình ảnh con cò trong lời ru của mẹ, Chế Lan Viên nói đến hình ảnh con cò đi vào tiềm thức của đứa con, là biểu tượng cho người mẹ luôn yêu thương, bên con từ ấu thơ đến khi trưởng thành, luôn dõi theo con từng bước. Khi con còn bé thơ, người mẹ luôn ở bên con trong giấc ngủ để che chở cho giấc ngủ của con. “Cánh của cò, hai đứa đắp chug đôi” là một hình ảnh đẹp tượng trưng cho vòng tay ấm áp, yêu thương của mẹ ôm ấp con vào trong lòng. Khi con đến tuổi cắp sách đến trường, mẹ vẫn ở bên cạnh con, dõi theo sự phấn đấu của con “Mai khôn lớn, con theo cò đi học”. Rồi khi con trưởng thành, mẹ vẫn bên con và mong rằng: “Con làm thi sĩ”. Mẹ mong con trở thành thi sĩ là mong con lớn lớn lên trở thành người có tâm hồn cao đẹp, biết yêu cái đẹp của cuộc sống. Và khi ấy:
“Cánh cò trắng lại bay hoài không nghỉ
Trước hiên nhà
Và trong hơi mát câu văn”
Mẹ sẽ trở thành đề tài trong những trang thơ, trang văn ấy! Sự gắn bó của mẹ với con được diễn tả qua những câu thơ mượt mà ấy là hoàn toàn đúng so với thực tế. Phải chăng đó là xuất phát từ long thương mẹ,thấu hiểu mẹ mà nhà thơ đã diễn tả một cách chân thành đến như vậy. Vẫn với giọng thơ nhẹ nhàng, thiết tha mang âm hưởng như một lời ru ngọt ngào, đằm thắm, những câu thơ tiếp vẫn là hình ảnh con cò tượng trưng cho người mẹ nhưng lời thơ rút ngắn lại, chỉ còn bốn tiếng. Đối ngữ “gần- xa” gợi lên khoảng không gian mênh mông, bao la, xa cách, thành ngữ “lên rừng xuống biển” chỉ cuộc sống khó khăn, vất vả, long đong. Điệp ngữ “dù ở” đặt ở đầu hai câu thơ không chỉ tạo nhịp điệu cho lời thơ mà đó còn là lời khẳng định dù không gian xa cách, dù cuộc sống khó khăn, vất vả thì người mẹ vẫn luôn ở bên cạnh con. Các từ “sẽ tìm”, “mãi yêu” góp phần khẳng định sự gắn bó tha thiết của mẹ với con. Từ đó, tác giả rút ra một quy luật mang tính triết lý:
“Con dù lớn vẫn là con của mẹ
Đi hết đời, lòng mẹ vẫn theo con”
Đó là quy luật triết lý về tính mẫu tử: con dù khôn lớn, trưởng thành, dù đi bất cứ nơi đâu thì ẹ vẫn luôn ở bên cạnh con, vẫn dõi theo từng bước con đi trên đường đời. Phần cuối của bài thơ trở về với âm hưởng của lời ru “À ơi”. Lời thơ sử dụng phép tu từ ẩn dụ mang nghĩa tượng trưng sâu sắc, hình ảnh con cò với cánh cò vỗ cánh qua nôi hay đó là hình ảnh mẹ nghiêng nghiêng bên chiếc nôi tre, mẹ đang cúi xuống âu yếm, vỗ về con thơ. Lời ru của mẹ đem đến cho con tất cả: cánh cò, cánh vạc,cả sắc trời. Lời ru của mẹ đã nuôi lớn con cả về thể chất lẫn tinh thần. Với thể thơ tự do,lời thơ ngọt ngào, tha thiết mang âm hưởng của lời hát ru, cùng với đó là các điệp khúc, các hình ảnh mang ý nghĩa biểu trưng,… Chế Lan Viên đã dội vào lòng người tình cảm mẫu tử thật thiêng liêng. Tình mẹ- con gắn với lời hát ru bên chiếc nôi như là biểu tượng cho dân tộc Việt tự muôn đời!
Bài thơ không chỉ ngợi ca tình mẫu tử cao quý, mà đó còn là lời nhắc với mỗi chúng ta: hãy luôn trân trọng mẹ, trân trọng lời ru và kỉ niệm ấu thư vì đó là phần hồn của ta!
Nghị luận bài học rút ra từ truyện Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của la phông- ten - mẫu 2
Bài thơ “Mùa xuân nho nhỏ” được Thanh Hải sáng tác năm 1980 khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Bài thơ là tiếng lòng thiết tha, yêu mến và gắn bó với đất nước, với cuộc đời và thể hiện chân thành một ước nguyện hiến dâng .
Mở đầu bài thơ là bức tranh mùa xuân của thiên nhiên được phác hoạ bằng vài nét chấm phá:
Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc,
Ơi! con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời.
Chỉ bằng vài nét đơn sơ mà đặc sắc, với những hình ảnh nho nhỏ, thân quen, bình dị, nhà thơ đã vẽ lên bức tranh xuân thơ mộng, đậm phong vị xứ Huế.
Bức tranh có không gian thoáng đãng, sắc màu tươi tắn, hài hoà và âm thanh rộn rã tươi vui của tiếng chim chiền chiện.
Cách lựa chọn hình ảnh “dòng sông xanh”, “bông hoa tím”, cách sử dụng các từ ngữ “ơi”,“chi” đi liền sau động từ “hót” khiến người đọc liên tưởng đến quê hương xứ Huế và cả tâm trạng say đắm hân hoan của tác giả.
Dường như thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là màu xanh của dòng Hương Giang mềm mại và những tà áo dài tím biếc của những cô gái Huế mộng mơ, cùng với âm thanh rộn rã, tươi vui của tiếng chim chiền chiện, khiến mùa xuân của cố đô trầm mặc, chợt trở nên rực rỡ, rộn ràng.
Cảm xúc của tác giả trước mùa xuân còn được miêu tả ở chi tiết rất tạo hình:
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng.
Giọt âm thanh của tiếng chim thật trong ,thật tròn,vang ngân giữa không gian,đọng lại thành từng giọt hữu hình long lanh như hạt ngọc, nhà thơ đưa tay hứng với tất cả sự trân trọng, đắm say.
Sự chuyển đổi cảm giác khiến hình ảnh thơ trở nên lung linh, đa nghĩa góp phần diễn tả trọn vẹn hơn niềm say sưa, ngây ngất của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, trời đất vào xuân.
Từ mùa xuân của thiên nhiên, trời đất nhà thơ chuyển sang cảm nhận về mùa xuân của đất nước. Tác giả hướng tình cảm của mình tới những con người đang làm đẹp mùa xuân:
Mùa xuân người cầm súng
Lộc dắt đầy trên lưng
Mùa xuân người ra đồng
Lộc trải dài nương mạ.
Những câu thơ tạo ra hình ảnh sóng đôi đẹp như hai vế của câu đối mừng xuân nói về những người chiến sỹ bảo vệ và những người lao động dựng xây đất nước. Có lẽ bởi vậy mà không khí khẩn trương, rộn ràng, náo nức lan toả khắp tứ thơ:
Tất cả như hối hả
Tất cả như xôn xao.
Điệp từ “tất cả”, từ láy “hối hả”, “xôn xao ” tạo nên nhịp điệu mùa xuân hối hả, hào hùng, mở ra những cảm nhận chan chứa tự hào về đất nước:
Đất nước bốn ngàn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.
Hình ảnh so sánh đẹp: “đất nước như vì sao” toả sáng, luôn vận động và phát triển không ngừng, có ý nghĩa định hướng, giục giã mọi người hăng say cống hiến xây dựng quê hương.
Trước mùa xuân của đất nước, nhà thơ tâm niệm về mùa xuân riêng của mỗi cuộc đời và dạt dào một khát vọng hiến dâng:
Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập vào hoà ca
Một nốt trầm xao xuyến.
Nếu ở đầu bài thơ tác giả miêu tả những hình ảnh làm đẹp thêm, tô điểm thêm cho mùa xuân là âm thanh náo nức vang trời của tiếng chim chiền chiện và sắc màu tím biếc dịu dàng của cánh lục bình nhỏ trên sông thì ở đây tứ thơ được lặp lại, tạo ra sự đối ứng chặt chẽ.
Tác giả mong muốn được làm bông hoa toả ngát hương, con chim mang tiếng hót và nốt trầm xao xuyến để hiến dâng nhưng không làm mất đi nét riêng của mỗi người.
Đó thực sự là lời tâm niệm chân thành, tha thiết, khiêm nhường và khát khao được cống hiến phần tinh tuý nhất của mình làm đẹp thêm mùa xuân của quê hương, xứ sở mà không bị giới hạn bởi thời gian, tuổi tác:
Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời
Dù là tuổi hai mươi
Dù là khi tóc bạc.
“Mùa xuân nho nhỏ” là một sáng tạo bất ngờ, độc đáo mà tự nhiên, hợp lý của nhà thơ, bởi mùa xuân vốn là một khái niệm chỉ thời gian thế mà ở đây “mùa xuân” lại có khối, có hình, một hình hài nho nhỏ thật xinh xắn.
Mùa xuân đã trở thành một ẩn dụ nói về khát vọng, một lẽ sống cao đẹp, một ý thức khiêm nhường góp sức mình làm đẹp thêm mùa xuân của thiên nhiên,đất nước.
Điệp từ “dù là” đặt ở đầu hai câu thơ liên tiếp có ý nghĩa khẳng định cho khát vọng dâng hiến miệt mài, không mệt mỏi của tác giả .
Thể thơ năm chữ có nhạc điệu trong sáng, tha thiết, gần gũi với dân ca nhiều hình ảnh đẹp, giản dị, gợi cảm, những so sánh và ẩn dụ sáng tạo đã góp phần tạo nên thành công không nhỏ cho bài thơ .
Bài thơ kết thúc khi đã làm lay động trái tim mỗi người bởi chất hoạ gợi cảm, chất nhạc vấn vương và ước nguyện thiết tha chân thành của tác giả.
Dường như ước nguyện nhỏ bé khiêm nhường ấy không còn là của riêng Thanh Hải mà đã trở thành tiếng lòng chung của nhiều người. Bởi vậy mà đọc xong bài thơ em muốn tự hỏi mình một điều giản dị:
“Ôi sống đẹp là thế nào hỡi bạn?
Sống là cho đâu chỉ nhận riêng mình!”
(Tố Hữu)
Phân tích Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten – mẫu 1
Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten là bài nghị luận văn chương của tác giả H. Ten nhằm chỉ ra sự khác biệt giữa cái nhìn của nhà khoa học Buy-phông với cái nhìn của nhà thơ La Phông-ten về hai đối tượng là chó sói và cừu.‘Bài nghị luận này cho ta nhận thức về sự khác biệt giữa văn chương và khoa học.
Video bài văn mẫu Phân tích Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten
Bố cục của đoạn trích gồm hai phần: phần một (từ đầu đến “tốt bụng như thế”) và có thể đặt tên là “Hình tượng con cừu trong thơ ngụ ngôn La Phông- ten”. Phần hai (phần còn lại) có thể đặt tên là “Hình tượng chó sói trong thơ ngụ ngôn La Phông-ten”. Hình tượng con cừu trong thơ La Phông-ten qua sự đối sánh với hình ảnh con cừu trong công trình khoa học của Buy-phông. Buy-phông viết về loài cừu: ngu ngốc và sợ sệt, chúng “tụ tập” lại“thành bầy” là do chúng “sợ hãi”; chúng không biết trốn tránh nội nguy hiểm; chúng hết sức thụ động “chúng ở đâu là cứ đứng nguyên tại đấy, ngay dưới trời mưa, ngay trong tuyết rơi’’, chúng chỉ di chuyển khi con đầu đàn di chuyển do sự thôi thúc của người chăn cừu hay chó xua đuổi. Buy-phông không nói đến tình mẫu tử thân thương của loài cừu vì không phải chỉ ở loài cùn mới có. Nhà khoa học chỉ nêu nhận xét về đặc tính của loài cừu nói chung, không nói về một con cùn cụ thể. Hình tượng con cừu dưới ngòi bút La Phông-ten: nhà thơ xây dựng hình tượng con cùn cụ thể (ở đây là cùn con) trong một hoàn cảnh cụ thể – cuộc chạm trán và những lời đối thoại với chó sói bên nguồn nước (xem đoạn trích từ bài thơ của La Phông-ten mở đầu văn bản).
Bằng tưởng tượng, nhà thơ nhân cách hoá con cừu để nó suy nghĩ, nói năng, hành động như con người. Nhưng sự sáng tạo ấy vẫn dựa trên những đặc điểm vốn có của loài cừu: hiền lành, nhút nhát, chẳng bao giờ làm hại ai mà cũng chẳng có thể làm hại ai. Hình tượng chó sói-dưới ngòi bút của La Phông-ten trong sự đối sánh với loài chó sói ở công trình khoa học của Buy-phông: Buy-phông miêu tả loài sói trong tự nhiên hoang dã qua cái nhìn chính xác của nhà khoa học: chó sói sống cô độc, chúng “thù ghét mọi sự kết bè kết bạn”, chúng chỉ tập họp nhau lại khi cần tấn công một con vật to lớn nào đó; chó sói là loài có “bộ mặt lấm lét, dáng vẻ hoang dã, tiếng hú rùng rợn, mùi hôị gớm ghiếc, bản tính hư hỏng”; nó làm ta căm ghét bởi vì “lúc sống thì có hại, chết rồi thì vô dụng”.Buy-phông không nói đến “nỗi bất hạnh” của chó sói, vì đấy không phải là nét cơ bản trong đời sống hoang dã của chúng. Hình tượng chó sói dưới ngòi bút của La Phông-ten: là một con chó sói cụ thể, như “một gã vô lại, luôn đói dài và luôn luôn bị ăn đòn”. Bài thơ của La Phông-ten dựng lên một hoàn cảnh cụ thể: Chó sói gặp cừu bên nguồn nước và nó muốn ăn thịt cừu nên buộc cho cừu những “tội” mà cừu không hề có: làm bẩn nguồn nước, nói xấu sói từ năm ngoái. Mặc dù những “tội” ấy đều do chó sói bịa đặt, vu vạ, nhưng cuối cùng cừu vẫn bị sói ăn thịt, bỏi nó có “cái lí của kẻ mạnh”.
La Phông-ten bằng thủ pháp nhân hoá đã xây dựng chó sói thành một hình tượng văn học có mặt trong nhiều bài thơ. Sự tưởng tượng của nhà thơ vẫn dựa trên cơ sở là những đặc tính vốn có của loài chó sói. Ở hình tượng nhân vật này có “hài kịch về sự ngu ngốc” (vụng về, bất tài, chẳng kiếm được cái gì ăn, bụng luôn đói meo…), nhưng chủ yếu là “bi kịch của sự độc ác”, bởi nó gian giảo, hống hách, tàn bạo, bắt nạt kẻ yếu. Qua sự trình bày của H. Ten về hình tượng chó sói và cừu trong thơ của La Phông-ten, có đối sánh với hai loài vật này trong công trình của nhà khoa học Buy-phông, có thể rút ra đặc trưng của sáng tác nghệ thuật là dùng tưởng tượng, hư cấu và thể hiện quan niệm, thái độ của tác giả đối với đối tượng miêụ tả. Đặc sắc về nghệ thuật. Tiến hành nghị luận theo trình tự ba bước: cừu và chó sói dưới ngòi bút của La Phông-ten – cừu và chó sói dưới ngòi bút của Buy-phông – cừu và chó sói dưới ngòi bút của La Phông-ten. Trình tự lập luận này cho thấy trọng tâm của vấn đề nghị luận là nói về đặc điểm của hình tượng chó sói, cừu trong thơ La Phông-ten. Việc đối sánh với những nhận xét của nhà khoa học Búy-phông là nhằm làm rõ những đặc điểm của hai hình tượng nghệ thuật trong thơ La Phông-ten.Sử dụng phép lập luận so sánh, đối chiếu bằng cách dẫn ra những dòng viết về hai con vật của nhà khoa học Buy-phông và nhà thơ La Phông-ten, từ đó, làm nổi bật hình tượng nghệ thuật trong sáng tác của nhà thơ.
Qua phép so sánh, hình tượng chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten với những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy-phông, văn bản đã làm nổi bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật là yếu tố tưởng tượng và dấu ấn cá nhân của tác giả. Từ thế giới tự nhiên, chó sói và cừu non đã được nhà thơ La Phông-ten đưa vào thế giới văn chương với tính cách khái quát rõ nét, tiêu biểu cho những hạng người cụ thể trong xã hội.
Nghệ thuật trong văn học là nơi thăng hoa của hiện thực, nhìn thấu đời sống nội tâm của mỗi nhân vật. Khác với nó, văn bản khoa học lại đi sâu vào nghiên cứu tự nhiên rồi rút ra nhận định về sự vật. Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten là một công trình nghiên cứu nổi tiếng của Hi-pô-lít Ten, bằng cách so sánh và khám phá nhà văn đã chỉ ra sự khác nhau giữa hai loại văn bản khoa học và nghệ thuật. Dưới từng góc nhìn khác nhau chó sói và cừu lại bật lên một nét tính cách đối lập. Chó sói loài bạo chúa độc ác, quỷ quyệt nhưng có khi lại đáng thương vô cùng. Cừu một “thần dân”, hèn nhát yếu đuối nhưng ẩn sâu là một con vật thân thương, tốt bụng.
Hi-pô-lít Ten (1828-1893) là một nhà triết gia, sử gia và là nhà nghiên cứu văn học lừng danh của Pháp, viện sĩ Viện Hàn lâm Pháp. La-phông-ten và thơ ngụ ngôn của ông là một công trình nghiên cứu nổi tiếng của H.Ten viết năm 1853. Văn bản Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten được trích từ chương II, phần thứ hai của công trình trên. Đoạn trích so sánh hình tượng chó sói và cừu trong cách nhìn của hai tác giả La-phông-ten và Buy-phông, từ đó H.Ten đã làm nổi bật đặc trưng của nghệ thuật là in đậm dấu ấn cách nhìn, cách cảm nhận của người nghệ sĩ.
H.Ten đã mượn lời bài thơ ngụ ngôn Chó sói và cừu của La-phông-ten để làm chủ đề nghiên cứu cho tác phẩm của mình. Nhân vật chó sói và cừu trong bài thơ đại diện cho hai thế lực đối lập. Một bên là tên bạo chúa, hung ác, tàn bạo, xảo quyệt. Một bên là cừu con yếu ớt, đáng thương, tội nghiệp.
Tác giả Buy-phông trong công trình nghiên cứu Vạn vật học nổi tiếng của mình, ông đã chỉ ra rõ những đặc tính tự nhiên của loài cừu là “ngu ngốc và sợ sệt”. Chính vì vậy mà loài cừu thường tập trung thành bầy, không bao giờ dám tách đàn, chỉ một tiếng động nhỏ xíu phát ra cũng làm cho bầy cừu co rúm lại với nhau. Ông nói loài cừu đã “sợ sệt như thế lại còn hết sức đần độn”, bởi vì thế “chúng không biết trốn tránh nỗi nguy hiểm”. Loài cừu với sự ngu ngốc của mình chúng dễ dàng trở thành con mồi ngon của kẻ thù, chẳng thể trốn thoát cũng không thể chống trả bởi sự yếu ớt, bản tính nhút nhát của bản thân. Chẳng những thế theo Buy-phông loài cừu còn là con vật chậm chạp và kém linh hoạt, chúng ở đâu cứ đứng yên một chỗ “ngay dưới trời mưa, ngay trong tuyết rơi” chúng dường như không cảm nhận được sự bất tiện của mình, chúng quá an toàn và không dám bước ra khỏi cái lối sống rập khuôn của mình. Cứ đứng lì ra và để chúng di chuyển phải có một con đầu đàn đi trước và cứ thế những con khác “bắt chước nhất nhất làm theo”. Có những khi cả con đầu đàn cũng ỳ ra cùng với bầy đàn của nó, phải có gã chăn cừu “thôi thúc” hoặc “chó xua đi”.
Khác với Buy-phông, nhà thơ La-phông-ten đã miêu tả loài cừu bằng đời sống tâm hồn của nó. Các con cừu trong thơ ông là con vật “thân thương và tốt bụng”, là con vật có tình mẫu tử thiêng liêng. Cừu mẹ có thể nhận ra con của nó trong đám đông chỉ cần nghe tiếng kêu nhẹ nó liền chạy đến ngay lập tức. Nó đứng yên trên mặt đất lạnh tanh hàng giờ đồng hồ để cho con bú, vẻ mặt cừu mẹ “nhẫn nhục, mắt nhìn lơ đãng về phía trước”, mặt dù rất lạnh và mệt mỏi con cừu ấy vẫn chịu đựng, vẫn làm tròn trách nhiệm của người mẹ. Có thể nói La-phông-ten với con mắt nghệ thuật của mình đã nhìn thấu nội tâm loài cừu, ông động lòng cảm mến và xót thương cho con vật tội nghiệp ấy.
Nhắc đến loài sói chắc hẳn ta đều biết đó là một loài thú hoang dã, độc ác và luôn thèm khát máu tanh. Nhưng với sự nhạy cảm và sâu sắc của mình La-phông-ten đã khám phá ra một khía cạnh khác của loài sói “khốn khổ và bất hạnh”. Tuy là một tên trộm cướp nhưng cũng đáng thương chẳng kém, luôn mang bộ mặt “lấm lét”, “lo lắng” chúng sợ hãi khi bị truy đuổi. Với ông loài sói hung ác chẳng qua cũng chỉ là “gã vô lại” luôn luôn bị đói khát và bị “ăn đòn”. Con sói của La-phông-ten xảo quyệt và gian manh nó dùng lời lẽ dối trá để đưa cừu con vào tròng nhưng “tính cách thì phức tạp”, dưới ngòi tâm hồn nhạy cảm và thấu hiểu của người nghệ sĩ loài sói đáng sợ nhưng cũng đángthương. Tuy độc ác đấy nhưng sói lại vụng về và chẳng có tài chí gì, chúng luôn bị mắc mưu, đói meo và hoá rồ.
La-phông-ten đã “dựng một vở hài kịch về sự ngu ngốc” thì Buy-phông lại dựng một “vở bi kịch về sự độc ác”. Chó sói sống đơn lẻ chúng không thích tụ tập bầy đàn, khi ta thấy chúng tụ tập thì chắc chắn là một cuộc chinh chiến ồn ào ầm ĩ, tiếng kêu hú vang trời, chúng tấn công con mồi lớn như: Con hươu, con bò, con nai,… Khi kết thúc cuộc rượt đuổi con mồi chúng quay về với cuộc sống “lặng lẽ và cô đơn”. Loài sói với bản tính lấm lét, hoang dã, rùng rợn, hôi hám, hư hỏng,… “cái gì cũng làm ta khó chịu”. Theo Buy-phông, chó sói quả là loài vật đáng ghét “lúc sống thì có hại, chết rồi thì vô dụng”.
Đoạn trích của H.Ten đã vận dụng thành công biện pháp so sánh hai hình tượng cừu và chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông-ten cùng với những nghiên cứu của nhà khoa học Buy-phông về hai loài vật ấy đã làm nổi bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật chính là sáng tạo, là nhìn sự vật, hiện tượng dưới nhiều góc độ hiện thực và nhân văn. Đồng thời H.Ten đã chỉ ra sự khác biệt giữa hai văn bản khoa học và nghệ thuật. Trong khi văn bản khoa học tập trung nghiên cứu về đặc điểm, tính chất tự nhiên của sự vật thì văn bản nghệ thuật lại đào sâu khai thác tâm hồn của từng nhân vật, dưới cái nhìn phong phú, đa chiều của người viết.
Đoạn trích Chó sói và cừu trong thơ ngụ ngôn của La-phông-ten của Hi-pô-lít Ten là một công trình nghiên cứu văn học xuất sắc. Bằng bố cục chặt chẽ, lời nghị luận sắt bén giàu sức thuyết phục tác giả đã chỉ ra cách nhìn khác nhau giữa nhà khoa học và nhà thơ về hai con vật là cừu và chó sói. Thông qua đó H.Ten muốn cho người đọc thấy được tài năng xây dựng hình tượng của La-phông-ten trong bài thơ ngụ ngôn Chó sói và cừu.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Hi-pô-lít Ten sinh năm 1828, mất năm 1893
- Quê quán: Ông sinh ra tại Vouziers, Pháp
- Cuộc đời và sự nghiệp:
+ Năm ông 13 tuổi, 1841, cha ông mất
+ Ông được biết đến là một sinh viên xuất sắc ở cả hai ngành tự nhiên và xã hội, ông đã lấy được hai bằng khi ông chưa 20
+ Năm 1853, ông hoàn thành bằng tiến sĩ
+ Ông được biết đến là triết gia, sử gia, nhà nghiên cứu văn học Pháp, Viện sĩ viện Hàn lâm khoa học Pháp
+ Tác phẩm tiêu biểu: Ông là tác giả của công trình nghiên cứu La- phông- ten và thơ ngụ ngộ của ông (1853)
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Văn bản trích từ chương II, phần thứ hai công trình nghiên cứu khoa học nổi tiếng “La Phông- ten và thơ ngụ ngôn” của ông, xuất bản lần đầu năm 1853, đã tái bản nhiều lần.
2. Bố cục
- Phần 1: (từ đầu đến “Tốt bụng như thế”): Hình tượng cừu trong thơ La Phông- ten
- Phần 2: (còn lại) : Hình tượng chó sói trong thơ La Phông- ten
3. Giá trị nội dung
- Bằng cách so sánh hình tượng con cừu và con chó sói trong thơ ngụ ngôn của La Phông- ten với những dòng viết về hai con vật ấy của nhà khoa học Buy- phông, tác giả làm nổi bật đặc trưng của sáng tác nghệ thuật
4. Giá trị nghệ thuật
- Cách trình bày và sắp xếp luận điểm chặt chẽ giàu thuyết phục, dẫn chứng khoa học, lối viết hấp dẫn