Một số đề nghị luận văn học về bài Sóng - Ngữ Văn 12

Tải xuống 68 2.4 K 4

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Một số đề nghị luận văn học về bài Sóng - Ngữ Văn 12, tài liệu bao gồm 68 trang, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho bài thi tốt nghiệp THPT môn Ngữ Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

1. Tố Hữu và tác phẩm ” Việt Bắc” 

Cảnh vật và tinh thần Việt Bắc đã nhập vào hồn tôi, máu thịt tôi, Việt Bắc ở trong tôi.

(Tố Hữu – “Nhà văn nói về tác phẩm”)

Thơ là đi giữa nhạc và ý. Rơi vào cái vực ý, thì thơ sẽ sâu, nhưng rất dễ khô khan. Rơi vào cái vực nhạc, thì thơ dễ làm đắm say người, nhưng cũng dễ nông cạn. Tố Hữu đã giữ được thế quân bình giữa hai vực thu hút ấy. Thơ của anh vừa ru người trongnhạc, vừa thức người bằng ý.

(Chế Lan Viên – “Lời nói đầu tuyển tập thơ Tố Hữu”)

Việt Bắc là đỉnh thơ cao nhất mà Tố Hữu đã bước lên. (Xuân Diệu – “Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu”)

Sức mạnh của thơ Tố Hữu trong những ngày đen tối ấy chính là vì nó nói với trái tim, chính là bởi người cách mạng ấy là một thi sĩ chính cống, thật sự.

(Xuân Diệu -“Tố Hữu với chúng tôi”)

Lịch trình tiến triển về thơ của Tố Hữu đi song song với lịch trình tiến triển về tư tưởng và trình độ giác ngộ, về sức hoạt động của Tố Hữu.

Thơ Tố Hữu không phải là một trò tiêu khiển mà là một khí cụ đấu tranh, một công  tác vận động của người cách mạng.

Người Tố Hữu là một thi sĩ, một chiến sĩ nhưng chúng ta đừng quên cốt cách của nó là thi sĩ.

(Lời giới thiệu tập Thơ của Tố Hữu,Văn hóa Cứu quốc Việt Nam xuất bản, 1946)

Tố Hữu không tô vẽ lên nhân vật quần chúng những nét sơn hào nhoáng, giả tạo. Tình cảm của nhân vật thơ anh biểu hiện lên từ bản chất giai cấp, từ đời sống thực.

Người bộ đội chiếm một địa vị quan trọng trong tập thơ Việt Bắc, chính là người nông dân nghèo khổ.

(Chặng đường mới của chúng ta, 1961, Hoàng Trung Thông)

Với Tố Hữu, thơ là vũ khí đấu tranh cách mạng. Ðó chính là đặc sắc và cũng là bí quyết độc đáo của Tố Hữu trong thơ

(Lời giới thiệu tập thơ Từ ấy, Văn học, 1959, Đặng Thai Mai)

 

Thơ Tố Hữu là thơ một con người biết trân trọng lấy đời mình, muốn làm cho đời mình trở nên hữu ích. Vậy thì ai kia còn phung phí đời mình, làm gì cũng được, sống sao cũng xong, trong khi đọc thơ này hãy bắt đầu thử dừng lại mà biết quý lấy đời mình, mà đem xây dựng nó.

Phong cách dân tộc ở Tố Hữu thể hiện ở chỗ thơ anh giàu chất nhạc, anh nắm rất vững cái âm điệu, vần điệu của dân tộc.

… Thơ anh là lối thơ lấy cái đường đi toàn đời, lấy cái hơi toàn tập, lấy cái tứ toàn bài là chính… Anh là một con chim vụ ở đường bay hơn là bộ lông, bộ cánh, tuy vẫn là lông cánh đẹp.

(Lời nói đầu cho tuyển tập 1938 – 1963 của Tố Hữu, Văn học, 1964, Chế Lan Viên)

Nhà thi sĩ ấy tự muốn mình là tiếng nói của dân tộc mình. Vậy thì dân tộc ấy có năng khiếu thơ thông qua nhà thi sĩ. Các dân tộc hiện đại, đã công nghiệp hóa rồi, đã bị san phẳng bởi những phương tiện tuyên truyền, không còn có một năng khiếu về hình tượng như thế nữa; không còn suối nguồn ở bản thân mình nữa. Nhưng Tố Hữu đắm mình trong dân tộc của mình, đồng thời là một thi sĩ độc đáo, một nhà sáng tạo ra các hình thể. Người ta càng cảm thấy điều đó rõ hơn khi anh nói một cách rất hay về thơ.

(Lời tựa tập thơ Máu và hoa, xuất bản ở Pháp, năm 1975, Pierre Emmanuel)

Tập thơ Máu và hoa này xuất bản vào mùa thu năm 1975. tôi tin rằng tạp chí Châu âu (Europe) sẽ đón chào nó như một sự kiện văn học.

Jacques Gaucheron – Con đường của Tố Hữu (trong tập Máu và hoa (Sang et Fleurs) EFR, Paris, 1975)

Thơ của chàng thanh niên Tố Hữu khi ấy từ trái tim vọt ra cũng như thơ của chúng tôi, cũng lãng mạn như thể chúng tôi, nhưng là thứ lãng mạn khác, có nhiều máu huyết hơn; thơ chúng tôi chỉ đập cho mở cửa trời, nhưng thơ Tố Hữu thì mới có chìa khóa: Cách mạng, giải phóng dân tộc, giải phóng cho người lao khổ.

(Tố Hữu với chúng tôi, 1975, Xuân Diệu)

Một tiếng nói yêu thương luôn luôn chan hòa ánh sáng, tự nó cũng là ánh sáng, lại hết sức linh hoạt và uyển chuyển, mỗi lúc một khác, mỗi nơi một khác, kể cả những lúc chỉ là sự im lặng giữa các dòng thơ. Phải chăng đây chính là bản sắc riêng của thơ Tố Hữu.

(Chuyện thơ, 1978, Hoài Thanh)

Thơ Tố Hữu bao giờ cũng mới, càng ngày càng mới, vì nó thể hiện thế giới quan cách mạng của chủ nghĩa Mác, hệ tư tưởng vô sản, đạo đức cộng sản chủ nghĩa là những tư tưởng càng ngày càng trở thành cách nhìn, nếp sống phổ biến của những con người mới của thời đại.

(Bình luận văn học, 1964, Như Phong)

2. Nhận định về Quang Dũng và tác phẩm ” Tây tiến”

“… Tây Tiến là sự tiếp tục của một dòng thơ lãng mạn nhưng đã được tác giả thổi vào hồn thơ rất trẻ, rất mới, khác hẳn những tiếng thơ bi lụy não nùng. Cũng khơi nguồn cảm hừng từ một thời gian khổ và oanh liệt của lịch sử đất nước nhưng Tây Tiến đã được thể hiện một cách đặc sắc qua ngòi bút Quang Dũng, với một tâm trạng cụ thể- nỗi nhớ đồng đội trong đoàn quân Tây Tiến. Chính niềm thương nhớ da diết và lòng tự hào chân thành của tác giả về những người đồng đội của mình đã khiến người đọc của nhiều thế hệ rung cảm sâu xa và đó cũng chính là âm hưởng chủ đạo của bài thơ này…” .

(Vũ Thu Hương, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng).

 “… Tây Tiến – tượng đài bất tử về người lính vô danh…” ( Vũ Thu Hương).

“… Tây Tiến … nơi mà con người Tây Tiến, chiến sĩ Tây Tiến, núi rừng Tây Tiến đã vượt ra ngoài những cảm quan ban đầu của hồn thơ Quang Dũng để đến với đại ngàn thi hứng. Nơi ấy, cuồn cuộn dòng chảy lạnh lùng và đa tình, hiện thực và lãng mạn, bi và tráng. Một Tây Tiến không chỉ níu kéo bước chân người lính trong nỗi niềm nhớ… Tất cả đều gợi ấn tượng của sự “lạ hóa”, của những vẻ đẹp kì ảo khó gọi tên…”.

(Đinh Minh Hằng, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng)

“…Tây Tiến- sự thăng hoa của một tâm hồn lãng mạn (Đinh Minh Hằng)…”.

“… Tôi làm bài thơ này rất nhanh. Làm xong, đọc trước đại hội được mọi người hoan nghênh nhiệt liệt. Hồi đó tấm lòng và cảm xúc của mình ra sao thì viết vậy. Tôi chả chút lí luận gì về thơ cả…”

(Quang Dũng)

 

3. Nhận định về Xuân Quỳnh và tác phẩm Sóng 

 “Xuân Quỳnh viết bài này “bợm” thật!”.

(Nhà thơ Vũ Cao, Chủ nhiệm tạp chí Văn nghệ quân đội)

“Đó là cuộc hành trình khởi đầu là sự từ bỏ cái chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến một tình yêu bao la rộng lớn, cuối cùng là khát vọng được sống hết mình trong tình yêu, muốn hóa thân vĩnh viễn thành tình yêu muôn thở”.

(GS TS Trần Đăng Suyền)

“Ở mỗi tập thơ của Xuân Quỳnh, những bài viết của tình yêu thường để lại nhiều ấn tượng hơn cả. Với giọng điệu hết sức thơ hết sức tự nhiên, bài “Sóng” thể hiện một tình yêu sâu sắc, bồi hồi, thao thức đến cả trong giấc mơ. Dù có những gian truân cách trở, nhưng tình yêu bao giờ cũng đẹp, cũng đến được tận cùng hạnh phúc, như con sóng nhỏ đến với bờ ”

(Nhà thơ Việt Nam hiện đại, GS Phong Lê chủ biên 

“Thơ Xuân Quỳnh là thơ của một cánh chuồn chuồn bay tìm chỗ nương thân trong nắng nôi dông bão của cuộc đời … Thế giới thơ ca Xuân Quỳnh là sự tương tranh không ngừng giữa khắc nghiệt và yên lành với những biểu hiện sống động và biến hóa khôn cùng của chúng. Ở đó trái tim thơ Xuân Quỳnh là cánh chuồn chuồn báo bão cứ chao đi chao về, mệt nhòai giữa biến động và yên định, bão tố và bình yên, chiến tranh và hòa bình, thác lũ và êm trôi, tình yêu và cách trở, ra đi và trở lại, chảy trôi phiêu bạt và trụ vững kiên gan, tổ ấm và dòng đời, sóng và bờ, thuyền và biển, nhà ga và con tàu, trời xanh và bom đạn, gió Lào và cát trắng, cỏ dại và nắng lửa, thủy chung và trắc trở, xuân sắc và tàn phai, ngọn lửa cô đơn và đại ngàn tối sẫm…”

(Chu Văn Sơn)

“Điều đáng quý nhất ở Xuân Quỳnh và thơ Xuân Quỳnh là sự thành thật rất thành thật, thành thật trong quan hệ bạn bè, với xã hội và cả tình yêu. Chị không quanh co không giấu diếm một điều gì. Mỗi dòng thơ, mỗi trang thơ đều phơi bày một tình cảm, một suy nghĩ của chị. Chỉ cần qua thơ ta biết khá kĩ đời tư của chị. Thành thật, đây là cốt lõi thơ Xuân Quỳnh”

(Võ Văn Trực)

4. Nguyễn Tuân và “Chữ người tử tù” – “Người lái đò Sông Đà”  

Chỉ người ưa suy xét đọc Nguyễn Tuân mới thấy thú vị, vì văn Nguyễn Tuân không phải thứ văn để người nông nổi thưởng thức.

(Vũ Ngọc Phan)

Ðây là một nhà văn “suốt đời đi tìm cái Ðẹp, cái Thật” (Nguyễn Ðình Thi), tự nhận mình là người “sinh ra để thờ Nghệ Thuật với hai chữ viết hoa”.

“Khi thì trang nghiêm cổ kính, khi thì đùa cợt bông phèng, khi thì thánh thót trầm bổng, khi thì xô bồ bừa bãi như là ném ra trong một cơn say chếnh choáng, khinh bạc đấy, nhưng bao giờ cũng rất đỗi tài hoa”

(Nguyễn Ðăng Mạnh)

Tác phẩm gần đạt đến độ “toàn thiện toàn mỹ” ấy (Vũ Ngọc Phan) góp phần đưa nghệ thuật văn xuôi Việt Nam phát triển thêm một bước mới trên con đường hiện đại hóa. “Vang bóng một thời” vẽ lại những cái “đẹp xưa” của thời phong kiến suy tàn, thời có những ông Nghè, ông Cống, ông Tú thích chơi lan chơi cúc, thích đánh bạc bằng thơ hoặc nhấm nháp chén trà trong sương sớm với tất cả nghi lễ thành kính đến thiêng liêng. […] “Vang bóng một thời”, vì thế, có thể được xem như một bảo tàng lưu giữ các giá trị văn hóa cổ truyền của dân tộc.

Giáo sư Nguyễn Ðăng Mạnh có nhận định : “Hạt nhân của phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân có thể gói gọn trong một chữ ngông. Cái ngông vừa có màu sắc cổ điển, kế thừa truyền thống tài hoa bất đắc chí của những Nguyễn Khuyến, Tú Xương, Tản Ðà,… và trực tiếp hơn là cụ Tú Lan, thân sinh nhà văn ; vừa mang dáng vẻ hiện đại, ảnh hưởng từ các hệ thống triết lý nổi loạn của xã hội tư sản phương Tây như triết lý siêu nhân, quan niệm về con người cao đẳng, thuyết hiện ..”

Ông xứng đáng được mệnh danh là “chuyên viên cao cấp tiếng Việt”, là “người thợ kim hoàn của chữ” (Ý của Tố Hữu), Tinh thần tự nguyện dấn thân, bám trụ ở thành trì cái Ðẹp là biểu hiện sinh động của một nhân cách văn hóa lớn. Nhà văn Nguyễn Tuân “đặc Việt Nam” (chữ dùng của Vũ Ngọc Phan) từ quan niệm cho tới thực tế sáng tác

“… Đọc Người lái đò sông Đà, ta có ấn tượng rõ rệt về sự tự do của một tài năng, của một đấng hóa công thực sự trong nghệ thuật ngôn từ… Khi gân guốc, khi mềm mại, khi nghiêm nghị như một nhà bác học, khi hồn nhiên như một đứa trẻ thơ, những trang viết, những câu văn của Nguyễn Tuân mang hơi thở ấm nóng của cuộc đời phức tạp, phong phú, đa dạng. Sự tự ý thức sâu sắc về tài năng của mình không phải là một biểu hiện tiêu cực, trái lại, nó tạo nên sự giải phóng năng lượng rất cần thiết để nhà văn có thể sáng tạo nên những tác phẩm kì vĩ…”. (Phan Huy Đông, in trong Vẻ đẹp văn học cách mạng).

“… Nguyễn Tuân đã sáng tạo ra một con Sông Đà không phải là thiên nhiên vô tri, vô giác, mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng hẳn hoi và khá phức tạp. Nó có hai nét tính cách cơ bản đối lập nhau như tác giả nói – “hung bạo và trữ tình…” .

(Nguyễn Đăng Mạnh)

“… Nguyễn Tuân – một cây bút vốn luôn khao khát những cảm giác, cảm xúc mới lạ, nồng nàn, say đắm…”.

(Nguyễn Đăng Mạnh

Mở bài và kết bài Sóng – Xuân Quỳnh

Mở bài Sóng 1 (st)

Không biết từ bao giờ những con sóng ào ạt từ sông, từ biển đã tròn lăn chạm vào trái tim của người nghệ sĩ. Nếu Nguyễn Khuyến thổi vào gợn sóng biếc hơi thở của một mùa thu trong veo, Huy Cận vẽ sóng Tràng Giang bằng những dòng thơ hiu hắt của một kẻ sĩ bất lực trước thời cuộc thì nữ sĩ Xuân Quỳnh đã khoác lên những con sóng bạc đầu tấm áo tình yêu nồng nàn, vĩnh cửu bằng một hồn thơ đắm say, cháy bỏng. Giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mỹ đang nước sôi lửa bỏng, vẻ đẹp dịu dàng, chung thủy trong tình yêu của người con gái được Xuân Quỳnh thể hiện trong bài thơ “Sóng” ngời sáng như một hòn ngọc báu của văn chương.

Mở bài Sóng 2

Tình yêu là đề tài đầy ma lực với bao ngòi bút thơ ca, là cung đàn muôn điệu làm rung động bao trái tim yêu để từ đó ngân lên thành lời thơ nhân loại. Mỗi một nhà thơ đều có những cảm nhận khác nhau về tình yêu: một Tago đầy triết lý ngụ ngôn; một Puskin nồng nàn và cao thượng, một Xuân Diệu  rạo rực, đắm say, vồ vập; một Hàn Mặc Tử say đắm mà bơ vơ…Và đến với bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh ta lại bắt gặp một cảm xúc tình yêu đầy trăn trở khát khao của một tâm hồn người phụ nữ luôn da diết trong khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường.

 Mở bài Sóng 3

     Là nhà thơ có cuộc đời nhiều sóng gió, Xuân Quỳnh luôn khao khát tình yêu, khao khát mái ấm gia đình và tình mẫu tử. Thơ Xuân Quỳnh là tiếng nói của người phụ nữ giàu yêu thương, khao khát hạnh phúc bình dị đời thường; cũng là tiếng lòng của một người nhiều âu lo, day dứt, trăn trở trong tình yêu. Xuân Quỳnh có rất nhiều bài thơ hay, tiêu biểu là bài thơ “Sóng”. 

Mở bài Sóng 4

Sẽ thật là thừa thãi khi nói về vẻ đẹp, sự huyền bí, sự hấp dẫn, niềm sung sướng và cả những đớn đau do Tình Yêu đem lại. Thế gian đã tốn bao nhiêu giấy mực, thậm chí cả máu để nói, viết, ca tụng cho Tình Yêu. Trong cuộc đời trần tục đầy biến ảo này, mọi thứ đều thay đổi, nhưng có một thứ là bất biến, vĩnh hằng. Đó chính là sự thuần khiết, lung linh của Tình yêu. Thế giới tình yêu vốn đã đẹp, thế giới tình yêu trong thơ ca lại càng đẹp hơn. Mỗi vần thơ viết về tình yêu đều lung linh lãng mạn. Câu chuyện tình yêu nào cũng là câu chuyện cổ tích đẹp đẽ. Và có lẽ, Sóng của Xuân Quỳnh là câu chuyện cổ tích hay nhất về tình yêu mà ta từng đọc. Bằng thể thơ ngũ ngôn giàu nhịp điệu, nhịp sóng và nhịp lòng – Xuân Quỳnh đã kể ta nghe về những khát khao bình dị của người phụ nữ trong tình yêu.

Dẫn đoạn sau vào đầu thân bài

– Bài thơ “Sóng” được Xuân Quỳnh sáng tác tại biển Diêm Điền năm 1967, sau được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”. Bài thơ mang âm hưởng của những con sóng biển và những con sóng lòng đang khao khát tình yêu. Bài thơ có hai hình tượng cùng song hành và hòa điệu, đó là “Sóng” và “Em”. Hai hình tượng này đã tạo nên nét đáng yêu cho bài thơ.

Nghệ thuật:

          Với thể thơ năm chữ giàu nhịp điệu, Xuân Quỳnh đã kể câu chuyện cổ tích tình yêu rất đặc sắc. Sử dụng linh hoạt các phép tu từ nhân hoá, ẩn dụ, điệp từ điệp ngữ làm cho những con sóng biển trở nên gần gũi và thân quen. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị; giọng thơ tràn đầy nữ tính với những da diết chân thành trong tình cảm.

Kết bài Sóng – Xuân Quỳnh

          Tóm lại, Sóng là câu chuyện tình yêu đẹp và nhân văn của một hồn thơ nữ tính luôn giàu những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Sóng đã đi vào lòng người và mãi mãi khắc ghi  một bài ca không quên về một câu chuyện tình yêu đầy lãng mạn. Gấp trang sách lại rồi mà dường như trong ta vẫn còn ngân nga một giai điệu của sóng và của em:

Em trở về đúng nghĩa trái tim em

Là máu thịt đời thường ai chẳng có

Dẫu ngừng đập khi cuộc đời không còn nữa

Nhưng biết yêu anh cả khi chết đi rồi

 

Câu 2. (5.0 điểm)

Trong hai khổ thơ đầu của bài thơ Sóng, nhân vật trữ tình soi vào sóng để tự nhận thức về tình yêu:

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

            Đến hai khổ thơ cuối, tình yêu tan vào sóng để dâng hiến và bất tử:

Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

(Ngữ Văn 12, Tập một, tr.155 – 156, NXB Giáo Dục – 2008)

Cảm nhận của anh/chị về vẻ đẹp tình yêu trong các khổ thơ trên. Từ đó, rút ra nhận xét về sự vận động của hình tượng sóng và em.

3.1 Mở bài: (0,25 điểm)

– Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh và tác phẩm “Sóng”, nêu vấn đề chính: Cảm nhận về vẻ đẹp tình yêu qua khổ 1-2 và 8-9.

– Nêu ý phụ: rút ra nhận xét về sự vận động giữa hình tượng sóng em.

3.2 Thân bài: (3,5 điểm)

1.a) Khái quát sơ lược về tác phẩm cần cảm nhận. 0.25 đ

2.b) Cảm nhận vẻ đẹp của tình yêu. 2.25 đ

– Khổ 1-2, nhân vật trữ tình soi mình vào sóng để nhận thức về tình yêu.

– Những dạng thức tồn tại của sóng cũng là những trạng thái tâm hồn đầy mâu thuẫn, phức tạp trong tình yêu của em: dữ dội – dịu êm; ồn ào – lặng lẽ…

– Con sóng luôn muốn tìm đến đại dương bao la để thỏa sức vẫy vùng vì không chịu được sự nhỏ bé, hạn hẹp của những dòng sông. Em cũng thế, cũng luôn muốn tìm thấy một tình yêu bao dung, rộng lớn để có thể “hiểu nổi mình”.

– Sóng luôn tồn tại như một quy luật bất biến trên cõi đời, khi nào trái đất còn quay thì đại dương vẫn còn bao la, xanh thẳm, dù xưa hay nay “vẫn thế”. Tình yêu cũng trở thành quy luật bất biến trong đời sống nhân loại, nhất là tình yêu luôn gắn với tuổi trẻ hồn nhiên, sôi nổi, nhiệt thành như tình yêu của em.

– Khổ 8-9: tình yêu tan vào sóngđể dâng hiến và bất tử.

– Khi đứng trước đại dương, em – cái tôi trữ tình của người con gái đang yêu – nhận ra rằng biển cả dù lớn thì cũng đều có giới hạn: bến bờ. Từ đó, trong lòng em gợn lên những suy tư, trăn trở, lo âu khi nhận ra sự ngắn ngủi, hữu hạn của đời người (Khổ 8, “cuộc đời tuy dài thế…).

– Biển cả dẫu có giới hạn như cuộc đời mỗi người nhưng những con sóng không bao giờ ngơi nghỉ cũng như tình yêu đã trở nên bất diệt, song hành mãi mãi cùng nhân loại. Từ những chiêm nghiệm ấy, em đã ao ước, khát khao hướng đến một tình yêu trường tồn, vĩnh hằng; cái tôi yêu đương đã sẵn sàng dâng hiến để trở nên bất tử. (Khổ 9, “Làm sao được tan ra…”).

 

 

* Những đặc sắc nghệ thuật: Thể thơ năm chữ nhịp ngắn, giàu nhạc điệu; hình ảnh ẩn dụ đồng hiện giữa “sóng” và “em”; từ ngữ, hình ảnh khơi gợi nhiều cảm xúc.

1.c) Bàn luận mở rộng: Nhận xét về sự vận động của hình tượng sóng và em. (1.0 điểm)

* Sự vận động của hình tượng sóng.

– Ở hai khổ đầu, sóng chỉ đơn thuần là một chi tiết nghệ thuật được nhân vật trữ tình chiêm ngưỡng với những suy ngẫm sâu xa để từ đó phát hiện giữa sóng và em có những tương đồng đến kì lạ: đầy phức tạp, bí ân nhưng đã khái quát hóa thành quy luật trường tồn.

– Đến hai khổ cuối, sóng không còn đóng vai một đối tượng khơi gợi cảm xúc nữa mà thật sự đã trở thành một hình tượng song hành, đồng hiện cùng với hình tượng “em”. Khát vọng của em đã tan ra thành “trăm con sóng”; giai điệu của sóng cũng là lời bài hát ca ngợi một tình yêu trường tồn để âm giai của cả em và sóng cùng hòa nhịp đến vĩnh hằng “ngàn năm còn vỗ”.

* Sự vận động của hình tượng “em”.

– Em ở hai khổ thơ đầu là một cái tôi đang nung nấu một tình yêu cháy bỏng, đầy cung bậc cảm xúc. Cái tôi ấy dễ dàng rung động trước hình ảnh giầu tính biểu cảm với tình yêu như sóng và cái tôi ấy cũng ẩn chứa bao giai điệu đẹp của khát vọng, của những nỗi bồi hồi trong trái tim của một cô gái trẻ.

– Đến hai khổ cuối, qua một hành trình đồng hành cùng sóng với những bí ẩn không lời đáp, với nỗi nhớ, với khát khao vượt qua tất cả để hướng về nhau, cái tôi tình yêu trong em dường như đã có sự trưởng thành. Không còn là một cái tôi đầy xúc cảm phức tạp nữa mà suy tư của em đã tập trung cho những lo âu, trăn trở về một cuộc đời ngắn ngủi, hữu hạn có thể biến tình yêu thành điểm chết tuyệt vọng. Đó vẫn là một cái tôi đầy mãnh liệt, khao khát nhưng không phải từ một ái tình liều lĩnh, bất chấp mà là cái tôi muốn hòa vào sự bất tử của thiên nhiên để hát mãi khúc tình ca.

– Em và sóng từ hai hình tượng tách bạch, đơn lẻ đã có sự hòa quyện, đồng điệu trong ngòi bút đầy tinh tế. Sự vận động của hai hình tượng cũng là sự chuyển biến trong mạch cảm xúc của Xuân Quỳnh, nhà thơ vốn dĩ đã đầy khao khát yêu thương.

3.3 Kết bài: (0.25 điểm)

– Khẳng định lại ý nghĩa, giá trị của tác phẩm.

– Nêu bài học liên hệ: hướng tới tình yêu trong sáng; sự trưởng thành trong tình yêu

 

 

 

Vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong khổ 5 bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh

Thơ là cây đàn muôn điệu, là nhịp thở con tim. Thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người: niềm vui, nỗi buồn, sự cô đơn, tuyệt vọng… Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ vì vậy thơ không chỉ nói hộ lòng mình, mà nó còn là tiếng nói của một trái tim đang rạo rực, yêu đương. Với tình yêu da diết, mãnh liệt, Xuân Quỳnh đã viết “Sóng”. Đọc tác phẩm, ta sẽ thấy được những vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ đặc biệt là vẻ đẹp tâm hồn của một người phụ nữ khi yêu và điều đó được thể hiện qua đoạn thơ:

Bản quyền bài viết này thuộc về https://vanhay.edu.vn. Mọi hành động sử dụng nội dung web xin vui lòng ghi rõ nguồn

“Con sóng dưới lòng sâu

…………………………

Dù muôn vời cách trở”

Quả không sai khi nói rằng với người làm thơ thì bài thơ là một phương tiện quan trọng để biểu đạt cảm xúc. Chỉ có cảm xúc chân thật mới là cơ sở đễây dựng nên một tác phẩm nghệ thuật chân chính. Cảm xúc càng mãnh liệt, thăng hoa, bài thơ càng có sức ám ảnh đối với trái tim người đọc. Mang trong mình sứ mệnh cao cả của người cầm bút, Xuân Quỳnh đã không ngừng sáng tạo, đổi mới phong cách của mình. Với những đóng góp đó, bà đã khẳng định được vai trò và vị trí của mình trên nền văn học hiện đại và được biết đến là một gương mặt tiêu biểu cho thế hệ nhà thơ trẻ thời kháng chiến chống Mĩ. Trong sự nghiệp văn chương đồ sộ của Xuân Quỳnh, ta không thể không kể đến bài thơ “Sóng”. Tác phẩm chính là kết quả trong chuyến đi thực tế tại biển Diêm Điền (Thái Bình) của Xuân Quỳnh năm 1967, in trong tập “Hoa dọc chiến hào” (1968). Có thể nói, đây là một trong những bài thơ hay nhất của Xuân Quỳnh viết về tình yêu.

Xuyên suốt trong tác phẩm là hình tượng sóng. Đây chính là hình ảnh ẩn dụ cho nỗi nhớ, tình cảm, trạng thái của nhân vật trữ tình vì vậy sóng và em luôn song hành với nhau, sóng chính là nỗi lòng, em soi mình vào sóng để hiểu mình hơn. Cũng từ đó mà vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ được khẳng định và làm sáng tỏ.

Mở đầu đoạn thơ, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ được gửi gắm qua sự thủy chung, son sắt. Trong tình yêu, người phụ nữ luôn mong có được một tình yêu lớn lao, mãnh liệt bởi vậy, họ luôn giữ cho mình tấm lòng thủy chung và sự thủy chung ấy chính là nỗi nhơ da diết dành cho người mình yêu:

“Con sóng dưới lòng sông

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”

Dường như nỗi nhớ của nhân vật em đã lam tỏa khắp không gian “dưới lòng sâu”, trên mặt nước, bao trùm cả thời gian “ngày đêm” và nỗi nhớ ấy càng trở nên vô tận hơn khi đặt trong hình tượng sóng. Trong dòng chảy của văn học Việt Nam, ta đã từng bắt gặp nỗi nhớ đầy đáng yêu của Xuân Diệu:

“Anh nhớ tiếng, anh nhớ hình, anh nhớ ảnh

Anh nhớ em, nhớ lắm em ơi”

Hay như Nguyễn Bính, ông cũng đã từng bày tỏ nỗi nhớ phảng phất nét mộc mạc đúng chất của một nhà thơ chân quê:

“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông

Một người chín nhớ mười mong một người”.

Nhưng nhớ tới mức “cả trong mơ còn thức” thì có lẽ chỉ Xuân Quỳnh mới có. Nhà thơ đã rất đúng khi cho rằng trên đời này không gì có thể sánh bằng tình yêu kể từ khi được yêu, được sống trong hạnh phúc, Xuân Quỳnh luôn đặt tình yêu lên ngai vàng của trái tim. Tình yêu và nỗi nhớ của bà không chỉ tồn tại trong vô thức kể cả trong những giấc mơ thì tình yêu của em vẫn luôn hướng về anh:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh một phương”.

Đoạn thơ đã sử dụng các cặp từ đối lập “xuôi- ngược”, “Bắc- Nam”. Đặc biệt, sự kết hợp cặp từ đối lập với hai đối cực Bắc, Nam đã diễn tả sự đối lập ở mức cao độ. Người ta thường nói “Xuôi về phương Bắc, ngược về phương Nam” nhưng ở đây lại hoàn toàn ngược lại. Từ đó, Xuân Quỳnh muốn khẳng định dù đất trời có thay đổi, vũ trụ có biến thiên thì người phụ nữ vẫn không bao giờ thay đổi. Ở đoạn thơ này, Xuân Quỳnh còn sáng tạo ra một phương mới, đó chính là phương anh. Phải chăng, đây chính là phương tâm trạng, phương tình cảm của người phụ nữ. Đó chính là nơi hpoj luôn hướng về để tìm được sự bình yên sau những giông tố của cuộc đời.

Vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh còn là sự vượt qua những khó khăn, thử thách trong tình yêu. Tình yêu chính là sức mạnh để họ bước đến hạnh phúc:

“Ở ngoài kia đại dương

Ngàn trăm con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dẫu muôn vời cách trở”.

Sóng ngàn năm vẫn vậy, dẫu có chuyện gì xảy ra đích đến của nó vẫn là bờ, muôn ngàn năm sau vẫn thế. Xuân Quỳnh đã phát hiện ra quy luật của sóng rất giống với quy luật của tình yêu. Tình yêu từng khi có sự ồn ào nhưng ẩn sâu trong đó vẫn luôn hướng tới sự nhẹ nhàng, tình yêu nhiều khi có những dữ dội nhưng đích đến cuối cùng vẫn là sự ngọt ngào, êm dịu. Và dù cho có chuyện gì xảy ra, em và anh cũng nhất định vượt qua để đến với bến bờ hạnh phúc.

Cũng từ hình tượng “sóng”, Xuân Quỳnh đã cho người đọc thấy dduwwocj vẻ đẹp mới mẻ trong tâm hồn của người phụ nữ đó chính là sự chủ động trong tình yêu. Sự chủ động của người phụ nữ cũng giống như những con sóng vượt đại dương để vào bờ:

“Con nào chẳng tới bờ

Dẫu muôn vời cách trở”.

Nếu trong ca dao, dân ca, trong cuộc sống cũng như tình yêu, người phụ nữ luôn ở thế bị động:

“Thân em như tấm lụa đào

Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai?”

Ngay cả Hồ Xuân Hương, dù có táo bạo đến đâu nhưng cũng phải lấy chữ duyên, chữ phận làm duyên cớ để nói về chuyện tình cảm:

“Quả cau nho nhỏ miếng trầu hôi

Này của Xuân Hương đã quệt rồi

Có phải duyên nhau thì thắm lại

Đừng xanh như lá, bạc như vôi”.

Thì Xuân Quỳnh lại hết sưc chủ động trong chuyện tình cảm của mình:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”

Qua hình hượng sóng cùng hình tượng nhân vật “em”, Xuân Quỳnh đã cho người đọc đi sâu khám phá vẻ đẹp tâm hồn của những người phụ nữ, đó chính là nỗi nhớ của sự thủy chung, là niềm tin để vượt qua trắc trở, cùng sự chủ động đến với tình yêu của bản thân. Đó chính là những nét đẹp đáng trân trọng và nâng niu.

Thể thơ năm chữ, cách ngắt, nhịp uyển chuyển, từ ngữ giàu sức biểu cảm, giàu sức gợi kết hượp với các biện pháp tu từ nhân hóa, ẩn dụ, bài thơ nói chung và đoạn thơ nói riêng đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Đoạn thơ đã khép lại nhưng trong tâm trí ta vẫn như thấy hình ảnh của một Xuân Quỳnh đang khao khát, rạo rực trong tình yêu với một trái tim yêu đương da diết. Dường như sau từng câu, từng chữ là những suy ngẫm, tiếng thở của Xuân Quỳnh về tình yêu. Có lẽ đó chính là lí do vì sao dù ra đời đã lâu nhưng “Sóng” vẫn không bị lớp bụi thời gian vùi lấp và còn giá trị mãi với thời gian

Tài liệu có 68 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống