Top 2 bài Phân tích Vẻ đẹp tình người và niềm hi vọng sống của con người 2023 hay nhất

Tải xuống 7 3.4 K 3

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Phân tích "Vẻ đẹp tình người và niềm hi vọng sống của con người" trong bài Vợ nhặt - Kim Lân môn văn lớp 12 , tài liệu bao gồm 7 trang gồm dàn ý chi tiết và 2 bài văn mẫu giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kỳ thi môn Ngữ  văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

“VẺ ĐẸP TÌNH NGƯỜI VÀ NIỀM HI VỌNG SỐNG CỦA CON NGƯỜI”

Bài giảng: Vợ nhặt (Tiết 1)

Dàn ý chi tiết:

a) Mở bài

– Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm:

+ Kim Lân là một cây bút đặc sắc của văn học Việt Nam hiện đại với đề tài đời sống làng quê, có sự am hiểu sâu sắc về nỗi thống khổ của người nông dân và sự đổi đời của họ.

+ “Vợ nhặt” được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám 1945, nằm trong tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” (1946) nhưng còn dang dở và mất bản thảo. Sau ngày hòa bình 1954, Kim Lân dựa vào một phần cốt truyện cũ và viết tiếp truyện ngắn này.

– Nêu vấn đề nghị luận: Thông qua tình huống nhặt vợ trớ trêu của Tràng, truyện đã thể hiện sâu sắc vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng của cuộc sống của những người nông dân xóm ngự cư, cụ thể là ở các nhân vật: Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

b) Thân bài: 

Phân tích: Các em có thể phân tích từng nhân vật để làm rõ vẻ đẹp của tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống của những người dân ngụ cư ngay trong hoàn cảnh khốn cùng. Hoặc phân tích theo hai luận điểm của đề, trong đó lần lượt chứng minh qua các nhân vật.

* Sự túng đói quay quắt, hoàn cảnh khốn khổ không làm những người dân ngụ cư từ bỏ lòng nhân ái. Họ vẫn vượt lên trên cái chết, cái thảm đạm để sống với nhau bằng tình người đẹp đẽ.

– Vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn Tràng.

+ Hào hiệp, thương người khi chia sẻ miếng ăn với người đàn bà xa lạ đang đói khát; khi cưu mang thị dù mình cũng đang khốn khổ.

+ Chu đáo, ân cần khi mua cho chị ta cái thúng con, cùng thị đánh một bữa no nê, mua 2 hào dầu để đánh dấu ngày “nhặt vợ”.

+ Thái độ tình nghĩa và trách nhiệm: xót xa thương cảm khi nhìn vẻ buồn bã của vợ; trân trọng thương yêu mà không hề rẻ rúng; mong muốn “dự phần tu sửa lại căn nhà” – nơi Tràng sẽ sống với những người mà anh yêu thương…

– Vẻ đẹp trong tâm hồn người “vợ nhặt”:

+ Lúc đầu đi theo Tràng chỉ vì miếng ăn mong chạy trốn cái đói, thị đã thất vọng khi chứng kiến hoàn cảnh khốn khổ của Tràng nhưng thị vẫn ở lại ngôi nhà ấy vì thị hiểu mình đã tìm thấy những điều còn quý giá hơn cả miếng ăn, đó là tình người cao đẹp, đó là tấm lòng nhân hậu của những con người sẵn sàng cưu mang, yêu thương thị khi chính họ đang đói khát.

+ Thị đã biến đổi sâu sắc sau khi theo Tràng về nhà: vẻ chao chát, chỏng lỏn đã thay bằng sự hiền hậu đúng mực, may mắn trong việc làm, ý tứ trong cư xử.

– Vẻ đẹp trong tâm hồn bà cụ Tứ:

+ Việc con “nhặt vợ” giữa lúc túng đói quay quắt đã khiến bà bất ngờ, ngạc nhiên, nhưng khi đã “hiểu ra bao nhiêu là cơ sự”, trong lòng bà chỉ tràn ngập tình thương: thương con, thông cảm với nàng dâu, trăn trở xót xa về bổn phận làm mẹ.

+ Cố tạo niềm vui cho các con ngay trong bữa cơm ngày đói thê thảm khiến cho món ăn của loài vật lại thắm đẫm tình người…

* Sự túng đói quay quắt, hoàn cảnh khốn khổ không ngăn cản được những người dân xóm ngụ cư hy vọng vào cuộc sống – niềm hy vọng đã tạo nên vẻ đẹp rạng rỡ trong tâm hồn họ.

– Nhân vật Tràng:

+ Sau cảm giác “chợn”, “sờ sợ”, khi “thóc gạo này đến cái thân mình cũng chưa biết có nuôi nổi không lại còn đèo bòng”, Tràng tặc lưỡi, liều lĩnh và từ lúc đó, Tràng cảm nhận hạnh phúc đang và sẽ đến với cuộc đời mình.

+ Việc mua hai hào dầu thắp, cảm giác êm ái lửng lơ như trong giấc mơ đi ra, dự liệu về một tương lai khi hắn sẽ cùng vợ mình sinh con đẻ cái ở đây”…

+ Đặc biệt hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong đầu Tràng đều là biểu hiện của niềm hy vọng mong manh mà vững chắc về tương lai.

+ Người “vợ nhặt”: sự biến đổi trong thái độ, trong cách cư xử khi cùng mẹ chồng quét tước cửa nhà cũng phần nào cho thấy niềm hy vọng và sự đổi đời đang âm thầm diễn ra trong lòng thị.

+ Bà cụ Tứ: là người thể hiện rõ nhất niềm hy vọng vào một cuộc sống tốt đẹp hơn: bà cắt đặt lo toan công việc, bàn về việc đan phên ngăn phòng, việc nuôi gà, động viên các con bằng cả triết lý dân gian “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, cùng con thu dọn cửa nhà cho quang quẻ.

c) Kết bài: 

Đánh giá chung: 

– Tình người và niềm hy vọng vào cuộc sống đã làm nên vẻ đẹp vừa “thấm thía cảm động”, vừa rạng rỡ trong tâm hồn những người dân xóm ngụ cư.

– Phát hiện và miêu tả vẻ đẹp ấy trong tâm hồn người dân xóm ngụ cư, Kim Lân đã đem đến cho tác phẩm tình cảm nhân đạo sâu sắc, mới mẻ.

Phân tích "Vẻ đẹp tình người và niềm hi vọng sống của con người"- mẫu 1

Nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn in trong tâm trí Kim Lân - một nhà văn hiện thực có thể xem là con đẻ của đồng ruộng, một con người một lòng đi về với “thuần hậu phong thuỷ” ấy. Ngay sau Cách mạng, ông đã bắt tay ngay vào viết tác phẩm Xóm ngụ cư khi hoà bình lập lại (1954), nỗi trăn trở tiếp tục thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện ấy. Và cuối cùng, truyện ngắn “Vợ nhặt” ra đời.

          Lần này, Kim Lân đã thật sự đem vào thiên truyện của mình một khám phá mới, một điểm sáng soi chiếu toàn tác phẩm. Đó là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo tiêu biểu như Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ. Thiên truyện thể hiện rất thành công khả năng dựng truyện, dẫn truyện và đặc sắc nhất là Kim Lân đã có công khám phá ra diễn biến tâm lý thật bất ngờ.

Video bài văn mẫu Phân tích "Vẻ đẹp tình người và niềm hi vọng sống của con người"

Trong một lần phát biểu, Kim Lân đã từng nói: “Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lại. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người”. Đó chính là tình người và niềm hi vọng về cuộc sống về tương lai của những con người đang kề cận với cái chết.

Bằng cách dẫn truyện, xây dựng lên tình huống “nhặt vợ” tài tình kết hợp với khả năng phân tích diễn biến tâm lý nhân vật thật tinh tế và sử dụng thành công ngôn ngữ nông dân, ngôn ngữ dung dị, đời thường nhưng có sự chọn lọc kĩ lưỡng, nhà văn đã tái hiện lại trước mắt chúng ta một không gian đói thật thảm hại, thê lương.

Trong đó ngổn ngang những kẻ sống người chết, những bóng ma vật vờ, lặng lẽ giữa tiếng khóc hờ và tiếng gào thét gửi gắm trong không gian tối đen như mực ấy những mầm sống đang cố vươn đến tương lai, những tình cảm chân thành, yêu thương bình dị nhưng rất đỗi cao quý ấy và nhà văn đã để những số phận như anh Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ được thăng hoa trước ngọn cờ đỏ phấp phới cùng đám người đói phá kho thóc của Nhật ở cuối thiên truyện.

Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của anh cu Tràng. Tình huống ấy là cánh của khép mở để nhân vật bộc lộ nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của một người chưa đủ thì làm sao có thể đèo bòng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỉ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn, làm cho nhau đau khổ. Nhưng nhà văn Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật anh cu Tràng, người vợ nhặt và bà cụ Tứ.

Chúng ta từng kinh hãi trước “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và mùi gây của xác người”, từng ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lạ thay chúng ta thật không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường, dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ Tràng nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng, một con người - thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng biết bao nghĩa tình cao đẹp.



Phân tích

“Cái đói đã tràn vào xóm tự lúc nào”, vậy mà Tràng vẫn đèo bòng thêm một cô vợ trong khi anh không biết cuộc đời phía trước mình ra sao. Tràng đã thật liều lĩnh. Và ngay cô vợ Tràng cũng thế. Hai cái liều ấy gặp nhau kết tụ lại thành một gia đình. Điều ấy thật éo le và xót thương vô cùng. Và dường như lúc ấy trong con người của Tràng kia đã bật lên niềm sống, một khát vọng yêu thương chân thành. Và dường như hắn đang ngầm chứa một ao ước thiết thực về sự đầm ấm của tình cảm vợ chồng, của hạnh phúc lứa đôi. Hành động của Tràng dù vô tình, không có chủ đích, chỉ tầm phơ tầm phào cho vui nhưng điều ấy mở cho ta thấy tình cảm của một con người biết yêu thương, cưu mang, đùm bọc những người đồng cảnh ngộ.

Như một lẽ đương nhiên, Tràng đã rất ngỡ ngàng, hắn đã “sờ sợ”, “ngờ ngợ”, “ngỡ ngàng” như không phải nhưng chính tình cảm vợ chồng ấy lại củng cố và nhen nhóm ngọn lửa yêu thương và sống có trách nhiệm với gia đình trong hắn. Tình nghĩa vợ chồng ấm áp ấy dường như làm cho Tràng thay đổi hẳn tâm tình. Từ một anh chàng ngờ nghệch, thô lỗ, cọc cằn, Tràng đã sớm thay đổi trở thành một người chồng thật sự khi đón nhận hạnh phúc gia đình. Hạnh phúc ấy dường như một cái gì đó “ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng tựa hồ như có một bàn tay vuốt nhẹ sống lưng”. Tình yêu, hạnh phúc ấy khiến “trong một lúc Tràng dường như quên hết tất cả, quên cả đói rét đang đeo đuổi, quên cả những tháng ngày qua”. Và Tràng đã trở dậy. Hắn có những thay đổi rất bất ngờ nhưng rất hợp logíc. Những thay đổi ấy không có gì khác ngoài tâm hồn đôn hậu, chất phác và giàu tình yêu thương hay sao?

Trong con người của Tràng khi trở dậy sau khi chào đón hạnh phúc ấy thật khác lạ. Tràng không là anh Tràng ngày trước nữa mà giờ đây đã là một người con có hiếu, một người chồng đầy trách nhiệm dù chỉ trong ý nghĩ. Thấy mẹ chồng nàng dâu quét tước nhà cửa, hắn đã bừng bừng thèm muốn một cảnh gia đình hạnh phúc. “Hắn thấy yêu thương căn nhà của hắn đến lạ lùng”, “hắn thấy mình có trách nhiệm hơn với vợ con sau này”. Hắn cũng xăm xắn ra sân dọn dẹp nhà cửa. Hành động cử chỉ ấy của Tràng đâu chỉ là câu chuyện bình thường mà đó là sự chuyển biến lớn. Chính tình yêu của người vợ, tình mẹ con hoà thuận ấy đã nhen nhóm trong hắn ước vọng về hạnh phúc, niềm tin vào cuộc sống sẽ thay đổi khi hắn nghĩ đến đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Rồi số phận, cuộc đời hắn, của vợ hắn và cả người mẹ của hắn nữa sẽ thay đổi. Hắn tin thế.

Nạn đói ấy không thể ngăn cản được ánh sáng của tình người. Đêm tối ấy rồi sẽ qua đi để đón chờ ánh sáng của cuộc sống tự do đang ở phía trước trước sức mạnh của cách mạng. Một lần nữa, Kim Lân không ngần ngại gieo rắc hạnh phúc, niềm tin ấy trong các nhân vật của mình. Người vợ nhặt không phải ngẫu nhiên xuất hiện trong thiên truyện. Thị xuất hiện đã làm thay đổi cuộc sống của xóm ngụ cư nghèo nàn, tăm tối ấy, đã làm cho những khuôn mặt hốc hác, u tối của mọi người rạng rỡ hẳn lên. Từ con người chao chát chỏng lỏn đến cô vợ hiền thục, đảm đang là một quá trình biến đổi. Điều gì làm thị biến đổi như thế?

Đó chính là tình người, là tình thương yêu. Thị tuy theo không Tràng về chỉ qua bốn bát bánh đúc và hai câu nói tầm phơ tầm phào của Tràng nhưng chúng ta không khinh miệt thị. Nếu có trách thì chỉ có thể hướng vào xã hội thực dân phong kiến đã bóp nghẹt quyền sống của con người. Thị xuất hiện không tên tuổi, không quê quán, trong tư thế “vân vê tà áo rách bợt bạt”, điệu bộ trông thật thảm hại nhưng chính con người ấy lại gieo mầm sống cho Tràng, làm biến đổi tất cả, từ không khí xóm ngụ cư đến không khí gia đình. Thị đã đem đến một luồng sinh khí mới, sinh khí ấy chỉ có được trong con người thị dung chứa một niềm tin, một ước vọng cao cả vào sự sống vào tương lai.

Thị được miêu tả khá ít song đó lại là nhân vật không thể thiếu cho tác phẩm. Thiếu thị, Tràng vẫn chỉ là anh cu Tràng ngày xưa, bà cụ Tứ vẫn lặng thầm trong đau khổ, cùng cực. Kim Lân cũng thật thành công khi xây dựng nhân vật này để góp thêm tiếng lòng ca ngợi sức sống của vẻ đẹp tình người, niềm tin vào cuộc đời phía trước trong những ngày con người đói khổ ấy. Và thật ngạc nhiên, khi nói về ước vọng ở tương lại, niềm tin vào hạnh phúc, vào cuộc đời người ta dễ nghĩ đến tuổi trẻ như Tràng và người vợ nhưng Kim Lân lại khám phá ra một nét đẹp độc đáo vô cùng: tình cảm, ước vọng ở cuộc đời lại được tập trung miêu tả khá kĩ ở nhân vật bà cụ Tứ.

Đến nhân vật này, Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lý nhân vật. Bà cụ Tứ đến giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này, tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các nhà văn muốn nhân vật nổi bật cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật ấy. Bà cụ Tứ là một điển hình.

Việc Tràng lấy vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà ngạc nhiên ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng, ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”. Cử chỉ, hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn lộn giữa nỗi tủi cực, nỗi lo và niềm vui nỗi buồn cứ hoà lẫn vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này, người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng máy đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”.

Đói khổ đang vây lấy gia đình bà, cuộc sống của bà sẽ ra sao khi mình đang ngấp nghé trước vực thẳm của cái chết. Nhưng trong tâm thức người mẹ nghèo ấy, đói khổ không phải là một vật cản lớn. Đói rét thật nhưng trong lòng bà cụ vẫn sáng lên tấm lòng yêu thương chân thành. Bà thương con, thương dâu và thương cho chính bản thân mình. Bà cụ Tứ từ những nỗi lo, nỗi tủi cực về gia cảnh vẫn không ngừng bùng cháy lên ngọn lửa của tình người. Bà đang giang tay đón nhận đứa con dâu lòng đầy thương xót, trong tủi cực nhưng vẫn ngầm chứa một sức sống thật mãnh liệt. Chính ở người mẹ nghèo khổ ấy, ngọn lửa của tình người, tình thương yêu nhân loại bùng cháy mạnh mẽ nhất. Trong bóng tối của đói nghèo đang hùng hổ vây quanh, bà lão vẫn gieo vào lòng những con mình niềm tin về cuộc sống. Bà nhắc đến việc Tràng nên chuẩn bị một cái phên nuôi gà, rồi vịêc sinh con đẻ cái, bà lão nói toàn chuyện vui trong bữa cơm ngày đói thật thảm hại. Bà đã đón nhận hạnh phúc của các con để tự sưởi ấm lòng mình.

Đặc biệt chi tiết nồi cám ở cuối thiên truyện thể hiện khá rõ ánh sáng của tình người. Nồi chè cám nghẹn cổ và đắng chát ấy lại là món quà của một tấm lòng đôn hậu chất chứa yêu thương. Bà lão “lễ mễ” bưng nồi chề và vui vẻ giới thiệu “Chè khoán đấy. Ngon đáo để cơ”. Ở đây nụ cười đan xen lẫn ngước mắt. Bữa cơm gia đình ngày đói ở cúôi thiên truyện không khỏi làm chạnh lòng chúng ta, một nỗi xót thương cay đắng cho số phận của họ song cũng dung chứa một sự cảm phục lớn lao ở những con người bình thường mà đáng quý.

Kim Lân bằng nghệ thuật viết văn già dặn, vững vàng đã đem đến một chủ đề mới trong đề tài về nạn đói. Nhà văn đã khẳng định ánh sáng của tình người thật thành công ở ba nhân vật. Điều làm chúng ta trân trọng nhất chính là vẻ đẹp của tình người và niềm hi vọng vào cuộc sống một cách mạnh mẽ nhất ở nhưng thân phận đói nghèo, thảm hại kia. Ba nhân vật: Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ cùng những tình cảm, lẽ sống cao đẹp của họ chính là những điếm sáng mà Kim Lân từng trăn trở trong thời gian dài để thể hiện sao cho độc đáo một đề tài tâm lý nhân vật, khả năng dựng truyện và dẫn truyện của Kim Lân – một nhà văn được đánh giá là viết ít nhưng tác phẩm nào cũng có giá trị là vì lẽ đó.

         “Cái đẹp cứu vớt con người” (Đô-xtôi-ep-ki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đói nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.

Phân tích "Vẻ đẹp tình người và niềm hi vọng sống của con người"- mẫu 2

Vợ Nhặt là truyện ngắn xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962. Tác phẩm có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” được viết sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và thất lạc bản thảo. Có lẽ nạn đói khủng khiếp và dữ dội năm 1945 đã hằn sâu trong tâm trí Kim Lân, điều đó đã thôi thúc ông viết tiếp thiên truyện – tác phẩm “Vợ Nhặt” ra đời. Lần này Kim Lân đã đưa vào tác phẩm một khám phá rất mới mẻ, đó là vẻ đẹp của tình người, của niềm hi vọng vào cuộc sống của những người nông dân nghèo khổ tiêu biểu như Tràng, như thị và bà cụ Tứ.

Nếu như “Nam Cao thường viết về những cái chết nhưng là những cái chết đòi được sống” thì Kim Lân trong một lần phát biểu, ông đã từng nói :“Khi viết về nạn đói, người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về những con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng đến cuộc sống, vẫn hi vọng, vẫn tin tưởng vào tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người". Đó chính là tình yêu thương con người với con người, tình hữu ái giai cấp và niềm hi vọng về cuộc sống, về tương lai tươi sáng của những con người đang đứng bên bờ vực thẳm của cái chết. Bằng cách tái hiện thảm cảnh đói khát năm 1945 và cuộc sống của ba người nông dân nghèo khổ là Tràng, là thị và bà cụ Tứ, Kim Lân đã cho ta thấy bức tranh hiện thực cuộc sống khốn cùng trong đại nạn đói năm Ất Dậu 1945 thảm hại, thê lương. Trong đó ngổn ngang những cái thây nằm còng queo bên đường, những kẻ sống như người chết, xanh xám hay đi lại vật vờ như những bóng ma, những tiếng khóc hờ, nhưng tiếng quạ kêu gào thảm thiết. Nhưng sâu sắc hơn tác giả giúp ta cảm nhận được những phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam đó là dù trong đói khổ họ vẫn sẵn sàng yêu thương đùm bọc lẫn nhau, dù đang cận kề với cái chết họ vẫn khát khao hướng về cuộc sống, khát khao hạnh phúc gia đình, họ vẫn lạc quan nhìn về một ngày mai tươi sáng. Trong cái không gian tối đen như mực ấy, những mầm sống, những tình cảm yêu thương chân thành, bình dị nhưng rất đỗi cao quí vẫn đang cố gắng vươn đến tương lai.

Phân tích

Cả ba nhân vật xuất hiện trong tác phẩm của Kim Lân đều có chung một hoàn cảnh đó là họ sống trong đại nạn đói năm 1945, cả ba nhân vật đều đang bị cơn bão táp đói khát khủng khiếp đó quăng quật, vùi dập. Đầu tiên xuất hiện trong tác phẩm là nhân vật Tràng. Tràng, một cái tên rất đỗi bình thường, đó là tên của một dụng cụ trong nghề mộc, rất mộc mạc. Tràng là một chàng nông dân nghèo sống ở xóm ngụ cư – thời đó xóm ngụ cư bị xem là xóm của nhưng kẻ ăn nhờ ở đậu và rất bị coi thường. Anh sống cùng một mẹ già – cũng chính là bà cụ Tứ trong một túp lều xiêu vẹo trên một mảnh vườn mọc toàn cỏ dại và mưu sinh bằng việc đẩy xe bò thuê. Hoàn cảnh vô cùng nghèo khổ, Tràng là một trong những nạn nhân chịu tác động ghê gớm nhất của cơn bão táp đói khát. Theo Kim Lân miêu tả, Tràng còn là một thanh niên xấu xí được: hai con mắt nhỏ tí, lúc nào cũng gà gà đăm đắm như nhìn vào bóng chiều, thân hình to lớn, vập vạp, thô kệch, cái lưng thì rông như lưng gấu, cái đầu trọc nhẵn, có thể nói rằng Tràng giống như một sản phẩm bị lỗi của tạo hóa. Danh ngôn có câu: “Hãy suy nghĩ những gì bạn nói chứ đừng nói nhưng gì bạn nghĩ” còn Tràng thì có thì có tật vừa đi vừa nói lảm nhảm, than thở những điều anh ta nghĩ, điều này cho chúng ta thấy Tràng còn là một người ngờ nghệch và ngốc nghếch, cũng có thể nói là dở hơi nữa. Đến đây Kim Lân hoàn toàn cho ta thấy anh cu Tràng là một trong những con người nghèo khổ và thuộc lớp người đáy cùng của xã hội thời bấy giờ.

Qua những nét vẽ ngoại hình và tính cách nhân vật Tràng mà nhà văn Kim Lân cho ta thấy ở trên, ta chưa thể thấy được vẻ đẹp tiềm ẩn của nhân vật. Vẻ đẹp của nhân vật Tràng được Kim Lân miêu tả qua hai lần gặp gỡ thị ở trên tỉnh. Lần thứ nhất Tràng gặp thị chỉ qua câu hò bông đùa “Muốn ăn cơm trắng mấy giò! Lại đây mà đẩy xe bò với anh, nì”. Một câu hò chơi cho đỡ nhọc có lẽ bật lên từ thói quen tự nhiên của Tràng. Lần thứ hai, Tràng gặp thị, lần này thì thực sự vẻ đẹp của nhân vật mới được bộc lộ. Khi nhận ra thị, nhớ ra câu hò bâng quơ lần trước, Tràng toét miệng cười: “Chả hôm ấy thì hôm nay vậy”. Tràng tỏ ra có trách nhiệm với câu bông đùa của mình. Rồi: “Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu cái đã”, miếng giầu là đầu câu chuyện, là một trong những nét đẹp văn hóa của người Việt, một lời mời mang tính chất xã giao lịch sự. Thị không ăn giầu thì Tràng: “Đấy muốn ăn gì thì ăn” và còn vỗ vỗ vỗ vào túi: “rích bố cu” nghĩa là giàu có, nhiều tiền, ta có thể thấy đây là một chàng trai cực kì hào phóng, có khả năng làm điểm tựa cho thị. Khi thị ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc, Tràng vẫn giữ thái độ thản nhiên bình thường mặc dù với Tràng trong thời đoạn này để kiếm được tiền mua bốn bát bánh đúc cũng không phải là chuyện dễ dàng. “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” lời nói tưởng như đùa nhưng có lẽ nó xuất phát từ tình yêu thương, khát khao hạnh phúc bấy lâu nay ấp ủ, bật lên từ một khao khát đã có từ lâu trong Tràng. Đó là khao khát hạnh phúc. Khi thị đồng ý theo thật, lúc đầu Tràng cũng “chợn nghĩ”, nghĩa là Tràng cũng sợ. Có thể nói đó là một nỗi sợ chính đáng, một nỗi sợ hãi không hạ thấp nhân vật mà ngược lại đã cho ta thấy rằng Tràng cũng nhận thức sâu sắc hiện thực cuộc sống. Nhưng nỗi sợ hãi chỉ tồn tại trong Tràng có giây lát, Tràng đã “chậc kệ”, đã quyết định khá liều lĩnh đó là “đèo bòng” thêm thị. Như vậy dù sợ hãi nhưng khao khát hạnh phúc trong Tràng là quá lớn nên Tràng đã có thể chiến thắng được nỗi sợ hãi, Tràng đã đưa thị về ở cùng. Trước khi đưa thị về Tràng còn đưa thị vào chợ tỉnh mua vài thứ lặt vặt và cùng ăn một bữa no nê. Trong những thứ lặt vặt mà anh mua có cả hai hào dầu thắp sáng. Như vậy hành động của Tràng có thể nói là quá xa xỉ trong hoàn cảnh hiện tại, thế nhưng nó lại cho ta thấy Tràng cực kì trân trọng hạnh phúc mà Tràng đang có, cực kì trân trọng người phụ nữ đồng ý theo không Tràng. Tới đây Kim Lân cho ta thấy Tràng từ một chàng thanh niên ngờ nghệch, ngốc nghếch trở thành một chàng trai lịch sự, hào phóng, giàu lòng nhân hậu, sẵn sàng đùm bọc, cưu mang những người đồng cảng ngộ. Dù trong hoàn cảnh nào thì Tràng cũng luôn khát khao hạnh phúc đến mãnh liệt.

Trên đoạn đường đưa thị về nhà mặt Tràng có một vẻ gì phớn phở khác thường. Tràng tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. Tràng vênh vênh cái mặt lên tự đắc, có thể nói Tràng đang vô cùng sung sướng và hạnh phúc vì khát khao hạnh phúc bấy lâu nay ấp ủ bây giờ được thỏa mãn. Tràng sung sướng lắm, Tràng tự hào về người phụ nữ đi bên. Có lẽ Tràng và thị đã bắt đầu có những dấu hiệu của tình cảm nam nữ, tình cảm đôi lứa.

Khi Tràng đưa thị về nhà ra mắt mẹ, chúng ta có lẽ rất tò mò, sốt ruột chờ xem anh Tràng ngờ nghệch, ngốc nghếch thưa chuyện cưới xin với mẹ như thế nào. Khi mẹ Tràng – bà cụ Tứ chưa về, Tràng nóng lòng sốt ruột mong ngóng mẹ, hết chạy ra ngõ đứng ngóng lại chạy vào sân nhìn trộm vào trong nhà. Khi mẹ về đến nhà thì Tràng reo lên như đứa trẻ được quà và lật đật chạy ra đón. Khi bà cụ Tứ vào tới nhà, thấy bà tỏ ý không hiểu thì Tràng đã liền mời mẹ ngồi lên vị trí trang trọng nhất: “thì u hẵng ngồi lên giường lên giếc chĩnh chện cái đã nào”, rồi “kìa nhà tôi nó chào u”. Cách xưng hô của Tràng “nhà tôi” nghe thân mật gần gũi, cách gọi này khiến cho người được gọi – ở đây là thị cảm thấy yên tâm, cảm thấy được bao bọc. Tràng giới thiệu thị với mẹ: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau... chẳng qua nó cũng là cái số...”. Đây là một lời giới thiệu có thể nói là cực kì khéo léo, Tràng dùng từ “bạn” chứ không dùng từ “vợ", từ bạn mang sắc thái trung hòa và mối quan hệ bạn bè ít bị cấm đoán. Tràng hiểu lễ nghi, phép tắc của người Việt, nếu dùng từ “vợ” sẽ làm cho mẹ Tràng cảm thấy bị qua mặt. Tràng nói đến “duyên”, “kiếp”, “số” là những thứ tiền định, trời định, là con đường được vạch sẵn mà mỗi người phải đi theo, Tràng đã đặt mẹ vào tình huống khó chối từ. Một anh chàng ngốc nghếch, ngờ ngệch giờ lại trở thành một anh chàng thông minh khéo léo, phải chăng hạnh phúc đã làm con người ta đổi thay.

Trong buổi sáng ngày hôm sau, đó là một buổi sáng mùa hè, Tràng thức dậy với niềm vui sướng phấn chấn, Tràng nhìn căn nhà của mình và thấy nó có sự đổi mới, khác lạ, nhà cửa, sân vườn được quét tước, thu dọn sạch sẽ và như có sinh khí mới. Cảnh tượng thật đơn giản, bình thường nhưng đối với Tràng lại rất thấm thía và cảm động. Bỗng Tràng thấy yêu thương gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Một nguồn vui sướng phấn chấn, đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ Tràng mới thấy mình nên người, thấy mình có bổn phận lo cho vợ con sau này. Đến đây ta cũng thấy được Tràng là người đàn ông biết coi trọng gia đình, có bổn phận lo cho vợ là hiện tại, cho con là tương lai, xứng đáng là hình mẫu của người đàn ông trong gia đình. Tràng thực sự đã trưởng thành.

Sau những thông thị kể về việc đám người đói đi phá kho thóc Nhật, Tràng đã nghĩ tiếc vẩn vơ bởi vì có hôm Tràng đã gặp nhưng do không hiểu Tràng đã tránh đi lối khác. Từ đấy, hình ảnh đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng cứ trở đi trở lại. Có lẽ, con đường đi tiếp theo của Tràng là đến với cách mạnh nếu Tràng có thời cơ, gặp được hoàn cảnh phù hợp. Trong Tràng có phẩm chất của một người cách mạng.

Kim Lân đã tập trung xây dựng hình tượng nhân vật Tràng bằng những ngòi bút khéo léo. Tràng được miêu tả từ ngoại hình đến tính cách đến hành động nhưng sâu sắc hơn là dòng diễn biến tâm trạng tự nhiên, khéo léo, linh hoạt. Tràng từ một anh thanh niên nghèo xấu xí, ngờ nghệch, dần dần trở thành một chàng trai lịch sự, hào phóng, giàu tình yêu thương, khát khao hạnh phúc, đĩnh đạc đường hoàng, suy nghĩ chín chắn. Tràng là một trong những nhân tố của quá trình cách mạng sau này.

Đi theo sau Tràng là thị, nhân vật thứ hai xuất hiện trong trong tác phẩm. Tràng và thị gặp nhau ở trên tỉnh, qua hai lần gặp gỡ, những lời bông đùa, mấy câu nói tầm phơ tầm phào, lời mời xã giao và bốn bát bánh đúc, thị theo không Tràng về nhà. Nhưng thị là ai ? “Thị” là từ để gọi chung cho nhưng người phụ nữ. Thị ở đây có thể là một người mà Kim Lân đã gặp đâu đó trong đám người đói nhưng chưa kịp biết tên, hoặc những người như thị không chỉ có một mà có rất nhiều số phận những người phụ nữ khốn khổ như vậy trong đại nạn đói năm 1945. Thị là người vô gia cư, không có việc để làm, hàng ngày cùng mấy chị con gái ngồi vêu ra trước cửa nhà kho, lê la nhặt hạt rơi hạt vãi, rồi ai có việc gì thì người ta thuê. Cuộc sống của thị bấp bênh, khốn khó, so với Tràng thị còn tội nghiệp hơn nhiều. Có thể nói thị là nạn nhân chịu tác động ghê gớm nhất của cơn bão táp đói khát. Lần thứ hai gặp Tràng, quần áo thị rách tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt trũng hoáy. Trông thị thật xấu xí, gầy gò và rách rưới. Qua vẻ ngoại hình tàn tạ của thị là bằng chứng Kim Lân cho ta thấy thị đang bị cơn bão táp đói khát quăng quẩy, giằng xé đến tả tơi. Thị đang đang bị quăng ra giữa dòng xoáy của đói khát, thị đang rất cần, rất cần một chiếc phao cứu sinh.

Cũng như nhân vật Tràng, ta chưa thể thấy được vẻ đẹp của nhân vật này chỉ qua hoàn cảnh và ngoại hình của thị. Lần thứ nhất gặp Tràng ở trên tỉnh, hành động của thị rất tự nhiên, lời nói cũng rất mạnh mẽ: khi bị mấy chị con gái đẩy ra đẩy xe bò cho Tràng thì thị cũng cong cớn đáp đùa lại rồi đứng dậy, lon ton chạy lại đẩy xe bò cho Tràng. Lần thứ hai gặp Tràng, lần này thấy Tràng, thị sầm sập chạy tới rồi trách cứ Tràng: “hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà mất mặt”. Có lẽ lúc này thị đang quá đói, ta nhận ra điều này khi Kim Lân miêu tả thị, và Tràng bây giờ như một hi vọng để thị có thể bấu víu. Khi Tràng mời ăn giầu: “Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu”, thị đang đói lắm. Và khi được Tràng mời ăn thì thị vẫn còn kịp hỏi lại: “Ăn thật nhá”, Tràng: “Rích bố cu” thì thị đã ngồi xuống ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc chả chuyện trò gì. Ăn xong thị đã chống chế cho cái sự ngượng ngùng của mình bằng một câu nói: “Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố.” Thị đang quá đói nên lời mời của Tràng như một chiếc phao cứu sinh khi đang ở giữa dòng nước lũ. Thị đã bám víu thật chặt để sinh tồn, phải chăng đó chính là hành động của mọi con người khi bị đẩy bên bờ vực của cái chết mà họ vẫn khao khát cuộc sống. Có ý kiến cho rằng thị đã ăn thật khi Tràng mời chỉ mời xã giao nhưng khi buộc tội thị họ đã từng có bị đói như thị, đói, đói đến có thể chết nếu như thị còn lưỡng lự dù chỉ một giây trước lời mời ăn của Tràng, thị có nguy cơ bị cơn bão táp nuốt chửng, một giây thôi là sẽ tuột mất cơ hội cứu lấy mạng sống của mình. Thị đã chớp lấy cơ hội để được sống, để được tiếp tục sống, từ đây Kim Lân đã làm sáng lên khao khát được sống mãnh liệt trong thị. Khi Tràng tiếp tục nói: “... có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” - thực sự lúc này Tràng đã trở thành chỗ dựa vững chắc trong suy nghĩ của thị. Thị nghĩ Tràng không chỉ giúp mình được sống mà còn có thể sống tốt nên thị đã đồng ý theo Tràng về thật. Đến đây, Kim Lân thực sự đã khẳng định rằng tất cả những hành động của thị, những quyết định của thị đều xuất phát từ khát khao được sinh sống, được tồn tại.

Trên đường theo Tràng về nhà, thị có vẻ rón rén, e thẹn, ngượng ngùng, không còn thấy vẻ cong cớn của cô thị ở trên tỉnh. Khi về tới nhà Tràng, thị thấy gia cảnh nhà Tràng cũng dúm dó, xiêu vẹo, chông chênh, hoàn toàn khác với những gì thị trông mong, thị thất vọng. Ngay lúc này, thị có thể bỏ đi, việc này cũng dễ hiểu vì những gì thị mong đợi là hoàn toàn không có thật. Thế nhưng Kim Lân đã cho chúng ta thấy thị nén một tiếng thở dài khi nhìn vào gia cảnh nhà Tràng, nghĩa là thị đang kìm nén sự thất vọng, thị đã chấp nhận thực tại. Khi Tràng đưa thị ra mắt bà cụ Tứ, mặc dù được bà cụ Tứ cư xử rất ôn hòa nhưng thị vẫn không tránh được sự tủi hổ, xót xa. Thị cúi xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Trong buổi sáng ngày hôm sau thị dậy sớm cùng mẹ quét tước, dọn dẹp nhà cửa và chuẩn bị bữa cơm đầu tiên. Tràng nom thị hôm nay rõ ràng là người người đàn bà hiền hậu đúng mực, không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh. Quả thật trong mắt Tràng, thị cũng là người vợ đảm, dâu hiền. Trong bữa cơm ngày đói, khi bà cụ Tứ bưng lên món thứ hai gọi là “chè khoán” nhưng thực chất lại là “cháo cám” thị đã rất thất vọng, hai con mắt thị tối lại nhưng thị vẫn điềm nhiên và miếng cháo cám vào miệng. Điều này chứng tỏ thị biết cách cư xử tế nhị. Trong sâu thẳm suy nghĩ, thị đã đồng cảm với những khốn khó của gia đình Tràng mà bây giờ nó cũng là tổ ấm của thị. Thị đã kể với Tràng về những đám người đói đi phá kho thóc Nhật. Chính thị đã vẽ cho Tràng đi tới tương lai, đến với cách mạng và có thể nói hướng đi đó mới là hướng đi đúng đắn để đảm bảo cho những con người khốn khổ có tương lai.

Thị cũng là một con người khốn khổ, khốn khổ đến cùng cực nhưng ta có thể thấy được ở thị có những phẩm chất tốt đẹp đó là người vợ hiền, dâu thảo, biết đồng cảm, cư xử đúng mực, tế nhị. Cũng như Tràng, dù trong bất kì hoàn cảnh nào thị cũng vẫn khát khao được sống.

Nhân vật thứ ba trong tác phẩm là bà cụ Tứ – mẹ của Tràng. Bà là một nông dân nghèo khổ và cũng là một nạn nhân trong đại nạn đói năm 1945. Tuy nhiên khác với Tràng và thị, bà là thế hệ đi trước, đã từng trải, bà cụ đã già, sức đã yếu. Khi Tràng đưa thị về ra mắt, bà cụ rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một người đàn đứng ngay đầu giường thằng con trai mình, trong đầu bà đặt ra hàng loạt những câu hỏi. Mắt bà nhoèn ra, dường như bà không tin vào mắt mình, không tin vào những gì bà đang nhìn thấy. Khi nghe Tràng giới thiệu xong về người đàn bà, bà lão cúi đầu nín lặng. Bà đã hiểu rồi. Lòng người mẹ ấy hiểu ra biết bao cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Bà thương con trai , bà tự trách mình không lo được việc dựng vợ cho con. Bà còn thương, còn đồng cảm thấu hiểu cho nàng dâu mới. Bà không coi thường thị vì bà cho rằng thị có gặp bước khó khăn, đói khổ thị mới lấy đến con trai của bà, con bà mới có được vợ. Mặc dù thị là người phụ nữ theo không, không cưới hỏi, không lễ nghi nhưng bà vẫn trân trọng người phụ nữ ấy. Như vậy ta có thể thấy bà cụ Tứ là một người mẹ thương con, thấu hiểu, đồng cảm với con, bà là người phụ nữ giàu lòng nhân hậu, đồng cảm với người đồng cảnh ngộ và sẵn sàng đùm bọc cưu mang những con người ấy.

Bà lão đồng ý cho Tràng nên vợ nên chồng, bà nói: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...” nghĩa là bà cũng đồng ý trong sự vui mừng và mãn nguyện. Bà vui cùng niềm vui của con, bà lo trước nỗi lo của con. Có thể nói trong hoàn cảnh này bà cụ tứ xứng đáng là một người mẹ vĩ đại sẵn sàng đối mặt với khó khăn thiếu thốn để con mình được hạnh phúc. Khi các con mình bắt đầu bước trên con đường đời mới bà đã động viên, an ủi các con “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Bà đã gieo vào trong đầu các con một ánh nhìn lạc quan, một hi vọng vào ngày mai tươi sáng bởi đời bà và Tràng đã khổ thì đến đời con của Tràng chắc chắn sẽ bớt khổ hơn. Trong buổi sáng ngày hôm sau, bà lão cũng có vẻ gì đó khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên, bà lão xăm xắn thu dọn quét tước nhà cửa. Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo. Nhưng không khí trong bữa ăn thật vui vẻ, cả nhà đều ăn rất ngon lành vì bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, chuyện làm ăn sung sướng về sau này. Khi nồi cháo loãng mỗi người chỉ được hai lưng đã cạn, bà bê lên món ăn thứ hai, món “cháo cám” nhưng bà lại gọi bằng “chè khoán”. Chè khoán là món ăn mà trong lúc đói có thể coi là cao lương mĩ vị. Bà vừa múc cho các con ăn, vừa cười, vừa khen ngon, vừa động viên các con: “Xóm ta còn khối nhà chả có cám mà ăn đấy”. Trong bữa cơm ngày đói, ta có thể ví bà cụ Tứ như một bà tiên với đôi đữa thần trong tay, chạm vào cảnh nào đều thấy ấm cúng, chạm vào món nào, món ấy đều trở thành cao lương mĩ vị. Năng lượng đôi đũa thần trong tay bà cụ Tứ chính là niềm lạc quan.

Với nghệ thật xây dựng diễn biến tâm trạng nhân vật tự nhiên, sinh động, Kim Lân đã cho ta thấy bà cụ Tứ là một người nông dân nghèo gần đất xa trời nhưng giàu lòng thương con, giàu tình nhân hậu, đồng cảm, bao dung với những người khốn khổ. Đặc biệt bà là người luôn lạc quan, luôn luôn tin tưởng vào tương lai tươi sáng mặc dù hiện thực tối tăm mà bà đã nhiều lần nhận thức được rất rõ.

Như vậy bằng việc miêu tả nhân vật từ ngoại hình đến tính cách, đặc biệt là dòng diễn biến tâm trạng nhân vật, Kim Lân đã làm bật lên vẻ đẹp của cả ba nhân vật trong truyện ngắn. Đó cũng chính là vẻ phẩm chất tốt đẹp của người nông dân Việt Nam. Dù trong đói khổ họ vẫn sẵn sàng yêu thương đùm bọc lẫn nhau, dù đang cận kề với cái chết họ vẫn khát khao hướng về cuộc sống, khát khao hạnh phúc gia đình, họ vẫn lạc quan nhìn về một ngày mai tươi sáng.

Đôi nét về tác giả, tác phẩm

1. Tác giả

- Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài.

- Quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

- Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đã có tác phẩm đăng báo trước cách mạng.

- Vốn gắn bó với nông thôn, các tác phẩm của ông chủ yếu chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân.

- Ngoài sự nghiệp sáng tác, Kim Lân còn được biết đến với vai trò là một diễn viên (vai Lão Hạc trong Làng Vũ Đại ngày ấy, Lý Cựu trong Chị Dậu…)

- Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.

- Một số tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962)...

2. Tác phẩm

1. Xuất xứ

- “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).

- Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” - được viết ngay sau ngày Cách mạng tháng 8 thành công nhưng còn dang dở và thất lạc bản thảo.

- Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết lại truyện ngắn này.

2. Bố cục

- Phần 1 (từ đầu đến “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”): cảnh Tràng dẫn vợ về nhà

- Phần 2 (tiếp đó đến “cùng đẩy xe bò về”): Lí giải việc Tràng nhặt đưuọc vợ

- Phần 3 (tiếp đó đến “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”): Cuộc ganwpj gỡ giữa bà cụ Tứ và nàng dâu mới

- Phần 4 (còn lại): Cảnh buổi sáng hôm sau ở nhà Tràng

3. Tóm tắt

Trong không khí tù đọng, u ám của nạn đói, Tràng dắt người vợ nhặt về. Người dân xóm Ngụ cư ai nấy đều bất ngờ, trước những lời trêu chọc của mọi người, Thị e thẹn đi theo sau Tràng, từ một người đàn bà kém duyên, đanh đá, nay thị đã biết ngại ngùng khi đi theo Tràng về nhà. Thị theo Tràng về nhà chỉ sau hai lần gặp gỡ, hoàn cảnh của truyện thật éo le cho thấy cái đói đã khiến số phận con người trở nên rẻ rúm hơn bao giờ hết. Khi theo Tràng về nhà, Thị gặp bà cụ Tứ và cùng mẹ dọn dẹp, quét tước sân vườn. Chính nhờ tình yêu thương con người trong lúc khó khăn của hai mẹ con Tràng đã cưu mạng Thị, khiến cho thị vừa được yêu thương, vừa có một mái ấm hạnh phúc.

4. Phương thức biểu đạt: Tự sự

5. Thể loại: Truyện ngắn

6. Ngôi kể: Ngôi thứ 3

7. Giá trị nội dung

- Giá trị hiện thực:

+ Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm ấy đã trở thành một thời kì đen tối trong lịch sử của dân tộc ta bởi hơn 2 triệu đồng bào đã bị cướp đi sinh mạng.

+ Đó là hệ quả của những chính sách hà khắc, vô nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật: Đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp

- Giá trị nhân đạo

+ Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam

+ Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt. 

+ Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia đình nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái chết đang đeo đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào.

+ Cách mạng chính là con đường đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này mà đến gần hơn với hi vọng, cuộc sống tốt đẹp với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong suy nghĩ của Tràng ở cuối truyện.

8. Giá trị nghệ thuật

- Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.

- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc.

- Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế

- Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ - một trong những đặc trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân

Bài giảng: Vợ nhặt (Tiết 2)

 
Tài liệu có 7 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống