Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu Cảm nhận Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới hay nhất hay nhất, gồm 10 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết và 7 bài văn mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
CẢM NHẬN CHUẨN BỊ HÀNH TRANG VÀO THẾ KỈ MỚI
Bài giảng: Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới
Cảm nhận Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới – mẫu 1
Mỗi tác phẩm văn học đều để lại cho những thế hệ sau những giá trị tinh thần vô giá. Nó mang những triết lý, những thông điệp sống tích cực mà không điều gì có thể thay thế được. Bài "Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới" của phó thủ tướng Vũ Khoan viết nhân dịp đầu năm 2001- thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ đã để lại những thông điệp lớn lao, mang tầm thời đại.
Theo phó thủ tướng Vũ Khoan, để chuẩn bị vào thế kỉ mới thì yếu tố tiên quyết nhất vẫn là con người. Một quốc gia đang trên đà phát triển với những thách thức mới, những nhiệm vụ mới thì cần phải có những người tài, hiền tài chính là nguyên khí của quốc gia, của dân tộc. Lịch sử hàng ngàn năm đã chứng minh con người là nền tảng của sự phát triển, đặc biệt là với sự phát triển ngày một lớn mạnh của thế giới, trong nền kinh tế tri thức thì vai trò của con người càng nổi bật và khẳng định, con người cần phải có trí thức phong phú, nguồn chất xám dồi dào, sâu rộng để đưa đất nước phát triển. Một thế giới với sự phát triển mạnh mẽ của nền khoa học công nghệ, quốc gia nào cũng đang cố khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế thì Việt Nam phải càng phấn đấu hơn nữa để đưa đất nước sánh vai với cường quốc năm châu. Những nhiệm vụ cấp bách đặt ra ngay lúc này là phải đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiếp cận với nền kinh tế tri thức. Để thực hiện được, mỗi người Việt Nam phải không ngừng nỗ lực phấn đấu, phải biết người biết ta, thế mạnh điểm yếu của mình để phát huy cái hay, cái tốt, hạn chế và xoá bỏ cái xấu, cái yếu trong bản thân để hoàn thiện. Con người có tài năng, có thành tựu thì đất nước mới giàu mạnh, mới phát triển được. Cũng theo tác giả, con người Việt Nam vốn có tính thần đoàn kết, lòng yêu thương lẫn nhau, có khả năng thích ứng nhanh với những cái mới, cái lạ lại cần cù sáng tạo và tỉ mỉ. Đó là những lợi thế vô cùng lớn. Tuy nhiên, bên cạnh đó cùng còn tồn tại nhiều điểm yếu như hổng kiến thức, còn nặng về lý thuyết mà thiếu kỹ năng lại thiếu tỉ mỉ, chưa tôn trọng tính kỷ luật lại có tính đố kị trước sự thành công của người khác, điều này làm hạn chế rất nhiều đến sự phát triển của bản thân, của dân tộc, những tác hại dẫn chứng được Vũ Khoan đưa ra vô cùng thuyết phục, như một sự cảnh tỉnh ý thức của mỗi người lúc này.
Tác giả đã lập luận một cách khách quan, chí lý chí tình, nghiêm túc với vấn đề để ai ai cũng hiểu rõ vai trò và trách nhiệm của mình, đây là điều vô cùng đáng quý. Đọc bài văn, em thấy mình học hỏi được nhiều điều để phát triển hơn nữa trong cuộc sống:
Thứ nhất, đất nước muốn giàu mạnh phải có người tài, người giỏi. Muốn vậy, mỗi học sinh chúng ta phải nỗ lực ngay từ bây giờ, học hỏi mọi nơi, mọi lúc. Không chỉ học trên nhà trường mà phải học trong đời sống, rèn luyện đạo đức, sức khoẻ, thẩm mỹ, trí tuệ. Phải ý thức mình là công dân của nước Việt Nam- một quốc gia đang phát triển phải nỗ lực từng ngày hơn nữa.Thứ hai, mỗi học sinh phải là những người trẻ nhanh nhạy, tiếp thu những tinh hoa nhân loại, đón đầu những đổi mới của thế giới, những xu thế phát triển mới để tiếp cận và học hỏi. Vận dụng phù hợp với thực tiễn đất nước để không bị lạc hậu trước những đổi mới nhanh chóng trong thời đại hiện nay. Thứ ba, trong thực tế, chúng ta là những học sinh vẫn còn tồn tại những khuyết điểm cần được khắc phục. Đó là bệnh lười nhác, thói quen giờ cao su, thiếu kỉ luật, bệnh thành tích, dùng phao trong thi tuyển, gian lận kiểm tra, lạm dụng mạng xã hội,... Tất thảy đều ảnh hưởng rất nghiêm trọng đến sự phát triển của bản thân, lãng phí thời gian và tiền bạc, nhân cách suy đồi dẫn đến những hệ lụy nghiêm trọng trong tương lại. Thứ tư, một bộ phận học sinh vẫn vô cùng thụ động trong lối sống, sống không mục tiêu, không lý tưởng, thiếu quyết tâm, hành động. Cần phải chuẩn bị cho mình hành trang về trí thức- kỹ năng và những thói quen tốt để dấn thân vào cuộc sống. Từng bước khẳng định mình, khẳng định đất nước mình với bè bạn, năm châu.
Tuy nhiên, nói thì dễ, làm được hay không còn là một chặng đường dài. Song, nếu có quyết tâm, nếu biết biến quyết tâm thành hành động thì tất cả đều có thể làm được. Hành trang vào đời, hành trang xây dựng cuộc đời là tự bản thân mỗi người lựa chọn. Hãy sống sao cho mỗi ngày trôi qua đều không lãng phí, đều là những khoảng kí ức đẹp mà khi nhìn lại ta có thể tự hào về khoảng thời gian đã qua, góp mùa xuân tuổi trẻ của mình làm đẹp cho đời, cho đất nước thương yêu.
1. Mở bài
- Bài "Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới" của phó thủ tướng Vũ Khoan viết nhân dịp đầu năm 2001- thời điểm chuyển giao giữa hai thế kỷ đã để lại những thông điệp lớn lao, mang tầm thời đại.
2. Thân bài
* Những vấn đề được tác giả đặt ra trong tác phẩm:
- Để chuẩn bị vào thế kỉ mới thì yếu tố tiên quyết nhất vẫn là con người→ Con người là nền tảng của sự phát triển
- Với sự phát triển ngày một lớn mạnh của thế giới, trong nền kinh tế tri thức thì vai trò của con người càng nổi bật và khẳng định.
- Những nhiệm vụ cấp bách đặt ra lúc này là đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và tiếp cận với nền kinh tế tri thức.
- Điểm mạnh, điểm yếu của người Việt Nam
* Bài học nhận thức bản thân
- Mỗi học sinh chúng ta phải nỗ lực ngay từ bây giờ, rèn luyện đạo đức, sức khoẻ, thẩm mỹ, trí tuệ, hoàn thiện bản thân.
- Mỗi học sinh phải là những người trẻ nhanh nhạy, tiếp thu những tinh hoa nhân loại, đón đầu những đổi mới của thế giới, những xu thế phát triển mới để tiếp cận và học hỏi.
- Trong thực tế, chúng ta là những học sinh vẫn còn tồn tại những khuyết điểm → Cần khắc phục, sửa chữa.
- Chủ động trong lối sống, sống có mục tiêu, có lý tưởng
3. Kết bài
- Hành trang vào đời, hành trang xây dựng cuộc đời là tự bản thân mỗi người lựa chọn.
- Hãy sống sao cho mỗi ngày trôi qua đều không lãng phí, đều là những khoảng kí ức đẹp mà khi nhìn lại ta có thể tự hào về khoảng thời gian đã qua, góp mùa xuân tuổi trẻ của mình làm đẹp cho đời, cho đất nước thương yêu.
Các bài mẫu khác
Đất nước ta đang trên đà phát triển, ngày một văn minh hiện đại hơn đòi hỏi mỗi cá nhân nhất là thế hệ trẻ phải chuẩn bị hành trang kĩ càng cho bản thân mình để bắt kịp thời đại và hội nhập với thế giới. Khi đọc những dòng văn trong tác phẩm Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của tác giả Vũ Khoan, ta mới càng thấy thấm thía hơn điều đó.
Tác phẩm được viết vào năm 2001, đây là thời kì đất nước đang chuyển mình mạnh mẽ, bước qua thế kỉ XXI với những cơ hội và thách thức đang chờ đón. Bởi vậy tác phẩm Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới như một lời thúc giục, thức tỉnh thế hệ trẻ, những chủ nhân tương lai của đất nước cần hiểu rõ nghĩa vụ của mình với Tổ quốc, góp công sức, trí tuệ của mình để xây dựng Việt Nam ngày càng văn minh, hiện đại. Mở đầu bài báo, tác giả Vũ Khoan đã nêu lên trách nhiệm của thế hệ trẻ trong thời kì hội nhập thế giới "Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt trước khi bước vào nền kinh tế mới". Thật vậy, việc tự nhận thức ưu điểm, nhược điểm của bản thân là vô cùng quan trọng bởi "Từ cổ chí kim, bao giờ con người cũng là động lực phát triển của lịch sử", con người là vốn quý nhất, con người chính là chủ thể của mọi hoạt động để tạo ra mọi của cải vật chất phục vụ nhu cầu của chính mình. Nếu không tự nhận thức được bản thân, chúng ta sẽ không nắm bắt được điểm mạnh để phát huy và điểm yếu để khắc phục, tự hoàn thiện bản thân hơn, nhất là trong "nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ thì vai trò của con người lại càng nổi trội". Như vậy, chỉ đọc những dòng đầu của tác phẩm, ta cũng có thể nhận thấy Vũ Khoan đã khẳng định yếu tố con người là quan trọng nhất trong mọi thời đại và đặc biệt trong thời đại "chuyển tiếp giữa hai thế kỉ, và hơn thế nữa, là sự chuyển tiếp giữa hai thiên niên kỉ" lại càng cần thiết. Tiếp đó, tác giả cũng chỉ ra những nhiệm vụ vô cùng cấp thiết của đất nước khi bước qua thế kỉ mới này, đó là "thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đồng thời lại phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức". Những nhiệm vụ cấp thiết mà ông đã chỉ ra đều dựa trên tình hình thực tế của đất nước lúc bấy giờ và đòi hỏi con người phải giải quyết bài toán nan giải đó.
Muốn giải được bài toán này, chúng ta cần nhận thức rõ ràng về cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam. Với cách lập luận, bình luận vô cùng ngắn gọn, khúc chiết, tác giả Vũ Khoan đã nhìn thẳng vào thực tế của người dân Việt Nam để giúp người đọc nhận ra những ưu điểm, hạn chế của chính chúng ta. Điểm mạnh đầu tiên của người Việt ta là "thông minh, nhạy bén với cái mới" nhưng song hành với nó chính là điểm yếu "lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo môn học thời thượng", "lối học chay, học vẹt" khiến khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế. Nói đến đây, hẳn bạn cũng giống như tôi phải thẳng thắn thừa nhận rằng người Việt Nam rất sáng tạo, thông minh nhưng lại bị kìm kẹp bởi hoàn cảnh khiến "cái khó bó cái khôn", lâu dần trở nên trì trệ, mất khả năng sáng tạo và không chịu tư duy, đổi mới. Cái mạnh tiếp theo của chúng ta phải kể đến đó là sự cần cù, chịu khó và điều này vô cùng cần thiết, hữu ích "trong một nền kinh tế đòi hỏi tinh thần kỉ luật cao và thái độ nghiêm túc". Vậy nhưng nó cũng tồn tại một hạn chế đó chính là "người Việt Nam ta cần cù thì cần cù thật, nhưng lại thiếu đức tính tỉ mỉ" và "thường dựa vào tính tháo vát của mình, hành động theo phương châm nước đến chân mới nhảy, liệu cơm gắp mắm" chứ không cẩn trọng, tỉ mỉ trong khâu chuẩn bị công việc, thiếu sự nhìn xa trông rộng. Ngoài ra, ta cũng có thói quen làm ăn theo phương thức sản xuất nhỏ lẻ, thoải mái và thanh thản nên "chưa có được thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương". Cuối cùng, tác giả cũng chỉ ra nhiều thói xấu của người Việt trong làm ăn, kinh doanh như thói đố kị, thói sùng ngoại hoặc bài ngoại, tính khôn vặt, bóc ngắn cắn dài, không coi trọng chữ "tín",... Chắc hẳn, khi đọc những điều này, bạn sẽ phải giật mình vì chợt nhận ra có bản thân mình trong đó, dù là mang trong mình điểm mạnh hay vẫn còn tồn tại những mặt hạn chế nêu trên, thì, chúng ta cũng phải "lấp đầy hành trang bằng những điểm nạnh, vứt bỏ những điểm yếu", tự nhận thức được điều đó để hình thành cho mình những thói quen tốt đẹp từ những việc nhỏ nhặt nhất, có như vậy mới có thể "sánh vai với các cường quốc năm châu" như mong mỏi của Bác Hồ năm xưa.
Quả thật, với cách hành văn vô cùng rõ ràng, rành mạch, cách lập luận chặt chẽ, dẫn chứng đầy sức thuyết phục, bài báo Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới của Phó Thủ tướng Chính phủ Vũ Khoan đã mở ra cho người đọc, nhất là thế hệ trẻ Việt Nam những nhận thức vô cùng mới mẻ, đầy đủ về cơ hội, thách thức khi hội nhập với thế giới và những điểm mạnh, điểm yếu chúng ta cần phát huy/ khắc phục để đưa Việt Nam vươn ra biển lớn. Bài báo này không chỉ đúng đắn trong hoàn cảnh nước ta lúc bấy giờ mà còn vô cùng cần thiết và hữu ích cho chúng ta trong mọi thời, đặc biệt là thời kì công nghệ 4.0 như hiện nay.
“Thế giới ngày mai thuộc về những người có tầm nhìn hôm nay”.
Vũ Khoan từng là Phó Thủ tướng Chính phủ nước ta. Ông đã từng viết bài “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” để khuyên lớp trẻ Việt Nam bước vào thế kỉ mới cần nhận ra những điểm mạnh, từ bỏ những điểm yếu. Trong bài viết có những lời nhắc nhở chân tình sau đây: “Cái mạnh của con người Việt Nam là sự thông minh và nhạy bén với cái mới nhưng bên cạnh cái mạnh đó vẫn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề …”.
Vậy hành trang là gì? Hành trang là đồ dùng mang theo và các thứ trang bị khi đi xa. Ở đây dùng với nghĩa là hành trang tinh thần như tri thức, kĩ năng, thói quen để bước vào một thời kỳ mới. Thế nào là thế kỉ mới? Đây là cụm từ chỉ thế kỉ XXI, thế kỷ của khoa học, của thế giới mạng. Thế kỉ mới (thế kỉ XXI) là thời kỳ đất nước ta đi vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hơn thế nữa “hội nhập càng sâu vào nền kinh tế thế giới”. Tại sao phải chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới? vì muốn định hướng cho tương lại thì trước hết chúng ta phải bắt tay vào chuẩn bị và cải thiện lại bản thân mình. Đây là khâu quan trọng mở đầu cho các khâu tiếp theo. Nó mở ra hướng đi trong việc chuẩn bị các hành trang tiếp theo. Dù là thời kì đồ đá hay đồ đồng, kể cả thời hiện đại, dù ở nước Mỹ hay ở Việt Nam thì bản thân con người bao giờ cũng là trung tâm của sự phát triển. Vì từ cổ chí kim, bao giờ con người cũng là động lực phát triển của lịch sử. Trong thế kỉ tới, nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ, vai trò của con người càng nổi trội. Muốn chuẩn bị cho bản thân thì phải nhận ra cái mạnh và cái yếu của chính mình.
Cái mạnh của con người Việt Nam là gì? Cái mạnh của con người Việt Nam là sự thông minh và nhạy bén với cái mới. Sự thông minh nhanh nhạy là một mặt mạnh mà không ai có thể phủ nhận. Nhờ vậy mà dân tộc ta có thể tồn tại và phát triển quan 4000 năm lịch sử đầy thăng trầm biến động bởi thù trong, giặc ngoài; mới vượt qua được bao thử thách nghiệt ngã, vận nước ngàn cân treo sợi tóc. Nhiều tấm gương thành công của con người Việt Nam đã chứng minh điều này. Ngày xưa, Lưỡng quốc trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi đã làm cho vua Trung Quốc phải nể phục GS Ngô Bảo Châu đã làm rạng danh đất nước với giải Fields Toán học.Cái yếu của con người Việt Nam là gì? Cái yếu của người Việt Nam là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Vậy học vẹt là gì? Học vẹt là học mà không hiểu bài, không nắm rõ kiến thức của bài mà chỉ cố học thuộc lòng từng câu chữ một cách máy móc. Học vẹt là thuộc làu làu những khái niệm, những định nghĩa, những kiến thức nhưng không hề hiểu gì về kiến thức, định nghĩa, khái niệm đó. Biểu hiện của nó là lý thuyết thì thuộc nhưng không biết áp dụng kiến thức đó vào thực hành. Học sinh cố học thuộc để lấy điểm miệng hay kiểm tra nhưng rốt cuộc chẳng hiểu vấn đề. Còn thế nào là học tủ? “Học tủ” là chọn một phần kiến thức trong vô vàn kiến thức để học và nghĩ rằng kiến thức đó sẽ có trong kỳ thi. Học tủ là cách học cầu may, đoán đề và chỉ học những phần mình đoán đề sẽ ra. Cách học này mang tính chất may rủi rất cao và có thể gây ra những hậu quả nghiêm trọng, nhất là khi các bạn học sinh đoán sai đề thi – kiểm tra mà không trúng “tủ” thì sẽ nhận được điểm kém. Trong Luận văn thị phạm, Nghiêm Toản đã viết:
“Sự học mà đã hạ xuống là “học tủ” thì chúng tôi cũng không còn cần làm việc cùng các bạn nữa”.Vậy chúng ta phải làm gì để chuẩn bị bước vào thế kỉ mới? chúng ta phải lấp đầy túi hành trang của mình bằng những điểm mạnh và vứt bỏ điểm yếu. Chúng ta đang sống, sinh hoạt, học tập trên đất nước Việt Nam; chúng ta thừa hưởng, sự thông minh, nhạy bén của cha ông. Và giờ đây, chúng ta phải biến thế mạnh ấy thành kho tàng riêng của mình bằng cách ra sức học tập để bồi dưỡng cho kho tàng ấy ngập tràn kiến thức. Bởi lẽ “kiến thức là sức mạnh”, chỉ có kiến thức, tuổi trẻ mới có sức mạnh xây dựng đất nước phát triển. Nhưng để làm được điều đó chúng ta phải học những gì, học ra sao? Có lẽ không phải là học vẹt, học tủ. Mà phải thay đổi phương pháp học tập, “học đi đôi với hành”.Trong một thế giới đang phát triển, nước ta lại phải cùng lúc giải quyết ba nhiệm vụ; thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đồng thời phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. “Học kiến thức phải giỏi suy nghĩ, suy nghĩ, lại suy nghĩ. Chín nhờ cách ấy tôi đã trở thành nhà khoa học” (Einstein). Để hoàn thành sự nghiệp ấy con người Việt Nam phải hiểu rõ những điểm mạnh và điểm yếu của mình. Bước chân vào thế kỉ mới, đất nước Việt Nam, con người Việt Nam có rất nhiều cơ hội; hòa nhập, mở rộng giao lưu về kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ nhưng cũng đứng trước không ít khó khăn, thử thách. Vấn đề làm sao tận dụng những cơ hội, ứng phó với thách thức do tiến trình hội nhập đem lại là vấn đề hết sức to lớn, là mối quan tâm của tất cả mọi người.
Tóm lại, bước vào thế kỉ mới, muốn “sánh vai với các cường quốc năm châu”, thì con người chính là yếu tố đóng vai trò quan trọng quyết định sự thành bại của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Con người phải chuẩn bị những hành trang cần thiết để bước vào thế kỉ XXI bằng cách trang bị tri thức khoa học công nghệ, có nhận thức đúng về bản thân, xã hội, thời đại, có tâm hồn trong sáng, lành mạnh, giàu tính nhân văn, có lí tưởng, có niềm tin. Còn học sinh chúng ta cần phải tập trung ý chí và xác định thật đúng đắn mục đích của học tập của mình, mục đích học tập như tổ chức Unesco đề xướng:“Học để biết, học để làm, học để chung sống, học để tự khẳng định mình”.
“Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới”. Phó Thủ Tướng Vũ Khoan đã nhấn mạnh trong bài viết “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” của mình. Lần đầu được giới thiệu trên báo Tia sáng năm 2001.
Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất. Từ cổ chí kim bao giờ con người vẫn là động lực phát triển của lịch sử. Trong thế kỷ tới mà ai ai cũng thừa nhận rằng nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ thì vai trò của con người lại càng nổi trội.Cần chuẩn bị những cái cần thiết trong hành trang mang vào thế kỷ mới, trong khi chúng ta đã chứng kiến sự phát triển như huyền thoại của khoa học và và công nghệ, làm cho tỷ trọng trí tuệ trong một sản phẩm ngày một lớn. Chắc rằng chiều hướng này sẽ ngày càng gia tăng. Một phần dưới tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều. Trong một thế giới như vậy, nước ta lại phải cùng một lúc giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đồng thời lại phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. Làm nên sự nghiệp ấy đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó.
Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích trong xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu. Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng.Cái mạnh của người Việt Nam ta là sự cần cù, sáng tạo. Điều đó thật hữu ích trong một nền kinh tế đòi hỏi tinh thần kỷ luật rất cao và thái độ rất nghiêm túc đối với công cụ và quy trình lao động với những máy móc, thiết bị rất tinh vi. Tiếc rằng ngay trong mặt mạnh này của chúng ta cũng lại ẩn chứa những khuyết tật không tương tác chút nào với một nền kinh tế công nghiệp hoá chứ chưa nói tới nền kinh tế tri thức. Người Việt nam ta cần cù thì cần cù thật nhưng lại thiếu đức tính tỉ mỉ. Khác với người Nhật vốn cũng nổi tiếng cần cù lại thường rất cẩn trọng trong khâu chuẩn bị công việc, làm cái gì cũng tính toán chi ly từ đầu, người Việt Nam ta thường dựa vào tính tháo vát của mình, hành động theo phương châm “nước đến chân hãy nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”. Do còn chịu ảnh hưởng nặng nề của phương thức sản xuất nhỏ và cách sống ở nơi thôn dã vốn thoải mái và thanh thản nên người Việt Nam chưa có được thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương. Ngay bản tính “sáng tạo’ một phần nào đó cũng có mặt trái ở chỗ ta hay loay hoay “cải tiến”, làm tắt, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ. Trong một xã hội công nghiệp và “hậu công nghiệp” những khuyết tật ấy sẽ là những vật cản ghê gớm.
Trong một “thế giới mạng’, ở đó hàng triệu người trên phạm vi toàn cầu gắn kết với nhau trong một mạng Internet thì tính cộng đồng là một đòi hỏi không thể thiếu được. Nhân dân ta có truyền thống lâu đời đùm bọc, đoàn kết với nhau theo phương châm “nhiễu điều phủ lấy giá gương”. Bản sắc này thể hiện mạnh mẽ nhất trong cảnh đất nước lâm nguy, ngoạn bằng đe dọa. Nhưng tiếc rằng phẩm chất cao quý ấy thường lại không đậm nét trong việc làm ăn, có thể do ảnh hưởng của phương thức sản xuất nhỏ, tính đố kỵ vốn có của lối sống theo thứ bậc không phải theo năng lực và lối suy nghĩ “trâu buộc ghét trâu ăn” đối với người hơn mình ở làng quê thời phong kiến. Ta có thể quan sát thấy điều đó ngay trong cả những việc nhỏ nhặt: ví dụ vào thăm bảo tàng thì người Nhật túm tụm vào với nhau chăm chú nghe thuyết minh, còn người Việt Nam ta lại lập tức tản ra xem những thứ mình thích; người Hoa ở nước ngoài thường cưu mang nhau, song người Việt lại thường đố kỵ nhau.
Bước vào thế kỷ mới, nước ta sẽ hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Bản tính thích ứng nhanh sẽ giúp dân ta tận dụng những cơ hội, ứng phó với thách thức do tiến trình hội nhập đem lại. Nhưng thái độ kỳ thị đối với sự kinh doanh, thói quen ảnh hưởng sự bao cấp, nếp nghĩ sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức đều sẽ cản trở sự phát triển của đất nước. Thói quen ở không ít người thích tỏ ra “khôn vặt”, “bóc ngắn cắn dài”, không coi trọng chữ “tín” sẽ gây tác hại khôn lường trong quá trình kinh doanh và hội nhập.
Sau khi đất nước hoàn toàn độc lập vào ngày 30/4/1975, đất nước ta phải mất rất nhiều năm để xây dựng và khôi phục những hậu quả nặng nề của chiến tranh, đó là một hành trình nhiều gian nan và vất vả cần sự chung tay góp sức của cả dân tộc. Văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới là những lời tâm huyết, chân thành của Phó thủ tướng Vũ Khoan trước thềm một thế kỷ mới, một thiên niên kỷ mới bắt đầu, trước những sự thay đổi lớn trong tương lai của một đất nước đứng lên từ chiến tranh. Bài viết đã chỉ ra cho nhân dân ta, đặc biệt là thế hệ thanh niên, những con người tương lai sẽ chèo lái đất nước những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam, từ đó cố gắng rèn luyện cho mình được những thói quen tốt, chuẩn bị sẵn sàng nguồn nhân lực mạnh mẽ cho quá trình gây dựng đất nước, sánh ngang cùng với các cường quốc năm châu.
Vũ Khoan là một nhà hoạt động chính trị, nhiều năm làm Thứ trưởng Bộ Ngoại giao, từng là Bộ trưởng Bộ Thương mại, Phó Thủ tướng Chính phủ nước ta. Văn bản Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới được viết vào năm 2000, in trong tạp chí Tia sáng (2001), trong tập Một góc nhìn tri thức (2002). Đây là thời điểm giao thoa giữa hai thế kỷ, sẵn sàng cho những thay đổi mới của đất nước, dân tộc.
Vũ Khoan đi vào đề cập đến vấn đề vai trò của con người trong hành trình bước thế kỷ mới, ông nhận định rằng "Trong những hành trang ấy có lẽ sự chuẩn bị con người là quan trọng nhất", nhằm nhấn mạnh vai trò của con người trong công cuộc xây dựng đất nước. Sở dĩ nói như vậy bởi, từ cổ chí kim đến nay "con người là động lực phát triển lịch sử", đặc biệt trong xã hội hiện đại khi mà nền kinh tế tri thức ngày càng có những phát triển vượt bậc thì vai trò của con người lại càng nổi trội. Bởi chính bộ óc, trí tuệ của con người sẽ gây dựng lên nền kinh tế ấy, chứ không phải bất cứ giống loài nào khác. Tiếp theo tác giả đi vào phân tích hoàn cảnh của thế giới và đề ra những nhiệm vụ cho của đất nước trong thế kỷ mới.
Chúng ta cũng biết rằng trên thế giới sự phát triển của khoa học và công nghệ đã có những bước tiến lớn trong vòng 100 năm trở lại đây, đặc biệt là ở các nước phương Tây. Thêm vào đó song song với sự phát triển thì chính sách mở cửa, hội nhập đã được thực hiện từ rất sớm, các nền kinh tế vì thế càng có sự giao thoa sâu sắc, học hỏi lẫn nhau và nhanh chóng phát triển. Trước tình hình cả thế giới với những bước chân lớn và nhiều như vậy đòi hỏi Việt Nam ta phải tự đặt ra những mục tiêu và nhiệm vụ và bằng mọi giá phải hoàn thành nó, để rút ngắn thời gian nhanh chóng đuổi kịp các nước phát triển. Những nhiệm vụ ở đây được Vũ Khoan đề ra bao gồm: Đẩy mạnh nền công nghiệp hóa, hiện đại hóa, từng bước tiếp cận và phát triển nền kinh tế tri thức, đồng thời nhanh chóng thoát khỏi nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu. Đó là những nhiệm vụ tối cần, cấp thiết mà quan trọng nhất trong giai đoạn chuyển giao giữa hai thế kỷ của nước ta.
Sau khi chỉ ra vai trò của con người và những nhiệm vụ tối cần để phát triển đất nước trong thế kỷ mới Vũ Khoan mới bắt đầu đi sâu vào phân tích đặc tính của con người Việt Nam, để từ đó rút ra bài học nhằm cải thiện nguồn nhân lực cho đất nước. Với mỗi một phẩm chất và đặc tính thì ông đều phân làm điểm mạnh và điểm yếu, dám nhìn nhận thẳng vào sự thật, công khai mở ra những nhận thức mới về dân tộc ta, mà xưa nay ít ai đề cập vì lòng tự ái dân tộc.
Trước hết là về trí tuệ, Vũ Khoan nhận định con người Việt Nam ta được cả thế giới thừa nhận là "thông minh, nhạy bén với cái mới", điều này vô cùng có ý nghĩa với một xã hội đang phát triển và thay đổi từng ngày. Tuy nhiên chúng ta vẫn tồn tại nhiều điểm yếu, mà đa phần đến từ những lỗ hổng kiến thức, nặng lý thuyết, yếu thực hành, chính điều đó đã kiềm chế khả năng sáng tạo và thích ứng với môi trường xã hội năng động của chúng ta. Về đức tính chúng ta nổi bật với hay đức tính chính là cần cù và sáng tạo, phù hợp với nền kinh tế cần nhiều sự kiên trì, kỷ luật, những máy móc hiện đại tinh vi, tuy nhiên chúng ta lại thiếu đi cái tính tỉ mỉ, không có sự tính toán, luôn mang tinh thần "nước đến chân mới nhảy", đến đâu hay tới đó. Nếu nhanh nhạy, công việc trót lọt thì không sao, nhưng nếu làm không kịp thì để lại những hậu quả lớn, hơn thế nữa chúng ta lại cũng ưa "sáng tạo" ở những chỗ cần quy định nghiêm ngặt, còn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng sản xuất nhỏ lẻ, thiếu bài bản.
Về tình cảm, người dân Việt Nam ta vốn có truyền thống lâu đời là đùm bọc, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, điều ấy thể hiện trong công cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước ta từ hàng ngàn năm nay. Tuy nhiên có một điều đáng buồn rằng dường như những đức tính ấy lại không mấy sâu sắc trong việc làm ăn, bởi cái tư tưởng "tiểu nông", nhỏ nhen, hay đố kỵ, có thể chung hoạn nạn nhưng chưa chắc ấm no đã cơm lành canh ngọt. Chính điều này đã làm chúng ta khó có thể liên kết với nhau trên thế giới mạng, vốn là một môi trường phát triển nhiều tiềm năng.
Cuối cùng Vũ Khoan đề cập đến thói quen của người Việt Nam, chúng ta có một điểm mạnh ấy là khả năng thích ứng nhanh, chính vì thế dễ dàng làm quen và hội nhập tốt, ứng phó với những tiến trình phát triển phức tạp của thế giới. Bên cạnh điểm mạnh đó, Vũ Khoan cũng chỉ ra rằng chúng ta cũng có những thói quen hết sức xấu, đó là thái độ bài ngoại hoặc sính ngoại quá mức, khôn vặt, bóc ngắn cắn dài và nghiêm trọng hơn cả là thói quen không biết giữ chữ tín. Đó điều là những điểm đại kỵ trong công việc hợp tác làm ăn, là hòn đá cản đường vô cùng lớn trong tiến trình hội nhập và phát triển của nước ta.
Sau khi đã chỉ ra những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam, Vũ Khoan đã đưa ra những lời khuyên, lời kêu gọi thay đổi nội hàm nguồn nhân lực để "sánh vai cùng các cường quốc năm châu". Ấy là chúng ta phải "lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu" và muốn có được điều này ông nhấn mạnh tầm quan trọng, có ý nghĩa quyết định của việc thay đổi và giáo dục tầng lớp thanh niên "hãy làm cho lớp trẻ-những người chủ thực sự của đất nước trong thế kỷ tới - nhận ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất". Sở dĩ nói như vậy bởi tầng lớp thanh niên là nguồn nhân lực lớn và dồi dào nhất, có khả năng, sức khỏe, trí tuệ, cũng là tầng lớp dễ thay đổi, thích nghi, khả năng học tập sáng tạo cao. Khi thay đổi dần những thói quen nhỏ cho tốt thì ắt hẳn rằng với trình độ, trí tuệ và sự phấn đấu của con người Việt Nam chúng ta sẽ sớm sáng vai cùng với các cường quốc năm châu như lời kỳ vọng của Bác.
Chuẩn bị hành trang vào thế kỷ mới là một văn bản nghị luận thực tế, Vũ Khoan đã không ngần ngại thẳng thắn nhìn vào những điểm mạnh và điểm yếu của con người Việt Nam. Từ đó đưa ra lời kêu gọi, lời khuyên có sức cổ vũ lớn, không khiến người đọc phải tự ái, mà thay vào đó giúp mỗi người nhận thức được và xem xét để thay đổi bản thân ngày một tốt hơn, tương lai tham gia vào kiến thiết đất nước.
“Lớp trẻ Việt Nam cần nhận ra những cái mạnh, cái yếu của con người Việt Nam để rèn những thói quen tốt khi bước vào nền kinh tế mới”. Phó Thủ Tướng Vũ Khoan đã nhấn mạnh trong bài viết “Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới” của mình. Lần đầu được giới thiệu trên báo Tia sáng năm 2001. Trong những hành trang ấy, có lẽ sự chuẩn bị bản thân con người là quan trọng nhất. Từ cổ chí kim bao giờ con người vẫn là động lực phát triển của lịch sử. Trong thế kỷ tới mà ai ai cũng thừa nhận rằng nền kinh tế tri thức sẽ phát triển mạnh mẽ thì vai trò của con người lại càng nổi trội.
Cần chuẩn bị những cái cần thiết trong hành trang mang vào thế kỷ mới, trong khi chúng ta đã chứng kiến sự phát triển như huyền thoại của khoa học và và công nghệ, làm cho tỷ trọng trí tuệ trong một sản phẩm ngày một lớn. Chắc rằng chiều hướng này sẽ ngày càng gia tăng. Một phần dưới tác động của những tiến bộ về khoa học và công nghệ, sự giao thoa, hội nhập giữa các nền kinh tế chắc chắn sẽ sâu rộng hơn nhiều. Trong một thế giới như vậy, nước ta lại phải cùng một lúc giải quyết ba nhiệm vụ: thoát khỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu của nền kinh tế nông nghiệp, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá và đồng thời lại phải tiếp cận ngay với nền kinh tế tri thức. Làm nên sự nghiệp ấy đương nhiên là những con người Việt Nam với những điểm mạnh và điểm yếu của nó.
Cái mạnh của con người Việt Nam không chỉ chúng ta nhận biết mà cả thế giới đều thừa nhận là sự thông minh, nhạy bén với cái mới. Bản chất trời phú ấy rất có ích trong xã hội ngày mai mà sự sáng tạo là một yêu cầu hàng đầu. Nhưng bên cạnh cái mạnh đó cũng còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề. Không nhanh chóng lấp những lỗ hổng này thì thật khó bề phát huy trí thông minh vốn có và không thể thích ứng với nền kinh tế mới chứa đựng đầy tri thức cơ bản và biến đổi không ngừng.
Cái mạnh của người Việt Nam ta là sự cần cù, sáng tạo. Điều đó thật hữu ích trong một nền kinh tế đòi hỏi tinh thần kỷ luật rất cao và thái độ rất nghiêm túc đối với công cụ và quy trình lao động với những máy móc, thiết bị rất tinh vi. Tiếc rằng ngay trong mặt mạnh này của chúng ta cũng lại ẩn chứa những khuyết tật không tương tác chút nào với một nền kinh tế công nghiệp hoá chứ chưa nói tới nền kinh tế tri thức. Người Việt nam ta cần cù thì cần cù thật nhưng lại thiếu đức tính tỉ mỉ. Khác với người Nhật vốn cũng nổi tiếng cần cù lại thường rất cẩn trọng trong khâu chuẩn bị công việc, làm cái gì cũng tính toán chi ly từ đầu, người Việt Nam ta thường dựa vào tính tháo vát của mình, hành động theo phương châm “nước đến chân hãy nhảy”, “liệu cơm gắp mắm”. Do còn chịu ảnh hưởng nặng nề của phương thức sản xuất nhỏ và cách sống ở nơi thôn dã vốn thoải mái và thanh thản nên người Việt Nam chưa có được thói quen tôn trọng những quy định nghiêm ngặt của công việc là cường độ khẩn trương. Ngay bản tính “sáng tạo’ một phần nào đó cũng có mặt trái ở chỗ ta hay loay hoay “cải tiến”, làm tắt, không coi trọng nghiêm ngặt quy trình công nghệ. Trong một xã hội công nghiệp và “hậu công nghiệp” những khuyết tật ấy sẽ là những vật cản ghê gớm.
Trong một “thế giới mạng", ở đó hàng triệu người trên phạm vi toàn cầu gắn kết với nhau trong một mạng Internet thì tính cộng đồng là một đòi hỏi không thể thiếu được. Nhân dân ta có truyền thống lâu đời đùm bọc, đoàn kết với nhau theo phương châm “nhiễu điều phủ lấy giá gương”. Bản sắc này thể hiện mạnh mẽ nhất trong cảnh đất nước lâm nguy, ngoại bang đe doạ. Nhưng tiếc rằng phẩm chất cao quý ấy thường lại không đậm nét trong việc làm ăn, có thể do ảnh hưởng của phương thức sản xuất nhỏ, tính đố kỵ vốn có của lối sống theo thứ bậc không phải theo năng lực và lối nghĩ “trâu buộc ghét trâu ăn” đối với người hơn mình ở làng quê thời phong kiến. Ta có thể quan sát thấy điều đó ngay trong cả những việc nhỏ nhặt: ví dụ vào thăm bảo tàng thì người Nhật túm tụm vào với nhau chăm chú nghe thuyết minh, còn người Việt Nam ta lại lập tức tản ra xem những thứ mình thích; người Hoa ở nước ngoài thường cưu mang nhau, song người Việt lại thường đố kỵ nhau.
Bước vào thế kỷ mới, nước ta sẽ hội nhập ngày càng sâu vào nền kinh tế thế giới. Bản tính thích ứng nhanh sẽ giúp dân ta tận dụng những cơ hội, ứng phó với thách thức do tiến trình hội nhập đem lại. Nhưng thái độ kỳ thị đối với sự kinh doanh, thói quen ảnh hưởng sự bao cấp, nếp nghĩ sùng ngoại hoặc bài ngoại quá mức đều sẽ cản trở sự phát triển của đất nước. Thói quen ở không ít người thích tỏ ra “khôn vặt”,”bóc ngắn cắn dài”, không coi trọng chữ “tín” sẽ gây tác hại khôn lường trong quá trình kinh doanh và hội nhập.
Bước vào thế kỷ mới, muốn “sánh vai các cường quốc năm châu” thì chúng ta sẽ phải lấp đầy hành trang bằng những điểm mạnh, vứt bỏ những điểm yếu. Muốn vậy thì khâu đầu tiên, có ý nghĩa quyết định là hãy làm cho lớp trẻ – những người chủ thực sự của đất nước trong thế kỷ tới – nhận ra điều đó, quen dần với những thói quen tốt đẹp ngay từ những việc nhỏ nhất.
Cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc sảo, mang tính tranh biện đầy sức thuyết phục. Những câu tục ngữ, câu ca dao được tác giả vận dụng tạo nên một lối nói dung dị, đậm đà, gợi cho người đọc bao liên tưởng thú vị. Bài văn của Vũ Khoan đã giúp ta một cái nhìn sáng suốt về nhân dân ta, về bản thân mỗi chúng ta. Thế kỉ mới là thế kỉ hi vọng và bừng sáng đối với đất nước và con người Việt Nam.
Phó Thủ tướng Vũ Khoan rất quan tâm đến thế hệ trẻ Việt Nam vì ông hiểu rõ rằng chính thế hệ này quyết định tương lai của đất nước. Trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển mạnh mẽ như hiện nay thì muốn đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội, con người cần phải có một khả năng tương đối toàn diện.
Sau những nghiên cứu và khảo sát nghiêm túc, kĩ càng về con người Việt Nam, Phó Thủ tướng đã thẳng thắn và chân thành nhận xét trong bài viết Chuẩn bị hành trang vào thế kỉ mới đăng trong tạp chí Tia sáng số Xuân 2001: Cái mạnh của con người Việt Nam chúng ta là sự thông minh và nhạy bén với cái mới… Nhưng bên cạnh cái mạnh đó còn tồn tại không ít cái yếu. Ấy là những lỗ hổng về kiến thức cơ bản do thiên hướng chạy theo những môn học “thời thượng”, nhất là khả năng thực hành và sáng tạo bị hạn chế do lối học chay, học vẹt nặng nề…
Nhận xét trên rất chính xác. Sự thông minh, nhanh nhạy là mặt mạnh không thể phủ nhận trong tố chất của con người Việt Nam. Nhờ vậy, dân tộc ta mới có thể tồn tại và phát triển qua bốn ngàn năm lịch sử đầy thăng trầm, biến động bởi thù trong, giặc ngoài; mới vượt qua được bao thử thách nghiệt ngã, vận nước ngàn cân treo sợi tóc. Nhiều tấm gương thành đạt của người Việt Nam ở trong nước và nước ngoài đã chứng minh hùng hồn điều đó. Nhưng cũng giống như các dân tộc khác trên thế giới, dân tộc Việt Nam bên cạnh những mặt mạnh còn có không ít mặt yếu. Nhận thức đúng đắn về mặt mạnh, đặc biệt là dám nhìn thẳng vào mặt yếu kém của mình là điều hết sức cần thiết để một dân tộc, một đất nước tiến lên phía trước.
Hiện nay, dân tộc ta đang đứng trước những cơ hội mới của xu thế hội nhập toàn cầu. Để đạt được mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá và xây dựng một đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng văn minh vào năm 2020 thì ngay từ bây giờ, chúng ta phải đặt yếu tố con người lên hàng đầu. Thế hệ trẻ Việt Nam phải dứt khoát từ bỏ những thói quen và tác phong học tập, làm việc cũ kỹ, lạc hậu; phải tiếp thu và rèn luyện cho mình những thói quen tốt, phù hợp với cuộc sống hiện đại.
Do chịu ảnh hưởng nặng nề của nền kinh tế tiểu nông và hậu quả của các cuộc chiến tranh chống xâm lược kéo dài nên phương pháp giáo dục ở nước ta còn nhiều hạn chế. Học sinh hiện nay thường học lệch, chú trọng nhiều về các môn tự nhiên mà không quan tâm học các môn xã hội như Văn, Sử, Địa. Việc học chay, học vẹt là phổ biến. Vì cơ sở vật chất thiếu thốn nên rất ít trường có được những phòng thí nghiệm đúng quy định. Các môn khoa học tự nhiên như Lý, Hóa, Sinh… phần lớn giáo viên chỉ dạy lý thuyết, có cho học sinh thực hành thì cũng chỉ dừng lại ở những thí nghiệm đơn giản mà thôi. Cho nên kĩ năng thực hành, kĩ năng nghiên cứu khoa học của học sinh hầu như rất yếu.
Một điều cần phải nhắc đến là việc tự học của học sinh hiện nay chưa đạt tới mức độ tự giác và thường xuyên. Nhiều người không hiểu rằng trong quá trình học tập thì số lượng kiến thức tiếp thu được từ nhà trường chỉ là sơ đẳng, ít ỏi; còn số lượng kiến thức tiếp thu từ việc tự học qua sách vở và cuộc sống mới là vô hạn. Cho nên họ chưa tạo cho mình thói quen đọc sách – một thói quen tốt vô cùng cần thiết và quan trọng. Chăm đọc sách, đọc sách có mục đích, có định hướng sẽ giúp chúng ta không ngừng nâng cao trình độ hiểu biết, làm giàu kho tàng kiến thức, để từ đó có khả năng ứng xử và làm việc tốt hơn.
Phương pháp giáo dục khoa học và chất lượng cao của các nước tiên tiến trên thế giới cần phải được học tập và vận dụng từng bước vào nền giáo dục ở Việt Nam để rút ngắn dần khoảng cách giữa ta và họ. Người Việt Nam đã có ưu thế là tố chất thông minh, nhanh nhạy trước cái mới, cái tiến bộ thì vấn đề này chắc chắn sẽ làm được. Những chủ nhân tương lai hứa hẹn sẽ có đủ tài năng gánh vác trọng trách xây dựng đất nước giàu mạnh.
Muốn ngẩng cao đầu tự tin vững bước, mỗi chúng ta cần phải nhìn nhận và tự đánh giá bản thân một cách nghiêm túc để thấy rõ đâu là mặt yếu cần khắc phục, đâu là mặt mạnh cần phát huy. Tránh tư tưởng chạy theo cốc môn học có tính “thời thượng” như học Tiếng Anh, học vi tính nhưng không phù hợp với khả năng của mình, không theo học đến nơi đến chốn để rồi suốt đời ân hận vì đã bỏ phí thời gian cùng tiền bạc mà chẳng đem lại bao nhiêu lợi ích cho cá nhân và xã hội.
Qua tác phẩm này có thể thấy rõ được những yêu cầu bức thiết cho dân tộc mình trước khi bước vào một công cuộc đổi mới hội nhập. Những điểm yếu vẫn còn rất nhiều vì thế cho nên muốn hội nhập tốt thì chúng ta cần phải khắc phục những điểm yếu đó.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Vũ Khoan (sinh năm 1937)
- Quê quán: huyện Phú Xuyên, Hà Tây (nay thuộc thành phố Hà Nội)
- Cuộc đời và sự nghiệp:
+ Vũ Khoan được biết đến là một nhà chính trị và ngoại giao xuất sắc của Việt Nam
+ Ông từng bắt đầu công việc ngoại giao cho quốc gia từ 1956 với công việc phiên dịch
+ Năm 1990, ông làm Thứ trưởng Bộ ngoại giao
+ Từ 28 tháng 1 năm 2000 đến ngày 8 tháng 8 năm 2002 ông làm Bộ trưởng Bộ Thương mại
+ Ông là Phó Thủ tướng phụ trách kinh tế đối ngoại Việt Nam từ tháng 8 năm 2002 đến cuối tháng 6 năm 2006
+ Với rất nhiều những đóng góp của mình cho nền ngoại giao quốc gia, ông được Nhà nước trao tặng Huân chương Độc lập hạng Nhất, hai Huân chương Lao động hạng Nhì
1. Hoàn cảnh sáng tác
- Bài viết này đăng trên tạp chí Tia sáng năm 2001, in trong tập Một góc nhìn của trí thức, NXB Trẻ, Thành phố HCM, 2002
2. Bố cục văn bản:
- Phần 1 từ đầu đến “thiên niên kỷ mới”: Sự chuẩn bị bản thân con người là sự chuẩn bị quan trọng nhất trong hành trang bước vào thế kỉ mới
- Phần 2: tiếp theo cho đến “kinh doanh và hội nhập”: Tình hình thế giới và những nhiệm vụ của đất nước
- Phần 3: tiếp theo cho đến hết. Những điểm manh, điểm yếu của con người Việt Nam và nhiệm vụ của con người khi bước vào thế kỉ mới
3. Giá trị nội dung
- Tac phẩm đã nêu ra bình luận cụ thể về những điểm mạnh, điểm yếu trong tính cách và thói quen của người Việt Nam, từ đó, đưa ra những yêu cầu, đòi hỏi con người Việt Nam phải khắc phục điểm yếu để bước vào thế kỉ mới
4. Giá trị nghệ thuật
- Bài viết đặt ra vấn đề nóng hổi, cấp thiết với cách nhìn nhận khách quan kết hợp với lí lẽ lập luận giản dị, chặt chẽ và thái độ tôn trọng đối tượng, tinh thần trách nhiệm của tác giả. Việc sử dụng ngôn ngữ báo chí gắn với ngôn ngữ sinh hoạt đời thường, cách nói giản dị, dễ hiểu, sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ sinh động, cụ thể và hàm súc cũng là những nét tiêu biểu về nghệ thuật của tác phẩm