Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh lớp 12 bài văn mẫu Phân tích nhân vật người Vợ nhặt trong truyện Vợ Nhặt hay nhất, gồm 20 trang trong đó có dàn ý phân tích chi tiết, sơ đồ tư duy và 18 bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi vào tốt nghiệp THPT môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
PHÂN TÍCH NHÂN VẬT NGƯỜI VỢ NHẶT TRONG TRUYỆN VỢ NHẶT
Kim Lân là nhà văn của làng quê Việt Nam với cách viết chân chất, mộc mạc và những hình ảnh nhân vật điển hình cho làng quê. Văn của Kim Lân đi sâu vào lòng người đọc bởi tình cảm bình dị, rất đời thường nhưng chan chứa nghĩa tình. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện thành công xã hội nghèo khổ, cùng cực, bế tắc của người nông dân. Bằng bút pháp tả thực Kim Lân đã xây dựng thành công tuyến nhân vật đại diện cho cuộc sống bần cùng giai đoạn đó. Đó là nhân vật người vợ.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vấn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Tác phẩm như đã tái hiện lên khung cảnh lúc đó, ở một xóm nghèo nhỏ, người dân sống cực khổ quanh năm, lại thêm cảnh chèn ép bắt đóng thuế… nhọc nhằn sao kể xiết.
Ngay từ nhan đề của tác phẩm, Kim Lân đã dẫn người đọc khám phá cuộc sống của những con người nghèo khổ trong xã hội Việt Nam. Là “vợ nhặt”, là chi tiết và là tình huống truyện thắt nút cho diễn biến xoay quanh nhân vật người vợ trong tác phẩm. Từ “nhặt” mang lại cho đọc giả cái cảm giác rẻ rúng, bèo bọt của phận làm nữ nhi, gợi lên niềm xót thương cho số phận con người. “Vợ nhặt” nghe quá đỗi chân thực và vẽ lên hình ảnh người phụ nữ có một cuộc sống khó khăn, chẳng được hưởng hạnh phúc trọn vẹn khi ngay cả một đám cưới nhỏ cũng không có hay chính xác hơn là một mâm cơm ngon cũng chỉ như giấc mộng hão huyền ngày cô về làm dâu nhà người ta.
Mở đầu truyện ngắn, tác giả đã phác họa hình ảnh nhân vật anh cu Tràng “hắn bước đi ngật ngưỡng, vừa đi vừa tủm tỉm cười, hai bên quai hàm bạnh ra…”. Chỉ với vài chi tiết đó, người đọc cũng đã hình dung được diện mạo xấu xí của một anh nông dân nghèo rách mùng tơi. Từ ngày nạn đói hoành hành, đám trẻ con không buồn trêu Tràng nữa, vì chúng đã không còn sức lực. Bởi cuộc sống quá khó khăn, đói kém con người ta trở nên càng mệt mỏi, chán nản, từ già trẻ, gái trai đều đem sự khắc khổ của đời mà ghim vào những nếp nhăn, nếp chân chim, và làn da rám nắng, thân thể gầy gò quắt queo. Trong khung cảnh chiều tà, suy nghĩ của Tràng được tái hiện “hắn bước đi từng bước mệt mỏi, cái ao nâu tàng vắt sang một bên cánh tay". Hình như những lo lắng, cực nhọc đè nặng lên cái lưng gấu của hắn”. Và bỗng một hôm hắn dắt về một người đàn bà lạ hoắc không một ai trong xóm nhỏ quen biết. Dưới ngòi bút miêu tả của nhà văn đầy ám ảnh “thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”. Một người đàn bà nghèo khổ, không còn thứ gì giá trị đi cạnh một người đàn ông nghèo khổ, cùng cực đúng là một đôi trời sinh. Tưởng chừng Thị là một người phụ nữ táo bạo vô duyên nhưng thực chất cũng vô cùng e lệ và suy nghĩ như một người phụ nữ. Cắp thúng con theo Tràng về, nàng dâu mới cũng bẽn lẽn theo sau, khi bị trêu chọc cũng e thẹn như bao nàng dâu mới khác. Về đến nhà, khi được Tràng mời ngồi thị chỉ ngồi mớm ở giường, tay vân vê và bộ mặt lộ rõ vẻ đầy lo lắng. Chắc có lẽ thị nghĩ về cuộc sống mới của hai vợ chồng, rồi cuộc đời của thị sẽ đi đến đâu.
Khi trở về nhà, hình ảnh bà cụ Tứ, mẹ Tràng được Kim Lân khắc họa diễn biến và sự chuyển đổi trong tâm tính thật tài tình và sâu sắc. Người đọc sẽ hiểu hơn tấm lòng một người mẹ bao dung và hiền hậu. Chi tiết “bà lão phấp phỏng bước theo con vào nhà, đến giữa sân bà sững lại vì thấy có một người đàn bà ở trong…”. Sự băn khoăn lo lắng của bà cụ bắt đầu hiện lên. Nhưng rồi bà cũng nhận ra, cũng hiểu “bà lão cúi đầu nín lặng, bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán, vừa xót xa cho số kiếp con mình. Chao ôi người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc làm ăn nên nổi, còn mình…”. Những suy nghĩ chua xót của bà lão được Kim Lân diễn tả qua một loạt động từ tình thái khiến cho cái khổ, cái đói lại vồ vập và hiển hiện rõ ràng hơn bao giờ hết. Thế nhưng vì thương con, lại một chữ “thương” mà bỏ qua tất cả để người mẹ chấp nhận cuộc sống vất vả, khổ cực có thêm một miệng ăn và bà cũng thương cả hai con người trẻ tuổi trước mặt mình: “Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là con dâu trong nhà rồi”. Có hai tình huống xảy ra mà khiến độc giả có lẽ không cầm được nước mắt, đó là khi nhà ăn bữa cơm đầu tiên đón nhận thành viên mới và lúc bà mẹ già bưng nồi ‘‘chè khoán’’ nghi ngút khói ra đặt cạnh mâm cơm. Trong cái thời nạn đói, người chết như rạ ấy thì một bữa cơm đúng nghĩa quả thực rất khó để có trong một gia đình như của Tráng. Bữa cơm bao gồm “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà ăn đều rất ngon lành’’. Thật sự là nghèo khó đến bần cùng cạn kiệt. Người vợ vẫn ăn mà không một câu than phiền. Xuất thân của thị cũng có hơn gì ai. Thị cũng nghèo khó, gầy gò và vì tình thương mà đến làm vợ, làm con dâu nhà người ta. Thị cũng là một người vô cùng đảm đang và tháo vát. Khi về nhà Tràng, buổi sáng sớm tinh mơ, Thị đã dậy sớm để cùng bà dọn dẹp và sửa sang lại căn nhà vườn tược. Dường như Thị muốn vun vén cuộc sống của gia đình và bắt đầu một cuộc sống mới. Thị cũng rất vui tính và hòa nhập nhanh với cuộc sống mới. Trong bữa ăn, thị kể nhiều câu chuyện, có cả câu chuyện cướp kho thóc Nhật, từ đó dấy lên bao niềm khát khao hi vọng tự do của những người dân nghèo khó. Một bữa cơm đón dâu nghèo nàn đến đáng thương. Tình huống khiến người đọc nhớ mãi, hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên. Hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa". Ai cũng muốn có một bữa cơm đón dâu có mâm cao, cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn, “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà Tứ có thể mang lại cho con. Và có lẽ trong thâm tâm người ‘‘vợ nhặt’’ cảm thấy xúc động thêm thương xót cho những con người trong gia đình này. Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do khát mà ra.
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện. Trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
a) Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác giả, tác phẩm:
+ Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, am hiểu sâu sắc đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.
+ "Vợ nhặt" là một trong số những truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của Kim Lân.
- Khái quát về nhân vật người vợ nhặt: Một trong những nhân vật đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt - đại diện cho những nạn nhân xấu số của nạn đói năm 1945.
b) Thân bài
* Khái quát về truyện ngắn:
- Hoàn cảnh sáng tác: Vợ nhặt được in trong tập Con chó xấu xí với tiền thân là tiểu thuyết Xóm ngụ cư được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), Kim Lân đã dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này.
- Giá trị nội dung tác phẩm: Truyện ngắn không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà còn thể hiện được bản chất tốt đẹp và sức sống kì diệu của họ, ngay trên bờ vực của cái chết họ vẫn hướng về sự sống, khát khao tổ ấm gia đình và thương yêu, đùm bọc lẫn nhau.
* Lai lịch, xuất thân và hoàn cảnh của Thị
- Không có quê hương gia đình -> nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
- Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt” -> cho thấy sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.
- Hoàn cảnh:
+ Không việc làm cụ thể, cuộc sống bấp bênh, bị nạn đói dồn dập đẩy đang trên bờ vực cái chết.
+ Cái đói quay quắt đã dồn đẩy chị, làm chị đánh mất cả sĩ diện và lòng tự trọng
=> Thị là nạn nhân của nạn đói với số phận bi thảm, đáng thương.
* Chân dung ngoại hình của Thị
- Ngoại hình:
+ Quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp
+ Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn hai con mắt.
+ Cái ngực gầy lép nhô lên
=> Ngoại hình không mấy dễ nhìn, là hiện thân của sự nghèo đói, khốn khổ.
- Hành động, cử chỉ
+ Lần thứ nhất, khi nghe câu hò vui của Tràng, thị đã vui vẻ giúp đỡ -> đây chính là sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.
+ Lần thứ hai:
• Thị sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn
• Khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”
• Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ... cùng về”, thị đã theo về thật -> Trong cái đói khổ, đó là cơ hội để thị bấu víu lấy sự sống.
=> Cái đói khổ không chỉ làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người, khiến người ta mất đi cả lòng tự trọng, sĩ diện và sự e thẹn, dịu dàng vốn có của người phụ nữ.
* Phẩm chất, vẻ đẹp tâm hồn của Thị
- Có khát vọng sống mãnh liệt:
+ Quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì thị sẽ không phải sống cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
+ Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.
- Thị là người ý tứ và nết na:
+ Trên đường về, thị cũng rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, thị ngại ngùng cho thân phận vợ nhặt của mình.
+ Khi vừa về đến nhà, Tràng đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong giá đình.
+ Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào thị chỉ cúi đầu, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
+ Sáng hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa, không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
+ Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt thị tối lại”, nhưng vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.
=> Cái đói có thể cướp đi nhân phẩm trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn con người.
- Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hi vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
=> Nhận xét chung: Nhân vật người vợ nhặt là nhân vật thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo trong tác phẩm, tiêu biểu cho những người nghèo khổ, khốn cùng bị cái đói, cái chết đe dọa, dồn đẩy đến bước đường cùng. Thị luôn khao khát hạnh phúc gia đình, đem đến làn gió tươi sáng, ấm áp cho gia đình anh Tràng và cả người dân ở xóm ngụ cư trong hoàn cảnh bi đát nhất.
* Đặc sắc nghệ thuật
- Xây dựng tình huống truyện độc đáo.
- Cách kể chuyện tự nhiên, hấp dẫn
- Dựng cảnh sinh động, có nhiều chi tiết đặc sắc.
- Nhân vật được khắc họa sinh động, đối thoại hấp dẫn
- Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật tinh tế.
- Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị nhưng chắt lọc và giàu sức gợi.
c) Kết bài
- Khái quát chân dung, vẻ đẹp của nhân vật người vợ nhặt.
- Nêu cảm nhận của em về nhân vật.
Kim Lân là một nhà văn có nhiều trang viết gắn liền với cuộc sống của những người nông dân Bắc bộ Việt Nam. Ông có nhiều tác phẩm viết về con người và mảnh đất này như: “Làng”, “Vợ nhặt”, “Con chó xấu xí”… Tác phẩm “Vợ nhặt” được trích từ tập truyện “Con chó xấu xí” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm vừa là bức tranh chân thực về nạn đói khủng khiếp năm 1945 vừa là bài ca ca ngợi về vẻ đẹp tình người và khát vọng sống, niềm tin vào tương lai của người lao động nghèo. Dường như nạn đói định mệnh ấy đã làm cho con người ta quên đi cả danh dự, họ bất chấp để được sống, thậm chí chuyện hạnh phúc cả đời cũng tặc lưỡi cho qua. Nhân vật Thị là một điển hình trong số những nạn nhân xấu số của nạn đói đó.
Tác phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”. Tác phẩm có nhiều nhân vật nhưng nhân vật người “vợ nhặt” là nhân vật mang lại nhiều thương cảm nhất cho người đọc. Nhân vật này được xây dựng dựa trên sự đối lập giữa hình thức bên ngoài và phẩm chất bên trong, giữa trước và sau khi về làm vợ Tràng.
Trước hết, hình ảnh người vợ nhặt hiện lên là một “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Vì đói mà sẵn sàng bất chấp cả thể diện để có được miếng ăn để sống được qua ngày. Ẩn sau cái vẻ ngoài bất cần ấy Thị là một người đầy “nữ tính và giàu khát vọng”. Điều này đã góp phần tôn vinh vẻ đẹp của người phụ nữ và lòng ham sống, khát vọng sống vươn lên hướng đến ánh sáng ngày mai. Tất cả những điều này đã mang đến cho người đọc cái nhìn đúng đắn về người vợ nhặt – nạn nhân của nạn đói năm 1945. Đi suốt chiều dài của tác phẩm đúng là người vợ nhặt là “người phụ nữ nghèo, cùng đường và liều lĩnh”. Thị là một trong số vô vàn các nạn nhân của nạn đói năm Đinh Dậu. Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt của anh Tràng chẳng biết từ đâu xuất hiện, không có cái tên để gọi, không có nguồn gốc sinh thành, không quê hương bản xứ, mọi thứ về Thị chỉ là một con số không tròn trĩnh. Không phải là nhà văn không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng chính nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc, đã làm nên tiếng vang cho truyện ngắn Vợ Nhặt. Thị bị cơn bão nạn đói thổi cho phiêu dạt đến miền đất này, cuộc sống lê la tháng ngày không biết đến ngày mai nếu như không có cái lần anh Tràng “hò một câu chơi cho đỡ nhọc” ấy. Thị xuất hiện với ngoại hình không xinh đẹp, hấp dẫn. Chân dung của thị được gợi tả với “những nét không dễ nhìn”. Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Phải chăng, sức tàn phá của nạn đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa, nó đã làm cho người phụ nữ ấy chở nên thê thảm hơn bao giờ hết. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói đã xui khiến thị quên đi ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Với Thị lúc đó miếng ăn để duy trì cuộc sống còn cao hơn nhân cách, nếu như chết thì nhân cách có cũng chẳng để làm gì .
Phía sau tình cảnh trôi dạt, vất vưởng, người “vợ nhặt” lại có một lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo Tràng là vì để được sống chứ không phải là loại đàn bà con gái lẳng lơ. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Đó là ý thức bám lấy sự sống. Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thị không trả lời mà lặng lẽ theo Tràng về, Thị đã gián tiếp đồng ý, một sự đồng ý không hề có sự băn khoăn hay phân vân gì cả, dường như chuyện dựng vợ gả chồng trở nên dễ dàng và rẻ rúng hơn bao giờ hết. Cái giá của người phụ nữ ít nhất cũng là “Ba trăm một mụ đàn bà/ Mua về mà trải chiếu hoa cho ngồi”. Ở đây, thị đã “đại hạ giá” xuống còn bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con… Thị nào có biết Tràng là ai, tốt xấu như thế nào, quê quán, gốc tích ra sao? Chỉ một câu hò bâng quơ và mấy bát bánh đúc là thị đã theo về làm vợ anh Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ lòng khao khát được sống. Khi đã cận kề cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Tinh thần lạc quan yêu sự sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: "Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Trên đường về nhà chồng, trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”. Đấy là nữ tính cũng là hình ảnh của một người phụ nữ giàu lòng tự trọng. Thực ra, cái đói đã đẩy đưa thị phải theo Tràng. Cơn bão tố cuộc đời đã xô đẩy thân phận cùng cực ấy ngã vào đôi vai người đàn ông thô kệch. Nhưng biết đâu đấy lại là cái may mắn của thị. Bởi cũng biết đâu, nếu không có câu bông đùa ấy của Tràng, ít bữa nữa thôi, thị có khi lại trở thành thây ma giữa nạn đói khủng khiếp này.
Kim Lân rất tinh tế khi miêu tả nét tâm lý, tính cách của thị. Nhà văn như lọt vào trong nỗi thẳm sâu tâm tư tình cảm ấy của người phụ nữ năm đói. Ông như nhìn thấy cả nỗi tủi nhục của kiếp người, thấy cả trong bước chân liêu xiêu, bước díu vào nhau kia là cả tủi hờn, xấu hổ. Cả tiếng thở dài não nuột kia cũng đáng để ông xót xa và mến yêu. Ấy là lúc thị về đến nhà Tràng, nhìn thấy “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách.
Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng đó phải chăng là thị đã ý thức được phận trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao. Hay chính Kim Lân đã thổi vào tâm hồn thị niềm lạc quan ấy để thị vững lòng cho một cuộc sống ngày mai. Quả thật là thị không tìm thấy ở Tràng một chút gì gọi là nương tựa về vật chất nhưng Tràng chính là chỗ dựa tinh thần vững chắc nhất cho thị vào lúc này. Cuộc sống này xét về tình nghĩa như thế cũng đáng để sống lắm chứ.
Đến lúc này người đọc chợt nhận ra, bên trong vẻ chao chát, chỏng lỏn, thị lại là một người phụ nữ hiền hậu, đúng mực, biết lo toan và cũng giàu lòng tự trọng. Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường. Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Thị thể hiện mình là một nàng dâu hiếu thảo, lễ phép với mẹ chồng..
Sáng hôm sau, thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, sắp xếp lại nhà cửa, ngôi nhà của bà cụ Tứ giờ đây như được hồi sinh.. Đến đây, người đọc dễ nhận thấy: bao nhiêu vẻ “chỏng lỏn”, “sưng sỉa” của thị trước kia không còn nữa. Dường như Thị đã lột xác trở nên nữ tính hơn. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đủ đầy sự thay đổi tuyệt vời ấy “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Lúc này Tràng cảm thấy vợ mình đã thật sự thay đổi. Chính sức mạnh của tình yêu đã cảm hóa và làm thay đổi con người Thị.
Trong bữa cơm đầu đón nàng dâu: Dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã làm cho không khí gia đình ấm cúng, thân thương hơn bao giờ hết. Thị chính là ngọn gió mát lành thổi vào cuộc sống của gia đình Tràng, thổi vào cả tâm hồn người đàn ông phu xe cục mịch, thổi cả vào khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn lên”. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là Người truyền tin cách mạng.
Có thể nói, người vợ nhặt được miêu tả ít, song đó lại là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là Tràng của ngày xưa; bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Chính thị đã thổi một luồng sinh khí, một luồng gió mới vào cuộc sống tối tăm, nghèo khổ của Tràng, làm ngời sáng lên niềm tin vào cuộc sống. Chính Thị là một hình tượng mà nhà văn Kim Lân đã dựng lên để nói với nhân dân và bè lũ độc ác kia rằng người phụ nữ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung không bao giờ từ bỏ sự sống ở bất cứ hoàn cảnh nào.
Nhân vật "Thị" là một thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm trạng người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu, 1945. Nhân vật vợ Tràng được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm.
Trận đói đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù lên như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người. Thị cũng chạy đói "ngồi vêu ra" cùng mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ, anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của tất cả. Lần đầu nghe Tràng hò "muốn ăn cơm trắng mấy giò...", thị bị mấy cô bạn "đẩy vai". Thị "cười như nắc nẻ" cong cớn nói với Tràng: "Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?". Thị "liếc mắt cười tít" làm cho anh cu Tràng "thích lắm". Lần sau, thị gặp lại Tràng thì đã thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơí như tổ đỉa. Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân thị là vực thẳm, là chết đói! Thị "sưng sỉa" trách Tràng là "điêu", "leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt!". Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe "rích bố cu", hai con mắt "trũng hoáy" của thị tức thì sáng lên. Thị "đon đả" với anh cu Tràng: "Ăn thật nhá!". Thị đã ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, khen: "Hà, ngon!". Cũng biết đùa, biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, nói với Tràng rất lẳng lơ: "Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!". Chỉ một câu nói tầm phào của Tràng "làm đếch gì có vợ...", thế là thị theo về ngay, "thị về thật". Khi đứng trong cái nhà "vắng teo... rúm ró" của mẹ con Tràng, thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng "cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, nén một tiếng thở dài". Từ dáng điệu, cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ, sỗ sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày. Cái đói hành hạ. Chết đói là điều cầm chắc, cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói. Bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi, thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ:
"Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!"
(Ca dao)
Bản chất của người con gái đói khổ không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động. Chỉ qua một ngày một đêm, sau khi đã thành vợ của Tràng, thành "nàng dâu mới" của bà cụ Tứ, ta thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù kề bên cái chết, cô gái này vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm gia đình, một mái ấm tình thương, có chồng con như những người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn tò mò của bà con xóm chợ, thị "ngượng nghịu, chân nọ bước dịu cả vào chân kia". Nghe bọn trẻ con gào lên: "Anh Tràng ơi! Chông vợ hài", thị "nhíu đôi mày lại", rồi đưa tay lên "xóc xóc lại tà áo". Chưa gặp bà cụ Tứ, thị rất băn khoăn lo lắng "mặt bần thần". Đứng trước mặt mẹ chồng, trông thị rất đáng thương: "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt". Nghe bà cụ Tứ nói: "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân" thị "vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ". Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cheo cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương!. Thị cũng có nhiều biểu hiện rất nữ tính "hay đáo để". Cái "liếc mắt cười tít" lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng Tràng với tiếng mắng yêu: "Khỉ gió". Một lời trách nhẹ chồng: "... chuyện dai thế, đợi sốt cả ruột". Một cái củng vào trán Tràng kèm theo câu nói yêu: "Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!". Sau bao tháng ngày, chạy đói, sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, thị đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng thị đã có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màng nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của vợ chồng Tràng.
Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp. Dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của thị "kêu sàn sạt trên mặt đất" tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng thị? Thị "lẳng lặng" đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình rất đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có "nàng dâu mới", Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng và chồng: "Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa, người ta phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy". Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng, "nàng dâu mới" cũng là người truyền tin cách mạng.
Vai trò nhân vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật - Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp đã hạ thấp nhân phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể "nhặt" được! Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ đỉa, bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám - hình ảnh ấy, tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.
Nhân vật vợ Tràng trong truyện "Vợ nhặt" đã nói lên một sự thật ở đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dân ta vẫn khao khát được sống ấm no hạnh phúc. Những nguời nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"... Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo của tác phẩm "Vợ nhặt".
Ai đó từng nói rằng “ Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”.
Truyện ngắn Vợ nhặt là lời kết tội đanh thép đối với thực dân Pháp và phát-xít Nhật cùng bọn phong kiến tay sai đã đẩy con người vào thảm cảnh chết đói khủng khiếp, mạng người như cỏ rác. Không chỉ vậy, Vợ nhặt còn mang ý nghĩa nhân bản sâu xa rằng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao hạnh phúc, muốn sống như một con người, sống nên người.
Nam Cao từng nói “Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm”, nó quả đúng với nhân vật Thị trong Vợ nhặt. Tôi nghĩ, đó là cái lườm yêu của cô Thị không chỉ thật xấu mà còn thật rách và còn thật đói. Nhưng có lẽ khi đong đưa con mắt, Tràng và Thị, họ đã quên đi cuộc sống ở cõi trần đang mấp mé bờ vực cõi âm, cõi âm như hòa với cõi trần, để chỉ còn nhớ đến sự thương yêu. Thật trân trọng và cảm phục biết bao trước những giản dị của hạnh phúc của đời thường!
Trong kí ức của mỗi người Việt Nam, nạn đói năm Ất Dậu vẫn là một cơn ác mộng khó quên. Cũng từ đó, miếng cơm manh áo từ nỗi đau hiện thực trở thành đề tài sáng tác của những nhà văn. Thân phận những con người trở nên tầm thường, đến cả chuyện hạnh phúc lứa đôi cũng là chuyện rẻ rúng. Tất cả những điều đó đều được ghi lại bằng ngòi bút của Kim Lân qua nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên.
Trước tiên, ta thấy Thị là nạn nhân của nạn đói với cuộc sống trôi nổi, bấp bênh. Là nhân vật vô danh, người vợ nhặt là đại diện chung của số phận của những người phụ nữ không may sinh ra trong hoàn cảnh bất hạnh. Người phụ nữ ấy không tên, không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Từ đầu đến cuối tác phẩm, Kim Lân chỉ ban tặng cho nhân vật này những cách gọi tên rất chung chung như “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Thị xuất hiện một cách bạo dạn, đáng thương trong hai lần gặp Tràng. Thị “ngồi vêu ra” lẫn trong đám con gái ngồi chờ nhặt hạt thóc rơi. Thị ton ton chạy lại đẩy xe tiếp Tràng với hi vọng được “kiếm ăn” nhưng thất bại. Từ sự cong cớn, liếc mắt cười tít, Thị chuyển sang vẻ tiều tụy, hốc hác vì cái đói trong lần gặp thứ hai “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Tràng dường như không thể nhận ra thị. Cùng với sự thay đổi về hình thức, cái đói đã xóa đi cái hồn nhiên hóm hỉnh của thị khi gặp Tràng, chị biến thành một người phụ nữ “đon đả”, táo bạo và liều lĩnh. Thị đói đến mức cắm đầu ăn bốn bát bánh đúc liền “Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Kim Lân đã khắc họa hình ảnh một người phụ nữ thật đáng thương! Từ ngoại hình đến cử chỉ, hành động, thị đều hiện lên trên trang giấy với sự khắc khổ, nhếch nhác, tội nghiệp. Cái đói chẳng những tàn hại dung nhan mà còn tước đoạt cả tính cách và nhân phẩm của thị. Vì đói mà trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “sưng sỉa”.. Cái đói khiến thị quên đi việc giữ gìn ý tứ và lòng tự trọng của con gái. Càng tội nghiệp hơn khi cái đói buộc thị phải trở thành “người vợ nhặt” sau một câu nói nửa đùa nửa thật “này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cũng về”. Thế là xong một câu chuyện tình, một cuộc hôn nhân! Sự lãng mạn chỉ là điều không tưởng. Đang trên bờ vực của cái chết, thị còn lựa chọn nào hơn? Trong suy nghĩ của thị, Tràng như một cái phao cứu sinh, cứu thị ra khỏi sự đói khát của thế kỉ. Cái đói đã làm cho thị và biết bao người dân lúc bấy giờ rẻ rúng như vậy. Có ai ngờ được hạnh phúc lứa đôi được xây đắp bằng bốn bát bánh đúc và một lời nói bông đùa? Nhưng trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”, “không khí ẩm lên mùi ẩm thối của rác tưởi và mùi gây của xác người” thì hạnh phúc tầm thường, đơn sơ kia cũng đáng quý biết bao.
Bên cạnh đó, Thị còn là người phụ nữ với lòng ham sống mãnh liệt. Thị đồng ý theo không Tràng là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Khát vọng sống mãnh liệt thúc giục thị phải tìm ra lối thoát cho hoàn cảnh thương tâm. Niềm lạc quan lạc sống ấy chính là một phẩm chất đáng quý mà nói như Kim Lân: “Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý thức khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị đến với Tràng trước hết làm tìm một chỗ nương tựa trong đói kém. Bởi thế, thị không thể giấu nổi sự thất vọng thầm kín trước gia cảnh thảm thương của gia đình Tràng “cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Thị đảo mắt nhìn quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Trên đường về nhà chồng, trước những lời bàn tán xôn xao, những chỉ trỏ chòng ghẹo của người dân ngụ cư, người vợ nhặt cảm thấy xấu hổ, ngượng nghịu đến mức “chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Về đến nhà chồng, thị thất vọng trước cảnh nhà quá tồi tàn, khổ sở nhưng cố nén lại tất cả vào trong suy nghĩ. Trong tiếng thở dài ấy không chỉ có nỗi thất vọng mà còn xen cả lo toan, ý thức trách nhiệm, bổn phận của mình trong việc xây dựng cuộc sống gia đình về sau..
Nhân vật Thị còn để lại ấn tượng sâu sắc cho người đọc bởi những phẩm chất tốt đẹp. Vào trong nhà, thị e thẹn “ngồi mớm” vào mép giường và chào u một cách lúng túng. Khác với vẻ chao chát, cong cớn, chỏng lỏn ban đầu, thị bây giờ là nàng dâu mới với đầy đủ sự ý tứ, cung kính, mực thước. Chính tình cảm yêu thương, sự đùm bọc sẻ chia trong cơn hoạn nạn đã khiến con người sống tốt hơn, ý thức sâu sắc hơn về bổ phận và trách nhiệm của mình. Sáng hôm sau, thị dậy sớm để cùng mẹ chồng dọn dẹp trong ngoài. Đến cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới bữa cơm thảm hại ngày đói, thị vẫn vui vẻ bằng lòng với bát cháo cám đắng chát. Thị là một cơn gió mới trong gia đình. Hiện thực khắc nghiệt, xót xa “người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại” nhưng thị vẫn “điềm nhiên và vào miệng”. Hoàn cảnh đấy, ai cũng phải cất lại nỗi tủi hờn bên trong để vui vầy cũng hạnh phúc bình dị, đơn sơ. Sự lạc quan được gói trọn trong lời của bà cụ Tứ: “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bên cạnh đó, người vợ nhặt còn là người phụ nữ thông minh hiểu biết. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị tỏ ra ngạc nhiên hỏi mẹ chồng “Ở đây vẫn phải đóng thuế cơ à?” Câu nói của thị làm Tràng ngờ ngợ vỡ ra trong suy nghĩ “hắn đang nghĩ đến những người phá kho thóc Nhật”, “trong ý nghĩ của hắn vụt ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm éo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”…
Điểm nhấn nghệ thuật ở người vợ nhặt chính là nghệ thuật khắc họa nhân vật của nhà văn Kim Lân. Tác giả đã đặt nhân vật trong tình huống “lạ”, “éo le”; diễn biến tâm lí được khắc họa qua các sự kiện với sự quan sát tỉ mỉ, tinh tế qua hệ thống ngôn ngữ giản dị, mộc mạc. Như vậy, nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân là một nhân vật tiêu biểu cho hình tượng người phụ nữ lao động nghèo khổ, đáng thương. Nhưng dù bị đẩy vào hoàn cảnh khốn cùng, thị vẫn ngời sáng bởi lòng ham sống, những phẩm chất tốt đẹp và niềm tin tưởng ở tương lai.
Nhà văn Kim Lân, tên thật là Nguyễn Văn Tài, sinh ngày 1-8-1920, tại thôn Phù Lưu, xã Tân Hồng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh,là một trong những nhà văn hiện thực xuất sắc của nền văn học Việt Nam thế kỉ XX. Sự nghiệp văn học của ông tuy không đồ sộ nhưng lại rất đặc sắc và khó trộn lẫn.Một số truyện ngắn của ông được xếp vào hàng kinh điển trong văn xuôi Việt Nam thế kỷ XX như Vợ nhặt, Làng, Con chó xấu xí…
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân ra đời trong thời kỳ đất nước đang rơi vào nạn đói năm 1945, đời sống nhân dân bần cùng, kẻ sống người chết nham nhảm, ”người chết như ngả ra, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường. Không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Khung cảnh xóm ngụ cư ấy đã diễn tả được cái đói đang hoành hành, đời sống nhân dân thê thảm.Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?
Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
Khi mới gặp Tràng,Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà xưng xỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống ăn như chết đói. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà khen ngon.Phải chăng đấy là tính cách cốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để có được miếng ăn.
Khi đã chấp nhận làm vợ của Tràng,trên con đường trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì hớn hở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa khuôn mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là một con người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng. Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận của mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận thuận theo số phận khi đã đến bước đường cùng.
Tuy nhiên, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ rất khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa tay lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng và xấu hổ, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi đi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà “chồng” để tránh sự dòm ngó của mọi người xung quanh.
Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò bẽn lẽn của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá, nghèo xơ xác. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiên, cứ giục vợ ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đàn bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè sợ sệt, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái độ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, bà nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng đón nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.Sáng ngày hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ, thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khe khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.
Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có cơ hội làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn tủi hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân văn và tinh tế như vậy. Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói do khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam
Qua truyện ngắn Vợ nhặt, Kim Lân đã khắc họa nhân vật người phụ nữ vợ nhặt rất thành công. Tác giả chú trọng khắc họa hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc hiểu được tâm lí của người phụ nữ. Nhà văn lựa chọn được những chi tiết rất phù hợp để bộc lộ số phận cũng như vẻ đẹp của nhân vật. Nhân vật vợ nhặt nắm giữ vai trò khá quan trọng trong việc làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm đồng thời có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện. Qua nhân vật này người đọc cũng thấu hiểu được tài năng cũng như tấm lòng của nhà văn.Vợ nhặt một nhân vật vô danh.
Trong nền văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn những năm trước cách mạng và những năm đầu sau cách mạng tháng tám, Kim Lân là một trong những cái tên nổi bật nhất khi viết về đề tài người nông dân trong xã hội cũ. Dù có số lượng tác phẩm hạn chế, thế nhưng hầu như tác phẩm nào của Kim Lân cũng hay và có nhiều giá trị, là cơ sở xếp nhà văn vào một trong 9 tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Điểm sáng và đáng lưu ý nhất trong các tác phẩm của Kim Lân ấy là giọng văn nhẹ nhàng, tình cảm, các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người, hướng đến một lối thoát nhân văn cho những kiếp người lầm than khốn khổ, chứ không tập trung tái hiện hiện thực khắc nghiệt đau thương của xã hội cũ. Vợ nhặt là một trong số những tác phẩm nổi tiếng và xuất sắc nhất của Kim Lân, đặt trong bối cảnh đất nước những ngày đau thương nhất - nạn đói năm 1945. Nhân vật vợ Tràng là một trong những kiếp người khốn khổ tột cùng, cái đói đã khiến thị tàn tạ, xơ xác, để nên xấu xí trong mắt người đời, thế nhưng khi tìm hiểu sâu về nhân vật này ta mới phát hiện ra ở thị cũng có những phẩm chất tốt đẹp, đáng quý.
Nhân vật thị là một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, gốc gác, không gia đình, và cũng chẳng ai biết thị từ đâu đến, cả cuộc đời trước khi gặp Tràng của thị dường như chẳng có gì để nhắc người ta nhớ đến. Cái hoàn cảnh khốn khổ của thị, chính là hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói năm 1945, tại cái thời điểm mà kiếp người rẻ rúng như cọng rơm cọng rác nhặt ngoài đường. Không chỉ nghèo khó, không lai lịch, tên tuổi mà trên người thị còn mang đủ những bất hạnh của một người đàn bà, thị không có một nhan sắc xinh đẹp, và cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại, người ta bắt gặp thị trong bộ ““áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy xọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Bấy nhiêu những nét vẽ ấy cũng đủ để thấy bản thân thị cũng đang bước dần những bước cuối đến cái nghĩa địa của cuộc đời như nhiều số phận khốn khổ khác trong nạn đói kinh hoàng.
Đã không có một ngoại hình hấp dẫn, nhưng cách nói năng, hành động của thị cũng khiến người ta mang nhiều phản cảm. Khi nghe anh Tràng hò mấy câu đùa cho khuây khỏa, nghe thấy có cái ăn thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng chẳng biết ngại ngần thị sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy nhiên sau bữa đẩy xe phụ, mà không được cái ăn, khi gặp lại Tràng thị đã sưng sỉa, chỉ thẳng vào mặt Tràng mà mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đổi hẳn thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn một chặp 4 bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang miệng, thở “hà”. Quả thực trước giờ chưa từng thấy người đàn bà nào trước mặt một người đàn ông lạ mới gặp hai lần mà có thể thoải mái, thậm chí đến mức vô duyên, trơ trẽn, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn như thị. Nạn đói nó khiến cho tâm hồn và nhân cách con người trở nên rẻ rúng, thiểu não quá. Nhưng đến khi xét kỹ lại, nhìn lại những hành động của nhân vật thị một cách nhân văn hơn, ta mới nhận ra rằng, thực tế khi đứng trước cái chết, cái đói, và đứng trước viễn cảnh hàng triệu người đang chết như ngả rạ trước mặt khó ai có thể bình tĩnh và cư xử một cách bình thường nổi. Ai mà không sợ chết, thị cũng sợ chết, và ngay lúc này đây khi gặp Tràng khi phải đối diện với lưỡi hái của tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng, thì những khao khát được sống sót của thị bùng cháy. Thị bất chấp tất cả để có được miếng ăn, vứt bỏ hết liêm sỉ, nhân cách chỉ vì được sống, quyết không buông bỏ cuộc sống dễ dàng. Không chỉ có khao khát sống mãnh liệt mà bản thân thị còn có những khao khát được hạnh phúc, được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như này. Thành thử ra chỉ với một câu nói nửa đùa nửa thật “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, mà thị đã không ngần ngại nhận lời, trở thành người vợ mặt dày, mày dạn theo không Tràng. Đối với thị bây giờ cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng còn quan trọng, miễn sao là có được một chỗ trú chân, một gia đình và qua được cái đói thì mọi chuyện đều có thể cho qua hết. Thế là thị đã nên vợ nên chồng với Tràng bằng những niềm hy vọng mới mẻ, thị mong rằng cái người trước mắt đã có thể sảng khoái mà đãi mình 4 bát bánh đúc, thì hẳn sau chung sống hắn cũng sẽ tử tế với mình, được nhiêu đó cũng đủ mãn nguyện rồi. Như vậy bên cạnh ý nghĩa nhân văn trong sự kiện thị theo không Tràng, thì Kim Lân cũng phản ánh một hiện thực đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người dường như đã xuống đến mức âm, thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người làng trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.
Những tưởng thị trời sinh đã đanh đá, chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ của thị sau khi làm vợ Tràng ta mới nhận ra rằng, sự vô duyên, ghê gớm của thị chỉ là một cái vỏ bọc bảo vệ thị trong nạn đói, thực tế rằng thị cũng là một người phụ nữ có nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau dáng vẻ tàn tạ, khốn khổ kia. Trên đường trở về nhà với Tràng, thị bỗng trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng che nửa đi khuôn mặt đang ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi bước về nhà chồng. Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, tủi cho phận mình là một người vợ theo không, thành thử ra thị càng trở nên bối rối “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia”, nom đến thương vô cùng. Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, tiêu điều của một căn nhà tạm, không có bàn tay người đàn bà săn sóc, không khỏi khiến thị thất vọng, buồn lòng, bởi có lẽ thị đã hy vọng về một ngôi hà tươm tất, đủ đầy hơn, để cuộc đời thị từ đây bớt khổ sở. Nhưng cảnh trước mắt kém quá xa so với những gì thị tưởng tượng, tuy nhiên thị không vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, thị bỗng trở thành một người đàn bà nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, rồi nén một tiếng thở dài”. Thị đã cất hết cái thất vọng, buồn bã của mình vào lòng, không để Tràng biết, quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng gia đình, phấn đấu vượt qua cái nghèo cái khó. Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép mà chào bà cụ Tứ, khi tưởng cụ không nghe thấy thị đã chào thêm lần nữa, dáng điệu khép nép, ngại ngùng, thực sự thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở chợ tỉnh.
Sau đêm tân hôn, thị lột xác trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát, gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác đem vứt, rồi dọn cơm,... Không khí gia đình trở nên hòa hợp vui vẻ và có nhiều hy vọng hơn cả. Đặc biệt khi đối diện với nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn bứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn “điềm nhiên và vào miệng”, không nói năng hay tỏ thái độ gì. Cách cư xử tế nhị ấy của thị, đã bộc lộ một nét tính cách khác của thị ấy là sự thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già thương con, thị hiểu rằng vì nghèo quá không có gì đãi con nhân ngày tân hôn thế nên bà cụ tội nghiệp mới cố kiếm một nồi cháo cám. Và trong không khí gia đình vui vẻ ấy, thị không muốn phá hỏng nó, khiến cho bà cụ trở nên bối rối. Cuối cùng cảnh thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, người đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá kho thóc, theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm một tương lai tươi sáng hơn.
Nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân là nhân vật đại diện cho hàng triệu kiếp người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy nhiên sống trong cảnh khốn khổ cùng đường nhưng thị vẫn giữ cho mình được những vẻ đẹp tâm hồn quý giá, tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống, khao khát hạnh phúc, niềm hy vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn. Bộc lộ rõ nét tư tưởng nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn truyền tải trong tác phẩm của mình.
Người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim Lân dù không phải nhân vật trung tâm nhưng lại giữ một vị trí cực kì quan trọng trong toàn bộ tác phẩm. Có thể nói với nhân vật này, thì giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm mới được hoàn chỉnh hơn.
Nếu như nhân vật Tràng vẫn còn có một mẹ già, một xóm ngụ cư, một công việc để kiếm sống qua ngày, chờ đến ngày xua tan được cái đói, cái khổ. Thì người vợ nhặt toàn bộ “trắng tay”. Cô tha phương cầu thực, trên người giá trị nhất chỉ còn có bộ quần áo. Hình dáng người đàn bà hiện lên cũng hết sức thảm thương: “cái ngực lép nhô lên” “áo quần tả tơi như tổ đỉa” “thị gầy sọp” “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt” hai con mắt thiếu sức sống “trũng hoáy” lại. Trong không khí u ám, nặng nề, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người” “người chết như ngả rạ” “người sống xanh xám như những bóng ma”. Và dường như cánh cửa thần chết cũng đang dần mở ra với thị.
Không chỉ bị biến đổi về ngoại hình, mà nhân cách, tính nết của thị cũng có những thay đổi đáng lo ngại theo chiều hướng tiêu cực. Vốn là một người phụ nữ, ai có thể ngờ rằng người con gái đó vì miếng ăn dám đánh đổi cả danh dự của bản thân. Lần đầu tiên, nghe thấy câu dao của Tràng thị lấp tực chạy tới, híp mắt cười tình. Nhưng sợ trơ trẽn còn được đẩy lên một nấc nữa khi lần sau gặp lại, thị “sưng sỉa” chạy thẳng đến chỗ Tràng mà mắng.
Rồi đến khi được Tràng thiết đãi bánh đúng, bao nhiêu sự dịu dàng, e thẹn đã biến đi đâu mất cả, thi cắm đầu vào ăn bốn bát bánh đúc, không hề ngẩng đầu, không hề trò chuyện. Toàn bộ cái nữ tính, nhân cách của thị đã bị phá hủy vì miếng ăn. Và còn lạ lùng hơn nữa, khi Tràng chỉ trêu đùa “có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” nào ngờ thị theo về thật. Cuộc hôn nhân cả một đời người, vậy mà thị quyết định thật chóng vánh. Cái đói có thể hủy hoại nhân cách, hủy hoại thiên tính nữ của một con người khủng khiếp đến vậy sao?
Chỉ vì cái đói mà thi sẵn sàng đem trao thân gửi phận cho một người mà mình chỉ mới gặp gỡ hai lần. Thậm chí trò chuyện cũng chỉ mới tính trên đầu ngón tay. Lòng ham sống đã khiến thị đi đến quyết định liều lĩnh, khi có một cơ hội sống, thị cố gắng bám víu vào nó bằng bất kể giá nào, gạt bỏ mọi nghi lễ, gạt bỏ cái e dè của người con gái. Hành động ấy cũng cho thấy một tinh thần khỏe mạnh, long yêu cuộc sống và ham sống của người phụ nữ nông dân này. Đồng thời cũng là lời lên án gay gắt nhất về sự độc ác của bọn đế quốc, phát xít đã đầy con người đến bước đường cùng.
Dù viết về người phụ nữ đánh mất những nét đẹp của bản thân, nhưng Kim Lân không hề khinh thường, dè bỉu mà là một tấm lòng cảm thông, trân trọng. Sau sự trơ trẽn ấy ta vẫn thấy một người phụ nữ dịu dàng, e ấp, đảm đang. Trên đường trở về, cắp cái thúng con, thị khép nép bên cạnh Tràng, ngại ngùng hi bị những đứa trẻ trêu. Và đặc biệt trong giờ phút người con dâu mới gặp mẹ chồng nàng vô cùng lo lắng, sợ hãi.
Sự thay đổi đó, cũng khiến một chàng trai ngờ nghệch như Tràng có thể nhận ra: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn gì vẻ chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ngoài phố”. Đồng thời, thị cũng hết sức chăm chỉ, tháo vát. Dưới đôi bàn tay của người phụ nữ đảm đang nhà cửa được dọn dẹp sạch sẽ, ngôi nhà lại có thêm một sức sống mới.
Và một điều đặc biệt là không phải Tràng hay người mẹ mà chính là cô vợ nhặt là người đầu tiên nói về lá cờ Việt Minh, về kho thóc Nhật. Đằng sau người phụ nữ tưởng như bị phá hủy hoàn toàn về nhân tính ấy, lại là một con người có sức sống tiềm tàng mạnh mẽ đến như vậy. Và cũng không phải ngẫu nhiên mà Kim Lân lại giao trọng trách nói những vấn đề quan trọng, về tương lai tốt đẹp cho nhân vật vợ nhặt. Bởi không ai khác, đây là nhân vật có sức sống mạnh mẽ nhất trong tác phẩm, cũng là nhân vật có số phận bi thương nhất. Bởi vậy để cho nhân vật là người phát ngôn về tương lai, về hy vọng cũng là cách thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của Kim Lân.
Nhân vật vợ nhặt được đặt vào một tình huống truyện đặc biệt, trong tận cùng cái đói và cái chết, nhân vật bộc lộ những tính cách, những ước mơ khao khát sống mãnh liệt của mình. Không chỉ vậy, nhân vật còn mang tính chất kết nối, tạo nên sự liền mạch giữa các sự kiện trong tác phẩm. Với nhân vật người vợ nhặt, không chỉ là sáng tạo thành công của Kim Lân mà nó còn cho thấy giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc nhất của ông.
Kim Lân là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam trước và sau Cách mạng tháng Tám. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của Kim Lân được viết ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công là truyện ngắn “Vợ nhặt”,được in trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Đây là tác phẩm mà Kim Lân đã tái hiện thành công bức tranh ảm đạm và khủng khiếp về nạn đói Ất Dậu (1945) của nước ta. Trên cái nền tăm tối và đau thương ấy, nhà văn đã đặt vào đó hình ảnh của nhân vật người vợ nhặt: nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt. Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.
Về cảnh ngộ, xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh: không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp… Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định dành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị. Không những vậy, chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn: đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa, sống vất vưởng và chờ đợi may mắn.
Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh. Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, Thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, Thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Trong đói khát cùng cực, thị gần như đánh mất đi nhân cách, sự tế nhị của con người.
Về đến nhà, trông nếp nhà rẹo rọ của Tràng, thị nén tiếng thở dài, tiếng thở dài chấp nhận bước vào cuộc đời của Tràng. Tiếng thở dài thất vọng vì hoàn cảnh của Tràng cũng chẳng có gì khá hơn thị. Tràng đau chỉ nghèo mà còn có mẹ già, còn phải lo toan, biết có cưu mang thị nổi hay không, hay có thể sẽ khiến cuộc đời của thị thêm khổ. Hành động khép nép, tay vân vê tà áo khi đứng trước mặt bà cụ Tứ, thị thật đáng thương. Ở sâu thẳm bên trong con người này vẫn có một niềm khát khao mái ấm gia đình thực sự, bởi thế thị quyết định gắn kết với tràng, trở thành một phần trong gia đình, bất chấp ngày mai ra sao.
Có thể nói, tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người. Nói điều này, chắc chắn nhà văn thật sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. Điều đó được thể hiện qua dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp của thị khi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng. Thị ngượng ngùng đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn, ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”… . Lúc này, trông thị thật tội nghiệp, cảnh cô dâu mới theo chồng về nhà: một cảnh đưa dâu không xe hoa, chẳng pháo cưới mà chỉ thấy những khuôn mặt hốc hác u tối của những người trong xóm và âm thanh của tiếng quạ, tiếng khóc hờ người chết tang thương… Hành trang bước đến với hạnh phúc của thị là cả cuộc đời đen tối và nỗi lo sợ không thể nói nên lời.
Thế nhưng, có cái gì đó thật mới mẻ đã làm thay đổi người đàn bà ấy. Sau một ngày làm vợ, chị dậy thật sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. Đó là hình ảnh của một người đàn bà hiền hậu, đúng mực, một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình chứ không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn nữa.. Thị hiện rõ là một người vợ hiền, một cô dâu thảo. Cuộc sống có cái gì đó khởi sắc mà không ai có thể lí giải được.
Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, bà cụ Tứ dành hết tình cảm cho con dâu mới. Chị tỏ ra là một phụ nữ am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
Qua hình tượng người vợ nhặt, nhà văn đã mạnh mẽ lên án tội ác dã man của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp; đồng thời bày tỏ thái độ đồng cảm xót thương với số phận của người lao động nghèo khổ; thái độ trân trọng tấm lòng nhân hậu, niềm khao khát hạnh phúc bình dị những người lao động nghèo; trong lao khổ họ vẫn thương yêu đùm bọc, và cùng nhau vun đắp hạnh phúc để vượt qua những thử thách khắc nghiệt.
Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng. Bóng dáng của thị hiện ra tuy không lộng lẫy nhưng lại gợi nên sự ấm áp về cuộc sống gia đình. Phải chăng thị đã mang đến một làn gió tươi mát cho cuộc sống tăm tối của những người nghèo khổ bên bờ của cái chết….
Kim Lân là một hiện tượng trong làng văn học Việt Nam thế kỉ XX. Ông viết không nhiều nhưng tác phẩm nào cũng xuất sắc. Người đọc nhận thấy trong trang văn của ông một tinh thần lạc quan của con người, cốt lõi khát vọng cháy bỏng về cuộc sống tốt đẹp của con người trong bất cứ hoàn cảnh nào ngay cả khi cận kề với cái chết, cái đói. Những trang viết của Kim Lân về đề tài nông thôn trước cách mạng hấp dẫn người đọc bởi tính nhân bản. Ngay cả khi con người phải sống trong cảnh khốn cùng, bi đát nhất của trận đói, cuộc sống mấp mé giữa sự sống và cái chết, này văn vẫn nhận thấy ở họ lòng yêu đời, ham sống. Sức sống ấy thể hiện đậm nét qua nhân vật người “vợ nhặt” trong tác phẩm Vợ nhặt của ông.
Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm.
Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện.
Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ? Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng. Đó là ý thức bám lấy sự sống.
Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý. Nói như Kim Lân: ” Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ. Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”.
Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận. Ai ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua Thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu. Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.
Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng Thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng. Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.
Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo độc đáo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin mãnh liệt vào sự sống.
Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng với nhân vật này, Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn, thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.
Người vợ nhặt được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có bất cứ gia sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, thị chỉ được gọi một cách chung chung và đầy rẻ rúng là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai lần gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường, xó chợ. Thị không có họ hàng, không có nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn mình chống lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự dồn đuổi của cái chết, hàng ngày, hàng giờ, cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn chút sự sống.
Chính hoàn cảnh bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng tự trọng của bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, cái chết không chỉ vắt kiệt sự sống của người đàn bà nghèo mà còn xói mòn nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là người không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến thị đánh mất sự e dè, thẹn thùng vốn có.
Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, vô duyên đã đánh mất cả lòng tự trọng. Sau lần gặp gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào, nhưng khi gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt mà nói: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị không còn chút ý tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn diễn tả hành động ăn uống thô tục, lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên táo bạo, liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất với con người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam đã rơi vào tình cảnh này. Và liều lĩnh nhất là chỉ một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ. Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu víu, thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp nhận để thoát khỏi sự truy đuổi của thần chết.
Cũng như nhân vật Tràng, sau khi lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lí, tính cách, trên đường về nhà, trước sự để ý của những người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng đi cạnh Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm lí của thị. Đó cũng là biểu hiện đầu tiên đánh dấu sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã không còn. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên niềm lo lắng cho tương lai. Về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh, cái ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghé ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng.
Trước mặt mẹ chồng, cô lễ phép chào hỏi, tay mân mê tà áo đã rách bợt đi. Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiền đối diện với mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa cho thấy, cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất thì vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.
Sự thay đổi rõ nhất trong tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, thị hôm nay đã khắc hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ những việc làm hết sức giản dị mà ý nghĩa mà cô vợ nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó cho thấy sự đảm đang, tháo vát của cô cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình, và có khát vọng mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.
Không chỉ biến chuyển trong tính cách mà thị còn có sự biến chuyển trong nhận thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả không hề dễ dàng, bởi sự dồn đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong tiếng khóc tỉ tê của những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón cô dâu mới là nồi cháo cám mặn chát, lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy, trong tâm hồn thị vẫn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Không phải ngẫu nhiên, trong ba nhân vật Kim Lân lại chọn thị chứ không phải hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, phá kho thóc Nhật. Có lẽ bởi một người dám đánh đổi tất cả, kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì khát vọng sống, hạnh phúc ở họ là không thể hủy diệt. Dù không nói rõ về tương lai, nhưng ở một con người ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như người vợ nhặt, Kim Lân cho thấy tinh thần hăng hái, chắc chắn Thị sẽ theo cách mạng.
Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung khắc họa ở cử chỉ, hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.
Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ tính, biết vun vén và có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.
Ai đó từng nói rằng “ Hãy hướng về phía mặt trời, bóng tối sẽ ngả sau lưng bạn”. Bởi nói như nhà văn Nguyễn Khải “Sự sống nảy sinh từ trong cái chết, hạnh phúc bắt nguồn từ những gian khổ hy sinh. Ở đời không có con đường cùng chỉ có những ranh giới điều cốt yếu là phải có đủ sức mạnh để bước qua ranh giới đó". Đọc truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân ta càng hiểu sâu sắc và thấm thía hơn chân lý đó. Ta không khỏi xót xa, ngậm ngùi thương cho hoàn cảnh éo le, mừng vui cho niềm tin của con người vào tương lai mới mà còn rưng rức trước tình cảm yêu thương của hơi ấm gia đình.Vậy điều đó thể hiện như thế nào qua hình ảnh nhân vật Thị?
Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được viết trên nền cái đói của năm 1945. Chân dung nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả có ngoại hình thô kệch, xấu xí với công việc làm thuê ngật ngưỡng bước ra trong đói nghèo ấy. Thị, cô gái kém duyên đang vật lộn với cái đói. Hai người họ gặp nhau vỏn vẹn có hai lần rồi thành đôi chỉ bằng bát bánh đúc với vài câu bông đùa. Tràng dẫn Thị về trong cái nắng chiều chạng vạng trước sự bất ngờ của tất cả người dân xóm ngụ cư. Bà cụ Tứ- mẹ Tràng nhìn nàng dâu mới mà lo cho con liệu có đùm bọc nhau trong cảnh nghèo, lại mừng vui hạnh phúc vì khó khăn hay đói khổ cũng không ngăn đôi lứa nên duyên. Họ cùng nhau vun vén cửa nhà, san sẻ từng bữa ăn. Trong hạnh phúc ấy, câu chuyện khép lại với hình ảnh nhân dân phá kho thóc Nhật và lá cờ đỏ sao vàng tung bay trong óc Tràng.
Thị là nhân vật mang đầy đủ những nét tiêu biểu của người lao động nghèo trong nạn đói khủng khiếp. Dưới ngòi bút của Kim Lân, chân dung Thị hiện lên như một con ma đói, áo quần luộm thuộm, gương mặt lấm lem với “cái ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, không có nổi cái tên mà vỏn vẹn chữ “Thị”. Cô gái đói đến độ phải nhặt đồ rơi vãi, nghe ba câu hò mà vội chạy đến đẩy xe bò. Thị gặp Tràng nhưng không ăn trầu mà ăn bánh đúc rồi quẹt đũa ngang miệng “chà ngon”. Ta chỉ thấy chân dung Thị chao chát, chỏng lỏn. Vậy nhưng qua ngòi bút đầy tài năng của tác giả, người vợ anh Tràng hiện lên có cong cớn, rất cong cớn nhưng không nanh nọc và tính cách ấy phải chăng do dốt nát, đói nghèo, tăm tối chứ tuyệt nhiên không sinh ra từ cái ác, cái xấu. Nhân vật Thị hiện lên chua xót hơn khi cuộc hôn nhân cả đời người cũng chỉ bắt đầu bằng vài ba câu tầm phào của Tràng mà khiến người đàn bà quên hết sĩ diện, nết na, đức hạnh để xà xuống ăn hết bát bánh đúc, theo Tràng về làm vợ mà không dò hết ngọn ngành nguồn sông. Chính cái đói đã khiến thân phận con người bọt bèo, rẻ mạt đến vậy.
Khi gặp Tràng thì đanh đá, chỏng lỏn nhưng khi về làm dâu, Thị lại là người vợ đảm đang, con dâu hiếu thảo. Thị theo Tràng về như đến một chốn có thể nương tựa trong cái đói đang rình rập. Trên con đường về nhà Tràng, cô Thị đanh đá bỗng trở nên dịu dàng, e dè, ngượng ngập. Đôi mắt tư lự khi bỡ ngỡ đặt chân đến ngôi nhà mới, dáng điệu khép nép ngồi và câu chào lúng túng…tất cả làm cho Thị có cảm giác của một nàng dâu mới. Từ khi làm vợ, Thị đảm đang và dịu dàng hơn cả, cô cùng mẹ sửa sang cửa nhà, dọn dẹp vườn tược và vui vẻ trong bữa ăn loãng thếch, đắng chát. Thị kể về câu chuyện những người cướp kho thóc Nhật với hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng phấp phới. Chính nó làm lóe lên ánh sáng tia hy vọng về tương lai mới, mở ra con đường đấu tranh đi đến Cách mạng. Rõ ràng, Thị dần dần nhận được đủ đầy cảm xúc từ chữ “tình”, có ý thức về bổn phận và trách nhiệm của mình. Quả đúng, dù trong túng đói tột cùng thì tình cảm vẫn quý hơn manh áo bởi nó khiến con người được sống là chính mình, được nên người.
Truyện ngắn Vợ nhặt là lời kết tội đanh thép đối với thực dân Pháp và phát-xít Nhật cùng bọn phong kiến tay sai đã đẩy con người vào thảm cảnh chết đói khủng khiếp, mạng người như cỏ rác. Không chỉ vậy, Vợ nhặt còn mang ý nghĩa nhân bản sâu xa rằng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết, con người vẫn yêu thương, trân trọng, đùm bọc lẫn nhau, vẫn khát khao hạnh phúc, muốn sống như một con người, sống nên người.
Nam Cao từng nói “Một người đàn bà thật xấu khi yêu cũng lườm”, nó quả đúng với nhân vật Thị trong Vợ nhặt. Tôi nghĩ, đó là cái lườm yêu của cô Thị không chỉ thật xấu mà còn thật rách và còn thật đói. Nhưng có lẽ khi đong đưa con mắt, Tràng và Thị, họ đã quên đi cuộc sống ở cõi trần đang mấp mé bờ vực cõi âm, cõi âm như hòa với cõi trần, để chỉ còn nhớ đến sự thương yêu. Thật trân trọng và cảm phục biết bao trước những giản dị của hạnh phúc của đời thường!
Nhà giáo Trần Đồng Minh từng có nhận xét rất tinh tế: “Nhà văn dùng Vợ nhặt để làm cái đòn bẩy để nâng con người lên trong tình nhân ái. Câu chuyện Vợ nhặt đầy bóng tối nhưng từ trong đó đã lóe lên những tia sáng ấm lòng”. Và phải chăng “những tia sáng ấm lòng” ấy chính là tình yêu thương, là sức sống mãnh liệt của các nhân vật bị đẩy tới đường cùng tuyệt lộ buộc phải đối mặt với cái chết nhưng lại biết cách tỏa sáng để nâng tầm giá trị của con người. Bằng óc quan sát tinh tế và tấm lòng đồng cảm sâu sắc với số phận con người, Kim Lân đã thực sự làm bạn đọc xúc động khi xây dựng thành công hình tượng nhân vật Thị và qua đó thể hiện rất rõ số phận của người phụ nữ trong tác phẩm.
Vợ Nhặt được tác giả Kim Lân lấy chính hiện thực xã hội của nạn đói khủng khiếp năm 1945 làm chủ đề và tác phẩm cũng đã lột tả được hết thực trạng ấy một cách chi tiết, sống động và đầy giá trị.
Tác phẩm được in trong tập Con chó xấu xí và sau khi xuất bản đã gây một tiếng vang lớn đối với người đọc đặt biệt là những tình tiết éo le, nhưng cũng đầy cảm động của truyện. Ở đó hiện lên hiện thực của xã hội khi mà người ta sẵn sàng bỏ qua nhân phẩm, tư cách của chính bản thân mình vì miếng ăn vì cái đói. Và nổi bật đó là nhân vật Thị người Vợ Nhặt đặc biệt. Nhưng ở đó là ý nghĩa và giá trị mà tác giả muốn gửi gắm.
Dưới ngòi bút của Kim Lân, người vợ nhặt là người phụ nữ vô danh, không tên không tuổi, không quê hương, không quá khứ. Không phải là nhà văn nghèo ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho thị một cái tên mà bởi vì thị là cánh bèo nổi trôi trong nạn đói, là người đàn bà vô danh. Từ đầu đến cuối tác phẩm, nhân vật này chỉ được gọi là “cô ả”, “thị”, “người đàn bà”, “nàng dâu mới”, “nhà tôi”. Nhưng nhân vật này để lại cho người đọc nhiều ấn tượng sâu sắc.
Thị xuất hiện vừa bằng ngoại hình vừa bằng tính cách của một con người năm đói:
Lần đầu thị xuất hiện là hình ảnh: ngồi lẫn trong đám con gái chờ nhặt hạt rơi hạt vãi trước cổng chợ tỉnh. Khi nghe Tràng hò một câu chơi cho đỡ nhọc “Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị “ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng…cười tít mắt”. Thị đẩy xe với hi vọng được ăn nên cũng rất nhiệt tình và chẳng cần ý tứ.
Lần thứ hai, thị xuất hiện với ngoại hình kém hấp dẫn: Đó là người phụ nữ gầy vêu vao, “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” nổi bật với “hai con mắt trũng hoáy”. Có thể nói, cái đói đã khiến thị càng nhếch nhác, tội nghiệp lại càng nhếch nhác, tội nghiệp hơn nữa. Cái đói không chỉ tàn hại dung nhan của thị mà còn tàn hại cả tính cách, nhân phẩm. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chỏng lỏn”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi giao tiếp, nói chuyện. Cái đói khiến thị quên cả việc phải giữ ý tứ, lòng tự trọng của người con gái. Thị cứ thế mà đòi ăn. Được cho ăn, thị sẵn sàng “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị đã đặt sự tồn tại của mình, đặt miếng ăn lên trên nhân cách.
Khi anh cu Tràng hay đùa, lại đùa “có muốn theo tớ về nhà thì ra khuân đồ lên xe rồi ta cùng về”. Thì người đàn bà kia lại im lặng (mà thường tâm lý im lặng là đồng ý). Thị đồng ý, đồng ý mà không hề do dự, phân vân. Trong khi đó, Tràng là ai, tốt xấu như thế nào? gốc tích ra sao? Thị nào hay nào biết. Chỉ mấy bát bánh đúc là thị có thể theo ngay Tràng. Phải chăng thị theo Tràng chỉ vì miếng ăn ?
Thị dễ dàng, hời hợt thế ư? Thực ra hành động theo Tràng của thị xuất phát từ nhu cầu bám lấy sự sống, từ lòng khao khát được sống. Thị bất chấp tất cả để được ăn, ăn để được tồn tại. Thị chấp nhận theo không Tràng.
Đó là ý thức bám lấy sự sống. Cận kề bên cái chết, người đàn bà không hề buông xuôi sự sống. Trái lại, thị vẫn vượt lên trên cái thảm đạm để dựng xây mái ấm gia đình. Niềm lạc quan yêu sống của thị chính là một phẩm chất rất đáng quý.
Nói như Kim Lân: ” Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”.
Trên đường về nhà chồng tâm trạng của thị có sự thay đổi rõ nét. Nếu như anh cu Tràng sung sướng, tự mãn, cái mặt vênh lên tự đắc với mình thì người đàn bà lại cảm thấy xấu hổ.
Trước cái nhìn “săm soi”, trước những lời bông đùa, chòng ghẹo của người dân ngụ cư. Thị ngượng nghịu, thiếu tự tin “chân nọ bước díu cả vào chân kia… cái nón rách tàng che nửa khuôn mặt”.
Về đến nhà chồng, nhìn thấy“ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, thị “nén một tiếng thở dài”. Đây là tiếng thở dài ngao ngán, thất vọng nhưng cũng là sự chấp nhận.
Nghi ngờ cái phao mà thị vừa bám vào lại là một chiếc phao rách. Trong tiếng thở dài đó vừa có sự lo lắng cho tương lai ngày mai, vừa có cả những lo toan và trách nhiệm của thị về gia cảnh nhà chồng. Đó phải chăng là thị đã ý thức được trách của mình đối với việc cùng chồng chung tay gây dựng gia đình. Tấm lòng của thị thật đáng quý biết bao.
Vào trong nhà, thị e thẹn, dè dặt “ngồi mớm” vào mép giường (“Ngồi mớm” thế ngồi bấp bênh, không ổn định nhưng cũng rất ý tứ). Thị ý tứ, cung kính, lễ phép chào bà cụ Tứ (chào đến hai lần). Đây là hình ảnh đẹp của người con dâu rất mực thước trong quan hệ với mẹ chồng. Khi Tràng thưa chuyện với mẹ, thị chỉ biết “đứng vân vê tà áo đã rách bợt”.
Sau đêm tân hôn, người phụ nữ ấy có sự thay đổi hoàn toàn về tâm trạng và tính cách. Thị dậy rất sớm cùng mẹ chồng dọn dẹp, thu vén nhà cửa. Sự thay đổi ấy người đọc cũng dễ nhận ra: nếu hôm qua thị chua ngoa, đanh đá, chỏng lỏn bao nhiêu thì hôm nay thị lại hiền lành bấy nhiêu.
Hơn ai hết, Tràng cảm nhận đầy đủ sự thay đổi tuyệt vời ấy: “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”.
Câu văn này đã ghi lại cảm xúc chân thật của Tràng trước sự đổi thay tích cực của vợ. Phải chăng tình yêu đích thực với sức nhiệm màu diệu kì đã có sức cảm hóa với thị.
Trong bữa cơm đầu tiên tại gia đình chồng, dù bữa ăn chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, lại phải ăn cháo cám nhưng thị vẫn vui vẻ, bằng lòng. Thị đã đem sinh khí, thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng.
Nghe tiếng trống thúc thuế, thị nói với mẹ chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật chia cho người đói nữa đấy”.
Sự hiểu biết này của thị như đã giúp Tràng giác ngộ về con đường phía trước mà anh sẽ lựa chọn “trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói ầm ầm đi trên đê Sộp, phía trước có lá cờ đỏ to lắm”. Qua đó, ta thấy nhân vật vợ Tràng, “nàng dâu mới” cũng là Người truyền tin cách mạng.
Viết về sự đổi thay trong tâm lý của thị, Kim Lân bày tỏ tình cảm trân trọng, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động nghèo. Tình cảm nhân đạo của nhà văn thể hiện ở đây.
Xây dựng nhân vật người vợ nhặt, nhà văn đã đặt nhân vật vào tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Nghệ thuật trần thuật hấp dẫn, kịch tính…
Tóm lại, người “vợ nhặt” là một sáng tạo của Kim Lân. Thông qua nhân vật này, nhà văn đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người Việt Nam dù sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai với niềm tin vào sự sống.
Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôx-tôi-ep-ki). Vâng, “vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn bạn đọc chính là vẻ đẹp của con người mà ở đây là người nhân vật Thị. Dù là nạn nhân của nạn đói nhưng ở Thị vẫn có đầy đủ những phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam. Đó là sự chân trọng và tôn vinh của chính tác giả.
Làm nên một tác phẩm, nhà văn phải có trách nhiệm là bật nên giá trị hiện thực thông qua nhân vật và cốt truyện của mình. Qua đó, đem đến cho độc giả những cái nhìn, xúc cảm đặc biệt cảm thông cho thời đại lúc bấy giờ. Và Kim Lân, một cây viết chuyên về truyện ngắn, về người nông dân, người tri thức nghèo trong xã hội phong kiến, đã làm được điều đấy. Nếu người ta nhắc về nạn đói, chỉ nhắc về một hiện thực đầy phũ phàng của xã hội lúc đấy, chỉ nhắc về cái chết đói, chết rét của nhân dân, nhưng Kim Lân lại khác. Ông viết về những con người mà “dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Trong đó, “Vợ Nhặt” đã thể hiện rõ ràng quan niệm văn chương ấy. Mà tất cả đã được cô đọng trong văn phong và nhân vật Thị của tác phẩm.
Người phụ nữ Việt Nam trong văn học mỗi khi được nhắc đến sẽ rất mong manh, rất yếu đuối vì chịu một sự hà hiếp, sự áp bức của xã hội. Thị, một người đàn bà không tên, không tuổi mà Kim Lân chỉ nhắc tới bằng những đại từ phiếm chỉ. Không rõ ràng và đầy mơ hồ, cũng như số phận của Thị, người đàn bà “nhặt hạt rơi hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm”. Thị là bất kì người đàn bà nghèo khổ nào đấy ngoài kia đang bị cái đói, cái khổ bủa vây. Nhắc tới thị bằng hai tiếng “vợ nhặt” sao mà thê lương tới thế. “Vợ” không được cưới hỏi, không được đưa rước về nhà chồng mà là “nhặt” về, lượm về cũng như một món hàng bị rẻ rúng. Kim Lân dường như đã cho thấy giá trị bần cùng, thấp kém của con người trong xã hội vào những năm 1945 ấy. Một thời buổi đầy loạn lạc, bi thương như màu sắc của xóm làng buổi xế chiều “hai bên dày phố, úp súp, tối om, không nhà nào có ánh đèn, lửa bóng người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như bóng ma”. Khung cảnh đầy thê lương như dâng lên tột bậc với tiếng quạ “cứ gào lên từng hồi”.
Hai lần Thị gặp Tràng đã vẽ nên bức chân dung và cho thấy sự tàn khốc của nạn đói được nhắc đến. Từ một cô gái đầy sức sống “liếc mắt, cười tít…ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng” khi nghe Tràng hò hát vu vơ:
“Muốn ăn cơm trắng mấy giò này!
Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì!”
Mà thoát cái đã “áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị đã bị cái đói đầy vào lối cụt, đẩy Thị vào bước đi cuối cùng. Thị bỏ cả cái gọi là danh dự và tôn nghiêm của mình. Thị không mất mặt nữa,”cắm đầu ăn một chập bốn bát bánh đúc, ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng”. Cái đói vắt kiệt cùng sức lực của một con người, mà Thị phải kiếm một con đường mới, một sự sống mới, thế là thị theo Tràng về nhà. Dù rằng “Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật”. Thị không về thì sẽ thế nào? Nhân phẩm, danh dự cũng không cứu nổi Thị, Thị mặc tất cả theo lời nói đùa ngô nghê của Tràng mà Thị cứ tự cho đấy là thật vậy: “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Không về thì có lẽ những ngày sau, trên phố “người chết như ngả rạ”, trong “ba bốn cái thây nằm cong queo bên đường” sẽ có Thị. Bởi cái đói cứ như con quỷ dữ, hiện hình cho bọn thực dân đang bóc lột người dân miền Bắc nói riêng, chúng dồn họ vào con đường chết để trục lợi cho mình. Liệu một người đàn bà như Thị có còn sức để chống đối, Kim Lân đã cho Thị con đường sống.
Mà phải chăng chính Thị cũng là một điều tươi đẹp, một tia sáng le lói nhưng làm ánh lên cái đẹp trong bức tranh u ám đấy. Thị theo Tràng về trong con mắt săm soi của những người đàn bà khác: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không?”. “Người đàn bà như cũng biết xung quanh người ta đang nhìn dồn cả về phía mình, Thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Nhưng sự xuất hiện của Thị cũng “có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ”. Không còn vẻ “chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”, “Thị có vẻ rón rén, e thẹn…Thị vẫn ngôi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Có một chút buồn, một chút thất vọng trong tâm trí Thị, “cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài”. Liệu rằng họ có nuôi nổi Thị hay không?
Nhưng Thị đâu trơ trẽn, đâu như những con người bị bần cùng hóa, thị vẫn là người không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai”. Thị gặp mẹ Tràng vẫn chào hỏi, vẫn lễ phép kính cẩn. Thị là con người khéo léo, biết vun vén cho gia đình. Thị là người mang đến sự đổi mới trong nhà Tràng, nhờ có Thị mà Tràng mới cảm nhận được không khí gia đình. “Xung quanh mình có cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ.Thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn”. Dù bát chè khoán mà mẹ Tràng đưa đầy “đắng ngắt và nghẹn ứ trong cổ”, nhưng thị vẫn không nói gì “điềm nhiên và vào miệng”. Bởi Thị hiểu hoàn cảnh nhà Tràng, thị biết ơn sự cưu mang của mẹ con Tràng dành cho Thị. Nếu không đến ngày cả chè khoán đắng ngắt ấy Thị cũng không có để ăn, sẽ là một cái xác vô danh trên đường đi. “Chưa bao giờ trong nhà này hai mẹ con lại dầm ấm, hòa hợp như thế”, Thị còn giúp Tràng nhìn ra một tương lai tương sáng hơn trong cái không khí, “một nỗi tủi hờn len vào tâm trí con người”. Thị kể cho Tràng nghe cách Việt Minh “phá kho thóc Nhật” chia cho dân nghèo. Điều đó đã làm trong lòng Tràng một ý nghĩ vẩn vơ về “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Mà có lẽ một ngày nào đó Tràng cũng sẽ góp mặt, một ý nghĩ chợt lóe lên, như cách tia sáng, hơi thở mới mà Kim Lân đưa Thị vào cuộc đời Tràng.
Tóm lại, nhân vật Thị không chỉ đại diện cho một lớp người, cho những sức sống mãnh liệt, khao khát sống tiềm tàng của nhân dân lúc đấy. Thị còn là điểm nhấn, cái nét bút điểm xuyết làm sáng bừng lên giá trị nhân đạo, và cả hiện thực của “Vợ Nhặt”. Kim Lân đã cho thấy tinh thần đùm bọc, cưu mang của người với người, đã bộc lộ cái khát vọng một tổ ấm vẹn tròn của những con người nghèo khổ.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân viết lên bằng cái ám ảnh rùng rợn của nạn đói đầu năm 1945 trong tâm trí của tác giả cũng là trong tâm trí của người dân miền Bắc. Nạn đói thê thảm bao trùm khắp không gian và biến một người đàn bà thành cô “vợ nhặt”. Có thể nói nhân vật người vợ nhặt là một trong những nhân vật độc đáo nhất trong lịch sử văn học Việt Nam hiện đại, ẩn chứa nhiều quan niệm nghệ thuật và triết lý sống sâu sắc.
Nhân vật người vợ nhặt hiện lên trong nạn đói vô cùng thê thảm, thị bị cái đói dồn tới bước khó khăn có lúc như mất đi vẻ đẹp dịu dàng nữ tính vốn có. Người vợ nhặt không có tên. Thị nghèo khổ tới mức không có một cái tên riêng cho mình. Cái đói, cái nghèo còn tước đoạt cả vẻ đẹp hình thể, làm cho chị ta tiều tụy cả về hình dáng: “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt”, “cái bụng gầy lép”, “bộ quần áo rách như tổ đỉa”. Thị “ton ton” chạy theo Tràng đẩy xe, liếc mắt cười tình. Thị “sưng sỉa” đòi ăn. Thị “chao chát”, “chỏng lỏn”, “đon đả”: “Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì!”… Vì miếng ăn nhất thời mà chị sẵn sàng theo không một người đàn ông xa lạ. Vài câu nói tầm phơ tầm phào và bốn bát bánh đúc mà thị trở thành vợ “nhặt về” của anh phu Tràng – một kẻ ế, nghèo, ngơ ngẩn. “Cô dâu” – thị về nhà chồng mà không tài sản, không nhan sắc. Cái đói khiến thị thành vật vô giá trị. Về phương diện này người vợ nhặt còn không bằng nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài. Mị tuy bị áp bức tới vô cảm, chẳng bằng thân trâu ngựa nhưng ít ra còn xinh đẹp và tài hoa. Còn thị, ngay cả cái phần ưu ái thường dành riêng cho phụ nữ thì tạo hóa cũng từ chối cho người đàn bà này. Cuộc sống đã đói khổ khiến thị mất đi cái duyên con gái, vừa nghe được ăn thì đã “ton ton chạy lại đẩy xe bò” cho Tràng. Rồi lại còn “chạy tới xưng xỉa đòi ăn”, đến khi được ăn thì “cắm đầu ăn một chặp hết bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì” và “hai con mắt trũng hoáy sáng lên”. Thị gần như mất hết lòng tự trọng, chẳng có nét gì là của người phụ nữ nông thôn.
Thế nhưng bản chất của chị không phải là người đanh đá, nanh ác, cơ hội. Thực chất là do hoàn cảnh khiến cho thị thành như vậy. Cho nên cho đến khi được hạnh phúc gia đình, thị bỗng trở về bản chất lương thiện chu đáo vốn có của người phụ nữ Việt Nam. Từ khi trở thành “cô dâu”, thị e thẹn, ngượng ngùng thật đáng yêu khi về nhà chồng. Sau đêm tân hôn, thị gần như trở thành người khác. Thị biết lo toan, vun vén cho hạnh phúc gia đình. Thị cùng bà cụ Tứ dọn sân vườn, nhổ cỏ, đem mấy bộ quần áo ra hong, cái ang khô cũng đầy ắp nước… mang lại hơi thở mới cho căn nhà. Bữa cơm ngày đói tuy đơn sơ, miếng cháo cám đắng ngắt nhưng chính thị là người khơi dậy khát vọng sống của mọi người khi nhắc tới cảnh Việt Minh phá kho thóc Nhật cứu đói. Chi tiết này đã hé mở con đường giải thoát cuộc đời cho con người và khao khát một tương lai tươi sáng ở nhân vật người vợ nhặt.
Như vậy, thông qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt”, Kim Lân đã phản ánh tình trạng thê thảm và niềm thương cảm sâu sắc với số phận con người lao động nghèo khổ trong nạn đói 1945. Hình ảnh người vợ nhặt là hiện thân cho bản chất tốt đẹp của con người, cho khát vọng hạnh phúc gia đình và hiện thân của khát vọng sống.
Tác phẩm Vợ nhặt xoay quanh câu chuyện của ba người trong một gia đình ngụ cư. Điều lạ là một người làm nên chính cái tên của truyện lại không có tên, không biết tuổi. Đó chính là vợ Tràng. Người phụ nữ ấy chỉ là một trong số hàng ngàn, hàng vạn thân phận phụ nữ cùng thời. Do đó, người ấy rất rễ bị lãng quên, ít ai chú ý tới nhưng với nhà văn đó là một số phận không thể bỏ qua, một số phận gây nhức nhối, trăn trở. Sự hấp dẫn của nhân vật nữ này phải chăng là từ một người trong cõi mù mịt, không đâu vào đâu trở thành một nàng dâu hiền thục của bà cụ Tứ?
Vợ Tràng là người đàn bà không rõ lai lịch, không có gia đình, không có nhà cửa. Cô ta thậm chí không có tên và khi xuất hiện lúc được gọi là thị, là cô ả, lúc là người đàn bà. Chỉ có bà cụ Tứ xem vợ Tràng là nàng dâu, con dâu, là con và được Tràng gọi là nhà tôi mà thôi. Trước khi về nhà bà cụ Tứ, cô ta cùng với mấy chị con gái ngồi vêu ra ở cửa nhà kho thóc Liên đoàn chờ nhặt hạt rơi, hạt vãi, hay ai có công việc gì gọi đến thì làm. Trong nạn đói hồi ấy, thân phận con người thật rẻ rúng. Đâu phải vợ Tràng mới là người không tên, không tuổi, còn biết bao chị gái như thế.
Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc), nhưng gặp lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Chả trách anh cu Tràng không nhận ra thị là phải.
Khi mới gặp Tràng: Thị là người đanh đá, táo bạo tới mức trở nên trơ trẽn. Nghe anh chàng phu xe hò một câu cho đỡ nhọc (Muốn ăn cơm trắng mấy giò này / Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì), thị đã cong cớn bám lấy rồi vùng đứng dậy, ton ton chạy lại đẩy xe cho Tràng. Gặp lần thứ hai, khi Tràng vừa trả hàng xong, thị đâu xầm xầm chạy đến. Thị đứng trước mặt mà sưng sỉa nói: Điêu! Người thế mà điêu! Khi thấy anh Tràng có vẻ dễ bắt choẹt, thị tiếp tục cong cớn. Thấy có miếng ăn, hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên rồi thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chạp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng mà thở.
Phải chăng đấy là tính cách vốn có của người đàn bà này? Không, từ đầu đến lúc theo Tràng về nhà, người phụ nữ ấy hành động hoàn toàn theo bản năng của mình. Thị làm tất cả chỉ để được... ăn!
Khi đã chấp nhận làm vợ Tràng: Trên con đuờng trở về nhà của Tràng, thị thay đổi hẳn. Trong khi Tràng mặt có một vẻ gì phớn phở khác thường, hay tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh, thì thị lại đi sau hắn chừng ba bốn chục thước, cắp cái thúng con, cái nón tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn. Rõ ràng so với người đàn bà mới ban trưa, bây giờ thị đã là người khác. Ban trưa, lúc ở ngoài chợ, thị sấn sổ, cong cớn để được ăn, còn bây giờ, thị đang về nhà chồng (ai mà chẳng e thẹn!). Vả lại, thị bắt đầu ý thức về thân phận mình, là người vợ theo không. Té ra, thị chẳng có chút quyền uy nào, kể cả quyền lựa chọn và đành chấp nhận số phận khi đã đến bước đường cùng.
Song, dù cố đấm ăn xôi đi nữa, thị vẫn là người có ý thức về giá trị của bản thân. Trên đường về nhà chồng, khi anh Tràng lấy làm thích thú trước cảnh lũ trẻ con chọc ghẹo, thì thị có vẻ khó chịu lắm, đôi lông mày nhíu lại, đưa ta y lên xóc lại tà áo. Trẻ con nghịch ngợm chọc ghẹo còn được, đằng này đến người lớn cũng tò mò, thị càng ngượng ngiụ, chân nọ díu cả vào chân kia. Anh Tràng đến là vô tư, cứ lấy vợ vậy làm thích thú. Thị càu nhàu trong miệng và lầm lũi đi đến nỗi nhầm đường. Thị mong sớm đến nhà "chồng" để tránh sự dòm ngó của mọi người.
Về nhà của Tràng, thị càng khác hơn. Người đàn bà ấy có cái tò mò của nàng dâu mới. Thị đảo mắt nhìn chung quanh. Quả là nghèo quá. Thị nén tiếng thở dài. Anh Tràng muốn vợ mình được tự nhiện, cứ giục ngồi, nhưng thị chỉ dám ngồi mớm xuống mép giường. Khi bà cụ Tứ về, người đần bà ấy chủ động chào bà bằng u. Trước mặt người mẹ chồng, thị càng rụt rè, vẫn đứng nguyên chỗ cũ, khẽ nhúc nhích. Chính thái đọ ấy cùng hoàn cảnh của thị đã khiến bà cụ Tứ , trái với sự dò xét thông thường của những người mẹ chồng đối với nàng dâu, nhìn thị lòng đầy thương xót. Bà nhanh chóng chấp nhận thị là dâu dù chỉ mấy phút trước đó cả hai đều hoàn toàn xa lạ.
Sáng hôm sau, thị đã trở thành người vợ đảm đang. Cùng với bà cụ Tứ , thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ. Người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở thị: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài tỉnh. Không những thế, thị còn tỏ ra là người biết tu chí làm ăn. Khi thị hỏi bà cụ Tứ về tiếng trống ồn ã ngoài đình và biết đó là tiếng trống thúc thuế, thị đã khẽ thở dài. Rồi chính thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói. Câu chuyện ấy khiến Tràng ân hận và tiếc rẻ khi nhớ lại mình đã từng có dịp làm như thế mà chẳng làm. Ai biết rồi đây, để chăm lo cho cuộc sống gia đình của mình, người phụ nữ này có khi cả gan hơn cả anh cu Tràng! Bữa cơm nghèo buổi sáng hôm ấy, thị cũng như bà cụ Tứ và anh Tràng đều thấy một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mình khi phải cố nuốt những miếng cám đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Song, thị cũng như hai mẹ con Tràng, đều cố tránh nhìn mặt nhau, đều không muốn làm người khác phải buồn đau hơn. Phải ý nhị lắm, phải tinh tế đến nhường nào mới có thái độ ứng xử đầy chất nhân bản như thế!
Hoá ra cái đanh đá, trở trẽn trước kia ở người đàn bà Tràng lấy làm vợ chẳng qua là do đói khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.
Vợ Tràng tiêu biểu cho số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng. Khi người đàn bà ấy may mắn được sống trong tình người, trong mái ấm gia đình mặc dù cuộc sống còn nhiều đe doạ của sự đói khát, thì những phẩm chất tốt đẹp đã sống lại.
Kim Lân đã khắc hoạ nhân vật người phụ nữ rất điêu luyện. Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ). Tác giả lại chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ nữ. Chẳng hạn, chi tiết thị lấy nón che mặt diễn tả tâm trạng xấu hổ vì biết mình là người phụ nữ theo không về nhà chồng; hoặc thị nén một tiếng thở dài khi đảo mắt nhìn chung quanh căn nhà của Tràng; hay chi tiết thị đón lấy bát cháo cám, đưa mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại rồi điềm nhiên và vào miệng là thái độ chấp nhận số phận khi đến bước đường cùng... Nhiều chi tiết nho nhỏ, vụn vặt như thế nhưng đã nói được khá rõ về tâm tư, tình cảm của một con người.
Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.
Ba nhân vật chính trong Vợ nhặt đã được nhà văn xây dựng theo cách thức khác nhau. Chính sự khác nhau đó đã góp phần tạo nên giá trị độc đáo của tác phẩm. Ba nhân vật trở thành ba mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả.
Kim Lân là một trong số ít những nhà văn thành công khi viết về cái nghèo, cái đói để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả. Khi viết về cái đói, Kim Lân không dừng lại ở việc khơi gợi lòng thương cảm, xót xa mà còn tạo ra một nỗi ghê sợ, ám ảnh về sức mạnh hủy diệt của nó đối với nhân phẩm và thể xác con người. Tuy nhiên, với thông điệp “Hãy tin ở con người”, hầu hết nhân vật của Kim Lân, đến cuối truyện luôn tìm về với bản chất tốt đẹp, đáng quý của mình. Đại diện cho kiểu nhân vật này, chúng ta có thể kể đến người vợ nhặt trong truyện ngắn cùng tên của nhà văn. Đây là nhân vật bị cái đói xui khiến, sẵn sàng vứt bỏ tự tôn, nhắm mắt đưa chân theo người xa lạ vì một miếng ăn. Nhưng, ở đâu đó trong con người Thị vẫn luôn tồn tại những phẩm chất đáng trân trọng của một người phụ nữ truyền thống: đảm đang, biết vun vén gia đình và cũng đầy tinh tế, ý nhị.
Vợ nhặt là truyện ngắn được sáng tác năm , lấy bối cảnh của nạn đói Ất Dậu 1945. Đây là tai họa vô cùng khủng khiếp trong lịch sử dân tộc ta cướp đi sinh mạng của hơn hai triệu người. Kim Lân đã dựng lên khung cảnh “tối sầm vì đói khát”. Ở đó, “người chết như ngả rạ, không buổi sáng nào người trong làng đi chợ, đi làm đồng không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường”. Còn người sống thì lay lắt, thê thảm bởi họ sống nhưng lại chắc rằng cái chết đang chờ đợi mình ở phía trước. Nạn đói hoành hành dữ dội. Cái đói, cái chết dồn ép con người vào thế chông chênh của kiếp người. Trần gian nối tiếp địa ngục, khoảng cách giữa sự sống và cái chết trở nên mong manh hơn bao giờ hết.
Nhân vật người vợ nhặt hiện lên trong tác phẩm không tên tuổi, không gốc gác, quê quán, không người thân, họ hàng. Kim Lân gọi nhân vật bằng đại từ phiếm chỉ “Thị, ả, người đàn bà” cho thấy thân phận mờ nhạt, đáng thương của nhân vật. “Thị” có thể là bất cứ người đàn bà khốn khổ, nghèo đói nào ngoài kia, họ cũng đang chết dần chết mòn về cả hình hài và nhân phẩm trong cái đói. Chỉ vài câu miêu tả ngắn ngủi, Kim Lân đã cho thấy sự hiện hình của cái đói trên khuôn mặt Thị: “Áo quần tả tơi như tổ đỉa, Thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Ngoại hình của Thị khiến người ta liên tưởng đến một bóng ma, một xác chết hơn là một con người. Thị là đại diện cho hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Không chỉ là hình dáng bên ngoài, đến cả vẻ dịu dàng, nữ tính thiên bẩm của người phụ nữ ở Thị cũng bị cái đói bóp méo đến thảm hại. Thị đanh đá, táo bạo đến mức trơ trẽn, thậm chí vứt bỏ liêm sỉ.
Lần đầu tiên gặp Tràng, chỉ vì một câu “hò cho đỡ nhọc” của Tràng: “ Muốn ăn cơm trắng mấy giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, Thị đã cong cớn bám lấy rồi “vùng đứng dậy” đẩy xe cho Tràng. Lần thứ hai, Thị đến trước mặt Tràng “sưng sỉa” “nhắc chuyện cũ”. Sau đó, Thị lại không ngại ngùng “ngồi sà xuống ăn một chập bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Trong con mắt của chúng ta, Thị sao mà vô duyên, trơ trẽn quá. Thị hành động theo bản năng sinh tồn, cái đói làm mờ nhân phẩm Thị. Thậm chí, đến cả việc lấy chồng, theo một người đàn ông về nhà chung sống cả đời Thị cũng quyết định hoàn toàn theo bản năng. Vin vào câu nói bông đùa của Tràng: “Này nói đùa chứ, có về ở với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà “Thị về thật”. Không cần mai mối, không cần cưới hỏi, không cần mâm cao cỗ đầy, Thị theo không Tràng với hy vọng có miếng ăn.
Tuy nhiên, Thị đáng thương nhiều hơn đáng trách. Vẫn biết Thị tự bán rẻ nhân cách, hạ thấp nhân phẩm của mình, lấy chồng theo cái cách đầy mỉa mai và chua xót, được người ta nhặt về như món đồ rơi. Thế nhưng, tựu chung lại cũng vì cái đói bức bách làm khát vọng sống, bản năng sinh tồn trỗi dậy trong con người Thị. Thị giống như người đang chới với giữa dòng nước lũ, chỉ một cánh tay đưa về phía mình thì dù nó nhỏ bé, yếu đuối cũng mang lại một niềm hi vọng được sống. Việc Thị cố gắng dùng mọi cách nắm lấy bàn tay kia vốn không sai, không đáng xấu hổ. Rất nhiều bậc nam nhi “đội trời đạp đất” giữa sống và chết cũng sẽ lựa chọn như vậy, huống chi Thị chỉ là một người phụ nữ bình thường.
Tuy nhiên, Kim Lân không hề dừng lại việc khắc họa nhân vật người vợ nhặt ở sự trơ trẽn, vô duyên. Như chúng ta đã biết, thông điệp khi viết về cái đói của nhà văn là “hãy tin ở con người”. Chính vì vậy, trong nhân vật người vợ nhặt là cả một sự đối lập giữa bề ngoài và nội tâm, ban đầu và về sau. Nếu ban đầu Thị cong cớn, chỏng lỏn và chao chát thì sau khi theo Tràng về nhà, Thị trở lại là người phụ nữ với nét tâm hồn đáng quý, đáng yêu.
Thị cũng biết xấu hổ, ngượng ngùng như bao cô gái lần đầu về nhà chồng.Trên đường về nhà cùng Tràng, khi biết mọi người xung quanh đang nhìn mình, Thị “ngượng nghịu chân nọ bước víu cả vào chân kia”. Đằng sau vẻ ngoài rách rưới, xấu xí, Thị cũng có lòng tự trọng. Thị hiểu vì sao người ta nhìn mình và xì xào bàn tán. Giữa cái đận đói khát, khi tình yêu là thứ xa xỉ, họ lại dắt díu nhau về để rồi “biết có qua nổi cái thì này không” . Khi về đến nhà, Thị chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, Thị chỉ dám “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt” ngay cả khi nghe bà cụ Tứ bảo ngồi xuống, “Thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Và người đọc có lẽ đã phải ồ lên đầy ngạc nhiên trước hành động “củng tay vào trán” Tràng và mắng yêu: “chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Thị giường như đã biến thành con người khác hẳn, giống như thiếu nữ e lệ mới về nhà chồng mà không phải người đàn bà chao chát, đanh đá, chua ngoa ban đầu nữa.
Trở thành vợ Tràng, người đàn bà đã làm tốt thiên chức của người phụ nữ, Thị đảm đang, khéo léo, biết thu vén gia đình, “là người đàn bà hiền hậu đúng mực”. Thị như một cơn gió mát lành thổi vào cuộc sống u ám của mẹ con Tràng. Dưới bàn tay người phụ nữ, mọi thứ được sắp xếp ngăn nắp, gọn gàng. “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ, gọn gàng.Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung bành ngay lối đi đã hót sạch”. Chỉ là những thay đổi hết sức nhỏ nhặt nhưng dường như Thị đã mang đến cả một thế giới khác cho mẹ con Tràng. Đối với Tràng, hắn cảm thấy “một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng”. Còn bà cụ Tứ thì “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Ở cuối truyện, chính người vợ nhặt đã dấy lên trong lòng Tràng biết bao dự định, hi vọng thay đổi cuộc sống , Thị nói: “Ở trên mạng Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc Nhật chia cho người đói nữa đấy”. Chính câu nói của Thị đã gợi lên trong đầu Tràng “đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới”. Có thể không lâu nữa, hắn cũng sẽ đứng trong hàng ngũ những người đi phá kho thóc Nhật, thay đổi số phận của mình và gia đình. Vậy mới thấy hơi ấm tình người có ý nghĩa biết nhường nào. Mẹ con Tràng sẵn sàng cưu mang người khác trong cảnh đói khát và có lẽ họ đã nhận lại nhiều hơn thế. Chính người đàn bà đói khát lại làm cho cuộc sống của họ hồi sinh một lần nữa.
Không chỉ làm tròn trách nhiệm của một người vợ, một người con dâu trong gia đình, nhân vật người vợ nhặt còn là một người phụ nữ cam chịu, hi sinh và có lòng cảm thông sắc. Theo một người đàn ông xa lạ về nhà, Thị hi vọng có nơi bấu víu để vượt qua cơn đói khát. Thế nhưng, khi về tới nhà Tràng, nhìn gia cảnh của mẹ con hắn, Thị không khỏi cất tiếng thở dài thất vọng. Điều đó khiến Thị không khỏi thất thần, buồn bã trước hoàn cảnh mới, trước số phận trớ trêu của mình. Mặc dù vậy, Thị đã không bỏ đi, tình nghĩa, sự cam chịu níu giữ chân Thị ở lại cùng với mẹ con Tràng hướng về tương lai tốt đẹp hơn. Bữa cơm đầu tiên thảm đạm với niêu cháo mà mỗi người có hai lưng bát đã hết nhẵn. Khi mẹ chồng múc cho Thị bát cháo cám, “hai con mắt tối sầm” nhưng “Thị vẫn điềm nhiên và vào miệng”. Thị hòa mình vào cuộc sống gia đình. Bát cháo cám đắng chát trong cổ khiến Thị không khỏi tủi hờn nhưng Thị không hề tỏ ra thất vọng hay chán nản bởi Thị hiểu hoàn cảnh của gia đình chồng. Có lẽ, hơn ai hết, Thị hiểu rằng, chính hai con người nghèo khổ kia đã không ngại đói nghèo mà cưu mang, che chở mình, đối với Thị, họ là ân nhân, là người Thị mang ơn. Và cũng có thể, nếu không có Tràng và bà cụ Tứ, ngay cả cháo cám Thị cũng không có để ăn, phải chết đói nơi đầu đường, xó chợ.
Nhân vật người vợ nhặt được Kim Lân khắc họa chỉ bằng vài câu miêu tả ngắn ngủi nhưng đây có thể coi là nhân vật không thể thiếu trong tác phẩm. Thị không chỉ là nhân vật mang thông điệp đầy tính nhân văn của nhà văn, khẳng định niềm tin vào phẩm chất tốt đẹp của con người mà còn là nhân tố tạo nên bước chuyển mình độc đáo của tác phẩm. Không có Thị, hai mẹ con Tràng sẽ mãi mãi bị vùi lấp trong cuộc sống tăm tối, lặng lẽ và câu chuyện có lẽ sẽ kết thúc theo một hướng nào đó bi đát, tồi tệ hơn, đồng thời cũng không thể gây cho người đọc sự thương cảm, xót xa sâu sắc đến thế.
Thông qua hình tượng nhân vật người vợ nhặt, Kim Lân đã gửi gắm đến độc giả rất nhiều chiêm nghiệm sâu sắc. Đó có thể là lời nhắn nhủ: Đôi khi những thứ ta tận mắt thấy lại không hẳn là sự thật, hãy khoan phán xét con người qua hình dáng hay hành động nhất thời, chỉ có thời gian mới mang đến câu trả lời hoàn hảo. Nhân vật Thị có thể đanh đá, chua ngoa, trơ trẽn trước sự đe dọa của cái đói nhưng bản chất của Thị là người phụ nữ có phẩm chất tốt đẹp, đáng quý mà nếu anh cu Tràng không cho Thị cơ hội, nhưng điều đó sẽ mãi chẳng ai biết tới. Đó cũng có thể là triết lí về sức mạnh của tình người, hãy cứ cho đi và chúng ta sẽ nhận được thứ vô giá hơn gấp bội. Giống như nhân vật Thị khi được mẹ con Tràng cưu mang đã làm cho cuộc sống của họ mới mẻ tươi đẹp hơn, đáng sống hơn. Có thể nói, nhân vật không chỉ đưa chúng ta đến những nhận thức mới mẻ về con người mà còn làm dâng lên trong lòng người đọc niềm thương cảm, chua xót cho thân phận rẻ rúng, đau khổ của người phụ nữ trong đói nghèo và chết chóc.
Vợ nhặt là tác phẩm đặc sắc, tiêu biểu nhất trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Kim Lân. Nội dung truyện kể về anh Tràng ở xóm ngụ cư, làm nghề kéo xe bò thuê. Giữa trận đói kinh hoàng nuôi thân còn khó, thế mà bất ngờ, anh dám đèo bòng thêm cô vợ nhặt. Kim Lân đã sáng tạo ra tình huống nhặt vợ rất độc đáo, đồng thời vận dụng ngôn ngữ bình dân tự nhiên, mộc mạc để khắc họa tính cách của từng nhân vật. Từ bà cụ Tứ đến anh Tràng và người vợ nhặt, nhân vật nào cũng sinh động và chân thực.
Ngay cái tên truyện là Vợ nhặt cũng gợi cho người đọc nhiều liên tưởng thú vị. Nhân vật vợ nhặt được tác giả miêu tả rất tinh tế, phù hợp với diễn biến tâm trạng ở từng tình huống khác nhau. Chị đã đem lại niềm vui ấm áp và hạnh phúc gia đình cho mẹ con Tràng trong cảnh ngộ mấp mé giữa sự sống và cái chết. Vì thế nhân vật này chứa đựng ý nghĩa nhân văn sâu sắc, góp phần hoàn thiện giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm.
Thường thường, các nhân vật trong tác phẩm dù là chính hay phụ đều có một cái tên để gọi, để phân biệt giữa nhân vật này với nhân vật khác. Đôi khi, tên nhân vật cũng bao hàm một dụng ý nào đó của tác giả hoặc có thể toát lên tư tưởng chủ đề của tác phẩm. Truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân đã được nhà văn Nguyễn Khải nhận xét là : “Dường như chẳng có gì cả nhưng lại có khả năng làm kinh động lòng người”. Cho nên, khi tác giả cố tình không đặt tên cho nhân vật của mình và lấy nhân vật không tên ấy làm nhan đề tác phẩm thì chắc hẳn đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa.
Cốt truyện xoay quanh sự kiện “ nhặt vợ ” bất ngờ và trớ trêu của anh Tràng. Nhà Tràng chỉ có hai mẹ con ở cái xóm nghèo ven chợ. Là dân ngụ cư nên Tràng bị khinh rẻ. Đã thế, anh ta vừa luống tuổi lại vừa xấu trai nên ế vợ. Trong hoàn cảnh bình thường, Tràng không thể cưới được vợ, ấy vậy mà giữa nạn đói khủng khiếp, anh ta lại “nhặt” được “vợ” một cách tầm phơ tầm phào, chẳng cần phải cưới xin gì.
Nhân vật vợ nhặt xuất hiện trong bối cảnh trận đói năm 1945 đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ. Quạ bay vù vù như những đám mây đen trên nền trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Không khí vẩn mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
Chẳng ai biết gốc tích của chị ta ở đâu? Cha mẹ là ai? Anh em thế nào? Tất cả đều không. Chỉ biết ngày ngày, chị ngồi lẫn vào đám đàn bà con gái tụ tập trước cửa kho thóc để nhặt nhanh hạt rơi hạt vãi hay chờ có ai thuê mướn việc gì thì làm để kiếm sống. Về hình thức, chị ta cũng giống như bao kẻ đói khát khác : Áo quần tả tơi như tổ đỉa… người gầy vêu vao, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt… Chị là hiện thân của hàng triệu con người bần cùng, đói rách, tha phương cầu thực và rồi sẽ chết gục nơi đầu đường xó chợ.
Lần đầu, chị ta xuất hiện trước mắt Tràng với cách nói năng đối đáp tỏ ra bạo dạn. Chị quen Tràng bởi câu hò chơi cho đỡ nhọc của anh và những lời chòng ghẹo của mọi người. Khi nghe Tràng hò : Muốn ăn cơm trắng mấy giò này Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì và bị mấy cô bạn đẩy vai chòng ghẹo… thị cười như nắc nẻ, cong cớn nói với Tràng: Này, nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy ? Thị lon ton chạy lại đẩy xe cho Tràng, đùa bỡn với anh và liếc mắt cười tít làm cho anh Tràng thích lắm.
Chuyện chỉ có thế và Tràng cũng quên ngay. Lần sau, Tràng vừa trả hàng xong đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ tình thì thị ở đâu sầm sầm chạy đến, sưng sỉa trách anh: Điêu! Người thế mà điêu ! Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. Gặp lại chị ta, Tràng không nhận ra vì chị ta khác quá. Một lúc sau nhớ ra, Tràng toét miệng cười, đon đả: Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã. Chị ta ngúng nguẩy: Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu. Thấy Tràng vỗ vào túi khoe Rích bố cu… hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả : Ăn thật nhá! ừ ăn thì ăn sợ gì.
Chị ta đang đói. Đói lắm! Cái đói cào cấu ruột gan khiến chị ta quên hẳn ý tứ của một người con gái trước người đàn ông chỉ mới quen một hai lần: Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì. Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng rồi vừa thở vừa khen: Hà, ngon! Mê mải ăn như chưa từng được ăn bao giờ, như thế là chị ta không phải mới đói một ngày mà đã đói cả tuần, đói sắp chết.
Quả là cái đói đã đẩy lùi sĩ diện và nhân cách. Tuy nhiên, ăn xong chị ta cũng biết đùa cho đỡ xấu hổ : về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Tràng cười nhạt: Làm đếch gì có vợ, rồi tự nhiên bật ra câu nói: Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về. Tưởng giỡn cho vui, ai ngờ chị ta theo về thật. Thế là chị ta thành vợ Tràng cứ như là một trò đùa. Hay nói như tác giả là chuyện tầm phơ tầm phào đâu có hai bận, ấy thế mà thành vợ thành chồng.
Người đàn bà ấy đã chấp nhận theo không một gã đàn ông xa lạ, xấu xí trước hết là để có miếng ăn, sau là để có một nơi nương tựa cho khỏi chết đói chứ đã có tình cảm gì với nhau đâu ?! Nghĩ cũng xấu hổ nên trên đường theo “chồng” về nhà, chị ta chả biết nói gì, chỉ ngượng ngùng và khó chịu khi thấy mọi người nhìn mình bằng con mắt tò mò.
Một người đàn ông mới quen đôi lần, nay hào phóng đãi ăn một bữa no, ngoài ra không biết tính tình ra sao, gia cảnh thế nào, chỉ nghe nói là chưa có vợ, ấy vậy mà chị ta đi theo ngay, không đắn đo, sợ hãi gì. Liều lĩnh chăng? Nhẹ dạ chăng? Mặc kệ! Theo anh ta để được ăn, được sống cái đã! Vợ chồng là chuyện lâu dài, biết đâu mà tính trước. Khỏi đói, khỏi chết lúc này là quan trọng nhất. Mọi cái khác thứ yếu tất. Thế mới biết cái đói ghê gớm, kinh khủng biết chừng nào!
Trên đường theo Tràng về nhà, chị ta vừa xấu hổ, tủi nhục lại vừa lo lắng, phấp phỏng, xấu hổ, tủi nhục vì dẫu có lâm vào bước đường cùng thì chị ta cũng không sao tránh khỏi tiếng xấu là “đàn bà theo giai” trong xã hội phong kiến đầy rẫy những định kiến nặng nề lúc đó. Còn lo lắng, phấp phỏng vì không biết liệu cái anh chàng mà chị đánh liều theo về làm vợ này có giúp chị thoát khỏi chết đói và những người trong gia đình anh ta có thông cảm mà chấp nhận chị hay không?
Chuyện làm “vợ” đến với chị quá bất ngờ khiến lòng chị không yên. Bên cạnh dáng điệu phởn phở khác thường của Tràng, vẻ e thẹn, ngượng ngập của chị ta lại càng nổi bật : Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Nhà văn thật sự đã hiểu thấu tâm trạng và thể hiện được những gì đang diễn ra trong lòng người đàn bà ấy kể từ Khi chị đặt bước trên con đường xa lạ. Nhận lời làm vợ Tràng rồi theo anh về nhà, bước đầu chị ta đã có được vẻ nhu mì, khép nép của một cô dâu. Chắc là với chị, con đường ấy dài dằng dặc, bởi không biết cái gì đang chờ đợi chị, liệu chị có được đón nhận một cách dễ dàng? Liệu hành động “Cũng liều nhắm mắt đưa chân” này có mang lại cho chị được chút hạnh phúc ấm áp nào chăng hay lại khốn nạn hơn, cay đắng hơn tình cảnh của chị bây giờ ?! Bao nhiêu lo lắng, phấp phỏng khiến chị sốt ruột bật ra câu hỏi: sắp đến chưa ? vẫn chưa đến à ? Rồi lại: Nhà có ai không ?
Về tới nhà Tràng, thấy cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại, trong nhà, niêu bát, xống áo vứt bừa bộn cả trên giường, dưới đất, thì chị ta không khỏi chán nản, thất vọng: Thị đảo mắt nhìn xung quanh, cái ngực gầy lép nhô lên, nén một tiếng thở dài. Hóa ra gia cảnh của anh chàng mới ban trưa còn vỗ vỗ vào túi khoe rích bố cu là thế này đây! Chị còn biết làm sao được nữa? Việc đã rồi ! Thất vọng, buồn tủi, chua xót quá nên mặc cho Tràng lăng xăng, đon đả, chị ta nhếch mép cười nhạt nhẽo. Tràng mời ngồi, chị ta chỉ ngồi mớm xuống mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần…
Nghệ thuật miêu tả kĩ càng, tỉ mẩn của Kim Lân ở chi tiết tưởng như rất bình thường này khiến người đọc phải chú ý. Sao đã được Tràng mời ngồi mà chị chỉ ngồi mớm xuống mép giường? Thì ra cái thế ngồi tạm bợ, dè dặt ấy cũng là cái thế của tâm trạng ngổn ngang trăm mối. Liệu chỗ ngồi này có phải là của chị không ? Liệu mái nhà cũ kĩ, xiêu vẹo này có phải là nơi chị dung thân ? Đặc biệt là cảnh chị ta hai tay ôm khư khư cái thúng mặt bần thần.
Phải chăng vì căn nhà rúm ró của mẹ con Tràng quá chật chội, chị ta chẳng biết để cái thúng vào đâu? Hay vì giờ đây, cái thúng là tài sản duy nhất nên chị chẳng nỡ rời? Hay là chị ta sẽ bỏ đi ngay? Chị bần thần vì ngỡ ngàng, vì mải nghĩ tới chuyện bỗng dưng thành vợ của mình. Nó là thực mà cứ như không phải thực, khó có thể tin là sự thực. Làm vợ, làm dâu mà như thế này ư? Lấy chồng, đám cưới, rước dâu… Cái hạnh phúc lớn nhất của đời người con gái chị có được hưởng chút nào đâu? Buồn lắm ! Tủi lắm ! Chị không nói được nên lời bởi cất tiếng, chắc chắn chị sẽ khóc. Nỗi đau không trào ra thành nước mắt mà chảy ngược vào trong nên càng đau, càng tủi.
Lâm vào cái cảnh phải theo không Tràng, chị ta vừa tủi phận, vừa ngượng ngập. Gặp bà cụ Tứ, chị e thẹn, khép nép. Trước khi gặp Tràng, hoàn cảnh nghiệt ngã khiến chị ta có lúc thành ra kẻ trơ trẽn, trâng tráo, nhưng bản chất chị ta không phải như vậy. Tuy nhiên, ngòi bút của Kim Lân không chỉ tinh tế mà còn rất nhân hậu. Ông không muốn xoáy sâu vào những nỗi trớ trêu xót xa, đau lòng ấy. Khi viết truyện ngắn vợ nhặt, mặc dầu lấy bối cảnh là nạn đói khủng khiếp do phát xít Nhật và thực dân Pháp gây ra đầu năm Ất Dậu (1945) làm hơn hai triệu đồng bào từ miền Bắc đến miền Trung bị chết đói, nhưng dù trong tình huống bi thảm đến đâu, thậm chí kề bên cái chết thì nhân vật của Kim Lân vẫn khao khát hạnh phúc, vẫn tin vào cuộc sống và hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống cho ra con người.
Ở cuối truyện, cái khát vọng mãnh liệt được sống, được hạnh phúc của nhân vật vợ nhặt đã bộc lộ ra một cách hồn hậu, tự nhiên. Tuy không tìm thấy sự no đủ nhưng dẫu sao chị cũng vơi bớt được nỗi lo khi biết nhà Tràng chỉ có một mẹ già. Chị hiểu như thế là ít có khả năng bị hắt hủi, xua đuổi. Mà đấy chẳng phải đã là một nửa sự sống rồi sao?
Trước sự cảm thông, sẵn lòng chấp nhận của người mẹ già và sự cưu mang của Tràng, chị đã trở thành một người đàn bà khác hẳn. Nếu như hôm qua, cái đói đã làm mất đi những gì là nữ tính ở chị thì hôm nay, chỉ sau một bữa ăn no, một đêm ngủ ấm dưới mái nhà bình yên thì vẻ đẹp ấy đã trở về với chị. Chị bắt đầu vun vén cho tổ ấm của mình. Chị quét dọn sân nhà sạch sẽ, gánh nước đổ đầy ang. Có bàn tay săn sóc của chị, căn nhà tồi tàn, tăm tối của mẹ con Tràng như sáng sủa, gọn ghẽ hẳn ra. Sự sống đã trở về với người, với cảnh. Sự thay đổi ấy khiến Tràng không khỏi ngạc nhiên: Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Cho đến lúc này, chị mới có cảm giác chuyện làm vợ của mình là thật. Người đàn bà vô danh nhưng không vô nghĩa bởi chị đã đem lại niềm vui và sinh khí cho mẹ con Tràng.
Nét đẹp bên trong của người vợ nhặt còn thể hiện qua một chi tiết rất nhỏ. Trong bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng, khi mẹ chồng đưa cho bát chè cám, hai con mắt chị ta thoảng tối lại, nhưng ngay sau đó, chị điềm nhiên và vào miệng. Đây là một chi tiết rất đắt, thể hiện sự tinh tế trong nhận thức và sự khéo léo trong cách cư xử của người đàn bà tưởng như vô học nọ. Chị hiểu ra cơ sự của mẹ con Tràng nhưng chị không muốn làm mất đi niềm vui của người mẹ chồng già nua, tội nghiệp. Bà đang mừng vì cuối cùng thằng con trai vừa nghèo vừa xấu vừa đứng tuổi của mình cũng đã có vợ, dẫu rằng đó chỉ là cô vợ nhặt.
Điều đặc biệt thú vị là trong bữa ăn ấy, người nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này lại là một bà cụ gần đất xa trời ; còn người nói đến phong trào đấu tranh chống thuế, phá kho thóc của Nhật, chia cho người đói lại chính là chị vợ nhặt người đàn bà không tên trong tác phẩm. Hình ảnh từng đoàn những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp và lá cờ đỏ bay phấp phới hiện lên trong tâm trí của Tràng báo hiệu sắp có một sự đổi thay ghê gớm. Hình ảnh ấy là một luồng gió mạnh xô đi, cuốn đi ám khí ngột ngạt của câu chuyện đáng buồn này.
Nhiều người cho rằng ở truyện ngắn Vợ nhặt; nhân vật bà cụ Tứ, người mẹ nhân hậu và từng trải khiến người đọc xúc động nhất. Điều ấy quả không sai, nhưng đọc đến những dòng chữ cuối cùng thì điều ám ảnh tâm trí người đọc lại là hình ảnh người vợ nhặt của anh Tràng. Bằng nghệ thuật miêu tả chân thực, sinh động và tinh tế, nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh người vợ nhặt người đàn bà vô danh.
Đây là một nhân chứng có ý nghĩa tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật Pháp đã gây ra nạn đói khủng khiếp đẩy nhân dân ta vào cảnh lầm than, không được sống đúng nghĩa là một con người. Qua tác phẩm Vợ nhặt, nhà văn Kim Lân gián tiếp khẳng định: Trong đói khổ, hoạn nạn, kề bên cái chết, những con người nghèo khổ nếu biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau thì chính là vừa tự cứu mình, vừa cứu người. Những con người như vậy nhất định phải được sống ấm no, hạnh phúc.
Kim Lân sinh năm 1920 và mất năm 2007. Ông tên thật là Nguyễn Văn Tài. Ông sinh ra Phù Lưu, Tân Hồng, Từ Sơn, Bắc Ninh. Thủa thiếu thời, gia đình ông rất khó khăn nên ông chỉ được đi học hết Tiểu học rồi đi làm mưu sinh. Tác phẩm Vợ nhặt là một trong số những truyện ngắn thể hiện phong cách sáng tác độc đáo của tác giả Kim Lân. Nội dung câu chuyện xoay quanh nhân vật Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt. Trong đó, hình tượng người vợ nhặt chỉ xuất hiện thoáng qua nhưng lại đóng vai trò khá quan trọng để làm nên thành công của tác phẩm này.
Qua giới thiệu của nhà văn Kim Lân, độc giả có thể thấy người vợ nhặt xuất hiện trong hoàn cảnh vô cùng đặc biệt. Đó là vào nạn đói năm 1945. Lịch sử ghi lại thì đây là nạn đói lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, khiến hơn 2 triệu người dân bị chế. Bởi thế, lai lịch người vợ nhặt không rõ ràng. Không có gia đình, cũng chẳng có quê hương. Tình cảnh của người phụ nữ này cũng giống như những người dân khác thời đó, phải đi tha phương cầu thực. Người ta chỉ biết “Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa”. Không ai biết thị ta từ đâu tới, và đến tận cả tên cũng không có nốt. Người ta chỉ tạm gọi cho người phụ nữ đấy là “vợ nhặt”. Qua cách gọi này có thể thấy, số phận bèo bọt, rẻ rúng của con người trong cảnh nghèo đói. Thường muốn có vợ, chàng trải phải thông qua rất nhiều thủ tục cưới xin, phải mất rất nhiều tiền của. Thế nhưng đây chỉ, nhân vật Tràng chỉ cần ra đường “nhặt” về là đã có ngay một người vợ bằng xương bằng thịt.
Kim Lân miêu tả ngoại hình của người vợ thật rách rưới và nghèo khổ đến cùng cực, đến không thể nghèo được hơn nữa: “Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”.
Hình ảnh người vợ nhặt hiện ra thật hồn nhiên trong lần thứ nhất khi nghe câu hò vui của Tràng. Lúc đó, thị chẳng nghĩ ngợi gì liền lon ton, vui vẻ chạy ra giúp Tràng đẩy xe bò, rồi lại liếc mắt, cười tít với Tràng. Đó chính là sự vô tư, hồn nhiên vốn có của những người lao động nghèo.
Đến lần thứ hai, thị hiện ra với những nét vẽ rõ rệt hơn. Đó là khi được Tràng mời ăn trầu để trả ơn, thị liền sưng sỉa, thẳng thừng mắng Tràng. Thị muốn có được thứ giá trị hơn. Thế nên khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị không ngần ngại mà ngay lập tực mắt sáng lên, ngồi sà xuống “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”. Thông thường, người phụ nữ sẽ nhã nhặn, từ tốn trong ăn uống. Nhưng dường như lúc này cái đói đã che mờ mắt của thị, khiến thị chẳng thiết tha gì việc giữ gìn ý tứ. Thị cứ ăn thỏa mãn cái dạ dày của mình cái đã.
Nhất là khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, thì người vợ nhặt đã vội vàng theo về thật mà không ngần ngại. Điều này càng nhấn mạnh đến cái đói cái khổ đến cùng cực của người dân lúc bấy giờ. Vì hoàn cảnh không thể làm khác được nên thị đành theo Tràng về như một cơ hội để bám víu lấy sự sống dù mong manh. Quả thực, qua lai lịch, qua chân dung của người vợ nhặt, độc giả thấy rõ hơn cái đói nghèo khổ cực không chỉ làm biến dạng về ngoại hình của con người, mà còn cả nhân cách. Mặc dù thấy chua xót với cách hành xử hơi thô tục, hơi mất giá của người vợ nhặt nhưng đọc giả vẫn rất cảm thông sâu sắc với thị bởi hoàn cảnh đã cùng quẫn đã xô đẩy. “Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”.
Thị là một phụ nữ có khát vọng sống mãnh liệt. Qua việc quyết định theo Tràng về làm vợ dù không biết Tràng là ai, hoàn cảnh ra sao. Thị chấp nhận làm vợ mà không cần phải có lễ vật, hay một cuộc đưa rước. Bởi thị hy vọng rằng, việc được làm vợ ai đó lúc này có nghĩa là thị không bị đói, không phải sống cảnh lang thang nay đây mai đó, đầu đường xó chợ. Khi về tới nhà Tràng, thấy được hoàn cảnh nghèo khổ của Tràng, mặc dù thị phải “nén tiếng thở dài”, dấu sự thất vọng nhưng thị vẫn cố gắng chịu đựng để có cơ hội sống sót.
Qua miêu tả của nhà văn Kim Lân, độc giả có thể thấy thị dù là một người phụ nữ thô vụng, rách rưới nhưng lại hết sức nết na và ý tứ. Trên đường về nhà Tràng, thị cũng e thẹn, rón rén, che nón, đầu hơi cúi xuống đi theo sau Tràng. Lúc này, thị cũng cảm thấy ngại ngùng, tủi hổ cho thân phận vợ nhặt của mình. “Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén, e thẹn”.
Lúc vừa về đến nhà, mặc dù Tràng đon đả mời thị ngồi nhưng người vợ nhặt giữ phép tắc, ý tứ, chỉ dám ngồi mớm ở mép giường. Thị không suồng sã, vồ vập như lúc ở chợ, mà hai tay ôm khư khư cái thúng, bộc lộ hiểu biết rằng mình vẫn chưa được chính thức là gì trong cái gia đình ấy. Rồi khi gặp mẹ chồng, là mẹ Tràng thì thị không chỉ lí nhí cúi đầu chào hỏi mà còn thể hiện sự ngượng nghịu, lúng túng. “ Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”. “Người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. “ Hắn toan quay lại bảo thị cởi áo đi nằm, nhưng thấy thị ngồi bần thần dưới chân giường tự nhiên hắn lại không dám. Hắn lẳng lặng ngồi xuống cái ghế bên cạnh, cả hai cùng sượng sùng chả biết nói gì”.
Đặc biệt, vẻ đẹp trong nhân phẩm của người vợ nhặt được khắc họa rõ nét vào sáng hôm sau. Khi thị dậy sớm, dọn dẹp, quét tước nhà cửa. Thị không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà thực sự đã trở thành một người vợ đảm đang, hiền hậu, đúng mực, biết sống có trước có sau, sống có trách nhiệm với gia đình. “Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước, thu dọn sạch sẽ gọn gàng. Mấy chiếc quần áo rách như tổ đỉa vẫn vắt khươm mươi niên ở một góc nhà đã thấy đem ra sân hong. Hai cái ang nước vẫn để khô cong ở dưới gốc ổi đã kín nước đầy ăm ắp. Đống rác mùn tung hoành ngay lối đi đã hót sạch…. Vợ hắn quét lại cái sân, tiếng chổi từng nhát kêu sàn sạt trên mặt đất”.
Không những thế, lúc ăn cháo cám, mới nhìn vào bát cháo lõng bõng nước, “mắt Thị tối lại”. Nhưng rồi thị điềm nhiên, không ngần ngại cho vào miệng. Điều này cho thấy, thị rất biết điều. Thị hiểu nếu mình bộc lộ sự khó chịu, mẹ chồng sẽ buồn. Vì thế, rất đắng và chát trong miệng nhưng thị vẫn ăn một cách ngon lành, để làm cho không khí gia đình vui vẻ, không khó chịu, buồn khổ.
Không những thế, thị còn là một con người có khát vọng sống và có niềm tin vào tương lai. Thị hồ hởi kể chuyện Việt Minh đi phá kho thóc trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang để giúp người dân. Điều này dường như đã thắp lên ngọn lửa hy vọng cho cả gia đình, đặc biệt là cho Tràng.
Qua đây, tác giả Kim Lân dường như muốn gửi gắm thông điệp rằng, cái đói, cái nghèo có thể lấy đi phẩm giá của con người trong một phút giây nào đó nhưng mãi mãi không thể cướp đi tâm hồn tử tế của con người.
Có thể thấy, thông qua nhân vật người vợ nhặt, tác giả đã gửi gắm những thông điệp về giá trị hiện thực và nhân văn sâu sắc. Người đọc không chỉ cảm thông cho số phận thương tâm, rẻ mạt của người lao động trong nạn đói, thấy được khát vọng sống của họ mà còn lên án và tố cáo sự tàn bạo khốc liệt của chế độ phát xít, thực dân. Với tình huống truyện độc đáo cùng cách xây dựng hình tượng nhân vật ấn tượng, nhà văn Kim Lân đã tạo nên sự thành công vang dội của tác phẩm một cách tự nhiên và giản dị.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài.
- Quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đã có tác phẩm đăng báo trước cách mạng.
- Vốn gắn bó với nông thôn, các tác phẩm của ông chủ yếu chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân.
- Ngoài sự nghiệp sáng tác, Kim Lân còn được biết đến với vai trò là một diễn viên (vai Lão Hạc trong Làng Vũ Đại ngày ấy, Lý Cựu trong Chị Dậu…)
- Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962)...
- “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
- Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” - được viết ngay sau ngày Cách mạng tháng 8 thành công nhưng còn dang dở và thất lạc bản thảo.
- Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết lại truyện ngắn này.
2. Bố cục
- Phần 1 (từ đầu đến “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”): cảnh Tràng dẫn vợ về nhà
- Phần 2 (tiếp đó đến “cùng đẩy xe bò về”): Lí giải việc Tràng nhặt đưuọc vợ
- Phần 3 (tiếp đó đến “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”): Cuộc ganwpj gỡ giữa bà cụ Tứ và nàng dâu mới
- Phần 4 (còn lại): Cảnh buổi sáng hôm sau ở nhà Tràng
3. Tóm tắt
Trong không khí tù đọng, u ám của nạn đói, Tràng dắt người vợ nhặt về. Người dân xóm Ngụ cư ai nấy đều bất ngờ, trước những lời trêu chọc của mọi người, Thị e thẹn đi theo sau Tràng, từ một người đàn bà kém duyên, đanh đá, nay thị đã biết ngại ngùng khi đi theo Tràng về nhà. Thị theo Tràng về nhà chỉ sau hai lần gặp gỡ, hoàn cảnh của truyện thật éo le cho thấy cái đói đã khiến số phận con người trở nên rẻ rúm hơn bao giờ hết. Khi theo Tràng về nhà, Thị gặp bà cụ Tứ và cùng mẹ dọn dẹp, quét tước sân vườn. Chính nhờ tình yêu thương con người trong lúc khó khăn của hai mẹ con Tràng đã cưu mạng Thị, khiến cho thị vừa được yêu thương, vừa có một mái ấm hạnh phúc.
4. Phương thức biểu đạt: Tự sự
5. Thể loại: Truyện ngắn
6. Ngôi kể: Ngôi thứ 3
7. Giá trị nội dung
- Giá trị hiện thực:
+ Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm ấy đã trở thành một thời kì đen tối trong lịch sử của dân tộc ta bởi hơn 2 triệu đồng bào đã bị cướp đi sinh mạng.
+ Đó là hệ quả của những chính sách hà khắc, vô nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật: Đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp
- Giá trị nhân đạo
+ Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam
+ Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt.
+ Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia đình nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái chết đang đeo đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào.
+ Cách mạng chính là con đường đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này mà đến gần hơn với hi vọng, cuộc sống tốt đẹp với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong suy nghĩ của Tràng ở cuối truyện.
8. Giá trị nghệ thuật
- Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc.
- Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế
- Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ - một trong những đặc trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân
Bài giảng: Vợ nhặt (Tiết 2)