Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Top 5 Dàn ý chi tiết đề "Tâm trạng bà cụ tứ khi gặp nàng dâu mới" trong tác phẩm "Vợ nhặt" - Kim Lân môn Văn lớp 12, tài liệu bao gồm 8 trang giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kỳ thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:
DÀN Ý ĐỀ “ TÂM TRẠNG BÀ CỤ TỨ KHI GẶP NÀNG DÂU MỚI” TRONG TÁC PHẨM VỢ NHẶT – KIM LÂN
Đề bài: Hãy phân tích nhân vật bà cụ Tứ để làm sáng tỏ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam và tài năng nghệ thuật của nhà văn Kim Lân qua đoạn văn bản sau:
Bà lão phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn.. Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ? Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kỹ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu.
... Thấy mẹ vẫn chưa hiểu, hắn bước lại gần nói tiếp:
- Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau… Chẳng qua nó cũng là cái số cả...
Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp đứa con mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì... Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rủ xuống hai dòng nước mắt... Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
Bà lão khẽ thở dài đứng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được... Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con... May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo cho hết được?
Bà lão khẽ dặng hắng một tiếng, nhẹ nhàng nói với "nàng dâu mới":
- Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...
Tràng thở đánh phào một cái, ngực nhẹ hắn đi. Hắn ho khẽ một tiếng, bước từng bước dài ra sân. Bà cụ Tứ vẫn từ tốn tiếp lời:
- Nhà ta nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi ra may mà ông giời cho khá... Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời? Có ra thì rồi con cái chúng mày về sau.
Bà lão đăm đăm nhìn ra ngoài. Bóng tối trùm lấy hai con mắt. Ngoài xa dòng sông sáng trắng uốn khúc trong cánh đồng tối. Mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt. Bà lão thở nhẹ ra một hơi dài. Bà lão nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đưa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời cực khổ dài dằng dặc của mình. Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không?...
- Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân.
Bà lão nhìn người đàn bà, lòng đầy thương xót. Nó bây giờ là dâu là con trong nhà rồi, người đàn bà khẽ nhúc nhích, thị vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ. Bà lão hạ thấp giọng xuống thân mật:
- Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chỉ cái lúc này, cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy.
Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá...
(Vợ nhặt - Kim Lân - SGK Ngữ văn 12, tập Hai)
Đảm bảo cấu trúc bài văn nghị luận
Trình bày đầy đủ các phần Mở bài, Thân bài, Kết bài. Phần Mở bài biết dẫn dắt hợp lí và nêu được vấn đề; phần Thân bài biết tổ chức thành nhiều đoạn văn liên kết chặt chẽ với nhau cùng làm sáng tỏ vấn đề; phần Kết bài khái quát được vấn đề và thể hiện được nhận thức của cá nhân.
Xác định đúng vấn đề cần nghị luận
Cần vận dụng tốt các thao tác lập luận, kết hợp dẫn chứng và lí lẽ.
Luận điểm 1. Giới thiệu tác giả, tác phẩm
Kim Lân cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông có những trang viết đặc sắc về con người, phong tục làng quê với những thú chơi và sinh hoạt văn hóa cổ truyền của người dân đồng bằng Bắc Bộ được gọi là những “thú đồng quê”, “phong lưu đồng ruộng” như: chơi núi non bộ, thả chim, đánh vật, chọi gà.. .Cách viết chân thực xúc động về những người dân quê mà ông am hiểu sâu sắc, cảnh ngộ và tâm lý. Ông là nhà văn của người nông dân “đi về với đất, với người thuần hậu, nguyên thủy” (Nguyễn Huy Thiệp).
Truyện ngắn “Vợ nhặt” tái hiện nạn đói thê thảm 1945, đồng thời thể hiện được vẻ đẹp tình người và sức sống diệu kỳ. Kim Lân tự đánh giá: “Chất nhân ái, tình thương của người đối với người trong cảnh khốn cùng. Điều đáng nói nhất là trong cái đói con người vẫn nghĩ tới điều sung sướng cho nên người ta mới lấy nhau”, đó là nội dung cơ bản nhất của tác phẩm.
Luận điểm 2. Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn văn bản để làm sáng tỏ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ Việt Nam
Trong ba nhân vật của truyện thì bà cụ Tứ - mẹ anh Tràng gây được nhiều thiện cảm đối với người đọc hơn cả bởi tấm lòng nhân hậu rất đáng trân trọng, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ Việt Nam. Giá trị nhân văn của tác phẩm sẽ giảm đi rất nhiều nếu thiếu vắng nhân vật này. Tác giả đã đặt bà cụ Tứ vào tình huống hoàn toàn bất ngờ: Giữa những ngày đói kém khủng khiếp, đứa con trai của bà cụ bỗng dưng nhặt được vợ và dẫn về nhà. Sự kiện đột ngột đó là đầu mối dẫn dắt câu chuyện và làm nổi bật tâm trạng nhân vật cùng chủ đề tác phẩm. Nhân vật bà cụ Tứ tuy mãi đến cuối tác phẩm mới xuất hiện nhưng đã làm cho câu chuyện về người “vợ nhặt” có chiều sâu của tính nhân văn và tính trữ tình. Xây dựng nhân vật này, dường như nhà văn có chủ ý hướng người đọc đến sự nhìn nhận và suy ngẫm về chuyện lấy vợ của Tràng từ cảm nhận của người mẹ nghèo khổ đối với việc đại sự trong đời của con trai mình. Khi miêu tả và thể hiện tính cách của bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thật trong từng hình ảnh và từng chi tiết. Tác giả khéo léo dẫn dắt để người đọc cùng suy nghĩ, cùng nói cười với bà cụ. Nỗi khổ đau, tủi nhục suốt đời đè nặng lên thân phận đã tạo nên tính cách của bà.
+ Bà cụ Tứ đã trở về trong sự trông mong, chờ đợi của Tràng. Bà lão lấy làm ngạc nhiên khi thấy Tràng reo lên như một đứa trẻ và lật đật chạy ra đón mình. Bà nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, chậm chạp hỏi; Có việc gì thế vậy? rồi phấp phỏng bước theo con vào trong nhà. Tác giả đã dùng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng băn khoăn, thắc mắc của bà cụ Tứ lúc này. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: Đến giữa sân bà lão đứng sững lại, bà lão càng ngạc nhiên hơn. Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?. Những câu hỏi liên tiếp đẩy sự ngạc nhiên lên cao độ. Trong sự ngạc nhiên hơi quá lâu ấy, dường như có một nỗi ngậm ngùi, xót xa. Có lẽ cái đói, cái chết gần kề đã khiến cho sự tinh ý của người mẹ mòn mỏi đi nhiều. + Sự ngạc nhiên vẫn tiếp tục. Bà lão không tin vào mắt mình: Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thay mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà lão nhìn kĩ người đàn bà lần nữa, vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu. Người mẹ mãi ngỡ ngàng ngạc nhiên có lẽ cũng vì trong hoàn cảnh đói khát này và với một người như Tràng, bà không dám nghĩ con trai mình có vợ.
+ Khi bà lão vỡ lẽ và cúi đầu nín lặng. Cái tư thế cúi đầu nín lặng của bà cụ Tứ chất chứa biết bao suy nghĩ, giúp người đọc dần dần nhận ra nội tâm phong phú bên trong cái vẻ tưởng như già nua, lẩm cẩm: Bà lão hiểu rồi. Ra thế! Thằng con mình nó đã có vợ... Đọc đến đây tự dưng ta lại nhớ đến bà mẹ trong Một đám cưới (Nam Cao), bà mẹ ấy trong đám cưới của con mình dù là một đám cưới nghèo nhưng hoạt bát và nhanh nhẹn biết bao. Giá trong hoàn cảnh khác, có lẽ mẹ Tứ cũng vui mừng và hớn hở như ai, làm cha làm mẹ có ai lại không mong con cái yên bề gia thất có cháu để ẵm bồng, nhưng qua cái giọng ngập ngừng đứt quãng của Tràng hình như phần nào ta cũng nhận ra cái xót xa đến tội nghiệp. Tràng không ngờ. Bà lão càng không ngờ. Ai có thể ngờ rằng Tràng sẽ cưới vợ đúng hơn là nhặt vợ trong lúc này đâu. “Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu rồi.”. Trong cái khoảnh khắc lặng im ấy có đến hàng trăm hàng nghìn nỗi lo toan giữa lòng mẹ. “Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa tiếc thương cho số kiếp đứa con mình”. Chính giữa lúc này chấp nhận “nàng dâu” là mẹ Tứ đồng tình với cái khó cái khổ cái đói đang de doạ tính mạng của gia đình bà. Cuộc đời mà ai có thể biết được ngày mai sẽ còn ai sẽ mất ai trong những năm tháng đói khổ này.
+ Trong hoàn cảnh này, bà cụ Tứ có thể có những phản ứng khác, bà hoàn toàn có thể từ chối thẳng thừng “nàng dâu” mà anh con trai đã nhặt được. Nhưng... làm sao bà cụ có thể hành động như thế một khi bà nghĩ đến cái được vợ của con và cái mất của người kia thì người ta theo không về ở với con mình. Làm sao bà có thể chối từ khi người đàn bà đáng thương kia cũng đang đói khổ như bà. Tục ngữ có câu: “Thương người như thể thương thân”. Phải rồi, bà đã khổ và đã hiểu thế nào là đói khổ thì lẽ nào... Nhiều khi cái khổ, cái đói lại giúp người ta xích đến gần nhau hơn, là một động lực thúc đẩy người ta hiểu và thông cảm nhau hơn.
+ Bà lão đã khóc, “trong đôi mắt kèm nhèm của bà rỏ xuống hai dòng nước mắt”. Có thể nói đoạn này Kim Lân đã trở thành một nhà quay phim tài ba. Từ từ trong cận cảnh hiện lên đôi mắt hằn dấu chân chim một thời vất vả của bà cụ Tứ và trên khoé mắt nứt nẻ ấy rịn ra một giọt nước mắt khô héo. Bà khóc cho niềm vui và khóc cho cả nỗi buồn. Bà lão tự động viên mình “May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó, chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo hết được”. Bà lão nghĩ thế nên bà quyết định. Người già hay cả nghĩ, lắm lo xa, bà lão chợt: “Nghĩ đến ông lão, đến đứa con út”, “đến cuộc đời cực khổ dằng dặc của mình mà lo lắng” đời chúng nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không? Bà như nhìn suốt cả quá khứ, hiện tại và tương lai mà cảm thương cho con mình.
+ Giữa lúc đói nghèo lại phải “đèo bòng” thêm một miệng ăn bà cụ Tứ nghĩ về nàng dâu mới không phải ở cảm giác của một người biết ơn, mà tràn đầy tình yêu thương. Người mẹ nghèo nhân hậu ấy càng thấu hiểu cảnh ngộ xót xa của nàng dâu càng thương chị ta hơn. Tâm trạng bà cụ là sự đan xen nhiều cung bậc cảm xúc buồn vui lẫn lộn. Hình như niềm vui của bà cụ Tứ ở đây cũng trở nên héo hon, như không thể thoát ra khỏi nỗi ám ảnh của sự buồn tủi, xót thương của cái không khí thời đại lúc bấy giờ. Từ chỗ xót xa cho đứa con trai, bà chuyển sang thương xót cho người đàn bà. Lòng người mẹ nghèo ấy hiểu ngay cho cảnh ngộ của người đàn bà xa lạ kia: “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình....Mà con mình có được vợ...Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con...May ra mà qua khỏi cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên bề nó”. Đó là lòng khoan dung đầy vị tha của người mẹ đầy trải nghiệm, thấu tình đạt lí, vị tha độ lượng, đối ngược hẳn với những quan niệm phong kiến nghiệt ngã, xem nhẹ, đối xử hắt hủi với nàng dâu, nhất là nàng dâu lại theo không con mình về giữa thời buổi đói kém này. Người mẹ già với những lời lẽ đầy cảm thông, thấu hiểu: “Ừ! Thôi thì các con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Hai chữ “mừng lòng” nghe thật mộc mạc, thân thương, Tràng thở đánh phào nhẹ nhõm. Kim Lân đã thể hiện thành công thần thái của một tấm lòng vị tha, cao quý mà rất đỗi giản dị của người mẹ. Bà đã đem đến danh phận cho nàng dâu, thừa nhận thị như dâu con trong nhà.
+ Với bổn phận của một người mẹ, bà ao ước có được dăm ba mâm, trước trình tổ tiên, ông bà, sau mời làng xóm. Nhưng ao ước ấy không thể thực hiện được vì bà nghèo quá. Bà rất biết trước biết sau, song cái khó bó cái khôn, bà đành chịu. Và cũng như biết bao bà mẹ nhân từ khác, bà cụ Tứ chỉ mong: Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá... Như vậy nghĩa là “đám cưới” đã xong. Chẳng có lễ nghi, cỗ bàn gì nhưng tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Những giọt nước mắt đã nói lên rất nhiều điều về bà cụ Tứ. Bà cụ để dành lời cho bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau.
+ Nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn trích đã được khắc họa chân thực và sống động, gần gũi như thể một người mẹ mộc mạc đã bước thẳng từ cuộc đời vào trang giấy.
+ Các cung bậc cảm xúc của bà cụ Tứ đã được nhà văn khai thác rất tinh tế, vừa tô đậm thêm nỗi uất nghẹn, cay đắng của phận người trong nạn đói, vừa thể hiện vẻ đẹp của tình người.
Luận điểm 3. Đánh giá chung
Kim Lân đã đưa ra một nghịch lí, đáng lẽ niềm tin, hi vọng phải gắn với tuổi trẻ nhưng ở đây lại gắn với hình ảnh bà cụ đã gần đất xa trời? Phải chăng đó là truyền thống nhân bản của người Việt - cây cao bóng cả: “Có manh áo cộc tre nhường cho con”. Người mẹ không ao ước gì cho mình mà luôn sống vì con, cho con, hi vọng cho lớp con cháu mai sau. Vì thế niềm hi vọng không bị tàn héo theo nghèo đói, theo tuổi tác. Có con dâu về nhà thêm người, thêm của, bà thấy trong lòng đổi thay: “Nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác thường ngày, cái mặt bủng beo, u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bức tranh xã hội xám ngắt ấy, có thể nói bà cụ Tứ và người vợ nhặt của bà là điểm sáng tươi đẹp nhất của đạo lí làm người.
Nhà văn miêu tả bà cụ Tứ với giọng văn trân trọng yêu thương, niềm trân trọng yêu thương đó dường như giành cho tất cả người phụ nữ Việt Nam. Kim Lân hướng tới vẫn là sự đồng cảm, trân trọng, ngợi ca đức hi sinh và phẩm chất tốt đẹp nơi tâm hồn người phụ nữ Việt Nam. Chúng ta cũng trân trọng biết bao những con người trong hoàn cảnh đói khổ, trong sự tuyệt vọng đối diện với cái chết nhưng vẫn không từ bỏ tình yêu thương, lòng tin và niềm lạc quan về một tương lai tươi sáng hơn
Chính tả, dùng từ, đặt câu
Đảm bảo chuẩn chính tả, ngữ pháp, ngữ nghĩa Tiếng Việt.
Sáng tạo:
Có cách diễn đạt mới mẻ, thể hiện suy nghĩ sâu sắc về vấn đề nghị luận
Dàn Ý Phân Tích Tâm Trạng Nhân Vật Bà Cụ Tứ Trong Truyện Vợ Nhặt - Mẫu 1
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm
2. Thân bài:
a. Khái quát về bà cụ Tứ:
- Là một người đàn bà già, nghèo khổ, sống ở xóm ngụ cư
- Dáng đi “lọng khọng”, “chậm chạp”, “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán”, cuộc sống lam lũ, khổ cực, điển hình cho những người phụ nữ nông thôn già.
b. Diễn biến tâm trạng của bà:
- Sự ngạc nhiên khi thấy con trai đon đả, sự “phấp phỏng” lo âu vì không hiểu có chuyện gì.
- Thấy người đàn bà trong nhà, bà càng ngạc nhiên và băn khoăn tột độ, “quái lạ …ai thế nhỉ?”
- Sau khi nghe Tràng giải thích, bà “nín lặng”:
+ Bà thương con phải lấy vợ thời đói khát.
+ Bà thấy tủi hờn cho chính mình vì làm mẹ mà không lo được cho con.
+ Bà thấu hiểu và cảm thông cho người đàn bà nghèo khổ “bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình”.+ Bà chấp nhận người đàn bà và mừng vì con trai đã có vợ, bà mở lòng với nàng dâu mới.
- Thế nhưng, sau niềm vui là nỗi lo lắng, thương xót “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?
- Bà cụ Tứ là một người mẹ thương con và là một người phụ nữ giàu lòng thương người.
- Sáng hôm sau:
+ Gương mặt “bủng beo u ám” của bà, hôm nay “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường”, “rạng rỡ hắn lên”: bà vui mừng, phấn khởi.
+ Bữa cơm thảm hại nhưng cả nhà đều ăn ngon lành.
+ Bà cụ nói “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng sau này”: lòng lạc quan, yêu cuộc sống, hy vọng vào tương lại, gieo vào lòng con cái niềm tin vào tương lai.
c. Nghệ thuật:
- Xây dựng nhân vật đặc sắc
- Miêu tả tâm lý nhân vật hết sức hợp lý, sinh động
- Đặt mình vào nhân vật để miêu tả
3. Kết bài:
- Bà cụ Tứ là điển hình cho những người nông dân trước Cách mạng tháng tám.
1. Mở bài
- Giới thiệu tác giả tác phẩm và nhân vật bà cụ Tứ.
2. Thân bài
a. Hoàn cảnh bà cụ Tứ:
- Sống giữa nạn đói khủng khiếp những năm 1944-1945.
- Góa chồng, sống cùng con trai trong ngôi nhà lụp xụp ở xóm Ngụ Cư.
- Chân dung: Gầy yếu, bệnh tật miệng “húng hắng ho”, dáng người “lọng khọng”, luôn “lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”.
- Phải chịu những dày vò, day dứt về chuyện không thể lo nổi cho cậu con trai duy nhất một người vợ, chỉ vì bà nghèo quá.
b. Tâm trạng cụ Tứ và vẻ đẹp tình mẫu tử khi anh Tràng dẫn người vợ nhặt về nhà:
- Bất ngờ, không dám tin vào tai mình khi nghe anh con trai giới thiệu về người vợ mới. => Sự từng trải, biết lắng nghe, chia sẻ, cũng là tấm lòng tin tưởng, yêu thương con của một người mẹ hiểu lý lẽ.
- Sau khi nghe anh Tràng giải thích hết câu chuyện cưới vợ lạ lùng, bà bỗng “hiểu ra bao nhiêu là cớ sự”. Bà “ai oán xót thương cho số kiếp con trai mình”, xót xa, tủi cho phận mình, phận con, nỗi xúc động ấy khiến“trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt”.
- Nhanh chóng thoát ra khỏi những nỗi buồn rầu trong lòng, vực lại tinh thần, chấp nhận mối hôn sự chớp nhoáng của cậu con trai.
- Bà lo lắng không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không”.
c. Tâm trạng của bà cụ khi đối diện với thị và tấm lòng bao dung cảm thông sâu sắc:
- Thấu hiểu cho cái khó của thị “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mấy lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”.
- Ánh nhìn đăm đăm vào thị, là cái nhìn của sự thấu hiểu, xót xa cho một kiếp người tàn tạ, thương cảm cho phận một người phụ nữ không được cưới hỏi đàng hoàng.
- Nghĩ rằng cũng may có thị xuất hiện thì con trai bà mới có được tấm vợ, có được cuộc sống gia đình điền viên.
- Nhanh chóng thấy thân thiết với người con dâu mới, nhẹ nhàng săn sóc thị “Con ngồi xuống đây, ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”, để khiến cho thị đỡ ngại ngùng bỡ ngỡ trước tổ ấm mới.
- Thấy sự rụt rè của thị, lòng bà lại tràn đầy thương xót, thân mật, giải thích cho thị về chuyện không có cỗ bàn đám cưới, lòng hy vọng thị sẽ không trách cho cái nghèo khó của mẹ con bà, mà cùng yêu thương vun vén hạnh phúc với Tràng.
- Thủ thỉ tâm sự “cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u vui lắm rồi. Nam nay đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”, ấy là tấm lòng yêu thương con trai, con dâu, sự xót xa của người làm mẹ trước cảnh khổ cực của con cái.
c. Tâm trạng cụ Tứ vào buổi sáng hôm sau và vẻ đẹp của niềm tin, niềm hy vọng mãnh liệt vào cuộc sống:
- Gieo niềm tin, niềm hy vọng ấy vào tâm trí con trai con dâu mình bằng những lời thủ thỉ tâm tình rằng “Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?.
- Nói về những chuyện tốt đẹp trong tương lai, nào là chuyện nuôi gà đẻ trứng, chuyện làm ăn.
- Chiêu đãi các con bằng nồi “chè khoán”.
3. Kết bài:
Nêu cảm nhận chung.
1. Mở bài
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm
- Khái quát về tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn Vợ nhặt
2. Thân bài
a. Ngỡ ngàng, ngạc nhiên là nét tâm lí đầu tiên của bà cụ Tứ
- Khúc dạo đầu mở đầu chuỗi tâm lí của người mẹ nghèo ấy là sự ngạc nhiên, bất ngờ với hàng loạt câu hỏi: "Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường con mình thế kia?", "Ai thế nhỉ? sao lại chào mình bằng u?".
- Bà cụ Tứ đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác, tới mức: "không còn tin vào mắt, vào tai mình nữa", "Bà lão nhấp nháy cặp mắt cho đỡ nhoèn vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhoèn thì phải"
b. Sau khi hiểu ra cơ sự, bà cụ Tứ thương xót, buồn tủi, lo lắng cho con và người "vợ nhặt"
- Sau khi hiểu ra cơ sự, bà lão "cúi đầu nín lặng" thương xót, buồn tủi cho người con trai.
- Bà tủi phận, cảm thấy có lỗi bởi không thể lo cho con chuyện dựng vợ gả chồng chu đáo.
- Bà cảm thông cho số phận của người vợ nhặt, đón nhận và chấp nhận thị bằng tình yêu thương con người.
- Người mẹ không giấu nổi sự lo lắng: "Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống được qua cơn đói khát này không".
c. Bà cụ Tứ truyền cho các con ánh sáng về niềm hi vọng và sự lạc quan
- Trước sự tàn phá khủng khiếp của nạn đói, người mẹ chỉ biết khuyên vợ chồng Tràng chở che, yêu thương để cùng nhau vượt qua.
- Trong cái đói, cái khổ, chúng ta vẫn có thể thấy được niềm vui, niềm hi vọng của bà cụ Tứ về một ngày mai tươi sáng hơn: "Rồi may ông giời cho khá....ai giàu ba họ, ai khó ba đời...".
- Trong buổi sáng sau khi Tràng có vợ, bà vui trong công việc "sửa sang nhà cửa vườn tược".
+ Tâm trạng người mẹ trở nên nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, "cái mặt bủng beo, u ám của bà bỗng rạng rỡ hẳn lên".
+ Bà dậy từ rất sớm, bà "xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa, giẫy những búi cỏ mọc nham nhở trong vườn".
+ Người mẹ cố gắng lan tỏa ngọn lửa của niềm hi vọng thông qua những câu chuyện về tương lai.
3. Kết bài
Khái quát về ý nghĩa của nhân vật bà cụ Tứ.
1. Mở bài
- Giới thiệu những nét khái quát về tác giả Kim Lân (đặc điểm về con người, cuộc đời, sự nghiệp sáng tác, phong cách nghệ thuật,...)
- Giới thiệu những nét khái quát về truyện ngắn "Vợ nhặt" (hoàn cảnh ra đời, xuất xứ của tác phẩm, những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật,...)
- Giới thiệu vấn đề cần phân tích: Tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn "Vợ nhặt".
2. Thân bài
a. Giới thiệu những nét khái quát về nhân vật bà cụ Tứ
- Tuy không xuất hiện nhiều trong tác phẩm như nhân vật Tràng song nhân vật bà cụ Tứ vẫn để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc.
- Ngoại hình của nhân vật bà cụ Tứ hiện lên thật nghèo khổ, lam lũ, cơ cực: "dáng người lọng khọng", "vừa đi vừa húng hắng ho, vừa lẩm bẩm tính toán".
b. Diễn biến tâm trạng của nhân vật bà cụ Tứ
- Khi trở về nhà, nhìn thấy Tràng cùng người vợ nhặt ở nhà, trong lòng bà cụ Tứ hiện lên một nỗi ngạc nhiên đến khôn cùng, hàng loạt câu hỏi hiện lên trong bà.
→ Bà cụ Tứ không hiểu, không biết người đàn bà kia là ai không phải vì bà không hiểu mà bởi bà lão ngạc nhiên, không ngờ và không dám tin rằng con trai mình lại có vợ trong những ngày nạn đói diễn ra khủng khiếp.
- Bà lão hiểu và bà hiểu ra bao nhiêu điều khác nữa:
+ Bà đã tin rằng Tràng đã có vợ
+ Ai oán, xót thương cho con, cho thị và cho cả chính bà.
+ Bà lão khóc, bà khóc vì thương con, vì lo cho con và vì bà chưa làm tròn trách nhiệm của một người mẹ nhưng có lẽ đó còn là những giọt nước mắt của niềm vui, niềm hạnh phúc khi con trai bà có vợ.
+ Bà mở lòng đón nhận nàng dâu mới
→ Bà cụ Tứ không chỉ là một người giàu lòng yêu thương con mà còn rất giàu tình yêu thương con người.
- Sáng hôm sau:
+ Gương mặt rạng rỡ hẳn lên, nó "nhẹ nhõm, tươi tỉnh hơn ngày thường".
→ Gương mặt ấy của bà đã toát lên bao niềm vui mừng, phấn khởi và hạnh phúc.
+ Trong bữa cơm sớm hôm ấy, dù thật thiếu thốn nhưng bà nói toàn "chuyện vui, chuyện sung sướng" về sau.
→ Những câu chuyện ấy cùng với niềm vui, niềm tin đang len lỏi trong tâm trí bà như đã thắp sáng lên trong lòng Tràng và người vợ nhặt niềm lạc quan, yêu đời
3. Kết bài
Khái quát những nét đặc sắc về nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn "Vợ nhặt" và nêu cảm nghĩ của bản thân.
1. Mở bài
Giới thiệu về truyện ngắn Vợ nhặt và nhân vật bà cụ Tứ
2. Thân bài
*Hoàn cảnh:
- Góa chồng, sống với con trai trong cảnh đói khổ
- Cậu con trai xấu xí, đờ đẫn
- Bà từng nghĩ người như con mình thì chắc gì đã lấy được vợ
* Khi Tràng dắt Thị về:
- Bất ngờ, không biết đó là ai
- Bàng hoàng khi nghe Tràng giải thích
- Mừng, tủi khi hiểu ra mọi chuyện
- Xót xa khi nghĩ về cảnh cơ cực
- Thuận lòng chấp nhận, thương cả Tràng, cả Thị, tủi thân vì làm mẹ mà chẳng lo nổi cho con.
* Buổi sáng trong ngày đầu Thị về làm dâu:
- Bà dậy sớm nhổ sạch cỏ trong vườn, dọn lại nhà cửa
- Nấu nồi chè cám mời con dâu như sự yêu thương, trân trọng
- Cố tạo ra niềm vui, nói về những điều tốt đẹp trong tương lai
* Hình ảnh bà cụ Tứ:
- Người phụ nữ chịu nhiều bất hạnh, thiệt thòi
- Người mẹ giàu lòng yêu thương
- Con người nhân hậu, nâng đỡ người khác trong cảnh khốn cùng của mình
- Con người khát khao hạnh phúc, ấm no
3. Kết bài
Cảm nghĩ về nhân vật bà cụ Tứ.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài.
- Quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đã có tác phẩm đăng báo trước cách mạng.
- Vốn gắn bó với nông thôn, các tác phẩm của ông chủ yếu chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân.
- Ngoài sự nghiệp sáng tác, Kim Lân còn được biết đến với vai trò là một diễn viên (vai Lão Hạc trong Làng Vũ Đại ngày ấy, Lý Cựu trong Chị Dậu…)
- Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962)...
- “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
- Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” - được viết ngay sau ngày Cách mạng tháng 8 thành công nhưng còn dang dở và thất lạc bản thảo.
- Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết lại truyện ngắn này.
2. Bố cục
- Phần 1 (từ đầu đến “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”): cảnh Tràng dẫn vợ về nhà
- Phần 2 (tiếp đó đến “cùng đẩy xe bò về”): Lí giải việc Tràng nhặt đưuọc vợ
- Phần 3 (tiếp đó đến “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”): Cuộc ganwpj gỡ giữa bà cụ Tứ và nàng dâu mới
- Phần 4 (còn lại): Cảnh buổi sáng hôm sau ở nhà Tràng
3. Tóm tắt
Trong không khí tù đọng, u ám của nạn đói, Tràng dắt người vợ nhặt về. Người dân xóm Ngụ cư ai nấy đều bất ngờ, trước những lời trêu chọc của mọi người, Thị e thẹn đi theo sau Tràng, từ một người đàn bà kém duyên, đanh đá, nay thị đã biết ngại ngùng khi đi theo Tràng về nhà. Thị theo Tràng về nhà chỉ sau hai lần gặp gỡ, hoàn cảnh của truyện thật éo le cho thấy cái đói đã khiến số phận con người trở nên rẻ rúm hơn bao giờ hết. Khi theo Tràng về nhà, Thị gặp bà cụ Tứ và cùng mẹ dọn dẹp, quét tước sân vườn. Chính nhờ tình yêu thương con người trong lúc khó khăn của hai mẹ con Tràng đã cưu mạng Thị, khiến cho thị vừa được yêu thương, vừa có một mái ấm hạnh phúc.
4. Phương thức biểu đạt: Tự sự
5. Thể loại: Truyện ngắn
6. Ngôi kể: Ngôi thứ 3
7. Giá trị nội dung
- Giá trị hiện thực:
+ Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm ấy đã trở thành một thời kì đen tối trong lịch sử của dân tộc ta bởi hơn 2 triệu đồng bào đã bị cướp đi sinh mạng.
+ Đó là hệ quả của những chính sách hà khắc, vô nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật: Đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp
- Giá trị nhân đạo
+ Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam
+ Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt.
+ Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia đình nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái chết đang đeo đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào.
+ Cách mạng chính là con đường đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này mà đến gần hơn với hi vọng, cuộc sống tốt đẹp với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong suy nghĩ của Tràng ở cuối truyện.
8. Giá trị nghệ thuật
- Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc.
- Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế
- Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ - một trong những đặc trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân
Bài giảng: Vợ nhặt (Tiết 2