Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 9 bài văn mẫu êu suy nghĩ của em về Bác Hồ, vị lãnh tụ của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới hay nhất, gồm có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 29 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi môn văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
SUY NGHĨ CỦA EM VỀ BÁC HỒ
Video bài văn mẫu Suy nghĩ của em về Bác Hồ
Suy nghĩ của em về Bác Hồ – mẫu 1
“ Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Hồ Chí Minh là vị lãnh tụ vị đại, người cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Người là biểu tượng là trái tim linh hồn của mảnh đất phương Nam yêu dấu này. Cả cuộc đời này Người đã cống hiến hết mình cho đất nước trở thành lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, doanh nhân văn hóa thế giới.
Hồ Chí Minh con người vĩ đại, lãnh tụ của một dân tộc. Ở Người có sự kết tinh của tất cả những gì tinh túy nhất. Người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho đất nước. Vốn sinh ra trong một gia đình nhà Nho yêu nước nên Người đã có cho mình tình yêu nước nồng nàn, ý thức dân tộc. Năm 1911, tại bến cảng nhà Rồng, chàng trai trẻ 21 tuổi, với đôi bàn tay trắng đã ra đi tìm đường cứu nước. Ba mươi năm bôn ba xứ người, Người vừa làm tất cả những công việc nặng nhọc vừa học hỏi, tìm ra lối đi đúng đắn nào cho cả một dân tộc, dẫn dắt cả một dân tôc, đưa đất nước ta đi đến bến bờ độc lập. Với lý tưởng Cách mạng của Người, không ngại nguy hiểm khó khăn, không quản con đường phía trước có nguy nan như thế nào, Người vẫn không từ bỏ, cùng nhân dân ta kháng chiến chống Mĩ chống Pháp thành công. Tài mưu lược quân sự cùa Người thể hiện rõ qua những chiến thắng vẻ vang của dân tôc, đã được lịch sử chứng minh. Người chính là người anh hùng giải phóng dân tộc, là ánh sáng của dân ta trong suốt những tháng ngày đen tối cùng cực trong cuộc đời mỗi con người trên mảnh đất nơi đây. Sự vĩ đại của Người còn thể hiện ở sự bình dị trong cuộc sống, cách ứng xử, tình cảm của Người dành cho con dân đất Việt. Người luôn quan tâm đến mọi người, từ trẻ nhỏ, thanh thiếu niên đến người già. Bác luôn để lại ấn tượng đẹp trong tim mỗi người mà Bác gặp vì vẻ giản dị, mộc mạc vô cùng thuần khiết của Bác. Trong từng lời nói của Bác đều ẩn chứa những luân lý đạo đức nhưng không khô khan mà nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ dàng đi vào lòng người.
Cách sống của Bác cũng bình dị, mộc mạc bên cạnh mục đích sống của Bác là hết lòng vì nước vì dân. Người từng nói: “Suốt đời tôi có một ham muốn tột bậc, ham muốn tột bậc của tôi là đất nước ta được độc lập dân ta được tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc”. Bác quan tâm đến cuộc sống mỗi ngày của mọi người dân, săn sóc lo toan như chăm lo cho chính đứa con của mình. Đau từng khúc ruột khi đồng bào ta lầm than đói khổ, sống tiết kiệm giản dị như bao người dân chân chất nơi thôn quê. Hình ảnh Người với chiếc áo kaki màu bạc, đôi dép cao su, chòm râu bạc của Người. Lời thủ thỉ quan tâm chăm lo của người in đậm trong tim mỗi con dân đất Việt:
“Bác ơi tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông mọi kiếp người"
(Tố Hữu )
Không những là một lãnh tụ tài ba, nhà quân sự chiến lược, Người còn là một nghệ sĩ, một nhà thơ, một danh nhân văn hóa thế giới. Cuộc đời Người không chỉ là cuộc đời của một chiến sĩ mà còn là một thi sĩ. Với bài báo “ Những Người cùng khổ” như một ngòi nổ, vạch trần bộ mặt giả dối, tội ác của thực dân Pháp lúc bấy giờ. Người còn là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam với những tập thơ “ Nhật ký trong tù”,” Cảnh khuya”,” Đi thuyền sông Đáy”,…với hai bản luận cương chính trị nổi tiếng là” Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” và “Bản tuyên ngôn độc lập”. Bác Hồ đã từng đi khắp các châu lục trên thế giới, thông thạo nhiều thứ tiếng, am hiểu nền văn hoá của nhiều dân tộc chính vì thế Người có cho mình một phong cách riêng, kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại,thanh cao và giản dị,giữa tinh hoa văn hoá nhân loại và tinh hoa văn hoá Việt Nam . Chất thi sĩ cùng chiến sĩ hòa cùng làm nên một cốt cách Hồ Chí Minh, để lại cho thế hệ trẻ những di sản thơ ca vô cùng giá trị. Học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh luôn được thế hệ trẻ chúng ta noi theo và học tập. Đó là kim chỉ nam vô cùng cần thiết trong cuộc sống của những người trẻ tuổi như học sinh chúng em. “Học tập tốt, lao động tốt”, “Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”, … là những lời dạy mà chúng em không thể nào quên được. Càng được học, càng tìm hiểu về Bác Hồ, em thấy càng tự hào vì nước Việt Nam của chúng ta nhỏ bé nhưng lại sinh ra những danh nhân không hề bé nhỏ.
Hồ Chí Minh là người chiến sĩ cộng sản kiên trung, là người con anh hùng của đất nước Việt Nam, đồng thời là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Bác là ánh sáng của lý tưởng và niềm tin trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Bác đã đi xa nhưng sao dường như vẫn đang dõi theo từng bước tiến của dân tộc. Và Bác Hồ của chúng ta sẽ sống mãi cùng non sông đất nước.
1. Mở bài:
- Giới thiệu sơ qua về Hồ Chí Minh
- Khẳng định Người là một lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
2. Thân bài:
- Người có tình yêu nước nồng nàn.
- Ba mươi năm bôn ba xứ người, Người vừa làm tất cả những công việc nặng nhọc vừa học hỏi , tìm ra con đường Cách mạng, lối đi đúng đắn cho cả một dân tộc
- Lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống Pháp Mĩ thành công, xây dựng lại đất nước theo con đường mới
- Người đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình đối với nhân dân,với đất nước.
- Người luôn quan tâm đến mọi người, từ trẻ nhỏ, thanh thiến niên đến người già
- Vẻ giản dị, mộc mạc vô cùng thuần khiết của Bác
- Cách sống của Bác cũng bình dị, mộc mạc như mục đích sống của Bác là hết lòng vì nước vì dân
- Người còn là một nghệ sĩ, một nhà thơ, một danh nhân văn hóa thế giới: Với bài báo “ Những Người cùng khổ” như một ngòi nổ, vạch trần bộ mặt giả dối, tội ác của thực dân Pháp lúc bấy giờ.
- Người còn là nhà văn ,nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam với những tập thơ “ Nhật ký trong tù”,” Cảnh khuya”,” Đi thuyền sông Đáy”,…với hai bản luận cương chính trị nổi tiếng là “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến” và “Bản tuyên ngôn độc lập”
- Yêu mến, khâm phục và biết ơn sâu sắc
- Bác được tôn vinh là lãnh tụ cách mạng kiệt xuất, chiến sĩ hòa bình, danh nhân văn hóa thế giới.
- Bác sống mãi với đất nước và dân tộc.
- Thế hệ trẻ ngày nay cần cố gắng học tập và phát huy tài năng của mình cho đất nước để không phụ kì vọng của Người và cũng là cách thể hiện lòng biết ơn đối với những người đã ngã xuống để giành lấy độc lập cho chúng ta
3. Kết bài:
- Khẳng định và bộc lộ cảm xúc của bản thân
- Bác mãi là vị lãnh tụ đáng kính trong lòng triệu triệu người Việt
Các bài mẫu khác
Trong hành trình gian nan và vô tận, con người luôn tìm kiếm những hình mẫu có thật trong cuộc sống để tôn vinh và noi theo với mong muốn trở nên hoàn thiện hơn. Một trong những hình mẫu lý tưởng ấy là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Bác là vị lãnh tụ vĩ đại của cách mạng Việt Nam, là người anh hùng giải phóng dân tộc, và đồng thời là một danh nhân văn hóa thế giới.
Nếu Lê-nin là niềm tự hào của nước Nga, Phi-đen Cax-trô là “vì sao” của nhân dân Cuba, thì Bác Hồ chính là người anh hùng vĩ đại trong lòng người dân Việt Nam. Bác đã soi sáng con đường thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Làm thế nào người con bé nhỏ của xứ Nghệ có thể thực hiện được điều lớn lao ấy? Trước Bác cũng có rất nhiều người đi khắp thế giới, nhưng là đi thám hiểm, đi buôn, đi truyền đạo,… Người đi khắp thế giới để cứu dân tộc mình thì chỉ có một. Đó chính là Bác Hồ kính yêu của chúng ta. Đi đến đâu, Bác cũng để lại biểu tượng đẹp về lòng yêu nước. Bác lên tàu tìm đường cứu nước khi còn trẻ, nhưng lúc trở về, mái tóc Bác đã điểm bạc. Bác không tiếc cống hiến trọn tuổi thanh xuân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bác đã mang lại cuộc sống ấm no hằng mơ ước cho nhân dân Việt Nam. Tất cả những gì Bác đã làm, từ bé nhỏ đến lớn lao, đều xuất phát từ lòng yêu nước chân thành và mãnh liệt. Chính lòng yêu nước ấy đã tạo nên Bác Hồ, người anh hùng dân tộc của chúng ta ngày hôm nay.
Dưới sự lãnh đạo tài tình của Bác, quân dân ta đã anh dũng đứng lên chống lại kẻ thù xâm lược với một niềm tin tưởng tuyệt đối về ngày toàn thắng. Thế nhưng, Bác không chỉ cứng rắn trong hoạt động quân sự mà còn rất lãng mạn trong lĩnh vực văn học. Thơ của Bác không thật nhiều nhưng rất cô đọng và súc tích. Từng câu từng chữ đều thể hiện sự kiên định, niềm lạc quan, tin tưởng vào thắng lợi của cuộc cách mạng dân tộc dù lúc ấy Bác đang trong cảnh ngục tù hay đang sống giữa muôn vàn gian khổ. Một vị danh nhân đã từng nói: “Nói đến văn học Việt Nam thì trước hết cần hiểu về Bác, hiểu con người văn hóa Hồ Chí Minh”. Quả thật như thế, Bác đã hòa trộn tinh hoa văn hóa nhân loại với gốc rễ văn hóa Việt Nam, tạo nên một đặc trưng văn hóa rất riêng ở Bác. Tất cả những điều trên đã thuyết phục UNESCO quyết định trao tặng Bác danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới.
Không chỉ có tài năng, Bác còn là một tấm gương đạo đức sáng ngời. Biết bao người chiến sĩ cộng sản từng sống và làm việc với Bác thường không khỏi xúc động khi hồi tưởng lại những ký ức ấy. Bác luôn để lại ấn tượng đẹp trong tim mỗi người mà Bác gặp vì vẻ giản dị, mộc mạc vô cùng thuần khiết của Bác. Trong từng lời nói của Bác đều ẩn chứa những luân lý đạo đức nhưng không khô khan mà nhẹ nhàng, sâu lắng, dễ dàng đi vào lòng người. Cách sống của Bác cũng bình dị, mộc mạc như mục đích sống của Bác là hết lòng vì nước vì dân. Bác không có dinh thự như bao vua chúa khác mà ở trong ngôi nhà sàn đơn sơ để có thể hòa mình với thiên nhiên. Tư trang của Bác cũng ít ỏi, chỉ là hai bộ quần áo Bác thường mặc với vài kỷ vật sau những chuyến bôn ba nước ngoài. Là một vị lãnh tụ vĩ đại nhưng Bác lại bình dị và mộc mạc thế đấy. Mỗi mẩu chuyện về Bác là một bài học đạo đức nhẹ nhàng, thấm thía.
Ngày nay, thế hệ trẻ luôn được khuyến khích làm việc và học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh. Đó là kim chỉ nam vô cùng cần thiết trong cuộc sống của những người trẻ tuổi như học sinh chúng em. “Học tập tốt, lao động tốt”, “khiêm tốn, thật thà, dũng cảm”, … là những lời dạy mà chúng em không thể nào quên được. Càng được học, càng tìm hiểu về Bác Hồ, em thấy càng tự hào vì nước Việt Nam của chúng ta nhỏ bé nhưng lại sinh ra những danh nhân không hề bé nhỏ. Hồ Chí Minh là người chiến sĩ cộng sản kiên trung, là người con anh hùng của đất nước Việt Nam, đồng thời là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
Có một con người mà khi nhắc đến tên, những người Việt Nam đều vô cùng kính yêu và ngưỡng mộ, đó là Hồ Chí Minh: vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới.
Trước hết ta thấy Bác Hồ là vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam. Bác là người chiến sỹ tiên phong trên mặt trận cứu nước đầy gian khổ, lãnh đạo dân ta tới chiến thắng, khai sáng nền độc lập tự do ở đất nước Việt Nam. Người bôn ba khắp năm châu bốn bể tìm đường đi và tương lai cho đất nước, giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Người đã dẫn dắt dân tộc ta thoát khỏi đói nghèo, đi lên xây dựng chế độ xã hội tốt đẹp. Tư tưởng của Người có giá trị vô cùng to lớn đối với Cách mạng Việt Nam, nhân dân Việt Nam. Người đã hy sinh cả cuộc đời vì nền độc lập tự do của dân tộc, Người yêu nước thương dân sâu sắc, bởi vậy triệu triệu người dân Việt Nam đều là con cháu của Người. Ở cương vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và nhà nước nhưng cách đối xử của Bác đối với cá nhân từng người vô cùng thân mật và gần gũi. Chưa bao giờ trong lịch sử dân tộc Việt Nam lại có một vị lãnh tụ giản dị và gần gũi với mọi người như thế: Sống trong ngôi nhà sàn nhỏ, ăn những món ăn dân dã, mặc áo bà ba nâu và tư trang chỉ là một chiếc rương nhỏ và mấy bộ quần áo bạc màu... Có lẽ bởi vậy mà với người Việt Nam, Bác Hồ không chỉ là anh hùng giải phóng dân tộc mà còn là vị lãnh tụ vĩ đại được mọi người dân Việt Nam kính yêu và ngưỡng vọng.
Bác Hồ còn được biết đến ở cương vị một danh nhân văn hoá thế giới. Bác đã từng là chủ bút tờ báo "Người cùng khổ" ở Pháp, đã từng viết "Bản án chế độ thực dân Pháp" gây tiếng vang lớn. Người còn là nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam với những tập truyện kí bằng tiếng Pháp, "Tuyên ngôn độc lập" và "Nhật ký trong tù" cùng rất nhiều những vần thơ khác nữa... Bác Hồ đã từng đi khắp các châu lục trên thế giới, thông thạo nhiều thứ tiếng, am hiểu nền văn hoá của nhiều dân tộc. Bác đã rèn giũa và tạo dựng cho mình một phong cách riêng, kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, thanh cao và giản dị, giữa tinh hoa văn hoá nhân loại và tinh hoa văn hoá Việt Nam.
Mặc dù Bác đã đi xa nhưng trong lòng mọi người dân Việt Nam Bác vẫn là người đẹp nhất.Càng tìm hiểu về cuộc đời vĩ đại và cao đẹp của Bác, em càng kính yêu và tự hào về Bác hơn. Điều đó khơi dậy trong em mong muốn học tập, phấn đấu, tu dưỡng và rèn luyện để trở thành con người có ích cho xã hội.
“Trong vai trò một người lãnh tụ người đã dẫn dân tộc Việt Nam ra khỏi đêm tối nô lệ. Người lên đường bôn ba khắp năm châu để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc ta.” - Chủ tịch Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ, một nhà cách mạng đại tài, người con là nhà thơ nhà danh nhân văn hóa thế giới. Trong cuộc đời người đã để lại cho đất nước con người Việt Nam rất nhiều truyền thống quý báu.
Đất nước chúng ta luôn tự hào về người, bởi người chính là sự kết tinh của vì sao tinh tú nhất. Người là ánh sáng, là niềm tin cho muôn dân soi vào. Ở bất kỳ vai trò nào người cũng hoàn thành vai trò, nhiệm vụ của mình một cách xuất sắc.
Trong vai trò một người lãnh tụ người đã dẫn dân tộc Việt Nam ra khỏi đêm tối nô lệ. Người lên đường bôn ba khắp năm châu để tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc ta. Đó chính là con đường cách mạng theo đường lối Mác – LêNin. Nhờ con đường mà người tìm thấy mà dân ta thoát khỏi kiếp tối tăm. Tổ quốc ta trở thành nước độc lập, người dân của ta ai cũng có cơm ăn, ai cũng có áo mặc, ai cũng được học hành. Với cương vị một người cha già dân tộc người đã chăm lo, quan tâm tới đời sống của tất cả người dân. Bác đã lo lắng cho từng người già, trẻ nhỏ, từng người chiến sĩ. Biết bao nhiêu đêm Bác thức trắng, trằn trọc không ngủ khi lo lắng cho những người dân cho, số phận của dân tộc mình Trong vai trò một nhà văn, nhà thơ một danh nhân văn hóa Bác Hồ cũng đã để lại nhiều tác phẩm hay, gây được tiếng vang lớn như tập thơ “Nhật ký trong tù”, Cảnh khuya, hay “Bản tuyên ngôn độc lập”…những tác phẩm của Bác không chỉ hay về mặt nghệ thuật mà nó có tác động sâu sắc tới tinh thần yêu nước, tinh thần cách mạng của quần chúng nhân dân. Nó còn là thanh gươm sắc bén nhằm thẳng vào những kẻ xâm lược, gây ra cuộc chiến tranh phi nghĩa, bất lương. Ở cuộc sống hàng ngày, Bác là người vô cùng giản dị, nếp sống mộc mạc, chân thành, tiết kiệm của Bác là tấm gương sáng cho thế hệ chúng ta hôm nay phải noi theo. Mỗi bữa cơm của người chỉ vài miếng cá kho, rau luộc, tương cà. Người bảo đất nước ta còn nghèo phải tiết kiệm vì miền Nam thân yêu còn chưa được giải phóng. Bác chăn nuôi ao cá, tự trồng rau, nuôi gà…để tạo ra những thực phẩm thiết yếu phục vụ cho mình.
Bác hy sinh rất nhiều, cống hiến rất nhiều nhưng chưa bao giờ người tư lợi một điều gì cho riêng mình. Người sống an nhiên, ra đi thanh thản. Cái người băn khoăn mãi trước lúc lâm chung đó chính là việc quê hương miền Nam của chúng ta vẫn chưa hoàn toàn giải phóng.
Trong bản Di chúc trước lúc ra đi người đã viết lại rằng “Tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng…” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra đi nhưng những tư tưởng chân lý của người vẫn còn sáng mãi. Các thế hệ nối tiếp người sẽ luôn phải phát huy và làm theo những lời người đã khuyên nhủ, dạy dỗ.
"Bác ngồi đó, chiếc áo nâu giản dị
Màu quê hương bền bỉ, đậm đà"
Mỗi người con đất việt, yêu quê hương, yêu Tổ Quốc, mỗi lần ngắm nhìn bóng hình đất nước đều thấy dáng hình vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta - chủ tịch Hồ Chí Minh
Năm 1911 nơi cảng Nhà Rồng người đã ra đi tìm đường cứu nước, bôn ba 30 năm trời mới quay lại đất mẹ yêu thương. Từ ấy, người cùng nhân dân làm cách mạng, dẫn dắt cả dân tộc tìm đến với con đường tự do. Cả cuộc đời người vì dân vì nước, ngay cả đến lúc ra đi vẫn không ngôn nguôi niềm lo lắng
Yêu nước như Bác, được mấy người? Từ mùa hoa năm ấy người từ biệt quê hương, rũ bỏ đằng sau mọi những tình cảm cá nhân, từ bỏ gia đình, từ bỏ bạn bè, từ bỏ người yêu cất bước ra đi. Tình yêu nước đã rộng lớn bao trùm lên mọi tình yêu cá nhân riêng tư. Và tình yêu ấy lớn đến nỗi trở thành động lực khiến bác không bỏ cuộc trong những ngày làm thuê, học thêm vất vả, những giwof tăng ca, những ngày cơm đói, dù làm nghề gì, dù khó khăn đến đâu vẫn cần mẫn làm, cần mẫn học. Vì Bác biết chỉ có nỗ lực hết sức mới có thể tìm được con đường giải phóng dân tộc. Ngày trở về, Bác đã cúi xuống hôn đất mẹ yêu thương, rồi từ đây đánh dấu quãng đời làm cách mạng. Một đất nước đi ra từ đói nghèo, lạc hậu, để làm được cạc mạng khó khăn đến đâu. Người vẫn không hề bỏ cuộc, kiên nhẫn, trường kì dẫn dắt nhân dân đi qua bao mùa chiến dịch. Bác dạy "trường kỳ kháng chiến, nhất định thắng lợi". Yêu quê hương nâng lên thành yêu con người quê hương chân chất, thật thà, yêu thiên nhiên quê hương rừng vàng biển bạc. Nhà thơ Tố Hữu đã nhận xét bằng một câu "nâng niu tất cả chỉ quên mình". Người lo cho các cụ già như mẹ cha của mình, quan tâm các chú, các bác như anh em của mình, chăm chút cho các cháu nhi đồng như các con của mình. Vậy nên, mãi mãi:
Người là cha, là bác, là anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ
Mãi mãi trong lồng ngực mỗi người con xứ An Nam, một quả tim lớn mang dáng hình người lặng thầm từng ngày, từng tháng bên bàn làm việc với cây chì đỏ "vạch đường đi từng bước từng giờ". Cả cuộc đời người chưa một giây ngơi nghỉ. Đến lúc mất người vẫn nặng lòng với miền Nam. Bác hỏi cô du kích miền Nam "Trong ấy bây giờ thế nào rồi", Bác khuyến khích các cô các chú dũng cảm đánh giặc đừng lo cho Bác, mặc dù lúc ấy Bác đã yếu lắm rồi. Ngày Người ra đi, toàn dân Việt nam khóc, dân quốc tế cũng khóc, trời cũng khóc. Người không ra đi, người chỉ hóa thân vào đất nước, cùng anh em chiến đấu trong tinh thần.
Với một tầm vóc vĩ đại, dưới cương vị chủ tịch nước như Hồ Chí Minh sống thật giản dị. Ngôi nhà sàn, vài khóm dâm bụt, và cây vạn tuế,... như sống giữa thuần hậu quê hương. Hàng ngày bữa cơm canh rau đạm bạc. Bác không sống theo lối nhà tu hành mộ đạo khắc khổ. Người chỉ sống cho hợp với hoàn cảnh, với tinh thần của sự phát triển đất nước.
Trái tim của người, sự uyên bác của người, tình yêu của người, phẩm chất của người đã tạo nên một bức tượng đài vĩ đại có lẽ không chỉ trong lòng những người dân Việt Nam mà còn trong cả trái tim những người dân quốc tế chuộng hòa bình. Người ra đi nhưng còn mãi trong tim ta những lời người đã dạy:
"Các vua Hùng đã có công dựng nước, bác cháu ta phải giữ lấy nước"
Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" trong toàn Đảng và trong toàn xã hội đang được triển khai. Tấm gương đạo đức theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã được nêu là: trung với nước, hiếu với dân; yêu thương con người, sống có nghĩa có tình; cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; tinh thần quốc tế trong sáng.
Suy nghĩ về các cấp độ đạo đức, thì Bác Hồ chúng ta là tấm gương sáng tuyệt đẹp về cả bốn cấp độ:
Một là đạo đức làm người về cần, kiệm, liêm, chính; chí công vô tư.
Hai là đạo đức cách mạng của giai cấp công nhân về ý thức tổ chức và kỷ luật, ý thức tập thể, đặt cái "tôi" trong "chúng ta".
Ba là đạo đức người chiến sĩ cộng sản, sống phấn đấu cho lý tưởng Chủ nghĩa Cộng sản, triệt để giải phóng con người, có ý thức trách nhiệm trong vai trò tiên phong, gương mẫu lôi cuốn quần chúng theo Đảng, bền chí tự học, đóng góp cho Đảng "cái đầu lạnh" với "trái tim nóng".
Bốn là đạo đức của vị lãnh tụ của một Đảng Cộng sản cầm quyền, có uy tín lớn được cả dân tộc tin yêu nhưng luôn giữ đức khiêm tốn, sống giản dị, chống mọi đặc quyền đặc lợi, không thích được tâng bốc, sùng bái cá nhân, đề xướng nguyên tắc tổ chức Đảng là dân chủ tập trung, coi người lãnh tụ là nhân vật trung tâm đứng cùng hàng để lôi cuốn toàn Ban Chấp hành Trung ương Đảng, lôi cuốn toàn Đảng, toàn dân làm cách mạng theo hình vòng xoáy.
Không muốn lãnh tụ tự coi mình là người đứng ở đỉnh chóp của Đảng, của dân tộc, công lớn nhất giành về mình với lòng ham muốn được tung hô là vĩ đại. Và chính Bác Hồ chúng ta với cái đức như vậy mới thật là vị lãnh tụ vĩ đại.
Trong bốn cấp độ về đạo đức nêu trên, Bác Hồ luôn xem đạo đức làm người là gốc, là nền tảng. Bác Hồ cho rằng trời có bốn mùa, đất có bốn phương, người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một đức không thành người. Ở trang đầu cuốn sổ vàng của Trường Nguyễn Ái Quốc, là trường Đảng ở Trung ương, nơi bồi dưỡng, đào tạo cán bộ trung, cao cấp, Bác Hồ viết: "Học để làm việc, làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại. Muốn đạt được mục đích thì phải cần, kiệm, liêm, chính; chí công vô tư".
Việc nghiên cứu lý luận Mác-Lênin để hiểu sâu thêm về đạo đức trong đó có đạo đức làm người, nhưng hiểu về lý lẽ để trả bài thì dễ còn hiểu mà làm theo được là vấn đề khó.
Tôi nhớ, ngày 15-4-2003, Báo Công an Thành phố đưa tin, có anh Đồng, tài xế tắc xi, đã tìm cách trả lại cho khách là vợ chồng người Mỹ Billy Leepol một túi xách, trong đó có 18.800 USD và 49 triệu 400 đồng Việt Nam.
Đối với người lái xe tắc xi, đó là số tiền khá lớn, nếu lấy cũng không sợ bị phát hiện, nhưng anh Đồng không tham, đã trả lại cho khách. Hỏi ra, thì đã được trả lời đơn giản rằng, không tham vì đã nhập tâm lời mẹ dặn, là phải ráng làm lấy mà ăn, đừng tham của người khác, hễ tham thì thâm thôi.
Như vậy dạy để hiểu lý lẽ về đạo làm người không khó, nhưng hiểu mà làm theo là phải nhập tâm tức là phải thấm sâu vào lòng mình, thành lương tâm của mình như anh Đồng, đối với nhiều người không phải dễ.
Phải có lương tâm làm người mới có hành vi đạo đức làm người. Chúng ta cũng biết có cán bộ gọi là cao cấp, được học khá nhiều về lý luận, về chính trị, tư tưởng, nhưng chỉ tham ăn hối lộ mấy ngàn đô la mà đang tâm làm điều phạm tội, chính là vì học nhiều nhưng chưa nhập tâm.
Để có hành vi đạo đức làm người, cần phải nhập tâm rằng, trong con người có "con" và có "người". Hành vi theo "con" là theo bản năng sống như loài động vật, hành vi theo "người" là hành vi có ý thức về làm người, tức là sống có suy nghĩ về cái vinh cái nhục, cái đúng cái sai, cái xấu cái tốt, để giữ cho cuộc sống con người có niềm vui và hạnh phúc vì đã làm được điều vinh, điều đúng, điều tốt.
Muốn phát huy được nhân tính, ngoài việc đấu tranh kiềm chế thú tính, còn phải chống chủ nghĩa cá nhân vì nó dẫn đến những hành vi sai trái với đạo đức làm người.
Tu dưỡng đạo đức làm người phải là việc tự giác của mỗi người và sự phán xét của xã hội về đạo làm người đối với mỗi con người là hoàn toàn tự do, không một quyền lực nào có thể ngăn cấm.
Tuy nhiên kiểm tra phán xét thật chính xác về đạo đức của bản thân mình chỉ có lương tâm mình. Người ta có thể tạm thời che dấu lỗi lầm của mình về đạo đức để được khen lầm, kính phục lầm đối với mình.
Nhưng, nếu có ai làm như vậy thì ngoài sai lầm về đạo đức còn mang thêm tội lừa dối. Khi lương tâm được thức tỉnh, sự ân hận sẽ tăng lên gấp bội. Ân hận là biểu hiện sự trừng phạt của lương tâm.
Nhưng nếu phạm sai lầm mà có sự ân hận sâu sắc thì có thể tránh được tái phạm. Táng tận lương tâm, làm điều giả dối, điều xấu, điều ác mà không ân hận là không còn tính người.
Giữ được trọn vẹn đạo làm người rất khó, phải tự rèn luyện thường xuyên, liên tục, đừng để khôn 50 năm mà buông lỏng tu dưỡng để dại chỉ một giờ mà hỏng cả cuộc đời.
Các biểu hiện về suy thoái đạo đức trong một bộ phận cán bộ đảng viên hiện nay đều thuộc cấp độ đạo đức làm người, tức là suy thoái từ gốc.
Người là một vị lãnh tụ, là một anh hùng, là một danh nhân nên chúng ta phải học và làm theo gương của người.
“Nếu so sánh sự nghiệp đấu tranh chống xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc kéo dài suốt ba mươi năm của dân tộc ta là một con tàu giữa đại dương đầy bão tố thì Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thuyền trưởng tài ba, sáng suốt, đã đưa con tàu vượt qua trùng trùng sóng gió, cập bến vinh quang. Bác Hồ - Người là niềm tin thiết tha nhất trong lòng dân và trong trái tim nhân loại. Suốt đời, Bác hi sinh cho độc lập, tự do…”. Trên đây là câu hát tiêu biểu trong muôn ngàn câu hát, bài thơ ca ngợi Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Đất nước Việt Nam tự hào về Bác Hồ bởi Bác chính là sự kết tinh những tinh hoa truyền thống của bản sắc dân tộc. Nhân dân ta đã thấy ở Bác Hồ con người Việt Nam đẹp nhất và nhân dân thế giới gắn liền tên nước Việt Nam với tên của Chủ tịch Hồ Chí Minh: Việt Nam - Hồ Chí Minh.
Với vai trò của một lãnh tụ cách mạng, Bác đã hoàn thành xuất sắc sứ mệnh của mình đối với dân, với nước. Bác là người sáng lập ra Đảng cộng sản Việt Nam, cùng Đảng dẫn đường chỉ lối cho dân tộc vùng lên phá bỏ xích xiềng nô lệ thực dân, phong kiến, giành quyền sống tự do. Người chiến sĩ cộng sản lão thành Nguyễn Ái Quốc đã trở thành vị Chủ tịch đầu tiên của Chính phủ lâm thời Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, có chủ quyền độc lập thiêng liêng. Nếu so sánh sự nghiệp đấu tranh chống xâm lăng, bảo vệ Tổ quốc kéo dài suốt ba mươi năm của dân tộc ta là một con tàu giữa đại dương đầy bão tố thì Chủ tịch Hồ Chí Minh là người thuyền trưởng tài ba, sáng suốt, đã đưa con tàu vượt qua trùng trùng sóng gió, cập bến vinh quang.
Chiến thắng Điện Biên Phủ tháng 5 năm 1954 và chiến thắng của chiến dịch Hồ Chí Minh ngày 30 tháng 4 năm 1975 đã tôn vinh dân tộc Việt Nam anh hùng - bất khuất, tuy nhỏ bé mà đã đánh gục hai tên thực dân, đế quốc “khổng lồ” là Pháp và Mỹ. Việt Nam đã trở thành gương sáng cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới noi theo.
Sự nghiệp cách mạng của Bác Hồ vĩ đại như non cao, biển rộng nhưng Bác lại sống một cuộc sống vô cùng giản dị và tuyệt vời trong sáng. Suốt cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân, Người dành hết cho nhân dân, cho Tổ quốc. Câu nói tâm huyết nêu rõ mục đích phấn đấu và lí tưởng cao cả của Bác Hồ đã làm rung động trái tim bao người: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là dân ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành… Mục đích ấy, lí tưởng ấy là nguồn sức mạnh vô biên, thôi thúc Bác suy nghĩ, hành động và cống hiến cuộc đời mình cho dân, cho nước”.
Nếp sống giản dị của Bác rất gần gũi với cuộc sống của nhân dân. Bữa ăn chỉ vài món cá kho, rau luộc, cà muối. Chỗ ở là căn nhà sàn bằng gỗ đơn sơ, xung quanh là vườn cây, ao cá. Quan niệm sống của Bác là: “Mình vì mọi người”, cho nên Bác lấy cống hiến làm niềm vui, làm hạnh phúc của bản thân:
Bác sống như trời đất của ta,
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa.
Tự do cho mỗi đời nô lệ,
Sữa để em thơ, lụa tặng già.
Như đỉnh non cao tự giấu hình,
Trong rừng xanh lá, ghét hư vinh.
Bác mong con cháu mau khôn lớn,
Tiếp bước cha anh, tiến kịp mình.
(Theo chân Bác, Tố Hữu)
Đức tính khiêm tốn, giản dị của Bác đã trở thành huyền thoại. Sau khi Bác mất, căn nhà sàn Bác ở mở rộng cửa đón đồng bào cả nước và bạn bè quốc tế đến thăm. Không ai là không xúc động trước những vật dụng gắn bó với Bác gần như suốt cuộc đời: chiếc máy chữ và chiếc đồng hồ cũ kỹ trên bàn làm việc, đôi dép lốp cao su mòn gót…
Giường mây, chiếu cói đơn chăn gối
Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn
Bác không bao giờ đòi hỏi điều kiện vật chất tối đa cho riêng mình. Ngược lại, Bác thanh thản, lạc quan trong cuộc sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư nhưng những gì Người để lại cho nhân dân, cho đất nước có thể sánh ngang với núi cao, biển rộng.
Nhận xét về Bác Hồ, nhà phê bình nghiên cứu văn học Quách Mạt Nhược của Trung Quốc viết: “Hồ Chí Minh là một bậc đại trí, đại nhân, đại dũng. Với trí tuệ kiệt xuất, Bác đã: Hai tay xây dựng một cơ đồ. Đó là sự nghiệp cách mạng vẻ vang, ghi dấu son trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Vì yêu nước, thương dân cơ cực, lầm than trong vòng nô lệ của thực dân, phong kiến nên Bác đã rời Tổ quốc, ra đi tìm đường cứu nước”.
Tình nhân ái bao la là cội nguồn tư tưởng, là sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của Bác trên con đường cách mạng. Từ trong sâu thẳm tâm hồn, mỗi công dân Việt Nam đều nhận thấy rằng:
Người là Cha, là Bác, là Anh.
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ
(Tố Hữu)
Trước lúc đi xa vào cõi vĩnh hằng, Bác viết trong “Di chúc”: “Tôi để lại muôn vàn tình thương yêu cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân, cho các cháu thiếu niên và nhi đồng”. Sự ra đi của Bác là một tổn thất lớn lao không gì bù đắp được. Bác đã hóa thân vào sông núi, biển trời của đất nước Việt Nam mà Người hằng yêu dấu.
Nói đến Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân thế giới yêu mến và khâm phục, còn kẻ thù cũng phải nghiêng mình kính nể bởi Bác Hồ là hiện thân sinh động nhất của truyền thống anh hùng bất khuất chống ngoại xâm. Căm thù chiến tranh, yêu mến hòa bình, nỗ lực cống hiến cho một nền hòa bình, thịnh vượng của toàn nhân loại, những điều đó đã tạo nên sức cảm hóa, thuyết phục lớn lao của Bác. Bác Hồ đã được Hội đồng hòa bình thế giới phong cho danh hiệu cao quý là “Chiến sĩ hòa bình hay Danh nhân văn hóa” của nhân loại.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đem lại vinh quang cho đất nước Việt Nam dân tộc Việt Nam. Các thế hệ tiếp nối đã đi theo con đường cách mạng đúng đắn mà Bác đã dẫn đường chỉ lối, biến khát khao cháy bỏng của Người thành hiện thực: giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, xây dựng Tổ quốc ngày càng giàu mạnh để sánh vai với các cường quốc khắp năm châu.
Dân tộc Việt Nam, một dân tộc sinh ra với rất nhiều người con yêu nước. Trong số đó, Người mà nhân dân cả nước yêu quý, kính trọng và biết ơn chính là Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Bác Hồ vị lãnh tụ vĩ đại, người anh hùng giải phóng dân tộc. Người đã ra đi tìm đường cứu nước năm 1911 người đã xuống tàu buôn của Pháp với hai bàn tay trắng làm rất nhiều việc nặng nhọc. Nhưng cũng bởi tình yêu nước, ý chí và lòng quyết tâm Bác đã không từ bỏ mà đến với nước Pháp xa xôi đã tìm đến với những con người cùng khổ tham gia Đảng cộng sản Pháp. Với người Việt Nam không ai có thể quên được hình ảnh Bác sưởi ấm dưới mùa đông giá rét bằng một viên gạch, Bác đã phải làm nghề quét tuyết vô cùng nặng nhọc. Người đã đến với nước Nga được soi sáng bởi chủ nghĩa Mác Lê-nin. Và rồi Người đưa ánh sáng Mác - Lênin đến với nước mình vào ngày 3-2-1930 thành lập Đảng cộng sản Đông Dương ở Hương Cảng Trung Quốc. Sau ba mươi năm bôn ba hải ngoại ở nước ngoài Bác đã trở về đặt chân lên quê hương, đất nước tại biên giới Cao Bằng bằng sự bồi hồi xúc động bởi đã lâu lắm rồi Bác mới cảm nhận được hương vị quê nhà, tình yêu sự tin tưởng của đồng bào dành cho Bác, dành cho Đảng. Bác đã trực tiếp lãnh đạo cách mạng toàn dân trong cuộc kháng chiến. Năm 1945, bằng tất cả sự nỗ lực, hi sinh của cả dân tộc thì nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời. Người đọc bản tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam vào ngày 2 - 9 và là chủ tịch nước đầu tiên. Lúc đó Người phải đối mặt với nhiều khó khăn nhưng vẫn phải lãnh đạo nhân dân chống ngoại xâm tiêu biểu là chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu. Với bao công lao mà Bác đã dành cho đất nước Bác xứng đáng là vị lãnh tụ vĩ đại ghi tên mình vào trang sử vàng của dân tộc.
Không những thế Bác còn là một danh nhân văn hóa được nhân dân cả thế giới kính trọng bởi tài năng hơn người của mình. Trên con đường cứu nước của mình của mình Bác đã đến rất nhiều nơi, đã học và nói được thành thạo nhiều thứ tiếng. Trên đất nước Pháp, Bác đã viết báo “ Những người khốn khổ” để tố cáo tội ác của thực dân Pháp. Năm 1942, Bác sang Trung Quốc và bị bọn Tưởng Giới Thạch bắt bị giam cầm hơn một năm trời. Trong thời gian bị giam cầm Người đã cho ra đời tập “Nhật kí trong tù” với 133 bài thơ bằng chữ Hán với nhiều đề tài khác nhau. Tác phẩm ấy đã đánh dấu khí phách kiên cường của người chiến sĩ cách mạng, một hồn thơ dạt dào cảm xúc với tình yêu thiên nhiên, yêu nước, tinh thần lạc quan. Chính tập “Nhật kí trong tù” là một thành công để Bác trở thành danh nhân văn hóa của Việt Nam và của thế giới.
Và khi trở về nước dù có bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn dành thời gian để sáng tác thơ và cho ra đời các bài thơ hay như: Cảnh khuya, Rằm tháng giêng và Tức cảnh Pác Bó…
Có thể nói rằng Người đã chọn con đường cách mạng đầy chông gai và hiểm nguy đánh đổi ba mươi năm của cuộc đời mình để cứu nước xuất phát từ tấm lòng yêu nước thương dân, chứng kiến cảnh nước mất nhà tan cuộc sống của nhân dân lầm than mà người có mong muốn đem lại cho nhân dân Việt Nam có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc. Với Bác người đã chọn mình là người chiến sĩ cách mạng mà lại không làm thơ thế nhưng người lại cho ra đời những bài thơ hay và ý nghĩa để lại cho đời. Điều đó đánh dấu ở người có một ngòi bút thơ tài hoa, một hồn thơ dạt dào cảm xúc và với Bác ngòi bút ấy đã trở thành vũ khí lợi hại, những vần thơ đã khích lệ tinh thần tiếp thêm sức mạnh ý chí, bồi đắp về tâm hồn để Người vượt qua những ngày tháng khó khăn nguy hiểm và gian lao.
Khi đất nước không còn chiến tranh cuộc sống ổn định, đất nước đang trong thời kỳ phát triển và hội nhập trên thế giới nhưng tư tưởng của Bác vẫn còn mãi vẫn soi sáng cách mạng Việt Nam. Và tuyên truyền cho mọi người phải học và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Như vậy, Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Là học sinh chúng ta phải cố gắng học tập thật tốt và làm theo năm điều Bác Hồ dạy để trở thành người công dân có ích cho xã hội.
Ai yêu nhì đồng bằng Bác Hồ Chí Minh
Ai yêu Bác Hồ Chí Minh bằng các em nhi đồng.
Đó là tình cảm của Bác dành cho trẻ em Việt Nam và cũng chính là tình cảm của trẻ em Việt Nam dành cho Bác.
“Bác Hồ Chí Minh!” Lời gọi thân thương ấy đã in đậm trong sâu thẳm tâm hồn của mỗi người dân đất Việt. Ai cũng phải thừa nhận rằng: Bác Hồ là lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Bác sinh ra trong một gia đình nhà nho yêu nước và lớn lên giữa lúc nước mất, nhà tan, dân tộc Việt Nam đang là thuộc địa của thực dân Pháp. Cảm thương nỗi thống khổ của đồng bào, Người nuôi ý chí “tìm đường cứu nước”, “giải phóng dân tộc”. Rồi hoài bão của Bác đã thực hiện: Ngày 5/6/1911, tại cảng Nhà Rồng, Bác ra đi tìm đường cứu nước. Người hy sinh thời trai trẻ để thực hiện ý chí của mình. Bác ra đi với hai bàn tay trắng, chỉ mang theo tình yêu nước và lòng nhiệt tình cách mạng. Vậy mà Người đã thực hiện được lý tưởng của mình. Bác đi nhiều nước để học tập, đúc kết kinh nghiệm. Bác sẵn sàng làm mọi việc cực nhọc để kiếm sống và thực hiện ý chí của mình. Nào là phụ bếp trên tàu, nào là cào tuyết giữa mùa đông lạnh. Thế nhưng, Người chẳng hề nao núng. Bác vẫn đi khắp nơi trên hoàn cầu để tìm con đường cứu nước, cứu dân, Sau nhiều năm bôn ba ở hải ngoại, Bác đã tìm ra con đường giải phóng dân tộc - tìm được ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Sau khi về nước, Bác đã vận dụng ánh sáng của chủ nghĩa Mác vào phong trào cách mạng Việt Nam, lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi vẻ vang. Nhờ có Bác, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời và khẳng định được quyền tự chủ của mình. Nhờ có Bác, giai cấp công nhân Việt Nam đã phất cao ngọn cờ chiến đấu, phá tan xiềng xích của thực dân Pháp để giành lại độc lập, chủ quyền của dân tộc Việt Nam.
Bác là vầng thái dương tỏa sáng cho cách mạng Việt Nam. Bác là mặt trời sưởi ấm cho muôn triệu sinh linh tồn lại. Bác là hoa tiêu để con thuyền cách mạng Việt Nam đi đến bến bờ. Người đã vạch ra đường lối cách mạng, vạch ra chiến lược và sách lược cách mạng để sự nghiệp giải phóng dân tộc đi đến thắng lợi. Lịch sử đã chứng minh rằng: “Đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh là con người của những quyết định lịch sử ở những bước ngoặt lịch sử”, từ thắng lợi của cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tạo ra bước ngoặt lịch sử của nhân loại ở thế kỷ hai mươi. Với công lao to lớn ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã góp phần cùng với loài người loại trừ một trở lực to lớn trên con đường tiến lên thế giới văn minh, xóa đi một vết nhơ trong lịch sử là chế độ thuộc địa.
Từ những công lao to lớn của Bác đối với cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới, lịch sử Việt Nam mãi mãi gắn liền với tên tuổi của Người. Tổ chức Khoa học Giáo dục Liên Hiệp Quốc (UNESCO) cũng đã tôn vinh Hồ Chí Minh vào hàng vĩ nhân thế giới. Bác đã để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại. Ai cũng phải thừa nhận rằng Bác không chỉ là vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc mà Bác còn là danh nhân văn hóa thế giới. Bác không chỉ là thiên tài về chính trị, quân sự mà bác còn là nhà văn hóa kiệt xuất. Có thể nói, ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu nhiều về các dân tộc và nhân dân thế giới cũng như văn hóa thế giới như Người. Bác nổi và viết rất thành thạo nhiều thứ tiếng. Bác là người đầu tiên viết bản án chế độ thực dân Pháp và cũng chính Người đã cùng với dân tộc mình thi hành bản án. Người đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận, chiến lược “tư sản nhân quyền và thuộc địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Bác đã truyền bá chủ nghĩa yêu nước bằng ngòi bút của mình. Bác giúp mọi người trên các nước phân biệt rõ bạn, thù. Bác tố cáo chế độ thực dân tàn ác, dã man… cũng bằng ngòi bút đanh thép ấy. Không chỉ thế, Bác còn là một nhà thơ tài ba. Nhấn định về thơ Bác, Hoàng Trung Thông đã viết:
Con đọc trăm bài trăm ý đẹp
Ánh đèn tỏa rạng mái đầu xanh
Vần thơ Bác, vần thơ thép
Mà vẫn mênh mông bát ngát tình.
Chúng ta hãy đọc những dòng thơ tiêu biểu của Bác khi Người đang hoạt động trong cán cứ Việt Bắc:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
(Tức cảnh Pác Bó)
Ngoài thơ ca, Bác còn sáng tác truyện và kí. Truyện kí và thơ của Bác đều giàu tinh thần lạc quan và triết lý. Bác không chỉ viết bằng tiếng Việt mà còn bằng ngôn ngữ nước ngoài để thể hiện quan điểm, tình cảm của mình. Người có những đóng góp sâu sắc không chỉ cho dân tộc Việt Nam mà còn cho cả các nước xã hội chủ nghĩa. Thế mới biết vì sao thế giới công nhận Bác là danh nhân văn hóa thế giới.
Với tài năng và lòng nhân ái bao la của Bác, tất cả các dân tộc, tất cả các quốc gia trên thế giới đều biết đến tên Người - biết đến vị lãnh tụ thiên tài của Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới.
Bác là tinh hoa của dân tộc Việt Nam và của thế giới. Tấm gương đạo đức của Người mãi mãi soi sáng muôn đời. Nay bác đã đi xa để lại trong lòng mọi người một nỗi tiếc thương, biết ơn và cảm phục vô hạn.
Để đền đáp công ơn trời bể của Bác, thế hệ trẻ chúng em luôn thực hiện lời Bác dạy. Sống, học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là mục tiêu phấn đấu của mỗi học sinh chúng em và của cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Dân tộc Việt Nam có ai mà không biết đến Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ đáng kính. Ca dao xưa có câu:
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
Người chính là biểu tượng cho con người Việt Nam, đất nước Việt Nam.
Cũng giống như các vị lãnh tụ của các nước trên thế giới. Hồ Chí Minh được biết đến đầu tiên với tư cách của một người lãnh đạo đất nước. Cả cuộc đời của Người dành trọn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ra đi tìm đường cứu nước khi còn là một chàng thanh niên mang trong tim là nhiệt huyết tuổi trẻ cũng như lòng yêu nước sâu đậm. Nguyễn Tất Thành đã lựa chọn đi về các nước phương Tây. Suốt ba mươi năm không ngại gian khổ, phải làm nhiều nghề để kiếm sống. Nhưng chính nhờ quá trình đó, Bác Hồ đã biết đến chủ nghĩa Mác - Lênin, tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc. Người đã trực tiếp lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc Tổng khởi nghĩa cách mạng tháng 8, cùng với hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Để ngày hôm nay, nhân dân Việt Nam được hưởng nền hòa bình, hạnh phúc. Nhưng không chỉ có vậy, lí tưởng của Người còn ảnh hưởng sâu sắc đến nhân dân các nước thuộc địa. Họ biết đến và khâm phục Hồ Chí Minh.
Bên cạnh sự nghiệp cách mạng, Bác Hồ còn được biết với tư cách là một người nghệ sĩ. Bác đã để lại cho kho tàng văn học dân tộc những tác phẩm hết sức có giá trị. “Bản tuyên ngôn độc lập” được mệnh danh là áng thiên cổ hùng văn - không chỉ bởi giá trị lịch sử mà còn bởi giá trị nghệ thuật. Tập thơ “Nhật kí trong tù” ghi lại chân thực cuộc sống của người tù cách mạng đầy gian khổ nhưng vẫn lạc quan, yêu đời… Các tác phẩm của Người trở thành thứ vũ khí sắc bén trên mặt trận chiến đấu.
Đặc biệt nhất, phải kể đến phong cách Hồ Chí Minh. Phong cách sống giản dị của Bác là kết quả của kết tinh bởi toàn bộ tinh hoa văn hóa nhân loại và văn hóa truyền thống của dân tộc. Trong cuộc đời của mình, Bác đã đi đến nhiều quốc gia trên thế giới ở phương Đông và phương Tây. Phải làm nhiều nghề kiếm sống khiến cho người thanh niên khi ấy đã hiểu rõ sâu sắc về hiện thực cuộc sống. Đến đâu, Người cũng học hỏi và tìm hiểu về đất nước đó. Điều đó giúp Bác thông thạo nhiều thứ tiếng không chỉ nói mà còn viết: Pháp, Anh, Hoa, Nga… và vô cùng am hiểu về văn hóa, nghệ thuật của các nước một cách uyên thâm. Bác Hồ không chỉ “biết tiếp thu cái đẹp” mà còn biết “phê phán những tiêu cực của chủ nghĩa tư bản”. Người tiếp thu văn hóa nhân loại nhưng lựa chọn tiếp thu có chọn lọc để giữ được lối sống truyền thống “rất phương Đông, rất Việt Nam”.
Vẻ đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh đến từ sự giản dị trong cuộc sống hằng ngày. Hàng loạt những dẫn chứng cụ thể và toàn diện để chứng minh điều ấy. Với cương vị của một nhà lãnh đạo nhưng Bác Hồ lại “lấy chiếc nhà sàn nhỏ bé bằng gỗ bên cạnh chiếc áo làm “cung điện” của mình”. Chiếc nhà sàn “vỏn vẹn có vài phòng dùng làm nơi tiếp khách, nơi họp Bộ chính trị, nơi làm việc và ngủ”. Trang phục của Bác cũng đơn giản hết mực “với bộ áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ”. Món ăn hàng ngày thì vô cùng đạm bạc - toàn là món ăn dân tộc không chút cầu kì: “cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa”. Bác sống ở đó một mình với “tư trang ít ỏi là một chiếc va li con và một bộ quần áo, vài vật kỉ niệm”. Dường như, ta có thể cảm nhận được hình ảnh của chính người nông dân Việt Nam trong con người Bác - một vị lãnh tụ của dân tộc. Lối sống giản dị của Người khiến mỗi người dân Việt Nam cảm nhận được sự gần gũi, thân tình không thể tìm thấy được trong bất kì một vị chủ tịch hay tổng thống nào trên thế giới.
Điều cần phải hiểu là sự giản dị trong cách sống của Bác không phải là một cách sống khác người, mà như Bác nói đó là một cách di dưỡng tâm hồn. Mỗi chúng ta hãy học tập và làm theo tấm gương của chủ tịch Hồ Chí Minh. Sống giản dị, coi trọng những giá trị tinh thần và tránh xa những thứ vật chất phù phiếm xa hoa. Đặc biệt nhất là những học sinh - chủ nhân tương lai của đất nước cần ý thức tự giác rèn luyện bản thân để có thể trở thành một người có ích cho xã hội trong tương lai.
Nếu muốn viết về Bác, có lẽ chỉ vài dòng ngắn ngủi này sẽ chẳng thể hiện hết được về con người Hồ Chí Minh. Cuộc đời Bác đã dành trọn cho nhân dân Việt Nam với tình yêu thương sâu sắc. Chúng em, những thế hệ học sinh hôm nay luôn cảm thấy biết ơn Bác Hồ. Cũng như sẽ cố gắng học tập và làm theo tấm gương của Bác. Để xứng đáng khi là một người con Việt Nam.
Có một con người mà khi nhắc đến tên, chúng ta sẽ cảm thấy thật biết ơn và tự hào. Đó chính là chủ tịch Hồ Chí Minh: lãnh tụ vĩ đại của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hóa thế giới.
Ờ bất kì một cương vị nào, Người cũng hoàn thành tốt vai trò của mình. Chàng thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước khi tuổi còn đôi mươi. Ra đi với hai bàn tay trắng vẫn quyết tâm dấn thân vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ba mươi năm bôn ba nước ngoài, Người đi qua nhiều đất nước khác nhau, cũng làm nhiều nghề khác nhau để kiếm sống. Nhưng Bác không hề cảm thấy vất vả, khổ cực. Đến khi bắt gặp ánh sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin, Bác đã nhận ra đây là con đường cứu nước đúng đắn phù hợp với hoàn cảnh của đất nước. Hoạt động cách mạng sôi nổi ở nước ngoài đã đem đến cho Bác sự ủng hộ của phong trào cộng sản quốc tế. Việc hợp nhất các Đảng thành một chính Đảng cũng như việc trực tiếp trở về nước lãnh đạo cách mạng đã giúp cho phong trào yêu nước của nhân dân ta ngày càng phát triển, củng cố niềm tin của người dân. Từ đó, cuộc cách mạng đã giành thắng lợi vẻ vang. Đất nước ta hoàn toàn độc lập. Khi Pháp muốn xâm lược nước ta một lần nữa hay khi Mỹ thay chân Pháp xâm lược, Bác chính là người lãnh đạo cuộc kháng chiến chống lại kẻ thù ngoại xâm. Để rồi hai cuộc kháng chiến ấy giống như lời Người từng nói: “Kháng chiến nhất định sẽ thắng lợi”. Ngày hôm nay, dân tộc Việt Nam được sống trong hòa bình chính là nhờ ở công lao to lớn của Bác Hồ.
Với tư cách là một danh nhân văn hóa thế giới, Bác được biết đến là một nhà văn, nhà thơ lớn. Các tác phẩm của Bác không chỉ có giá trị về mặt văn chương mà còn mang ý nghĩa lịch sử to lớn. Những tác phẩm nổi tiếng gây được tiếng vang lớn như tập thơ “Nhật ký trong tù”, Cảnh khuya, hay “Bản tuyên ngôn độc lập”… Những tác phẩm ấy đã trở thành vũ khí sắc bén cho cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù.
Bác không chỉ là lãnh tụ, mà còn là một vị cha già kính yêu của toàn thể người dân Việt Nam. Điều đó thể hiện qua việc Bác luôn lo lắng đến cuộc sống của nhân dân. Từ người già đến trẻ nhỏ, từ người nông dân đến các người chiến sĩ. Biết bao nhiêu đêm Bác thức trắng, trằn trọc không ngủ khi lo lắng cho những người dân cho, số phận của dân tộc mình.
Đặc biệt, điều làm mỗi chúng ta phải học tập nhất đó chính là lối sống giản dị của Hồ Chí Minh. Lối sống giản dị của Bác trước hết đến từ sự kết tinh giữa văn hóa của nhân loại và truyền thống dân tộc. Trong suốt ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, chàng thanh niên tràn đầy nhiệt huyết cách mạng ấy đã đi qua nhiều nước trên thế giới và tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Đối với mỗi nền văn hóa Người lại có những vốn hiểu biết nhất định trên nhiều lĩnh vực. Đến đâu, Bác Hồ cũng không ngừng học hỏi. Điều đó thể hiện qua vốn ngoại ngữ của Hồ Chủ tịch. Người thành thạo nhiều thứ tiếng không chỉ nói mà còn viết: Pháp, Anh, Hoa, Nga… Hồ Chí Minh “đã tiếp thu” toàn bộ cái hay cái đẹp của các nền văn hóa nhưng tiếp thu có chọn lọc. Đồng thời, Người cũng đã “nhào nặn” để cái gốc văn hóa dân tộc đã thấm sâu vào tâm hồn mình, máu thịt mình. Bác đã trở thành “một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”.
Lựa chọn lối sống giản dị, Bác đã sống một cuộc sống không giống với bất kì một vị chủ tịch hay tổng thống nào. Nơi ở của Bác - mà nhà văn gọi là “cung điện” của một vị Chủ tịch nước chỉ là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh cái ao. Chỉ vẻn vẹn có vài phòng để “tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ nghỉ”, đồ đạc trong đó cũng “rất mộc mạc, đơn sơ”. Từ nơi ở đến trang phục cũng “hết sức giản dị” - Bác chỉ có bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ. Cuối cùng là việc ăn uống của Bác cũng thật đam bạc, món ăn toàn là : cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa… những món ăn dân dã của vùng quê Việt Nam. Cách sống của Người khiến cho mỗi người dân Việt Nam không khỏi ngưỡng mộ và kính trọng. Đồng thời, chúng ta còn thêm yêu mến, thêm tự hào.
Không chỉ trong cuộc sống hằng ngày, ngay cả trong công việc hay trong quan hệ với mọi người, Bác cũng sống vô cùng giản dị. Xung quanh đều có rất ít người giúp việc. Những công việc có thể tự làm, Bác không để ai phải giúp đỡ. Đối với nhân dân, Bác luôn quan tâm và yêu quý như người thân trong gia đình. Có thể kể đến những việc đi thăm nhà tập thể công nhân, viết thư cho một đồng chí hay nói chuyện với các cháu miền Nam hoặc đi thăm và tặng quà cho các cụ già mỗi khi Tết đến…
Thế mới thấy, Hồ Chí Minh chính là một tấm gương sáng của dân tộc Việt Nam. Cuộc đời Bác đã để lại cho chúng ta một tình cảm yêu mến sâu sắc. Bác Hồ - hai tiếng gọi đầy yêu thương mà tự hào.
Chắc hẳn mỗi người dân Việt Nam trên khắp mọi miền tổ quốc khi nhắc đến Chủ tịch Hồ Chí Minh đều sẽ cảm thấy vô cùng tự hào. Có biết bao lời thơ, câu hát đã viết về Người với một tình cảm đầy yêu mến, tự hào.
Bác là một tấm gương sáng ngời về nhân cách. Dù ở bất kỳ cương vị nào, Bác cũng đều làm tốt vai trò của mình. Với tư cách là một nhà cách mạng, Người đã tìm ra con đường cứu nước đúng đắn cho dân tộc, lãnh đạo nhân dân giành độc lập và đấu tranh để bảo vệ nền độc lập ấy. Với tư cách là một nhà văn nhà thơ, Người đã để lại cho kho tàng văn học Việt Nam nhiều tác phẩm có giá trị về nội dung và nghệ thuật như Tuyên ngôn độc lập, Bản án chế độ thực dân Pháp, Đường Kách Mệnh, Nhật kí trong tù… Không chỉ vậy, Bác còn dành được tình cảm yêu mến của nhân dân Việt Nam cũng như nhân dân thế giới. Người dân Việt Nam gọi “Bác” - xưng “con”. Bác đã trở thành “vị cha già kính yêu của toàn thể dân tộc”.
Nhưng có lẽ, điều mà ai cũng cảm thấy ấn tượng nhất đó là lối sống giản dị của Bác - một lối sống chưa từng có ở bất kỳ một vị nguyên thủ quốc gia nào cả. Lối sống giản dị của Bác trước hết đến từ sự kết tinh giữa văn hóa của nhân loại và truyền thống dân tộc. Cuộc đời của Người đã trải qua nhiều lắm những gian truân:
“Bác đã về đây, Tổ quốc ơi!
Nhớ thương, hòn đất ấm hơi Người
Ba mươi nǎm ấy, chân không nghỉ
Mà đến bây giờ mới tới nơi!”
(Theo chân Bác, Tố Hữu)
Trong suốt ba mươi năm bôn ba tìm đường cứu nước, chàng thanh niên tràn đầy nhiệt huyết cách mạng ấy đã đi qua nhiều nước trên thế giới và tiếp xúc với nhiều nền văn hóa khác nhau. Đối với mỗi nền văn hóa Người lại có những vốn hiểu biết nhất định trên nhiều lĩnh vực. Đến đâu, Bác Hồ cũng không ngừng học hỏi. Điều đó thể hiện qua vốn ngoại ngữ của Hồ Chủ tịch. Người thành thạo nhiều thứ tiếng không chỉ nói mà còn viết: Pháp, Anh, Hoa, Nga… Hồ Chí Minh “đã tiếp thu” toàn bộ cái hay cái đẹp của các nền văn hóa nhưng tiếp thu có chọn lọc. Đồng thời, Người cũng đã “nhào nặn” để cái gốc văn hóa dân tộc đã thấm sâu vào tâm hồn mình, máu thịt mình. Bác đã trở thành “một nhân cách rất Việt Nam, một lối sống rất bình dị, rất Việt Nam, rất phương Đông, nhưng cũng đồng thời rất mới, rất hiện đại”.
Lựa chọn lối sống giản dị, Bác đã sống một cuộc sống không giống với bất kì một vị chủ tịch hay tổng thống nào. Nơi ở của Bác - mà nhà văn gọi là “cung điện” của một vị Chủ tịch nước chỉ là một chiếc nhà sàn nhỏ bằng gỗ bên cạnh cái ao. Chỉ vẻn vẹn có vài phòng để “tiếp khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ nghỉ”, đồ đạc trong đó cũng “rất mộc mạc, đơn sơ”. Từ nơi ở đến trang phục cũng “hết sức giản dị” - Bác chỉ có bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ. Cuối cùng là việc ăn uống của Bác cũng thật đam bạc, món ăn toàn là : cá kho, rau luộc, dưa ghém, cà muối, cháo hoa… những món ăn dân dã của vùng quê Việt Nam. Cách sống của Người khiến cho mỗi người dân Việt Nam không khỏi ngưỡng mộ và kính trọng. Đồng thời, chúng ta còn thêm yêu mến, thêm tự hào.
Không chỉ trong cuộc sống hằng ngày, ngay cả trong công việc hay trong quan hệ với mọi người, Bác cũng sống vô cùng giản dị. Xung quanh đều có rất ít người giúp việc. Những công việc có thể tự làm, Bác không để ai phải giúp đỡ. Đối với nhân dân, Bác luôn quan tâm và yêu quý như người thân trong gia đình. Có thể kể đến những việc đi thăm nhà tập thể công nhân, viết thư cho một đồng chí hay nói chuyện với các cháu miền Nam hoặc đi thăm và tặng quà cho các cụ già mỗi khi Tết đến…
Nhưng cần phải hiểu lối sống của Bác không phải là cách sống khác người hay để thần thánh hóa bản thân mình. Bác Hồ đã chủ động lựa chọn lối sống ấy như là một cách để “tu dưỡng tâm hồn”. Một cách sống thanh cao và có thể đem lại cho Người một tinh thần thoải mái, vui vẻ. Hiểu được điều đó để cảm thấy khâm phục Bác nhiều hơn.
Quả thật, khi viết về Bác Hồ kính yêu, chỉ với vài dòng ngắn ngủi khó có thể bộc lộ hết được tình cảm dành cho Bác. Nhưng có thể thấy được rằng, bất kỳ người dân Việt Nam nào cũng đều cảm thấy kính trọng, yêu mến và tự hào khi nhắc đến cái tên Hồ Chí Minh.
“Người hi sinh cả cuộc đời mình vì đất nước và nhân dân. Đó là sự hy sinh cao cả của một vị lãnh tụ vĩ đại”
Tháp Mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ.
Bác Hồ - niềm tự hào của triệu triệu trái tim con người Việt Nam. Người là vị lãnh tụ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới, là người mà em vô cùng kính trọng, ngưỡng mộ và biết ơn.
Cuộc đời Bác là những trang kỳ tích viết hoài cũng không đến hồi kết. Thời đại mà Bác sinh ra là một thời đại đầy biến động. Thế kỷ XX - một thế kỷ chồng chất đau thương của dân tộc. Chứng kiến nhân dân lầm than, đất nước khổ đau cùng cực dưới sự cai trị của thực dân Pháp, Bác sớm mang trong mình khát khao cháy bỏng giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân ra khỏi những áp bức bất công.
Mang theo trái tim yêu nước, người thanh niên trẻ tuổi Nguyễn Ái Quốc quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước ngay cả khi chỉ có hai bàn tay trắng. Người theo con tàu lớn bôn ba khắp thế giới ròng rã ba mươi năm, chịu bao nhiêu khổ cực. Cuối cùng, tại nước Nga, Người cũng tìm được lý tưởng cách mạng và con đường giải phóng đất nước.
Ba mươi năm là một khoảng thời gian dài, trong ba mươi năm năm ấy, Người đã hy sinh cả tuổi trẻ một lòng hướng về tổ quốc thân yêu. Ý chí của Người phải kiên định thế nào, niềm tin của Người phải sắt đá đến mức nào và lòng yêu nước phải mãnh liệt ra sao? Người mới có thể vượt trăm vạn gian nan để hoàn thành sứ mệnh lịch sử? Tất cả những điều Người đã trải qua vượt lên trên sức chịu đựng của con người. Chỉ những lãnh tụ vĩ đại thực sự mới làm được điều đó. Và Hồ Chí Minh chính là một trong những nhân vật đã làm lên kỳ tích hiếm hoi của lịch sử.
Để rồi sau khi giác ngộ lý tưởng cách mạng, Bác tìm mọi cách mang lý tưởng ấy về với tổ quốc. Trở về Tổ quốc, kiên trì lãnh đạo cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc trọn vẹn cuộc đời mình, làm nên chiến thắng lịch sử mùa thu năm 1945. Sau bao cùng cực, đau thương đất nước đã được độc lập, tự do. Người hy sinh cả cuộc đời mình vì đất nước và nhân dân. Đó là sự hy sinh cao cả của một vị lãnh tụ vĩ đại.
Không những thế, Bác Hồ còn là danh nhân văn hóa thế giới. Bác là một nhà văn, nhà thơ xuất sắc. Sinh thời, Người yêu quý thơ văn và biến nó thành thứ vũ khí chiến đấu sắc bén. Người quan niệm:
Thơ xưa yêu cảnh thiên nhiên đẹp
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông
Nay ở trong thơ nên có thép
Nhà thơ cũng phải biết xung phong.
(Thiên gia thi)
Những thi phẩm của Người để lại tỏa sáng như những vì sao trên bầu trời văn học. Thơ văn của Bác là sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại, giữa chất lãng mạn và tính hiện thực chiến đấu, giữa tinh thần dân tộc và tinh thần quốc tế. Biết bao tác phẩm đã khiến những tác giả nổi tiếng của thời đại của thế giới phải trầm trồ thán phục như Mộ (Chiều tối), Cảnh khuya, Ngắm trăng, Rằm tháng giêng...
Bác Hồ sống giản dị và yêu thương mọi người. Bác giản dị từ trang phục đến bữa ăn, đến cách ứng xử hàng ngày. Quần áo Bác mặc chỉ là những bộ quần áo vải có khi là bộ kaki đã sờn cũ. Bữa cơm dù thanh đạm nhưng không bao giờ để sót một hạt cơm, không bao giờ lãng phí dù chỉ một chút thức ăn. Không chỉ bởi vì nhân cách thanh cao mà còn bởi Bác trân trọng công sức của nhân dân, của những người đã làm ra hạt gạo. Bác dành tình thương cho tất cả mọi người, lo lắng từ em nhỏ đến cụ già. Những đêm dài trong kháng chiến, Bác thao thức hàng đêm lo cho chiến sĩ cho dân công chịu khổ ngoài rừng. “Sữa để em thơ, lụa tặng già”. Đến trước lúc ra đi, tâm nguyện của Bác vẫn là kháng chiến nhất định thắng lợi, nhân dân được ấm no, hạnh phúc. Tấm lòng ấy thật bao la vĩ đại biết bao.
Thời gian trôi đi có thể làm lu mờ nhiều thứ, nhưng Bác Hồ với sự vĩ đại và tấm lòng yêu thương mênh mông trời biển sẽ mãi là tượng đài bất biến trong lòng nhân dân Việt Nam. Nhìn hình ảnh Người hiền từ mỉm cười, lòng ta cũng chợt nhói đau, nỗi đau ngày cả dân tộc tiễn Người ra đi “Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”.
Nguyễn Trãi đã từng viết những câu thơ sâu sắc mà thấm thía trong Bình Ngô đại cáo:
"... Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau
Song hào kiệt đời nào cũng có"
Thật đúng là như vậy, đất nước có lúc hưng thịnh, có lúc suy vong luân chuyển tuần hoàn nhưng mỗi thời điểm khác nhau lại sản sinh ra những đấng hào kiệt, anh hùng có sức mạnh xoay chuyển càn khôn, làm nên lịch sử. Thời thế thường tạo nên anh hùng và trong thời đại cách mạng, người anh hùng đã khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ, người mà khi nhắc đến tên là hàng triệu trái tim Việt Nam lại thổn thức và biết ơn khôn cùng, đó chính là Chủ tịch Hồ Chí Minh, một vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới.
Nếu như lãnh tụ Fidel Castro là niềm tự hào của đất nước Cu Ba, Lê-nin là vị lãnh tụ đáng kính của nhân dân Xô viết thì Hồ Chí Minh là vì sao sáng soi đường chỉ lối, là vị Cha già kính yêu của dân tộc Việt Nam. Điều đầu tiên khi nhắc về Hồ Chủ Tịch là nhắc đến một người anh hùng giải phóng dân tộc, nhà cách mạng với tư tưởng tiến bộ, với lí tưởng, khát khao mãnh liệt "Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn, đấy là tất cả những điều tôi hiểu". Khi chứng kiến cảnh nước nhà bị thực dân Pháp đô hộ, nhân dân bị đày đọa khổ cực, khác với những nhà chí sĩ yêu nước khác chọn cách đưa thanh niên Việt Nam ra nước ngoài học tập, người thanh niên Nguyễn Tất Thành khi đó đã lựa chọn con đường bôn ba nước ngoài để tự mình "làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm xem những gì ẩn giấu đằng sau những từ ấy" và hơn hết đi tìm con đường giải phóng dân tộc. Trong hành trình gian khổ đi tìm đường cứu nước ấy, Người đã đi qua 28 quốc gia trên thế giới trong vòng 30 năm chỉ với hai bàn tay trắng, trải qua rất nhiều công việc từ lao động chân tay nặng nhọc như cào tuyết, phụ bếp, làm vườn, vét bùn, làm công ở cảng đến những nghề trí óc như viết báo, rửa ảnh,..., không biết bao nhiêu lần bị giam giữ trong ngục tù ở Trung Quốc. Phải trải qua vô vàn những tháng ngày cực khổ nhưng người thanh niên ấy chỉ mong đổi lấy hạnh phúc, tự do cho nhân dân và khát khao tìm ra con đường cách mạng đúng đắn giải phóng dân tộc khỏi lầm than. Nhờ có Người soi đường dẫn lối, dân tộc Việt Nam đã thoát khỏi xiềng xích của Pháp, đánh đuổi tên đế quốc Mỹ sừng sỏ nhất thế giới và trở thành một đất nước hoàn toàn tự do, hưng thịnh như ngày hôm nay.
Không chỉ vậy, lí tưởng của Người còn ảnh hưởng sâu sắc đến nhân dân trên thế giới nói chung và nhân dân các nước thuộc địa nói riêng, những người yêu chuộng hòa bình ở khắp nơi ủng hộ Người, giai cấp công nhân nông dân yêu mến, kính trọng Người, coi Người như anh em... Nhà văn A-lan A-xbon, người Ô-xtrây-li-a đã khẳng định: "Chúng ta phải học ở Hồ Chí Minh bằng cách phát triển những phẩm chất: Kiên nhẫn và vững vàng theo đuổi mục đích và bình tĩnh trong những lúc khó khăn; linh hoạt về tư duy và chính trị xây dựng khối đoàn kết xã hội chủ nghĩa; khiêm tốn và gần gũi với nhân dân...; có sự đồng cảm để đạt tới sự hòa giải dân tộc; có tinh thần quốc tế mạnh mẽ; sự sáng tạo và nhạy bén về văn hóa...; và phẩm chất mà Hồ Chí Minh có một cách dồi dào - đó là sự lạc quan của ý chí".
Trên cương vị là lãnh tụ, người đứng đầu nhà nước Việt Nam, Hồ Chủ Tịch không có giây phút nào dành riêng cho bản thân mình. Cả cuộc đời Bác đã dành trọn tình yêu cho nhân dân, cho cách mạng với "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Đối với con dân đất Việt:
"Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả máu lớn lọc trong dòng máu đỏ"
(Tố Hữu)
Người gần gũi, yêu thương, quan tâm chăm lo đến đời sống từ em nhỏ đến các cụ già, từ đồng bào miền núi đến nhân dân miền xuôi, từ anh chiến sĩ đến những người dân công. Biết bao đêm Bác trằn trọc băn khoăn không ngủ được vì lo lắng cho vận mệnh của dân tộc, ngay cả khi ốm mệt nằm trên giường bệnh, Người vẫn không nguôi suy nghĩ đến miền Nam ruột thịt: "Trong Nam mấy hôm nay đánh thế nào?". Cả cuộc đời làm lãnh đạo đất nước của Người là tấm gương sáng ngời về tinh thần tự học, tự sáng tạo, "cần - kiệm - liêm - chính - chí công - vô tư" với lối sống giản dị thanh cao. Tuy là Chủ tịch nước nhưng Người luôn sống bình dị trong nhà sàn đơn sơ, mặc bộ quần áo kaki đã bạc màu, đi đôi dép cao su và ăn uống vài món đạm bạc dưa cà. Vị chủ tịch ấy không ngần ngại lội ruộng hướng dẫn bà con cấy lúa, không nề hà tát nước, trồng rau, nuôi cá như một người nông dân thực thụ, vui vẻ chuyện trò cùng bà con...
Không chỉ là một anh hùng giải phóng dân tộc, Chủ Tịch Hồ Chí Minh còn là danh nhân văn hóa thế giới, tuy "Ngâm thơ ta vốn không ham" nhưng di sản văn học Người để lại vô cùng giá trị và ý nghĩa đối với nền văn học Việt Nam nói chung. Khi thì là những áng văn chính luận như thanh gươm sắc bén nhằm đả kích, chĩa thẳng vào bọn thực dân: Bản án chế độ thực dân Pháp, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu,...; khi là những vần thơ trữ tình mà thấm thía ẩn chứa trong đó là tâm hồn nghệ sĩ và tinh thần thép như tập thơ Nhật kí trong tù, Tức cảnh Pác Bó,...; khi lại là những bài thơ ngắn gọn, dễ hiểu, dễ nhớ để tuyên truyền đường lối cách mạng, hay chúc tết nhân dân cả nước, hay để khích lệ tinh thần chiến đấu của quân dân ta... Dù là nội dung nào đi chăng nữa, tất cả đều phục vụ cách mạng, vì nhân dân. Và những quan điểm sáng tác văn học của Người vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến tận ngày hôm nay khiến chúng ta vô cùng khâm phục, tự hào.
Dù Bác đã đi xa nhưng tấm gương đạo đức cách mạng và lối sống thanh cao giản dị của Người vẫn còn mãi với dân tộc Việt Nam. Hồ Chủ Tịch xứng đáng là vị lãnh tụ vĩ đại, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới khiến cả thế giới nói chung và dân tộc ta nói riêng yêu mến, ngưỡng mộ, tự hào.
“Bác Hồ ơi! Trái tim người vĩ đại
Ôm núi sống nước Việt chảy vào lòng
…
Trái tim Bác giàu hơn cả rừng vàng
Ôm biển bạc cho đong đầy tôm cá
Cho mai sau và muôn vàn năm nữa
Nước Việt ta sẻ ơn Bác vô cùng.”
Tôi đã đọc được đâu đó những vần thơ ấy. Những vần thơ giản dị mà đầy xúc động về Bác kính yêu. Khi tôi sinh ra, đất nước đã qua thời khói lửa, sống hòa bình và Bác cũng đã ra đi. Qua những trang sách, qua những bài học, tôi tự hào là người Việt Nam, tự hào là con cháu của Người.
Bác Hồ – người con của xứ Nghệ thân yêu, sinh ra trong một gia đình nhà Nho nghèo có truyền thống yêu nước. Ngay từ khi còn nhỏ, cậu bé Nguyễn Sinh Côn đã tỏ ra là một đứa trẻ thông minh hơn người. Những năm tháng tuổi thơ của Người, chỉ biết đến qua sách vở thôi, cũng khiến tôi không thể không rơi nước mắt mỗi lần đọc lại. Cậu bé tinh anh ấy có một tuổi thơ vất vả hơn bao đứa trẻ khác. Năm mẹ cậu sinh thêm đứa em trai, nhưng vì thời buổi khó khăn và sức khỏe quá yếu, mẹ cậu bé Côn ngày ấy đã qua đời. Một mình chú bé 8 tuổi, vừa mất mẹ, bế đứa em đỏ hỏn mấy ngày tuổi trên tay. Em bé khóc vì đói, có mấy người hàng xóm bảo cậu bế em đi xin sữa, nhưng trong suy nghĩ của một đứa trẻ tám tuổi khi ấy đã rất chững chạc. Nguyễn Sinh Côn cho rằng chẳng ai muốn hai đứa trẻ xa lạ, không cha không mẹ lại ở nhà mình, nhất là vào những ngày Tết. Vậy là Côn một mình chăm em cho đến khi cha trở về. Lần đầu đọc cuốn sách ấy, tôi cũng chỉ là một đứa trẻ tám tuổi. Tôi đã khóc. Khóc vì thương cho đứa bé nhỏ, càng khóc vì thương cho một đứa trẻ tám tuổi như mình đã phải trải qua những đau thương chẳng dễ dàng gì. Khi tôi thử đặt mình vào hoàn cảnh đó, ngay cả lúc này, khi đã lớn hơn rất nhiều, tôi vẫn cảm thấy một nỗi đau ghê gớm và một sự bất lực đến bi thương. Nhưng đứa trẻ tám tuổi trong câu chuyện ấy, hơn một con người, đó là vĩ nhân, là anh hùng dân tộc, là Bác Hồ kính yêu, Người đã mang ánh sáng cách mạng đến cho một dân tộc lầm than thoát khỏi kiếp đời nô lệ. Nguyễn Sinh Côn lớn lên, theo cha vào Huế học tập, và từ rất sớm đã quan tâm đến tình hình dân tộc đang bị thực dân xâm lược.
Năm 1911, tại bến cảng Nhà Rồng lịch sử, người thanh niên hai mươi mốt tuổi Nguyễn Tất Thành đã lên chuyến tàu Đô đốc atouche - Tréville , ra đi tìm đường cứu nước cùng đôi bàn tay trắng. Bác đã đi đến nhiều nơi trên thế giới, làm mọi nghề: phụ bếp, quét tuyết, và là một trong những thành viên của tờ báo “ Người cùng khổ” bằng tiếng Pháp. Trong ba mươi năm bôn ba tại nước ngoài, Bác Hồ đã tự học được rất nhiều thứ tiếng. Có những câu chuyện kể lại việc học ngoại ngữ của Người đã trở thành tấm gương sáng của biết bao thế hệ. Chuyện kể rằng ban ngày, Bác làm phụ bếp trên tàu, sau đó sẽ đi quét tuyết ở New York để kiếm sống. Chỉ có ban đêm là thời gian rảnh để học ngoại ngữ. Mùa đông ở Âu Châu lạnh giá như đóng băng, vậy mà con người ấy chỉ có duy nhất một viên gạch để sưởi ấm. Thật cảm động biết bao trước tấm lòng cao cả của Người! Hi sinh mọi hạnh phúc cá nhân vì dân tộc, vì nhân dân mà quên mình, như Tố Hữu từng viết:
“Bác sống như trời đất của ta
Thương từng ngọn lúa mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già”.
Sau ba mươi năm đi khắp năm châu bốn bể, Người trở về lãnh đạo nhân dân Việt Nam làm Cách mạng. Ra đi khi hai mươi tuổi và trở về lúc xế chiều của một đời người, Bác đã hi sinh hạnh phúc cá nhân vì độc lập dân tộc. Bởi vậy mà đâu đó tôi đã từng nghe câu nói, ý đại khái rằng Bác rất nhiều con mà lại không con! Quả thực, ở Trung Quốc, ở Mỹ, ở Nga, hay ở Pháp, có mấy vị Tổng Thống hay lãnh tụ nào như thế.
Ngay cả khi Cách mạng tháng Tám thành công, ông cụ Hồ Chí Minh độc Tuyên Ngôn Độc Lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và được nhân dân bầu làm Chủ tịch đầu tiên của đất nước ấy, Bác vẫn sống giản dị như một ông cụ của làng quê Việt Nam:
“Nhà lá đơn sơ một góc vườn
Gỗ thường mộc mạc chẳng mùi sơn
Giường mây chiếu cói, đơn chăn gôi
Tủ nhỏ vừa treo mấy áo sờn.”
Ai đã từng đến thăm lăng Bác hẳn sẽ hiểu những vần thơ trên chân thực đến nhường nào!
Bác không chỉ là lãnh tụ vĩ đại, là tấm gương sáng về bài học làm người cho lớp lớp những người con của Việt Nam, Bác còn là niềm tự hào của dân tộc, là một tâm hồn thi sĩ với tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống. Việt Nam là một dân tộc nhỏ bé, ngoài kia, bên kia quả địa cầu có lẽ có người chưa biết đến đất nước hình chữ S nhưng cả nhân loại đều biết đến Hồ Chí Minh như một vĩ nhân, một tấm gương sáng về nghị lực sống.
Đối với mỗi người dân Việt Nam, hình ảnh Bác Hồ sẽ mãi là một người lãnh tụ vĩ đại, một anh hùng giải phóng dân tộc và đồng thời cũng là một danh nhân văn hóa thế giới. Hình ảnh Người đã, đang và sẽ mãi mãi in đậm trong trí của mỗi con người Việt Nam, trở thành một tấm gương sáng cho tất cả mọi người học tập và noi theo.
Điều đầu tiên khi chúng ta nhắc đến Bác Hồ đó chính là một con người vô cùng giản dị với những phẩm chất tốt đẹp. Ở Người dường như mọi thứ đều rất hoàn hảo. Bác là người có đức tính giản dị, có lối sống khiêm tốn và đặc biệt luôn biết lo và nghĩ cho người khác. Người rất giỏi trong mọi lĩnh vực nhưng luôn khiêm tốn và coi mình còn cần phải học nhiều hơn nữa. Đặc biệt, Người giống như là người cha già vĩ đại của dân tộc. Bác luôn chăm lo, quan tâm đến đời sống của nhân dân, xem xem dân ta có được một cuộc sống vui vẻ đầm ấm hay không, có bị đói khổ gì không. Tâm niệm lớn nhất của Người trong cuộc đời này chính là mong cho dân ta “ được độc lập tự do, có cuộc sống ấm no hạnh phúc”, thế là Bác vui lòng.
Không chỉ là người cha già kính yêu của dân tộc, Người còn là một vị lãnh tụ vĩ đại của đất nước. Cả cuộc đời Bác dành hết cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Con người vĩ đại đó đã ra đi tìm đường cứu nước khi còn rất trẻ với hai bàn tay trắng. Để rồi sau bao nhiêu năm vất vả gian khó, Người đã tìm được một con đường giải phóng cho dân tộc, lãnh đạo quân và dân ta đứng lên khởi nghĩa chống lại quân xâm lược. Chính Người đã dẫn đường, chỉ lối và soi sáng cho Đảng và cách mạng ta, đưa dân ta từ bóng tối lầm than đến ánh sáng tươi mới của cách mạng dân tộc, giúp dân ta thoát khỏi kiếp nô lệ hàng nghìn năm để đến được với tự do độc lập.
Đặc biệt, vĩ lãnh tụ vĩ đại đó còn được coi là một danh nhân văn hóa thế giới.Người không chỉ là một nhà chính trị mà còn là một nhà văn nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam. Các tác phẩm của Người để lại đều thể hiện tài năng phẩm chất của một nhân tài dân tộc với những hiểu biết vô cùng phong phú thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước và đặc biệt là ý chí lạc quan luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng. Có lẽ chính vì vậy mà mỗi tác phẩm của Người luôn có tinh thần động viên khuyến khích nhân dân ta đứng lên đấu tranh giành lại độc lập dân tộc. Để rồi với những thành công to lớn của mình, Bác đã khiến cả thế giới phải ngả mũ thán phục sự vĩ đại của Người.
Như vậy, Bác Hồ chính là niềm yêu quý, tự hào và vô cùng ngưỡng mộ của cả dân tộc Việt Nam. Hình ảnh Bác vẫn sẽ mãi in đậm trong tâm trí mọi người, sống mãi với non sông đất nước thân yêu và trở thành một mặt trời bất diệt luôn soi sáng mỗi con người:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đó
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
(Viếng lăng Bác - Viễn Phương)
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình nhà nho, nguồn gốc nông dân, ở làng Hoàng Trù, xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và sự giáo dục của gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Người ngay từ thời niên thiếu.
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, thương dân sâu sắc, sự nhạy bén về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước lúc bấy giờ và quyết tâm ra đi tìm con đường để cứu dân, cứu nước.
Năm 1911 là sự kiện trọng đại, Người đi ra nước ngoài, suốt 30 năm hoạt động, Người đã lênh đênh trên biển nhiều năm, đến nước Pháp và nhiều nước châu Âu, châu Á, châu Phi, châu Mỹ. Người hòa mình với những phong trào của công nhân và nhân dân các dân tộc thuộc địa, vừa lao động kiếm sống, làm đủ mọi loại công việc: cào tuyết, làm vườn, vét bùn, đánh máy, phụ bếp,..., vừa học tập, hoạt động cách mạng và nghiên cứu con đường giải phóng dân tộc. Người đã đi qua 28 quốc gia trên thế giới trong vòng 30 năm chỉ với hai bàn tay trắng, trải qua rất nhiều công việc từ lao động chân tay nặng nhọc như cào tuyết, phụ bếp, làm vườn, vét bùn, làm công ở cảng đến những nghề trí óc như viết báo, rửa ảnh,..., không biết bao nhiêu lần bị giam giữ trong ngục tù ở Trung Quốc. Phải trải qua vô vàn những tháng ngày cực khổ nhưng người thanh niên ấy chỉ mong một điều duy nhất vô cùng cao cả đó là làm sao cho nhân dân được tự do, hành phúc, bình yên và khát khao tìm ra con đường đúng đắn giải phóng dân tộc khỏi lầm than. Năm 1917, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga và sự ra đời của Quốc tế Cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đây, Người đã nhận rõ đó là con đường duy nhất đúng đắn để giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Nhà văn A-lan A-xbon, người Ô-xtrây-li-a đã khẳng định: "Chúng ta phải học ở Hồ Chí Minh bằng cách phát triển những phẩm chất: Kiên nhẫn và vững vàng theo đuổi mục đích và bình tĩnh trong những lúc khó khăn; linh hoạt về tư duy và chính trị xây dựng khối đoàn kết xã hội chủ nghĩa; khiêm tốn và gần gũi với nhân dân...; có sự đồng cảm để đạt tới sự hòa giải dân tộc; có tinh thần quốc tế mạnh mẽ; sự sáng tạo và nhạy bén về văn hóa...; và phẩm chất mà Hồ Chí Minh có một cách dồi dào - đó là sự lạc quan của ý chí". Trên cương vị là lãnh tụ, người cha già của dân tộc, Bác Hồ không có giây phút nào dành riêng cho bản thân mình. Cả cuộc đời Bác đã dành trọn tình yêu cho nhân dân, cho cách mạng với "chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành". Không chỉ là một anh hùng giải phóng dân tộc, Chủ Tịch Hồ Chí Minh còn là danh nhân văn hóa thế giới, kho di sản văn học Người để lại vô cùng giá trị và ý nghĩa, thậm chí có những nét phong cách đặc biệt và vô cùng quan trọng với nền văn học Việt Nam. Bác viết rất thành công những bài chính luận như: Bản án chế độ thực dân Pháp, Những trò lố hay là Va-ren và Phan Bội Châu,...; rồi cả những bài thơ trữ tình như tập thơ Nhật kí trong tù, Tức cảnh Pác Bó.
Khi đất nước bình yên, mọi người bình ổn cuộc sống, đất nước đang trên thời kì phát triển và hội nhập trên thế giới nhưng tư tưởng của Bác vẫn còn mãi và soi sáng cách mạng Việt Nam.
Nhân dân Việt Nam có những truyền thống tốt đẹp đó là truyền thống tôn sư trọng đạo hay truyền thống hiếu thuận với cha mẹ, trong đó công lao mà cha mẹ sinh thành ra chúng ta có ý nghĩa rất lớn nó có ý nghĩa thúc đẩy mỗi người đều cần phải có tấm lòng hiếu thảo với cha mẹ mình. Điều đó được thể hiện qua câu ca dao:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra
Một lòng thờ mẹ kính cha
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”
Công lao của cha mẹ là vô cùng to lớn. Hình ảnh “núi Thái Sơn” - đây là một núi rất cao ở Trung Quốc. Còn “nước trong nguồn chảy ra” đó là một nguồn nước mát và đó là nguồn nước mà nuôi dưỡng tâm hồn của chúng ta phát triển lên từng ngày. Những công ơn lớn lao đó đã được đúc kết thành một bài ca dao có ý nghĩa lớn lao đến với mỗi chúng ta.
Cha mẹ có công lao sinh thành dưỡng dục của cha mẹ đối với con cái. Không có cây thì không có quả, không có cha mẹ thì không có bản thân mỗi người. Họ là người sinh ra ta, đồng thời cha mẹ cũng là người có công nuôi dưỡng ta bao năm tháng, từ một đứa trẻ ngây thơ trở thành một trang thiếu niên có hiểu biết. Cơm ăn, áo mặc hàng ngày, thuốc thang chữa trị khi ta đau ốm và biết bao vật dụng cho ta, tất cả đều do công sức lao động gian lao, vất vả và tấm lòng bao la của cha mẹ. Ta hiểu biết điều hay lẽ phải, biết cách cư xử trong gia đình, trong xã hội cũng nhờ công lao dạy bảo, giáo dục của cha mẹ. Rồi ta được đi học mở mang kiến thức, cũng là nhờ công lao và tình thương của cha mẹ. Thật đúng là cha mẹ nuôi con bằng trời bằng bể. Để đáp lại sự sinh thành và dưỡng dục ấy, đạo làm con phải giữ tròn chữ hiếu. Đó chính là đền đáp xứng đáng của người con đối với cha mẹ. Và đây cũng là một tiêu chuẩn đạo đức của con người trong xã hội, trong cuộc sống. Người con có hiếu là người yêu thương kính trọng cha mẹ, vâng lời cha mẹ, biết tuân theo những lời chỉ bảo đúng đắn của cha mẹ. Người con có hiếu phải biết làm cho cha mẹ vui lòng bằng cách chăm chỉ học tập, bằng những lời nói và việc làm có đạo đức như đi thưa, về trình và luôn giúp đỡ cha mẹ trong công việc gia đình. Nhất là khi cha mẹ già yếu, ốm đau, người con càng phải hết lòng chăm sóc, phụng dưỡng với tất cả tình cảm quý trọng của mình. Hành động hiếu thảo này chính là lời khuyên mang ý nghĩa sâu sắc của bài ca dao.
Tóm lại, bài ca dao đã để lại bài học to lớn cho mỗi người. Đó là lời nhắc nhở cần phải giữ vững tấm lòng của hiếu thảo đối với cha mẹ - những người có công ơn sinh thành và nuôi dưỡng chúng ta. Ghi nhớ công cha, khắc ghi nghĩa mẹ là điều vô cùng quan trọng trong cuộc sống của mỗi người. Câu ca dao không chỉ khắc họa công ơn sinh thành cao vời vợi mà nó còn nhắc nhở chúng ta sống trọn bổn phận làm con. Hãy thể hiện tình cảm với cha mẹ khi còn chưa muộn, hãy thực hiện dù chỉ là những hành động nhỏ nhất bởi nó cũng chính là niềm vui nho nhỏ mà bạn dành cho bố mẹ mình.
Văn học dân gian là kho tàng sáng tác lâu đời của người xưa, trong đó ca dao là những câu hát mượt mà đằm thắm nghĩa tình. Có những câu ghi lại tấm lòng của con cháu luôn tưởng nhớ tới tổ tiên như:
“Con người có tổ có tông
Như cây có cội, như sông có nguồn"
Gần gũi và thấm thía hơn là công ơn cha mẹ đối với con cái:
"Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Dưới đây, chúng ta hãy thử đi vào tìm hiểu ý nghĩa của hai câu lục bát này.
Cách thể hiện tình cảm của ca dao thật trữ tình khi người xưa so sánh cái trừu tượng như công cha, nghĩa mẹ với cái cụ thể như “núi Thái Sơn”, “nước trong nguồn”. Mượn hình ảnh núi Thái Sơn - một ngọn núi cao, nổi tiếng của Trung Quốc. Núi Thái Sơn nằm ở phía bắc thành phố Thái An, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc, nơi cao nhất là 1545 mét. Mang núi Thái Sơn ví với công cha, người xưa muốn nói lên một cách cụ thể để chỉ công cha thật là lớn lao, như ngọn núi Thái Sơn hùng vĩ. Cũng như ở một câu ca dao khác, người xưa từng so sánh: "Công cha như núi ngất trời". Núi Thái Sơn hay núi ngất trời cũng cùng chung một ý nghĩa rằng công lao của cha vô cùng to lớn, chúng ta không thể nào đo đếm được.
Nói về nghĩa mẹ, sự liên tưởng chuyển sang một mức độ cụ thể hơn, gần gũi hơn: “nước trong nguồn chảy ra” hình dung về dòng nước không bao giờ cạn. Cách so sánh đó thật tài tình và chứng tỏ người xưa rất hiểu quy luật của tự nhiên mà vận dụng vào đời sống. So sánh nghĩa mẹ như thế, chứng tỏ người xưa hiểu lòng yêu thương vô cùng, vô tận của người mẹ.
Như vậy, câu ca dao nói lên công lao to lớn, vô cùng của cha mẹ với con cái. Từ đó, nhân dân ta nhắc nhở mọi người phải biết ơn, hiếu trọng đối với cha mẹ. Mỗi chúng ta, trước khi ra đời còn nằm trong bụng mẹ. Người mẹ mang nặng đẻ đau sinh ra chúng ta. Chúng ta thành người từ giọt máu chung của cha mẹ ta. Chỉ công ơn sinh thành ấy cũng đủ để khẳng định không gì có thể so sánh nổi. Từ khi cất tiếng chào đời, đến lúc trưởng thành. Con người dần lớn lên từng ngày, hỏi rằng công lao cha mẹ kể làm sao hết được. Từ lúc ta còn nhỏ xíu, chưa biết tự lập, chưa biết gì đến lúc biết tự lo cho bản thân, trưởng thành, cha mẹ dồn hết sức lực cuộc đời lo cho con cái. Đau xót thay, khi ấy cha mẹ đã già yếu đi.
Nói về công lao này, ông bà ta có những câu ca dạy cho trẻ như:
“Cha sinh, mẹ dưỡng
Chữ cù lao lấy lượng nào đong
Thờ cha kính mẹ hết lòng
Ấy là chữ hiếu dạy trong luân thường”
Thực vậy, cha mẹ có chín công lao nuôi dạy con cái, rút tỉa bao sinh lực cả đời cha mẹ. Việc thứ nhất là công sinh thành (sinh) của cha và mẹ. Người mẹ cưu mang chín tháng mười ngày thật là cực nhọc, đau đớn khi nở nhụy khai hoa, có khi phải đổi mạng mẹ để có con. Nếu may mắn mẹ qua cơn nguy kịch lúc sinh con, cha mẹ lại cùng nhau chăm sóc con (cúc). Mẹ cho con bú bằng nguồn sữa chiết ra từ sinh lực, từ cơ thể mình (súc). Đến khi con bi bô biết nói, biết cười, mẹ cha lại lo lắng nghĩ đến chuyện dạy con lời ăn, tiếng nói: "Học ăn, học nói, học gói, học mở"… sao cho con trở thành người khôn khéo, giỏi giang và lễ phép (dục). Khi con đã đến trường hay rời mái nhà ấm cúng ra ngoài xã hội, mẹ cha ngày đêm héo hon chờ trông tin ta, mong ta trở về (cố). Trong mái nhà tranh dột nát khi mưa về, cha mẹ dành cho con nơi khô ráo. Và âm thầm nằm co ro nơi lạnh ướt đêm thâu, khi có ai bức hiếp con, cha mẹ vì con mà hi sinh, chống chọi để bảo vệ sinh mạng cho con (phúc). Hơn nữa, khi chúng ta ra ngoài xã hội, giao du với bè bạn, cha mẹ luôn theo dõi và thao thức canh khuya để tìm phương cách uốn nắn con, tránh cho con bị lôi cuốn bởi tiền tài, vật chất và những thị hiếu thấp hèn, hay sa chân vào con đường trụy lạc (phục). Việc cuối cùng là cha mẹ lo cho con bước trưởng thành (trưởng) bằng một nghề nghiệp, một bản lãnh sống trong đời, và dựng vợ gả chồng cho con vào nơi tử tế.
Nuôi ta lớn, cha mẹ còn giáo dục ta nên người, cha mẹ dạy ta bằng chính những cách sống, những việc làm, cách cư xử trong cuộc sống, trong đạo làm người. Cha mẹ chính là người thầy đầu tiên dạy cho ta nét ăn nét ở, dạy cho ta biết phải trải, biết nhân nghĩa ở đời. Cha mẹ là nguồn sức mạnh, nguồn nghị lực thiêng liêng của mỗi người. Quả là bài ca dao là lời răn dạy sâu sắc dành cho mỗi người. Hãy biết trân trọng người đã có công sinh thành và nuôi dưỡng ta. Từ khi bé thơ cho tới khi trưởng thành, công lao cha mẹ đối với chúng ta quả là to lớn. Tình cha nghĩa mẹ thiêng liêng suốt đời ta không thể trả hết, bởi lẽ:
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”
Câu ca dao được cha ông ta đúc kết từ hàng nghìn năm nay nhưng đến tận bây giờ, nó vẫn còn nguyên những giá trị sâu sắc.
Cha sinh mẹ dưỡng, nuôi nấng con nên người. Cha mẹ đã phải trải qua biết bao nhiêu khó khăn, vất vả để mang đến cho con tiếng cười, niềm hạnh phúc. Dân gian xưa đã lấy hình ảnh “núi Thái Sơn” để ví như công lao của người cha. Đây là một hình ảnh so sánh vừa chân thực, vừa cụ thể. “Núi Thái Sơn” là một trong những ngọn núi cao và hùng vĩ nhất Trung Quốc. Công lao nuôi dưỡng của người cha cũng vậy, lớn lao đến không thể nào cân đong đo đếm được. Trong quan niệm phong kiến xưa, người cha được coi là trụ cột của gia đình, là người lo toan gánh vác những công việc to lớn, nặng nhọc. Dân gian ta có câu: “Con có cha như nhà có nóc”. “Nóc” đối với một ngôi nhà là vô cùng quan trọng, giúp che mưa, gió, bão giúp cho ngôi nhà được chắc chắn. Ngôi nhà không có nóc cũng như những đứa trẻ bất hạnh mồ côi cha, không có một chỗ dựa tinh thần vững chắc. Có thể nói vai trò của người cha trong xã hội trọng nam khinh nữ xưa hay trong cuộc sống hiện đại ngày nay là vô cùng quan trọng. Còn công lao sinh dưỡng của mẹ cũng vô cùng to lớn: “Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”. Cách so sánh này quả thực rất hay. Bởi lẽ nước trong nguồn không bao giờ chảy hết cũng như tình cảm mẹ dành cho con cũng không bao giờ vơi cạn. Mẹ mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày rồi cho con bú mớm, rồi nuôi dưỡng con nên người. Nước trong nguồn chảy ra cũng ngọt ngào, dịu mát như dòng sữa mẹ vậy. Dòng sữa trắng trong chứa đựng biết bao tình cảm, sự hy sinh mẹ dành cho con. Trong xã hội xưa có biết bao nhiêu câu chuyện cảm động về lòng hiếu thảo. Đó là câu chuyện về Lão Lai Tử người nước Sở lúc bảy mươi tuổi còn mặc áo ngũ sắc nhảy múa để mua vui cho cha mẹ. Chữ “hiếu” được thể hiện ngay trong hành động, ngay trong tình cảm mà chúng ta dành cho cha mẹ. Bổn phận của người làm con trước hết là tu dưỡng học hành, đỗ đạt thành tài để làm cha mẹ vui lòng. Sự tận tình chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ khi đau ốm, lúc tuổi già. Đạo làm con không phải một sớm một chiều mà phải làm trọn vẹn chữ hiếu, dành trọn cả tấm lòng để đền đáp công lao sinh thành của cha mẹ.
Câu ca dao xưa nhưng vẫn luôn vang vọng trong suy nghĩ của rất nhiều thế hệ. Câu ca dao không chỉ ngợi ca tình cảm cha mẹ bao la, rộng lớn mà còn muốn nhắn nhủ người làm con phải giữ tròn bổn phận, giữ trọn chữ hiếu. Đối với riêng cá nhân tôi, trước hết là phải vâng lời cha mẹ, tu dưỡng đạo đức, học hành chăm chỉ để làm cho cha mẹ vui lòng.
Trong cuộc sống con người bất kể làm việc gì dù lớn hay nhỏ, dù đại sự hay chuyện vặt vãnh nếu không có chính kiến thì sớm muộn cũng thất bại. Và chẳng nói đâu xa câu chuyện ngụ ngôn “Đẽo cày giữa đường” chính là một ví dụ điển hình về chính kiến khiến nhiều người phải suy ngẫm.
Câu chuyện ngụ ngôn kể về một anh chàng có được một khúc gỗ lớn. Anh ta định đẽo nó thành một chiếc cày để tăng năng suất lao động hay bán đi kiếm lời. Thế nhưng chẳng biết do chủ quan hay yếu tố nào đó anh ta quyết định ngồi giữa đường để đẽo cày. Nhưng cũng chính vì không biết giữ chính kiến của mình mà từ một khúc gỗ to anh có đã biến thành một cục gỗ vô dụng. Mỗi người qua đường một ý kiến, và ý kiến nào anh chàng cũng thấy đúng và làm theo. Rồi đến lúc chẳng còn lại gì nữa, và thất bại. Thế mới biết rất chính kiến có vai trò vô cùng quan trọng đối với bất cứ ai và bất cứ việc gì. Con người có chính kiến và bảo vệ chính kiến của mình đến cùng thì mới có thể thành công được. Bởi lẽ trong cuộc sống có rất nhiều ý kiến trái chiều, mười người yêu thì cũng có đến chín người ghét...nếu bạn không giữ vững tư tưởng dễ bị lung lay thì chẳng mấy chốc mà suy sụp.
Quay trở lại câu chuyện anh đẽo cày trên giá như anh có chính kiến của mình không chịu tác động của người này người kia thì rất có thể thành quả của anh đã vô cùng ngọt ngào rồi. Con người sinh ra không phải ai cũng có một trí tuệ siêu phàm, một cái nhìn bao quát tất cả. Thế nhưng dù có ở trong bất kì hoàn cảnh nào thì kiên định phải đứng đầu. Phải biết bảo vệ ý kiến của mình đến cùng. Sự bảo vệ ý kiến này không phải mang tính tiêu cực là bảo thủ mà nên biết tiếp thu cái đúng, sửa chữa cho hoàn hảo đồng thời loại bỏ cái sai lệch. Trong một tập thể thì biết dung hòa ý kiến bản thân với tập thể không phải nhất nhất nghe theo ý mình vì nó sẽ biến bạn trở nên chuyên quyền và độc đoán. Những người chuyên quyền độc đáo sẽ khó được thành công và dễ bị cô lập.
Cuộc sống của con người chỉ sống có một lần vì thế thật đáng tiếc nếu chúng ta không sống vì mình. Sống chỉ nghe theo ý kiến của người khác sẽ biến chúng ta thành những người thụ động và ỷ lại, thiếu đi sự sáng tạo. Vì vậy chúng ta hãy trở thành những người vừa có chính kiến chủ quan vừa biết tiếp thu những cái mới một cách có chọn lọc nhất.
Mỗi người là một thành viên của Xã hội . Những tác động khách quan nhiều khi khiến người ta chao đảo, lung lay, thay đổi lập trường, mất đi sự bền gan vững trí. Để khuyên chúng ta về vấn đề này, ông cha ta đã sáng tạo truyện ngụ ngôn ” Đẽo cày giữa đường”.
Câu chuyện nói về một anh chàng ngồi đẽo cày bên đường, mỗi người đi qua đều góp ý và ai nói gì anh ta cũng làm theo, kết quả bị hỏng cày không bán được, mất thời gian phí công sức lại bị thiên hạ chê cười. Đẽo cày theo ý người ta sẽ thành khúc gỗ chả ra việc gì. Thông qua câu chuyện ông cha ta đã khuyên hay giữ vững quan điểm lập trường kiên định bền gan bền trí để đạt được mục tiêu cho mình, không giao động và lắng nghe ý kiến người khác một cách chọn lọc, có cân nhắc, có suy nghĩ đúng đắn: ” Dù ai nói ngả nói nghiêng/ lòng ta vẫn vững như kiềng ba chân”. Tư tưởng qua câu chuyện ngụ ngôn trên là hoàn toàn đúng đắn bởi quá trình để hướng tới thành công ta phải chịu tác động của cá yếu tố chủ quan nhưng nhiều khi tác động bởi các yếu tố khách quan, phải kiên định mới đến đích. Nếu bền chí, kiên định, có nghị lực chịu gian khổ, vượt qua khó khăn, luôn luôn sáng tạo thì cuộc sống trở lên tốt đẹp, đó là biểu hiện đầu tiên quyết định thành công. Tuy nhiên những tác động của bên ngoài là rất lớn. Nó có thể làm lung lay, mài mòn nghị lực của ta. Vậy trước những tác động đó ta phải làm gì, ta phải phân biệt được lời khuyên đó là đúng hay sai, có phù hợp với tư tưởng quan điểm của ta hay không?
Giữ vững ý kiến quan điểm lập trường khác hoàn toàn với thái độ bảo thủ ngoan cố, không chịu tiếp thu cái đúng cho phù hợp với quy luật của xã hội dẫn đến sự thất bại. Chúng ta hãy học tập lắng nghe ý kiến của những người xung quanh, ở bạn bè, thầy cô, ở những người thân trong gia đình ngay từ những việc làm, những tư tưởng tưởng như đơn giản nhất nhưng lại cần thiết cho tương lai. Ví dụ: chúng ta lựa sức mình chọn trường thì không được gió chiều nào xoay chiều ấy rồi sẽ đi đến thất bại như anh chàng trong câu chuyện ” Đẽo cày giữa đường”.
Như vậy chỉ với một câu chuyện ngụ ngôn ngắn” Đẽo cày giữa đường” đã đem đến bài học sâu sắc, quý giá cho chúng ta, phải biết giữ vững quan điểm lập trường, ý kiến mới thành công trong cuộc sống. Tuy nhiên cũng đừng bảo thủ mà hãy sẵn sàng tiếp thu cái mới, cái đúng phù hợp cho cuộc sống.
Nhà văn hào Victor Hugo từng nói: "Hòa bình là đức hạnh của nhân loại. Chiến tranh là tội ác". Quả thực, chiến tranh đã qua đi hơn nửa thập kỷ nhưng những tội ác mà nó để lại vẫn luôn còn hiện hữu trong đời sống con người, không ngoại trừ những con người Việt Nam. Chất độc màu da cam là một trong những tội ác kinh hoàng mà chiến tranh để lại cho người dân Việt, để lại hậu quả nặng nề cho những nạn nhân.
Vậy: "chất độc màu da cam là gì?" Chất độc màu da cam là loại thuốc diệt cỏ cực mạnh được Mỹ sản xuất, sử dụng để mục đích tàn phá các cánh rừng Trường Sơn để làm lộ con đường huyết mạch vận chuyển hàng hóa và căn cứ của ta. Chất độc này phá hoại mùa màng của ta trong chiến tranh chống Mỹ. Thành phần chính của chất độc là điôxin. Những nạn nhân của chất độc màu da cam gồm lính Mỹ và đồng minh, người dân thường, quân dân Việt Nam nhiễm phải chất độc qua đường hô hấp. Hiện nay hiện có năm triệu người là nạn nhân của chất độc này nhưng phần lớn đều là người Việt Nam. Về thực trạng Việt Nam có hơn bốn triệu nạn nhân mắc các căn bệnh hiểm nghèo đều là do hậu quả của chất độc màu da cam như ung thư, phụ nữ đẻ non hoặc sinh con bị quái thai như sứt môi, hở hàm ếch, thiếu chân tay, tâm thần, bại liệt hay dị dạng,…Đã có trường hợp trong một gia đình có từ 3 – 5 người con bị nhiễm độc. Họ đang đòi công lý trong cuộc đấu tranh nhọc nhằn giai dẳng và Mỹ chưa chịu đền bù khi khiến hàng chục vạn người chết. Hàng vạn trẻ em chịu tật nguyền suốt đời.
Tội ác của lính Mỹ khi reo rắc nỗi sợ hãi mang tên "Chất độc màu da cam" đã gây ra hậu quả nặng nề. Những người dân Việt không may lại nhiễm chất độc màu da cam thời đánh Mỹ sẽ có tính chất di truyền sinh ra con bị biến dị, mất năng lực hành vi dân sự và thậm chí bị vô sinh. Điều này sẽ ảnh hưởng lớn tới sự duy trì, phát triển nòi giống của đất nước. Các nhà khoa học kết luận rằng chất độc màu da cam đã gây ra hậu quả y học và sinh học lâu dài đối với sức khỏe con người, không những đối với các cựu chiến binh Việt Nam đã từng tham gia chiến tranh, mà còn cả thế hệ thứ 2, thứ 3 là con em của những người bị phôi nhiễm. Thậm chí, cả những trẻ em sống trong vùng bị nhiễm chất độc hóa học cũng có biểu hiện tâm lý. Chất dioxin đã ảnh hưởng về di truyền sinh thái đặc biệt gây ra tình trạng sẩy thai, lưu thai hoặc có con bị dị tật bẩm sinh ở phụ nữ bị nhiễm. Tác động của chất độc cơ thể lên tới 100 năm. Bên cạnh đó, những người bị nhiễm chất độc màu da cam bị khuyết tật, ung thư… Thậm chí là mất năng lực hành vi dân sự sẽ ảnh hưởng không ít đến sự phát triển của đất nước, trở thành nỗi đau, gánh nặng cho gia đình, xã hội.
Vậy nên, Đảng và Nhà nước ta đã xây dựng, thành lập quỹ cho nạn nhân chất độc màu da cam. Các tổ chức, xã hội tiếp tục đấu tranh đòi công lý với các công ty hóa chất để được bồi thường. Chúng ta đã tận dụng sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế. Các cá nhân đồng cảm, sẻ chia bằng việc làm thiết thực.
Chiến tranh đã lùi xa nhưng di hoạ mà nó để lại vẫn hàng ngày hàng giờ làm bao người Việt Nam đau đớn. Trước tình hình ấy, cả nước đã lập quỹ giúp đỡ các nạn nhân chất độc màu da cam nhằm phần nào cải thiện cuộc sống và xoa dịu nỗi đau của họ.
Chất độc màu da cam mà Đế quốc Mỹ đã rải xuống các cánh rừng miền Nam thời chiến tranh đã tạo nên nỗi kinh hoàng cho thế hệ sau của những người đã từng sống ở những khu vực đó. Những đứa trẻ vô tội, tật nguyền, dị dạng, vừa chào đời đã phải lìa đời hoặc nếu sống được thì sức khoẻ, trí tuệ thậm chí cả hình hài đều không bình thường… Những sinh linh quái dị và vô tội ấy trở thành nỗi ám ảnh, đau đớn đến tê tái của người thân, gia đình và của toàn xã hội.Nguyên nhân nào dẫn đến thảm hoạ ấy? Chính là do sự vô nhân đạo của giới cầm quyền ở một đất nước đã từng tuyên bố về quyền con người trước toàn thế giới. Để thực hiện âm mưu xâm lược của mình, đế quốc Mỹ đã không từ một thủ đoạn nào kể cả việc vi phạm quyền làm người của những trẻ thơ vô tội. Những bọc nước, cục thịt, quái thai hoặc những sinh thể điên dại, vô tri vô giác do chất độc màu da cam không chỉ khiến cho gia đình đau đớn về tinh thần, khốn khổ về vật chất mà còn là gánh nặng cho toàn xã hội… Những vết thương không mảnh đạn mà đeo bám dai dẳng mãi mãi không lành. Đó chính là tội ác tày trời mà chiến tranh đã gây ra.
Trước tình hình đó nhiều chương trình ủng hộ những nạn nhân chất độc màu da cam đã được tổ chức. Biết bao người đã khóc thương cho những số phận bất hạnh, biết bao chữ ký đã được thu thập để ủng hộ cuộc đấu tranh đòi bồi thường cho các nạn nhân chiến tranh. Ngày đầu tiên Mỹ rải chất độc chết người này xuống Việt Nam: 10-8-1961 đã trở thành ngày “Vì nạn nhân chất độc màu da cam”. Cả nước Việt Nam đã lập quỹ giúp đỡ các nạn nhân khốn khổ. Đó là việc làm cần thiết để giúp đỡ họ phần nào cải thiện cuộc sống và xoa dịu nỗi đau. Nhiều em bé tật nguyền, côi cút đã được chăm sóc, nhiều tổ chức chính quyền, doanh nghiệp, cá nhân đã xây dựng nhà tình nghĩa, tặng xe lăn, tiền, quà, thăm hỏi và giúp đỡ các nạn nhân. Nhiều nhóm tình nguyện viên được thành lập để làm việc tại các trung tâm bảo trợ nạn nhân chất độc màu da cam… Dẫu biết rằng tất cả những giúp đỡ đó không thể bù đắp được những mất mát đau đớn của họ song đó thực sự là hành động đền ơn đáp nghĩa, phù hợp với truyền thống “tương thân tương ái”, “uống nước nhớ nguồn” của dân tộc Việt Nam ta. Cuộc sống không phải luôn mỉm cười với bất kỳ ai. Một danh nhân đã nói: “Không có số phận, chỉ có những quyết định của con người làm nên số phận mà thôi”.
Việt Nam đã cố gắng để xoa dịu nỗi đau chiến tranh, song “ơn phải trả, oán phải đền”. Chính phủ Mỹ và 37 công ty hoá chất đã cung cấp chất độc này cho quân đội Mỹ cũng phải chịu trách nhiệm về sự vô nhân đạo của mình.Nỗi đau của những nạn nhân da cam là một nỗi ám ảnh dai dẳng, việc giúp đỡ họ cần phải làm thường xuyên và liên tục. Bởi vậy mỗi chúng ta cần nhận thức sâu sắc về vấn đề này, tích cực học tập, phấn đấu xây dựng xã hội tốt đẹp mà ở đó mọi người đều được đảm bảo quyền sống và quyền hạnh phúc.
Trong thời đại ngày nay, người ta có thể đánh giá phần nào về mức độ phát triển và trình độ văn hóa, văn minh của một quốc gia qua bộ mặt của các đô thị và nếp sống của người dân. Ở các quốc gia tiên tiến, vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trường được quan tâm thường xuyên cho nên việc xả rác và nước thải bừa bãi hầu như không còn nữa. Người dân được giáo dục rất kĩ về ý thức bảo vệ môi trường sống xanh – sạch – đẹp. Điều đáng buồn là ở nước ta, hiện tượng khá phổ biến hiện nay là vứt rác ra những nơi công cộng, bất kể là đâu. Chỉ có thể gọi đích danh hiện tượng trên là lối sống thiếu văn hóa, văn minh.
Nguyên nhân của nó thì có rất nhiều. Thứ nhất là xuất phát từ lối sống lạc hậu, ích kỉ, chỉ biết đến quyền lợi cá nhân. Người ta nghĩ rất đơn giản rằng chỉ cần nhà mình sạch là được, còn ai bẩn mặc ai. Những nơi công cộng không phải là của mình, vậy thì việc gì phải mất công gìn giữ? Rác bẩn, đồ phế thải, xác súc vật chết… cứ ném toẹt ra đường là xong, đã có đội vệ sinh lo dọn dẹp. Cách nghĩ như thế là vô cùng thiển cận và nguy hại. Bởi thế mới dẫn đến tình trạng rác rưởi tràn ngập đường phố, công viên, sông hồ, kênh rạch…Nguyên nhân thứ hai là do thói quen xấu đã có từ lâu, khó mà sửa đổi. Người ta tiện tay vứt rác ở bất cứ chỗ nào. Ăn xong một que kem hay một chiếc kẹo, vứt que, vứt giấy xuống đất. Uống xong một lon nước ngọt hay một chai nước suối, vứt lon, vứt chai ngay tại chỗ vừa ngồi hoặc vừa đi qua. Thản nhiên, vô tư, chẳng có gì mà phải áy náy. Cho nên đến cả những nơi đẹp đẽ như danh lam thắng cảnh hoặc chốn tôn nghiêm như chùa chiền đền miếu… cũng bị biến thành nơi xả rác. Nguyên nhân thứ ba là những người hay vứt rác bừa bãi không nhận thức được rằng hành vi của mình là vô ý thức, phản văn hóa, văn minh, phá hoại môi trường sống. Việc làm sai trái của họ làm cho cảnh quan đô thị nhếch nhác và ô nhiễm nặng nề. Nếu có dịp đặt chân đến Thủ đô Hà Nội ngàn năm văn hiến, chắc du khách cũng phải bức xúc trước cảnh Hồ Gươm, Hồ Tây đẹp như thế mà lềnh bềnh những rác. Hoặc những phố cổ thâm nghiêm dưới bóng mát của cây xanh, lẽ ra là nơi đi dạo lí tưởng thì vỉa hè cũng ngổn ngang rác rưởi. Bến tàu, bến xe, vườn hoa, công viên… không chỗ nào mà không có rác.
Còn ở thành phố lớn và đông dân nhất nước là thành phố Hồ Chí Minh thì vài năm trở lại đây tình hình có khá hơn. Đường thông, hè thoáng. Tệ nạn vứt rác ra đường cũng đã giảm bớt nhưng vẫn đáng lo ngại, nhất là những khu vực chợ búa hoặc khu dân cư lao động. Người ta xả rác thẳng xuống kênh rạch, sông ngòi, xuống đường cống thoát nước, đến nỗi mùa mưa, nước không thoát được, đường biến thành sông, nước bẩn tràn ngược vào nhà, mất vệ sinh vô cùng! Rồi dịch bệnh cũng từ đó mà ra. Chính quyền phải tốn hao bao công sức, tiền của để giải quyết vấn đề nhức nhối này. Nguyên nhân thứ tư là do việc giáo dục ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường sống chưa được quan tâm đúng mức, chưa được tổ chức thường xuyên. Do đó mà trình độ hiểu biết của người dân còn thấp. Thái độ tự giác tuân thủ nội quy nơi công cộng chưa đi vào nề nếp, cao hơn nữa là thành nếp sống văn minh. Bên cạnh đó, việc xử phạt những người vô ý thức cũng chưa nghiêm túc, cho nên chưa đủ sức răn đe.
Để có được một cuộc sống phát triển văn minh, hiện đại, chúng ta còn phải phấn đấu rất nhiều. Trước hết, cần xóa bỏ những tệ nạn tồn tại bấy lâu, trong đó có nạn vứt rác bừa bãi nơi công cộng. Hành vi ích kỉ, thiếu văn hóa ấy đáng phê phán và chấm dứt để cuộc sống của chúng ta ngày càng tốt đẹp hơn. Hãy sống theo tinh thần: Mình vì mọi người, mọi người vì mình. Có như vậy môi trường sống mới trở nên xanh-sạch-đẹp và Trái Đất mới thực sự là ngôi nhà chung đáng yêu của tất cả nhân loại.
Ngày nay, trên thế giới, môi trường là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Ở các quốc gia tiên tiến, vấn đề giữ gìn vệ sinh môi trường được quan tâm thường xuyên nên việc xả rác và nước thải bừa bãi hầu như không còn nữa. Người dân được giáo dục rất kỹ về ý thức bảo vệ môi trường sống xanh – sạch – đẹp. Đáng buồn thay nước ta có một hiện tượng phổ biến là vứt rác ra đường hoặc những nơi công cộng, không giữ gìn vệ sinh đường phố. Việc làm đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường mà cụ thể ở đây là gây ô nhiễm môi trường.
Hiện tượng không giữ gìn vệ sinh đường phố có rất nhiều biểu hiện nhưng phổ biến nhất là vứt rác ra đường hoặc nơi công cộng. Ăn xong một que kem hay một chiếc kẹo, người ta vứt que, vứt giấy xuống đất. Uống xong một lon nước ngọt hay một chai nước suối, vứt lon, vứt chai ngay tại chỗ vừa ngồi mặc dù thùng rác để cách đó rất gần. Tuy vậy, họ vẫn thản nhiên, vô tư không có gì áy náy. Thậm chí khi ăn xong một tép kẹo cao su, họ cũng không mang đến thùng rác mà vo tròn rồi trét lên ghế đá và cứ thế bỏ đi chỗ khác. Không chỉ với những nơi công cộng, ở một số khu phố, con đường có đặt bảng khu phố văn hóa nhưng cỏ mọc um tùm tràn lan, rác rưởi ngập đầy khắp lối đi, mùi hôi khó chịu bốc lên suốt ngày. Một biểu hiện phổ biến khác là một số tài xế chở gạch, đá phế thải ở các công trình xây dựng đem đổ khắp nơi và cả trên dưới phố. Con người ta còn vô ý thức đến mức mang xác súc vật chết như chó, mèo, chuột, gia cầm như gà, vịt ném xuống hồ, ao, sông rạch và ra đường.
Ở một số hàng, quán bán trên vỉa hè người ta đổ tất cả đồ ăn dư thừa, nước rửa chén, bát xuống cống khiến cho nước thải bị ứ đọng, cống bị tắt nghẽn. Đáng sợ hơn, ở một số dòng sông những người sống trong những con đò đậu ngay trên sông có những việc làm gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Họ vô tư xả rác trên đò xuống sông, đi tiêu đi tiểu xuống sông rồi ngay lập tức lại lấy nước dưới sông lên tắm gội, giặt giũ thậm chí là nấu nướng. Thế nhưng hiện tượng xả rác đó còn lan sâu vào một tầng lớp trí thức trẻ ngày nay. Biểu hiện cụ thể ở một số sinh viên làm gia sư. Họ thường đứng ở các ngã ba, ngã tư đường để phát tờ rơi quảng cáo nhóm gia sư của mình một cách bừa bãi khiến khắp đường phố rải rác đầy những tờ rơi. Những việc làm trên tuy nhỏ nhưng lại gây tác hại vô cùng to lớn. Phải chăng dọn dẹp sạch sẽ nhà mình từ phòng khách đến nhà ăn, từ trong nhà ra ngoài vườn là tốt? Còn việc vứt rác bừa bãi, bạ đâu quăng đó cả những nơi công cộng là không cần thiết, không quan tâm không ảnh hưởng gì đến mình, đến gia đình mình. Điều này, mỗi chúng ta cần suy nghĩ lại. Bạn nghĩ sao khi một thành phố văn minh, giàu đẹp lại ngập tràn trong biển rác? Nó thể hiện hành vi của người vô văn hóa, vô ý thức, gây mất vệ sinh và ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Người ta vô tư vứt rác xuống sông nhưng họ có nghĩ rằng bao nhiêu người sử dụng nguồn nước này để ăn uống, tắm giặt? Nước không sạch, con người sử dụng, ăn uống, sức khỏe sẽ ra sao? Không có sức khỏe tốt thì lực lượng con người sẽ cống hiến như thế nào cho đất nước khi bước vào thiên niên kỉ mới với nền kinh tế công nghiệp, hiện đại. Không ở đâu xa, ngay trong thành phố của chúng ta – nơi con sông Đồng Nai chảy qua phải chịu bao rác rưởi dơ bẩn.
Công viên ven bờ sông là nơi sinh hoạt thể dục thể thao của các cụ ông, cụ bà và cả các thanh thiếu niên trong khu vực. Mọi người đến để thư giãn, hóng mát nhưng nhìn xuống dòng nước ven bờ, nước bẩn theo cống vẫn từng ngày từng giờ ung dung đổ xuống, bao ni lông bị ném xuống trôi bồng bềnh gây phản cảm, mất mĩ quan cả dòng sông. Còn đối với những ghế đá vô tội vạ bị những người vô ý thức trét bã kẹo cao su, khi có một người nào đó vô tình ngồi lên thì việc gì sẽ xảy ra? Bã kẹo sẽ dính chặt vào quần áo của người đó không những làm bẩn quần áo mà còn gây sự khó chịu. Và sẽ ra sao khi người ngồi trên ghế đá kia có một cuộc hẹn quan trọng? Bạn thấy đó, chỉ cần có một hành động vô ý thức đó mà gây ảnh hưởng đến công việc của người khác. Ngày nay, đi đến đâu cũng có nhiều người tự hào khoe khu phố mình đang sống là một khu phố văn hóa. Thế nhưng, được đặt bảng khu phố văn hóa mà rác rưởi vương vãi khắp nơi gây phản cảm cho người đi đường. Như vậy họ chẳng khác gì tự mình mỉa mai mình, tự đánh mất thể diện mình và cả khu phố. Cỏ mọc um tùm là điều kiện thuận lợi cho sinh sôi nảy nở của loài muỗi. Từ đó phát sinh dịch bệnh sốt xuất huyết – căn bệnh nguy hiểm đến tính mạng của con người.
Và việc một số tài xế đổ gạch đá phế thải ra ngoài đường thì sao? Một con đường đang sạch đẹp bỗng dưng phải hứng chịu vô số đất đá. Chúng vương vãi khắp nơi gây ùn tắc giao thông. Và cũng trên những con đường ấy đã xảy ra bao vụ tai nạn giao thông gây đau thương cho nhiều gia đình. Không chỉ có gạch đá bị thải ra đường mà còn có cả xác súc vật nữa. Như đã kể ở trên, xác súc vật bị quăng bừa bãi khắp nơi. Thịt của chúng dần phân hủy kèm theo là một mùi hôi vô cùng khó chịu đối với những người vô tình đi ngang qua. Tệ hại hơn, đứng trước nguy cơ bùng nổ dịch cúm gia cầm H5N1, một số người dân khi thấy gà vịt chết hàng loạt đã không báo cho cơ quan thú y xử lý mà họ đã tự ý ném xác chúng xuống hồ, ao. Đó là một việc làm vô cùng nguy hiểm vì nếu lỡ con gà hay vịt ấy mang trong mình mầm bệnh thì dịch bệnh sẽ phát tán trên cả khu vực rộng lớn do nước từ các ao, hồ này sẽ chảy ra sông – nguồn nước sinh hoạt của rất nhiều gia đình. Các quán ăn trên vỉa hè cũng có những hành vi xả rác nghiêm trọng. Những đồ ăn dư thừa hằng ngày vẫn đổ vào các cống thoát nước. Chúng khiến cho cống không thoát được nước. Vào những ngày mưa lớn, do hệ thống cống thoát nước không hoạt động hiệu quả, nước tràn khắp đường phố, cản trở giao thông. Nhiều lúc nước bẩn tràn ngược vào nhà. Nhìn cảnh tượng ấy, em thật bức xúc, xót xa cho một vẻ mĩ quan bị đánh mất.
Thật đáng nguy hiểm khi trẻ em ngày nay lại sa vào hiện tượng vứt rác bừa bãi rất nhiều. Cứ sau giờ chơi là mỗi lớp học lại đầy những vỏ kẹo, vỏ bánh. Điều đó làm phiền lòng rất nhiều thầy cô. Làm sao các thầy, các cô có thể toàn tâm dạy học trong một phòng học toàn rác bẩn như vậy. Và thế là việc học tạm gián đoạn để thu gom rác, dọn vệ sinh lớp. Nếu việc này vẫn xảy ra thường xuyên thì cả lớp sẽ mất bao nhiêu thời gian học tập và thậm chí có thể bị trừ điểm thi đua của lớp. Thật tai hại làm sao! Ngày hôm nay, vị trí nước ta đã khác đi rất nhiều. Nước ta đã là một thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO. Và sau khi tổ chức thành công Hội nghị thượng đỉnh APEC, con người và đất nước Việt Nam ta ngày càng được nhiều người biết đến. Lượng khách nước ngoài đến thăm nước ta ngày càng đông. Mọi người được giới thiệu về nước Việt Nam như là một nước thanh bình, thân thiện. Nhưng khi nhìn thấy những sự việc trên thì liệu họ còn cái nhìn thân thiện về nước ta chăng? Hay đó là một cách nhìn khác, cái nhìn phiến diện về cách sống của người Việt Nam. Có lần em đi trên đường và nhìn thấy một đoàn khách du lịch nước ngoài. Khi đi ngang qua một ngôi trường, nhìn thấy những tờ quảng cáo của các nhóm gia sư bị ném vương vãi đầy rẫy trước cổng trường, họ lắc đầu và đi về phía khác. Vừa đi, những người khách vừa trò chuyện. Và từ xa, em thoáng nghe được một câu nói bằng tiếng Anh của một trong số họ: "Người Việt Nam là thế sao?" Chỉ là một lời nói nhưng đối với em sao thật nặng nề, thật xấu hổ. Lúc đó em đã nghĩ rằng phải chi những tờ bướm kia không được phát một cách bừa bãi, cổng trường không còn rác thì chắc những vị khách trên đã không nói như vậy.
Chưa bao giờ ô nhiễm môi trường đang thực sự là vấn đề lớn của cả nhân loại như ngày nay. Những biến đổi khí hậu và hậu quả khủng khiếp của nó không còn là dự báo nữa mà thành hiện thực ở khắp nơi. Hiện tượng toàn cầu hóa El Nino và trái đất nóng dần lên do hiệu ứng nhà kính vẫn diễn ra từng ngày, từng giờ. Điều đáng suy nghĩ là ở chỗ phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả những hiện tượng trên đều có nguyên nhân từ con người, từ những hành động bừa bãi mà trong đó có cả việc xả rác và khí thải bừa bãi. Nói cách khác, những tác hại của việc xả rác mà em đã nêu ra như mất vệ sinh, thể hiện hành vi vô văn hóa, gây mất mĩ quan lan truyền dịch bệnh, tốn kém tiền của trong việc thu gom và xử lý, khiến cho người nước ngoài có ấn tượng không tốt ... đều có nguyên nhân bắt nguồn từ con người. Đầu tiên là do những thói quen xấu lười biếng và lối sống lạc hậu ích kỷ chĩ nghĩ đến quyền lợi cá nhân của một số người. Họ nghĩ đơn giản rằng chỉ cần nhà mình sạch thì được còn bẩn thì ai bẩn mặc ai. Những nơi công cộng không phải là của mình, vậy thì việc gì mà phải mất công gìn giữ. Cứ ném rác vội ra là xong, đã có đội vệ sinh lo dọn dẹp. Cách nghĩ như thế thật là thiển cận và nguy hại làm sao. Nguyên nhân tiếp theo là do thói quen đã có từ lâu, khó sửa đổi, phải có sự nhắc nhở thì người ta mới không xả rác bừa bãi. Ở các lớp học, hằng ngày, các thầy cô và ban cán sự lớp phải thường xuyên nhắc nhở thì mới giữ cho lớp học sạch đẹp. Nhưng xã hội là một phạm vị rộng lớn hơn lớp học rất nhiều. Mọi người đều bận rộn với công việc của mình và không một ai có đủ thời gian để đi nhắc nhở từng người một. Không được nhắc nhở, con người ta lại quay về với thói quen trước kia. Nguyên nhân cuối cùng là do ý thức về vệ sinh của một số người chưa được tốt. Họ không nhận thức được rằng hành vi của mình là vô ý thức, phản văn hóa, văn minh, phá hoại môi trường sống. Bên cạnh đó cũng cần phải nói đến việc giáo dục ý thức giữ gìn, bảo vệ môi trường sống chưa được quan tâm đúng mức, chưa được tổ chức thường xuyên. Mặc dù trên các phương tiện thông tin đại chúng vẫn có những chương trình kêu gọi ý thức bảo vệ môi trường của con người nhưng chúng quá ít ỏi, không đáp ứng được nhu cầu tìm hiểu và học hòi của người dân. Do đó mà trình độ hiểu biết của người dân còn thấp dẫn đến thái độ tuân thủ nội quy nơi công cộng chưa đi vào nề nếp. Mặt khác, nếu so với các nước trên thế giới thì việc xử phạt những người vô ý thức cũng chưa thật nghiêm túc. Ví dụ như ở nước Singapo, chỉ cần ném một mẩu giấy ra đường là đã bị phạt tiền rất nặng. Tùy vào mức độ sai phạm mà người vi phạm có thể bị đánh giữa đường. Còn ở Việt Nam thì sao? Những người vô ý thức vẫn ung dung như không có gì xảy ra vì hình thức xử phạt ở nước ta quá dễ dãi, nhẹ nhàng chưa đủ sức răn đe.
Cuộc sống ngày càng đi lên, ý thức người dân ngày càng cao. Mỗi người dân đều góp phần tạo nên vẻ đẹp cho địa phương mình bằng chính những hành động nhỏ nhưng thiết thực. Giữ gìn vệ sinh chung nơi công cộng và bỏ rác đúng nơi quy định là thể hiện một con người văn minh, lịch sự và có văn hóa.
Trên bản đồ thế giới Việt Nam chỉ có một vị trí rất khiêm tốn, nhưng trong các kỳ thi quốc tế, Việt Nam được biết đến như là quê hương của những người con ưu tú, biết vượt qua khó khăn để làm nên những điều kỳ diệu.
Trải qua hàng nghìn năm phong kiến và hàng trăm năm Bắc thuộc, điều kiện kinh tế của Việt Nam hạn chế, cơ sở vật chất chưa phát triển vậy mà đã có nhiều học sinh đoạt huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế. Không mấy ai không nhớ lần đầu tiên tham dự thi toán quốc tế năm 1974, Việt Nam đã đoạt liền 4 huy chương vàng. Lần thi Olimpic Toán quốc tế tại Anh, Lê Bá Khánh Trình với số điểm tuyệt đối 40/40 đã được nữ hoàng Anh trao giải đặc biệt. Ngay cả trong lĩnh vực mới mẻ là chế tạo Rôbôcon, những chú rôbôt của nhóm FXR-sinh viên Đại học Bách Khoa thành phố Hồ Chí Minh đã xuất sắc vượt trên cả những đất nước tên tuổi như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc để mang về chiếc cúp vàng cho quê hương Việt Nam... Những thành tích ấy không chỉ làm rạng danh đất Việt mà còn là sự khẳng định cho sức mạnh của trí tuệ Việt Nam. Tại sao một đất nước nhỏ bé nghèo nàn, lạc hậu như Việt Nam lại có thể sản sinh ra những con người ưu tú đến thế? Câu hỏi ấy không chỉ người Việt Nam mới biết rõ câu trả lời. Suốt chiều dài thăng trầm của lịch sử, lòng ham hiểu biết, ý chí học tập, tìm tòi, chiếm lĩnh đỉnh cao tri thức luôn được nung nấu trong trái tim mỗi người Việt Nam. Tự thuở xưa, bằng ánh sáng của những con đom đóm, Mạc Đĩnh Chi đã miệt mài học tập để trở thành lưỡng quốc trạng nguyên, Nguyễn Hiền nhờ tự học mà đoạt giải khôi nguyên khi mới 12 tuổi, Lê Quý Đôn, Lương Thế Vinh và biết bao người nữa đã làm nên truyền thống hiếu học của nước nhà... Họ đã trở thành tấm gương, thành nội lực tinh thần để học sinh - sinh viên Việt Nam cố gắng hết mình, cần cù say mê học tập.
Đất nước nghèo nàn, lạc hậu nên nếu các bạn nước khác cố gắng một thì học sinh - sinh viên Việt Nam phải cố gấp hai ba lần để bù đắp những thiếu hụt, thiệt thòi vể điều kiện học tập. Dường như chính sự nghèo nàn lạc hậu của đất nước đã hun đúc ý chí tìm tòi, sáng tạo của học sinh Việt Nam. Lòng yêu nước, nỗi khát khao quê hương xứ sở đẹp giàu, là sức mạnh to lớn giúp học sinh - sinh viên Việt Nam đạt tới những chân trời khoa học. Những tấm huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế mà chúng ta có được không chỉ bởi sự nỗ lực của cá nhân mà còn nhờ sự quan tâm chăm sóc của gia đình, của thầy cô và nhất là sự chăm lo của Đảng, nhà nước đối với tài năng trẻ. Bởi lẽ tự ngàn xưa, người Việt Nam ta đã quan niệm "hiền tài là nguyên khí của quốc gia". Sự thành công của học sinh - sinh viên Việt Nam đã đem đến cho người Việt Nam và bản thân em lòng tin và niềm tự hào sâu sắc về trí tuệ Việt Nam, thôi thúc trong em khát vọng được chinh phục những chân trời tri thức.
Tóm lại, học sinh chúng ta cần học tập những tấm gương học sinh, sinh viên Việt Nam tiêu biểu để đạt được thành tích cao, học tập về những phẩm chất như kiên trì, say mê học tập, năng động, sáng tạo, nghị lực vượt lên khó khăn của họ nhằm đạt được thành tích cao trong học tập, góp phần thực hiện nhiệm vụ công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, đưa nước ta sánh vai với các cường quốc năm châu trên thế giới như lời Bác dạy.
“Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các cháu”. Quyết tâm thực hiện tốt lời Bác dạy, ngày nay đất nước Việt Nam tuy điều kiện kinh tế hạn chế, cơ sở vật chất chưa phát triển, nhưng đã có nhiều học sinh đoạt huy chương vàng tại các cuộc thi quốc tế. Đó là những tấm gương tiêu biểu cho lòng say mê, cần cù học tập, năng động, sáng tạo và ý chí vượt lên hoàn cảnh để bước đến thành công.
Nhắc đến thành tích của đội tuyển Việt Nam khi tham dự các kỳ thi Toán Quốc tế, nhiều người hẳn vẫn chưa quên hình ảnh cậu học sinh Việt Nam nhỏ nhắn, người đã vinh dự được đích thân tổng thống nước Cộng hòa Ru-ma-ni trao huy chương vàng Toán quốc tế lần thứ 40 tổ chức tại Bu-ca-rét năm 1999. Đó là Lê Thái Hoàng, học sinh lớp 12A khối phổ thông chuyên Toán trường Đại học sư phạm Hà Nội. Tại cuộc thi này, Hoàng đã cùng đội tuyển Việt Nam vươn lên đứng hàng thứ hai trên thế giới. Nếu như Lê Thái Hoàng nổi tiếng với tấm huy chương vàng bộ môn Toán, thì Nguyễn Bích Hoàng Anh, sinh viên năm I ngành Công nghệ thông tin Đại học Khoa học tự nhiên, đã xuất sắc đem về cho đất nước tấm huy chương bạc Olympic Tin học quốc tế tại Ba Lan. Và gần đây nhất là sinh viên Đại học Bách Khoa Việt Nam đoạt giải vô địch cuộc thi Robocon châu Á tại Hàn Quốc 2004. Đó chỉ là một phần rất nhỏ trong tổng số những gương mặt học sinh, sinh viên Việt Nam tiêu biểu. Chúng ta được biết đến họ qua các phương tiện truyền thông và đều thật sự rất thán phục họ. Thế nhưng tại sao họ có thể đạt được những kỳ tích vẻ vang như thế? Đó trước hết là nhờ lòng hăng say, miệt mài học tập.
Thomas Edison đã từng nói: “Thiên tài là 1% cảm hứng cộng với 99% khổ luyện”. Nếu như bạn không cố gắng học tập, rèn luyện, trau dồi tri thức và đem áp dụng những kiến thức mới đó vào cuộc sống thì liệu bạn có thể nhớ nổi hàng ngàn, hàng vạn kiến thức đã được học hay không? Khi bạn gặp một vấn đề khó thì chớ nên đầu hàng, mà hãy tiếp tục nỗ lực trau dồi, học hỏi để tìm ra cách giải quyết tốt nhất. Luôn có một tinh thần học tập cao thì bạn sẽ thành công. Đó chính là yếu tố đầu tiên và cũng là yếu tố quan trọng nhất để tạo nên một thiên tài. Ngoài ra, còn một phẩm chất quan trọng nữa cần phải có để học tốt là năng động, sáng tạo. Khi ta giải quyết được một vấn đề, hầu hết chúng ta đều rất vui mừng. Ít ai còn nghĩ đến việc tìm ra một con đường ngắn hơn, thuận tiện hơn để đạt được mục tiêu đặt ra. Tìm ra những cách giải quyết mới vừa giúp chúng ta trau dồi và bổ sung vốn kiến thức sẵn có của mình, vừa giúp chúng ta có được những kinh nghiệm quý báu để giải quyết những khó khăn khác. Chính óc sáng tạo đã giúp con người Việt Nam tạo nên được những kỳ tích. Trong số những gương mặt tiêu biểu của sinh viên, học sinh Việt Nam đạt thành tích cao trong học tập, có không ít những người hoàn cảnh gia đình rất khó khăn, hoặc bị khuyết tật. Nhưng họ đã xuất sắc vượt qua trở ngại to lớn đó để đem vinh quang về cho đất nước. Một tấm gương tiêu biểu là bạn Lê Vũ Hoàng. Tuy sống trong một ngôi nhà lá dột nát, sáng cắt rau cho lợn ăn, chiều đánh bắt cá trầu, vừa chăm bà chăm em, vừa chăm mẹ nằm viện,… nhưng Hoàng vẫn đạt được giải Nhất trong cuôc thi “Đường lên đỉnh Olympia”. Ý chí và nghị lực kiên cường đã giúp những con người ấy vượt lên hoàn cảnh khó khăn của bản thân. Hơn nữa, sinh viên Việt Nam khi tiếp xúc với các cuộc thi quốc tế thật sự gặp nhiều bất lợi vì họ không có đủ điều kiện để học tập, thực hành nhiều như sinh viên nước ngoài, càng không được nhận một nền giáo dục dân chủ, hiện đại, nhưng họ đã vượt qua hạn chế ấy. Vậy mới biết, bằng ý chí, nghị lực, quyết tâm vượt qua khó khăn, không đầu hàng số phận cũng là một yếu tố quan trọng để đạt được những thành tích cao.
Nếu chỉ biết khoanh tay đầu hàng trước những khó khăn thì đến bao giờ bản thân mới có thể tiến bộ. Trong thời kỳ công nghiệp hóa – hiện đại hóa hiện nay, khi thế giới vẫn không ngừng thay đổi dù chỉ trong một giây, thì những gương mặt sinh viên, học sinh ưu tú, những tấm huy chương, thành tích cao thật sự là những phương tiện quý giá để đất nước Việt Nam từ một quốc gia lạc hậu vươn lên sánh ngang tầm với thế giới. Để thực hiện điều đó, trước hết, học sinh, sinh viên Việt Nam cần rèn luyện những phẩm chất đã nêu ở trên để vượt qua những giới hạn về vật chất, khắc phục những điểm yếu của bản thân để xây dựng đất nước ngày càng giàu mạnh hơn, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh hơn.
Mỗi chúng ta khi sinh ra đời chúng ta không thể tự lựa chọn cha mẹ hay số phận cho chính mình được. Tạo hóa cho mỗi con người một số phận khác nhau. Có những người vừa sinh ra đã gặp nhiều may mắn hạnh phúc có ba mẹ yêu thương, sinh ra trong một gia đình giàu có sung túc. Ngược lại có những người vừa sinh ra đã thiệt thòi bởi hoàn cảnh của gia đình khó khăn, hoặc bị ba mẹ bỏ rơi không cha không mẹ, có những người sinh ra đã không được khỏe mạnh bằng chúng bạn của mình, thiệt thòi hơn các bạn rất nhiều. Nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì những con người chúng ta đều cố gắng vươn lên trong cuộc sống. Có những người dù bị thiệt thòi trong cuộc sống nhưng họ không vì thế mà buông xuôi cuộc đời mình mà luôn cố gắng vươn lên trong cuộc sống để không thua kém bạn bè. Những con người đó thật sự là tấm gương sáng để cho chúng ta noi theo, thái độ sống tích cực của họ.
Trong xã hội của chúng ta còn nhiều con người chịu nhiều thiệt thòi đó họ không đầu hàng số phận không chấp nhận mình sẽ là gánh nặng của gia đình và xã hội họ cố gắng vươn lên trong cuộc sống của chính mình quả là một điều thật sự đáng ngưỡng mộ. Như thầy giáo Nguyễn Ngọc Kí một con người đã chịu rất nhiều trong cuộc sống khi sinh ra đã bị liệt hai tay. Nhưng bằng nghị lực phi thường của mình thầy đã cố gắng học viết chữ bằng chân. Những ngày đầu tập viết những nét chữ viết bằng tay còn khó khăn thì những nét chữ bằng chân vô cùng khó. Nhưng thầy Nguyễn Ngọc Kí vẫn kiên nhẫn tập viết mỗi ngày để rồi thầy có thể theo đuổi sự nghiệp học hành của mình. Rồi thầy Nguyễn Ngọc Kí đã thi đỗ đại học rồi trở thành một thầy giáo. Một thầy giáo dạy giỏi viết chữ bằng chân. Đó chính là một nỗ lực phi thường của mỗi con người. Hay như bạn trẻ Nguyễn Sơn Lâm một người cũng bị tật nguyền cả hai chân nhưng lại có những thành tích đáng nể trong học tập và trong cuộc sống của mình. Nguyễn Sơn Lâm là người đã chinh phục được nhiều thành tựu trong cuộc sống. Rồi còn nhiều tấm gương khác trong cuộc sống. Những con người những số phận khi sinh ra đã thiệt thòi hơn so với những người khác trong cuộc sống.
Những con người thiệt thòi, khi họ sinh ra đã không được lành lặn nhưng chính nhờ ý chí, nghị lực sống phi thường của mình mà họ đã vươn lên trở thành những con người thành đạt không hề thua kém những người lành lặn. Thậm chí, nhiều bạn trẻ khỏe mạnh lành lặn nhưng sự nỗ lực trong cuộc sống lại không. Họ để cho những thói hư tật xấu trong cuộc sống cám dỗ mình rồi trở thành những kẻ tội phạm gây ra những tội ác ghê rợn. Những bạn trẻ này thật sự là gánh nặng của xã hội, họ thật sự không biết tận dụng những lợi thế mà cuộc sống, tạo hóa đã ban tặng cho mình sống hoài sống phí tuổi trẻ tương lai của mình. Trong khi đó nhiều người vừa sinh ra do những ảnh hưởng của chất độc màu da cam, hoặc do tạo hóa nên khi vừa chào đời họ đã thiệt thòi, nhưng họ vẫn luôn sống có ích, có ước mơ hoài bão của mình. Cái đáng quý nhất của mỗi con người này chính là nghị lực sống kiên cường, phi thường của họ. Dù cuộc sống có nhiều khắc nghiệt nhưng họ vẫn vươn lên trong cuộc sống với những ước mơ, hoài bão vô cùng lớn lao. Những con người này thường phải nỗ lực gấp hai, ba lần thậm chí mười lần so với người khỏe mạnh bình thường nhưng họ lại tạo ra những kỳ tích mà người khỏe mạnh bình thường cũng không làm được. Đó chính là điều đáng quý đáng trân trọng ở những con người này. Dù tạo hóa không công bằng với họ nhưng họ không trông chờ vào lòng từ bi, thương hại của người khác mà luôn chủ động trong cuộc sống của mình. Thậm chí họ còn tạo nên nhiều thành công mà người khác phải nể phục sự thành công của họ. Họ sinh ra có thể thiếu đi một bộ phận nào đó trên cơ thể nhưng bằng bàn tay khối óc của mình họ đã kiên cường vươn lên trong cuộc sống. Họ quyết khẳng định vị trí của mình không làm gánh nặng cho gia đình và xã hội. Chính trái tim khối óc, ý chí của con người đã chiến thắng mọi thứ trong cuộc sống. Những con người có nghị lực sống thì không có khó khăn nào có thể làm họ gục ngã.
Cuộc sống xung quanh ta không phải toàn màu hồng như chúng ta nghĩ chính vì lẽ đó không phải ai sinh ra đều có cuộc sống hạnh phúc. Một danh nhân đã nói: "Không có số phận, chỉ có những quyết định của con người làm nên số phận mà thôi".
Cuộc sống không phải luôn mỉm cười với bất kỳ ai. Một danh nhân đã nói: “Không có số phận, chỉ có những quyết định của con người làm nên số phận mà thôi”. Thật vậy, trong cuộc sống có biết bao tấm gương vượt lên số phận như thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký, thương binh Nguyễn Trọng Hợp,… Họ đã vượt lên và chiến thắng số phận, khiến bao người phải cảm phục.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, có lẽ Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ bất hạnh nhất. Trên đường lên kinh ứng thí, nghe tin mẹ mất, ông chẳng màng mười năm đèn sách mà quay ngay về nhà để chịu tang mẹ. Cậu bé Nguyễn Đình Chiểu mất ba từ thuở bé, giờ đến tuổi trưởng thành mẹ lại ra đi. Do quá thương nhớ mẹ, Nguyễn Đình Chiểu đã khóc thật nhiều, và sau khi trải qua một cơn bạo bệnh, đôi mắt ông trở nên mù lòa. Mẹ mất, gia cảnh sa sút. Thế là gia đình vốn có hôn ước với ông nay đã trở mặt, bội tín. Cuộc đời ông rơi vào bế tắc với bao đau khổ, cùng cực. Đối với người khác, như vậy là quá đủ để chấm dứt cuộc đời hay sống buông thả, thờ ơ mặc dòng đời đẩy đưa. Nhưng Nguyễn Đình Chiểu không như thế. Ông vẫn quay về quê nhà bốc thuốc chữa bệnh cho dân, lấy sức lấy tài của mình để mở lớp dạy học, đào tạo nhân tài cho đất nước. Khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, bằng lòng yêu nước nồng nàn, ông tích cực tham gia sáng tác những “vũ khí văn học” lợi hại để khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân dân. Thực dân Pháp đã nhiều lần mua chuộc Nguyễn Đình Chiểu bằng những hứa hẹn về việc chữa khỏi đôi mắt của ông và cho ông một cuộc sống giàu sang, sung sướng. Nhưng với ý chí kiên trung, bất khuất, ông đã không cúi mình trước những cám dỗ ấy. Thế nên, ông trở thành nhà thơ tiêu biểu của Nam Bộ và của cả nước ta thời bấy giờ. Với những nỗ lực của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã chứng tỏ với mọi người rằng ông là người tàn chứ không phế.
Nguyễn Ngọc Ký, cái tên rất đỗi thân thuộc với nhiều thế hệ thanh niên Việt Nam, đã trở thành biểu tượng của lòng quyết tâm và sự kiên trì. Cậu bé Ký bị bại liệt cả hai tay khi mới bốn tuổi. Đôi cánh tay ấy buông thõng như hai sợi dây đeo bên vai cậu. Không được may mắn như bao bạn khác, cậu bé chỉ dám đứng bên cửa sổ nghe lỏm cô giáo giảng bài. Cô giáo thương tình quá nên cho phép Ký vào lớp. Cậu bắt đầu những chuỗi ngày luyện tập gian khổ: luyện viết bằng chân. Có những lúc đôi chân co quắp lại, đau điếng vì bị chuột rút, những ngón chân sưng phồng lên nhưng vẫn phải kẹp chặt mẩu bút,… Tất cả những điều đó vẫn không làm cậu học trò nhỏ chùn bước. Cuối cùng, cậu đạt được giải Vở sạch chữ đẹp của trường, rồi của quận. Thật đáng nể! Nhờ chính đôi chân và lòng quyết tâm, cậu bé Ký năm xưa giờ đã vào được đại học và trở thành nhà giáo ưu tú. Không những thế, thầy giáo Nguyễn Ngọc Ký còn sáng tác những chín đầu sách văn học. Mỗi ngày sống và làm việc, thầy giáo Ký đã dùng đôi chân thay đôi tay với bao nhọc nhằn, gian khó, từng bước viết nên huyền thoại về cuộc đời mình.
Và còn nhiều nhiều nữa những tấm gương đẹp như thế. Họ bất hạnh vì bệnh tật, tai nạn hay bẩm sinh. Họ không có khả năng lao động chân tay hiệu quả như bao người khác. Không ít người trong số họ đã buông xuôi, tuyệt vọng. Quả thật, áp lực tâm lý đối với những người bị tật nguyền là rất lớn. Đó là những mặc cảm, tự ti về khiếm khuyết trên cơ thể mình, là những gánh nặng mà họ đem đến cho gia đình và xã hội. Tuy nhiên, những người vượt lên được số phận chỉ cho rằng những khiếm khuyết của mình khiến mình đặc biệt hơn những người khác nhưng không đáng kể. Bức tường mặc cảm không tài nào ngăn được họ hòa nhập với thế giới xung quanh như bao người bình thường khác. Họ phấn đấu, nỗ lực hết mình để chứng tỏ bản lĩnh bởi họ không muốn sống quỵ lụy, yếu đuối và phụ thuộc vào người khác. Từ gánh nặng của xã hội, họ gắng sức phấn đấu, trở thành những công dân có ích, xóa đi những khoảng cách, rào cản giữa người bình thường và người khuyết tật. Khó khăn đấy, vất vả đấy nhưng họ vẫn gắng hết mình chiến thắng số phận vì họ biết rằng: “Chúng ta chỉ thực sự thất bại khi chúng ta từ bỏ mọi cố gắng”. Những thành công mà họ đạt được không dễ dàng, mà ẩn chứa trong đó là bao mồ hôi, nước mắt, bao khó khăn, tủi cực,… Điều đó càng khiến chúng ta thêm khâm phục họ, những con người không chịu thua số phận.
Tấm gương sáng ngời của những mảnh đời bất hạnh đã giúp chúng ta soi lại chính mình. Cuộc sống đối với một số người là muôn vàn gian lao, thử thách. Ngược lại, đối với một số người khác, cuộc sống như tấm thảm nhung êm ái trải đầy hoa hồng. Chúng ta chính là những con người may mắn ấy. Chúng ta còn được sống giữa vòng tay ấm áp, yêu thương của gia đình. Hơn nữa, khác hẳn họ, chúng ta được sinh ra và lớn lên giữa thời bình, không thiếu thốn về kinh tế. Nhưng thật sự chúng ta đã biết quý trọng cuộc sống ấy chưa? Thật đáng tiếc nếu chúng ta sống quá an phận, tự để mình mờ nhạt và chìm vào quên lãng giữa cuộc sống xã hội hiện đại ngày nay. Có phải chúng ta vẫn học qua loa, đối phó mà không bận tâm rằng ngay lúc ấy có biết bao cô cậu bé đứng bên cửa sổ lớp học, thèm được nghe cô giáo giảng bài. Qua những tấm gương vượt qua số phận, chúng ta chợt cảm thấy mình quá bé nhỏ, tầm thường. Chúng ta học tập ở họ không chỉ ở lòng kiên trì, nhẫn nại, say mê học tập mà còn ở lối sống lạc quan, yêu đời.
Những tấm gương, những huyền thoại về những con người bất hạnh nhưng phi thường đã gieo trong tim ta niềm tin yêu cuộc sống. Lặng lẽ như nụ chồi từ bóng tối vươn ra ánh sáng, họ đã vượt lên chính mình để có một ngày mai tươi sáng hơn.