Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Phân tích chi tiết "Giọt nước mắt của bà cụ Tứ" trong tác phẩm Vợ nhặt Kim Lân môn Ngữ văn lớp 12, tài liệu bao gồm 6 trang bao gồm dàn ý chi tiết và 3 bài văn mẫu giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kỳ thi môn Ngữ văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.
Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây
PHÂN TÍCH CHI TIẾT “GIỌT NƯỚC MẮT CỦA BÀ CỤ TỨ”
Nhà văn Kim Lân được mệnh danh là “con đẻ của đồng ruộng””, là nhà văn “một lòng đi về với đất, với trời, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của con người Việt Nam”. Dù xuất hiện vào cuối giai đoạn văn học hiện thực 1930-1945, nhưng Kim Lân lại mang màu sắc khác biệt với các tác giả đi trước. Điển hình và cũng là xuất sắc nhất của ông trong giai đoạn này là truyện ngắn “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí”, năm 1962. Tác phẩm là bức tranh chân thực về nạn đói năm 1945, là sự ngợi ca tình người, tình mẫu tử; trân trọng khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của những người nông dân nghèo. Nhân vật bà cụ Tứ trong truyện ngắn này là đại diện cho vẻ đẹp của người nông dân, người mẹ Việt Nam truyền thống. Tuy không được miêu tả chi tiết về chân dung và ngoại hình nhưng qua chi tiết hai lần bà rơi nước mắt khi Tràng dẫn người vợ nhặt về ra mắt, ta phần nào hiểu được về chân dung và số phận người mẹ nông dân ấy, đồng thời cảm nhận sâu sắc và thêm trân trọng biết bao tình yêu con vô bờ của bà.
Từ nhỏ, do nhà nghèo, Kim Lân đã phải bôn ba khắp nơi, làm nhiều công việc khác nhau như thợ sơn guốc, khắc tranh bình phong… để mưu sinh. Có lẽ vì thế, hơn ai hết, ông thấu hiểu được nỗi vất vả, sự khổ cực của những người dân lao động nghèo. Ông bắt đầu sự nghiệp của mình ở thể loại truyện ngắn và đến năm 1945, ông viết tiểu thuyết “Xóm ngụ cư”. Nhưng sau này do mất bản thảo, Kim Lân đã dựa trên cốt truyện cũ để sáng tác truyện ngắn “Vợ nhặt”, một tác phẩm mang sức nặng tư tưởng của cả cuốn tiểu thuyết. Với biệt tài viết truyện độc đáo, mới lạ, nhà văn đã khắc họa thành công từng nhân vật, từ đó làm sáng lên vẻ đẹp tâm hồn của những người nông dân. Kim Lân không chỉ thành công trong việc tạo dựng mạch cảm xúc, diễn biến tâm lý của nhân vật mà ông còn rất xuất sắc trong việc xây dựng các chi tiết nghệ thuật. Chi tiết hai lần bà cụ Tứ khóc: “Bà lão cúi đầu…qua cơn đói khát này hay không” và “kể có ra… thương quá” khi Tràng đưa cô vợ nhặt về ở giữa tác phẩm thực sự là điểm sáng thẩm mỹ cho truyện ngắn “Vợ nhặt”.
Chi tiết được coi như “hạt bụi vàng của tác phẩm”. Đó là túi tiên, chứa đựng cảm xúc, tư tưởng và cái tôi riêng của nhà văn. Chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ không chỉ là sự xót thương của Kim Lân cho những con người với số phận bé mọn, lay lắt, mỏng manh mà còn là sự tố cáo xã hội thực dân nửa phong kiến lạc hậu thời bấy giờ. Đây thực sự là điểm nhấn nghệ thuật của tác phẩm.
Bà cụ Tứ là một bà mẹ nghèo, già nua, “lẩm nhẩm tính toán” theo thói quen của người già. Bà là dân ngụ cư và sống cùng với con trai tên là Tràng. Hình ảnh bà cụ Tứ xuất hiện lần đầu ở giữa tác phẩm, trong một buổi chiều chạng vạng. Bà hiện lên với dáng đi “lom khom”, chậm chạp, vừa đi vừa “ho húng hắng”. Từ chân dung, ngoại hình của bà, ta cũng thấy như hiện ra trước mắt cuộc đời của một người phụ nữ tần tảo, yêu thương con vô bờ và đã chai sạn vì những khổ đau, nhọc nhằn trong quá khứ.
Truyện ngắn ‘Vợ nhặt” lấy bối cảnh là nạn đói năm 1945, giữa thời buổi đói khát đến quay quắt, khi con người đang phải đối diện với cái chết, anh Tràng nghèo khổ, xấu xí, ngờ nghệch lại tình cờ “nhặt” được vợ. Trong buổi chiều nắng heo hắt, tối sầm vì đói khát và chết chóc, Tràng đưa cô “vợ nhặt” về nhà. Trước tình huống éo le ấy, bà cụ Tứ đã có những cách ứng xử khéo léo và cả một dòng chảy suy nghĩ phức tạp.
Khi lần đầu gặp gỡ cô vợ nhặt, đứng từ ngoài nhà mà ngó vào trong, bà không thể không bất ngờ khi thấy có cô gái đứng đầu giường con trai bà. Hàng loạt câu hỏi hiện ra trong bà và phải đến khi Tràng thưa chuyện, bà mới vỡ lẽ. Lúc này, trong lòng người mẹ, bao suy nghĩ ào ạt ập tới. Nhưng rốt cuộc, bà lão cũng chỉ “cúi đầu nín lặng”. Bà không chỉ vỡ lẽ mà còn “ngậm ngùi”, “hiểu ra bao nhiêu cơ sự”. Hành động đó của bà là một sự ứng xử khéo léo, độ lượng mà bao dung. Người mẹ đã tế nhị giữa hai người con, đặc biệt là người dâu mới, gỡ bỏ những éo le, tủi nhục trước tình huống nên vợ nên chồng đầy sự chắp vá, bấu víu này. Bà cụ Tứ đã hiểu ra mọi chuyện và dù không nói ra thành lời, bà đã chấp nhận người dâu mới. Đây là trái tim của một người mẹ nhân hậu, hết lòng yêu thương con và là trí tuệ của một người từng trải. Trong nội tâm của bà cụ Tứ lúc này, nỗi ai oán, xót thương, nỗi lo lắng dành cho các con dâng trào. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái nở mặt sau này. Còn mình thì…”. Câu nói này đã chất chứa bao nỗi tủi hổ, mặc cảm và oán trách bản thân vì đã không làm tròn trách nhiệm người mẹ của bà. Bà xót thương cho con trai mình với biết bao sự thiệt thòi. Đan xen với sự xót xa, oán trách, tủi hổ ấy là nỗi lo dâng đầy dành cho các con của người mẹ này. “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”.
Chữ “lo” ở đây không chỉ gắn với Tràng, con trai bà, mà còn cả người con dâu nữa. Đây là lần đầu tiên bà nhắc đến người con dâu nhưng bà đã nhân hậu, vị tha, coi cô cũng như con ruột mình và cũng lo lắng cho cô. Lòng người mẹ đã thật chân tình nói lên sự yêu thương, xót xa cho số phận ngoặt nghèo của hai con và vừa mong, vừa lo hai con có đùm bọc nhau, cưu mang nhau được qua “cơn đói khát” này không. Lúc này, tất cả những cảm xúc đang chất chứa trong lòng tích lại thành những dòng nước mắt và “rỉ xuống” qua kẽ mắt “kèm nhèm” của bà cụ Tứ. Đây là biểu hiện của nỗi đau khổ, tủi phận, là nỗi lo lắng dành cho hai con canh cánh trong lòng. Giọt nước mắt đã “rỉ xuống” ấy có lẽ còn là sự vui mừng, giọt nước mắt của hạnh phúc khi trong tình cảnh ngoặt nghèo này, con trai bà vẫn có được vợ. Kim Lân đã rất tinh tế khi miêu tả dòng nước mắt của bà cụ Tứ. Nó chỉ “rỉ xuống” chứ không tuôn rơi vì dường như cả cuộc đời của người mẹ tảo tần đã trải qua biết bao khổ đau để bà phải khóc cạn nước mắt của mình. Thế nên, giọt nước nước mắt rỉ xuống lúc này, phải chăng cũng là cảm xúc lắng đọng của gần một đời người đã qua nơi bà? Chân dung và số phận của bà còn được khắc họa qua hình ảnh “kẽ mắt kèm nhèm”. Sự vất vả, khổ cực của bà cụ Tứ có lẽ được thể hiện chân thực và đầy đủ nhất qua chi tiết này, khi người phụ nữ nông dân ấy trải qua đầy những khổ hạnh của cuộc đời. Phải yêu thương con đến nhường nào, người mẹ này mới có thể “rỉ xuống” những giọt nước mắt hiếm hoi của cuộc đời mình? Quả không sai khi nói dòng nước mắt là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng, tình yêu với những đứa con vô điều kiện và là biểu hiện của một tấm lòng bao dung, vị tha. Bằng bút pháp nửa trực tiếp và hiện thực tâm lí, kết hợp với giọng văn chậm, đều, ngôn từ giản dị, phù hợp với nhân vật và đặc biệt là sự tinh tế, sắc sảo để thấu hiếu tâm lí con người, Kim Lân đã phác họa chân thực và rõ nét hình ảnh bà cụ Tứ: từng suy nghĩ, cử chỉ của bà đều toát lên dáng vẻ, sự trải đời của bà lão nông dân, dù nghèo khổ nhưng luôn lo lắng, yêu thương con.
Sau khi nói rằng sẽ chấp nhận chuyện hôn nhân éo le của hai con, bà cụ Tứ đã an ủi, động viên vợ chồng Tràng. Dù cuộc hôn nhân này dựa trên sự bấu víu, chắp vá, nhưng bà cụ Tứ vẫn dành sự trân trọng, yêu thương cho người con dâu “nhặt” được này. Bà nhắc đến chuyện làm mâm cỗ cưới để cúng tổ tiên, ra mắt mọi người. Người mẹ này mong ước có thể đường đường chính hính xác nhận với mọi người đây là con dâu của bà, vợ của Tràng. Bà cho người phụ nữ tầm phơ, tầm phào này một mái ấm, một vị trí trong cuộc đời, và trong cả gia đình nhỏ này nữa. Mong muốn chân tình này cho thấy người mẹ nghèo thật sâu sắc, tinh tế và vô cùng bao dung, nhân hậu. Bà chỉ mong sao hai con yêu thương, sống hạnh phúc với nhau. “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”.
Thế nhưng, niềm vui chẳng được bao lâu, bà lại bị bủa vây bởi những nỗi lo, sự mặc cảm về số phận “Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá”. Không chỉ là nỗi lo lắng trong đầu như ở đoạn trên mà lúc này đây, bà đã phải thể hiện nỗi lo, nỗi xót thương đến đứt ruột và thốt lên “u thương quá”. Bao cảm xúc như được dồn nén hết trong chữ “thương” để rồi giọt nước mắt của bà lại một lần nữa tuôn rơi. Nhưng không còn chỉ là “rỉ xuống” nữa mà trở thành “chảy xuống ròng ròng”. Nước mắt cứ thế chảy ra mà bà không thể kìm nén được. Hình ảnh này đã thể hiện sự xót xa dâng trào cùng nỗi lo trong lòng người mẹ. Bà không chỉ thương mà còn thấy có lỗi với con. Thân là mẹ nhưng lại không thể lo nổi cho con một mâm cỗ cưới, một đám cưới đàng hoàng. Trước chuyện hệ trọng cả cuộc đời của con trai mình, bà đã không thể làm gì để giúp các con vun vén hạnh phúc. Trong lòng bà ngập tràn niềm hờn tủi. Không còn là ngôn ngữ nửa trực tiếp mà đoạn văn này được Kim Lân sử dụng ngôn ngữ kể, tả rất đời thực. Tuy thế, ông vẫn xây dựng được thành công dòng chảy tâm lý cũng như nét tính cách của nhân vật này. Bà cụ Tứ hiện lên không chỉ với vẻ đẹp tâm hồn mà con tính cách mộc mạc chân thật của người mẹ.
Có thể nói, thông qua hai chi tiết ta thấy được nổi bật lên tình yêu con vô hạn. Trước tình cảnh éo le ấy, bà đã rất tế nhị, cố nén đi nỗi xót xa, tủi hờn để gỡ bỏ những tủi nhục khó nói trong tình huống nên vợ nên chồng của hai con. Nhưng rốt cuộc, nỗi lo lắng, sự xót thương bị đẩy lên đỉnh điểm và bà phải “rỉ xuống” những dòng nước mắt. Người mẹ gạt sự tủi hờn ấy và an ủi, động viên vợ chồng Tràng. Nhưng với sự ai oán, mặc cảm, nỗi lo số phận lại quay lại, đeo bám bà. Giờ đây, bà không còn nén được nữa và dòng nước mắt “chảy xuống ròng ròng” như một giọt nước tràn ly. Giọt nước mắt của người mẹ nghèo này chính là hiện thân của tình mẫu tử thiêng liêng, lòng bao dung, sự hi sinh nhưng cũng là sự bất lực của người mẹ khi không thể làm trọn trách nhiệm với con.
Thông qua những giọt nước mắt của bà cụ Tứ, Kim Lân còn tố cáo hiện thực chiến tranh thảm khốc đã đẩy con người đến những tình cảnh thê lương. Bà cụ Tứ là điển hình của người phụ nữ Việt Nam truyền thống với những phẩm chất tốt đẹp: bao dung, vị tha, giàu tình thương yêu và tinh thần lạc quan. Vẻ đẹp của nhân vật một lần nữa khẳng định chủ đề tư tưởng của tác phẩm: trong cái đói xơ xác, khi con người chỉ nghĩ đến sự đói khái, cái chết đang đến gần, thì tình yêu thương, sẻ chia, đùm bọc, niềm khát khao hạnh phúc gia đình, niềm hi vọng vào tương lai vẫn luôn rực cháy.
Qua hai chi tiết nghệ thuật, tác giả đã khéo léo gửi gắm tâm tư, tình cảm của mình dành cho nhân vật. Qua đó, tư tưởng nhân đạo sâu sắc, sự đồng cảm, sẻ chia và niềm tin của Kim Lân với nhân vật lại càng ngời sáng. Bằng ngòi bút hiện thực và trái tim nhân hậu của mình, Kim Lân đã miêu tả được chân thực và cảm động cuộc đời và số phận của con người Việt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Không đi vào miêu tả chi tiết ngoại hình, tính cách của bà cụ Tứ, nhưng bằng dòng chảy nội tâm, bằng dáng vẻ cử chỉ, hành động, ta thấy được hình ảnh bà hiện lên chân thực và sắc nét, mang dáng dấp của người phụ nữ lao động lớn tuổi với những vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ. Chi tiết giọt nước mắt đã cho ta thấy sự am hiểu, tinh tường của Kim lân trong nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật. Nhà văn đã xây dựng rất thành công tình huống éo le, độc đáo và những chi tiết nghệ thuật đặc sắc, điểm sáng thẩm mỹ của tác phẩm.
Gorki từng nói: “Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Kim Lân quả xứng đáng là một nhà văn lớn của nền văn học Việt Nam, khi chỉ từ những chi tiết nhỏ bé mà sâu sắc, ông đã đặt cả một tài năng và tấm lòng nhân đạo của mình vào đó. Cùng với đó, thành công của truyện ngắn “Vợ nhặt” còn phải kể đến việc Kim Lân đã gây ấn tượng mạnh với độc giả bằng lối kể chuyện lôi cuốn, ngôn từ giản dị, phù hợp với mọi lứa tuổi. Có lẽ vì thế cho đến nay, “Vợ nhặt” vẫn để lại dư âm khó phai mờ trong lòng người đọc của nhiều thế hệ.
Dàn ý chi tiết:
A. Mở bài
– Giới thiệu tác giả: Kim Lân
+ Kim Lân được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với đất với người, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của con người Việt Nam.
+ Văn Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo.
– Giới thiệu tác phẩm: Vợ nhặt
+ “Vợ nhặt” in trong tập “Con chó xấu xí” xuất bản năm 1962.
B. Thân bài
1. Giới thiệu khái quát về bà cụ Tứ
– Bà Tứ là người dân xóm ngụ cư vốn không được coi trọng ở vùng nông thôn lúc bấy giờ. Hơn nữa, xóm ngụ cư của bà Tứ cái đói đã tràn đến từ lúc nào.
– Ngôi nhà bà Tứ “đứng rúm ró” trên một mảnh vườn mọc lổn nhổn những khóm cỏ dại. Trong nhà chỉ có vài vật dụng sơ sài.
– Suốt cuộc đời, bà Tứ phải vật lộn với miếng ăn, với cuộc sống mưu sinh, sống trong sự nghèo khổ, sống trong cuộc sống dai dẳng của mình.
– Nghĩ đến cuộc đời của mình, bà Tứ vừa buồn vừa khổ, vừa xót xa cho số kiếp của mình, của con mình.
2. Tóm tắt hoàn cảnh dẫn đến chi tiết
– Truyện ngắn “Vợ nhặt” được đặt trong bối cảnh nạn đói thê thảm năm 1945 với trên hai triệu đồng bào nước ta bị chết đói. Trong cái chết bủa vây ấy, Tràng dẫn cô vợ về nhà ra mắt mẹ.
=> Việc Tràng dẫn người con gái lạ về ra mắt mẹ đã khiến cho bà cụ Tứ ngạc nhiên. Tâm trạng của bà cụ Tứ khi nhìn thấy sự xuất hiện của người vợ nhặt trong nhà giúp cho tình huống Tràng nhặt vợ trở nên chân thực, khách quan.
3. Phân tích chi tiết giọt nước mắt thứ nhất
– “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt..”
+ Động từ “rỉ” => ít ỏi
– Bà khóc vì thương cho số phận nghèo khổ của mình
4. Phân tích chi tiết giọt nước mắt thứ hai
– Từ láy “ròng ròng”
– Thương con mình
5. Phân tích chi tiết giọt nước mắt thứ ba
– Thương con dâu
C. Kết bài
– Tình cảm của em dành cho nhân vật
Các bài mẫu khác:
Phân tích chi tiết "Giọt nước mắt của bà cụ Tứ" - mẫu 2
Kim Lân là cây bút chuyên viết truyện ngắn, ông thường viết về nông thôn và người nông dân, ông hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những người nông dân nghèo rất gần gũi với sinh hoạt của ông. Tác phẩm “Vợ nhặt” được in trong tập “Con chó xấu xí” (xuất bản năm 1962). Nhan đề là sự kết hợp lạ lùng về mặt ngữ nghĩa: một vế biểu tượng cho khát vọng hạnh phúc của con người, một vế diễn tả hành động “nhặt” những cái người ta bỏ đi hoặc bỏ rơi, thường gợi sự tầm thường, rẻ rúng. Nhan đề gợi ra tình huống truyện lạ lùng, éo le, bi hài trong cuộc đời: Tràng - một người đàn ông nghèo hèn, xấu xí ở xóm ngụ cư, có vợ theo không về giữa bối cảnh đói khát, người chết như ngả rạ. Chuyện Tràng nhặt được vợ đã nói lên tình cảnh thê thảm và thân phận tủi nhục của người nông dân nghèo, đen tối và bế tắc của xã hội VN trước cách mạng tháng Tám. Bối cảnh của câu chuyện là nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu 1945 do phát xít Nhật, thực dân Pháp, phong kiến tay sai bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay để phục vụ chiến tranh, khiến từ Quảng Trị trở ra hơn hai triệu đồng bào ta chết đói.
Video bài văn mẫu Phân tích chi tiết "Giọt nước mắt của bà cụ Tứ"
Bà cụ Tứ là nhân vật xuất hiện muộn nhất trong tác phẩm nhưng lại có vị trí quan trọng thể hiện tư tưởng của truyện ngắn. Ngoại hình của bà nhạt nhòa như ánh hoàng hôn, dật dờ như một cái bóng, được nhà văn giới thiệu bằng một câu văn mang giọng điệu nhẹ nhàng: “Ngoài đầu ngõ có tiếng người húng hắng ho, một bà lão từ ngoài rặng tre lọng khọng đi vào. Bà lão vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Gần hơn nữa, cụ Tứ hiện lên với đôi mắt lèm nhèm, da bủng như vỏ chanh, tấm lưng còng hẳn xuống. Qua đó, ta thấy được bà cụ Tứ là một người mẹ nông dân nghèo khổ, từng trải và hiểu đời, mặc dù gia cảnh nghèo, góa bụa, thân phận bèo bọt nhưng bà rất hiền lành, nhân từ và hết mực thương con.
Khi về đến nhà, bà cụ Tứ rất ngạc nhiên vì thấy có một người đàn bà lạ. Tự dưng bà thấy mắt mình nhoèn ra thì phải. Bà cụ không nhận ra đó là ai. Kim Lân đã dựng lên một loạt câu hỏi để diễn tả tâm trạng của bà cụ Tứ: “Quái, sao lại có người đàn bà nào ở trong đấy nhỉ? Sao lại chào mình bằng u? Ai thế nhỉ?”… Bà cụ ngạc nhiên đến nỗi người đàn bà kia chào hai lần mà cụ vẫn không trả lời. Nét tâm trạng này là thường tình, tự nhiên, hợp lí bởi người phụ nữ là một người lạ, bà cụ chưa một lần gặp mặt, đồng thời bà cụ không thể tin con trai mình lấy vợ. Trái tim của người mẹ vốn rất nhạy cảm với chuyện riêng tư của con cái khi đến tuổi trưởng thành vậy mà Kim Lân lại để bà cụ Tứ ngơ ngác quá lâu. Phải chăng chính sự quẩn quanh bế tắc của hoàn cảnh đói khát đã đánh mất ở cụ Tứ sự nhạy cảm ấy?
Khi bà lão đã hiểu ra cơ sự rằng người phụ nữ xa lạ kia là vợ của con trai mình, lúc này hai dòng nước mắt bà rỉ xuống từ kẽ mắt kèm nhèm trên gương mặt khắc khổ già nua của bà, đó là những giọt nước mắt xót tủi, mừng vui của một người mẹ hiểu đời. Cụ nói với các con: “Ừ, thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng...”. Tác giả dùng từ “mừng lòng” nghĩa là thái độ chấp thuận của bà cụ Tứ không hề khiên cưỡng. Cụ nghĩ con trai mình có vợ là nó đã nên người. Bà cụ còn cảm thông với người vợ nhặt: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân”. Bà cụ nhìn người đàn bà lòng đầy thương xót. Người ta gặp bước khó khăn đói khổ này mới lấy đến con mình. Qua đó thể hiện tình mẫu tử thiêng liêng của bà, lòng thương con khi nghĩ đến cảnh chúng nó có nuôi nổi nhau hay không.
Tuy đã mừng lòng chấp thuận, nỗi buồn tủi và thương lo cho con của bà cụ Tứ vẫn rất dữ dội. Bà cụ Tứ buồn vì con có vợ khi gia cảnh nghèo khó đến một mâm cơm cúng tổ tiên cũng không có. Chuyện trăm năm của đời người mà đơn giản đến xót xa, tội nghiệp. Càng tủi phận bao nhiêu, bà cụ lại càng thương con bấy nhiêu. Bà cụ nói với các các con “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá, không biết nó có nuôi nổi nhau qua trận đói này không”. Bà lão miên man nghĩ đến đời ông lão và đời mình, rồi lại lo cho tương lai các con. Bà thở nhẹ ra một hơi dài, bóng tối trùm lấy hai con mắt… lòng bà cụ cũng tối sầm lại vì những ý nghĩ u ám khổ đau. Bà lão nghẹn lời, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Trong suốt tác phẩm, đây là lần cuối cùng bà cụ Tứ rơi nước mắt. Dòng nước mắt ấy là điều đại diện cho một tấm lòng nhân ái, yêu thương con, cùng đó là tình hữu ái giai cấp, một sự cảm thông với người vợ nhặt.
Tác giả Kim Lân đã xây dựng một chi tiết giọt nước mắt đặc sắc, phân tích tâm lí nhân vật bà cụ Tứ một cách sắc sảo. Bên cạnh đó, chi tiết giọt nước mắt đã bao hàm cả giá trị hiện thực lẫn giá trị nhân đạo của tác phẩm: một bên gián tiếp tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và phong kiến tay sai, phản ánh đời sống vất vả của người lao động trong nạn đói; một bên hé mở vẻ đẹp khuất lấp của con người trong nạn đói.
Giọt nước mắt vốn là một biểu hiện của nhiều sắc thái khác nhau. Ngoài giọt nước mắt yêu thương của bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt”, chúng ta còn có giọt nước mắt giả tạo (Hạnh phúc của một tang gia – Vũ Trọng Phụng), giọt nước mắt đau đớn (Lão Hạc)… và đặc biệt là giọt nước mắt đầy nhân tính của Chí Phèo trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Khi được thị Nở nấu cho bát cháo hành, Chí cảm thấy vô cùng ngạc nhiên và xúc động, vì đây là lần đầu tiên có một người đàn bà đối xử tốt với Chí đến vậy. Chí có những cảm xúc đi từ bâng khuâng, êm ái nhẹ nhàng, đến vừa vui vừa buồn, và có lẽ cuối cùng là có chút gì đó ăn năn… Một con quỷ dữ như Chí cũng phải khóc khi cảm nhận được tình yêu thương nồng ấm đến từ thị Nở. Đây cũng là một biểu hiện của niềm khát khao hạnh phúc gia đình ẩn sâu trong con người thô kệch, xấu xí của Chí.
Chi tiết giọt nước mắt của bà cụ Tứ ở tác phẩm “Vợ nhặt” đạt thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Nó điểm tô thêm màu sắc riêng biệt của tác phẩm “Vợ nhặt” để người đọc tìm đến văn học, tìm đến hiện thực, tìm đến các giá trị nhân văn nuôi dưỡng tâm hồn con người thêm đẹp.
Phân tích chi tiết "Giọt nước mắt của bà cụ Tứ" - mẫu 3
Những năm tháng trước cách mạng tháng Tám, số phận người nông dân trong trang viết của các nhà văn khốn khổ đến mức tột cùng. Ở Ngô Tất Tố, ta bắt gặp chị Dậu với bầu trời tăm tối, ở Nguyễn Công Hoan là tình cảnh cho vay lấy lãi nặng nề. Còn đến Kim Lân, sau nỗi đau của ông Hai, nhà văn lại tìm về với nạn đói 1945 với câu chuyện ngắn “Vợ nhặt”. Kim Lân – nhà văn được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng, là nhà văn một lòng đi về với đất với trời với những giá trị thuần hậu nguyên thủy của con người Việt Nam. Văn Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản, lối kể hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, Kim Lân không chỉ thành công ở việc xây dựng tình huống truyện độc đáo mà còn có biệt tài trong việc xây dựng các chi tiết truyện đặc sắc. Trong đó, chi tiết miêu tả giọt nước mắt của bà cụ Tứ khi Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà giới thiệu là một chi tiết tiêu biểu, góp phần làm nên thành công của tác phẩm.
Bà Tứ là người dân xóm ngụ cư vốn không được coi trọng ở vùng nông thôn lúc bấy giờ. Hơn nữa, xóm ngụ cư của bà Tứ cái đói đã tràn đến từ lúc nào. Người chết như ngả rạ. xác chết nằm còng queo bên đường…Trong cuộc sống như vậy, mẹ con bà Tứ hẳn nhiên phải đối mặt với cái đói khát và cái chết cận kề. Ngôi nhà bà Tứ “đứng rúm ró” trên một mảnh vườn mọc lổn nhổn những khóm cỏ dại. Trong nhà chỉ có vài vật dụng sơ sài. Suốt cuộc đời, bà Tứ phải vật lộn với miếng ăn, với cuộc sống mưu sinh, sống trong sự nghèo khổ, sống trong cuộc sống dai dẳng của mình. Nghĩ đến cuộc đời của mình, bà Tứ vừa buồn vừa khổ, vừa xót xa cho số kiếp của mình, của con mình.
Truyện ngắn “Vợ nhặt” được đặt trong bối cảnh nạn đói thê thảm năm 1945 với trên hai triệu đồng bào nước ta bị chết đói. Trong cái chết bủa vây ấy, Tràng dẫn cô vợ về nhà ra mắt mẹ. Sự kiện này làm xáo động cả vùng quê, cả xóm ngụ cư nghèo khổ. Họ ngạc nhiên vì trong thời buổi đói khát này, Tràng lại liều mạng rước thêm một miệng ăn. Là người trong cuộc nhưng chính Tràng cũng ngạc nhiên không kém, anh không thể ngờ được mình lại có vợ, vợ theo, lấy vợ một cách hiển hách. Rồi đến cả bà cụ Tứ, dường như bà như không dám tin vào mắt vào tai mình. Việc Tràng dẫn người con gái lạ về ra mắt mẹ đã khiến cho bà cụ Tứ ngạc nhiên. Khi vào nhà, bà lão “đứng sững lại”. Bà tự đặt ra một loạt những câu hỏi trong suy nghĩ “Người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ?”, “Sao lại chào mình bằng u?”, “Ai thế nhỉ?”. Ngay cả khi Tràng mở lời: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ !”, bà Tứ vẫn “băn khoăn” không dám tin về sự xuất hiện của người vợ nhặt. Tâm trạng của bà cụ Tứ khi nhìn thấy sự xuất hiện của người vợ nhặt trong nhà giúp cho tình huống Tràng nhặt vợ trở nên chân thực, khách quan.
Chi tiết miêu tả giọt nước mắt thứ nhất của bà cụ Tứ ở phần giữa của tác phẩm, khi anh Tràng đưa thị về ra mắt bà Tứ là một chi tiết nhỏ nhưng lại có sức ám ảnh và lay động người đọc. Khi hiểu ra “cơ sự”, người mẹ nhạy cảm nhận ra cảnh bi hài của câu chuyện, để rồi nỗi tủi thân đã hóa thành nước mắt “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Lòng bà ngổn ngang trăm mối, chồng chất bao nỗi niềm suy tư. “Kẽ mắt kèm nhèm” là sự hiện hình của một bức chân dung đầy khổ hạnh của người phụ nữ nông dân lớn tuổi. Là biểu hiện của tình mẫu tử thiêng liêng: tình thương con thắt lòng. Từ “rỉ” miêu tả giọt nước mắt ít ỏi, khó khăn. Dường như bà cụ Tứ đang phải kìm nén cảm xúc của chính mình, bao nhiêu tủi phận, cay đắng, xót xa như nghẹn lại trong lòng khiền bà không thể khóc. Hình ảnh “giọt nước mắt” trong lần miêu tả thứ nhất của bà cụ Tứ khiến người đọc đắng lòng bởi số kiếp nghèo khổ, khốn khó, tội nghiệp của con người. Biết bao nhiêu cơ cực của cuộc đời đã chất chứa, dồn tụ và ứ nghẹn trong dòng nước mắt hiếm hoi, ít ỏi ấy. Viết về hình ảnh “giọt nước mắt”, Nguyễn Khuyến trong bài Khóc Dương Khuê cũng có câu:
“Tuổi già như hạt lệ sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan”
hay Nam Cao khi miêu tả nước mắt của Lão Hạc “Những vết nhăn xô lại với nhau, ép cho nước mắt chảy ra”. Những năm tháng trải đời với biết bao cay đắng khiến cho họ dù đau đớn nhưng cũng đã cạn khô nước mắt , chai sạn với cuộc đời nên những dòng nước mắt chỉ là sự “rỉ” ra hiếm hoi mà thôi.
“Giọt nước mắt” ấy thể hiện sự hờn tủi cho thân phận nghèo khổ, xót thương cho đứa con của bà cụ Tứ. Bà cụ tủi thân vì cho rằng mình chưa làm tròn bổn phận người mẹ “chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì…”. Với người phụ nữ Việt Nam thì nào đâu chỉ có việc mang nặng đẻ đau, nuôi con trưởng thành, mà còn phải lo cho con yên bề gia thất. Cha mẹ nào chưa lo được tấm chồng, cô vợ cho con thì chết không nhắm mắt được. Với quan niệm truyền thống ấy, bà cụ Tứ cũng hiện lên đầy tâm sự. Trong lời độc thoại ở trên, bà đã thầm so sánh “người ta” với “mình”, nghĩ đến người ta, bà thấy tủi thân mình, vì người ta giàu có, có của ăn của để lo được cho con, còn bà thì có “dăm ba mâm cơm” cũng không lo được cho con. Đằng sau dấu chấm lửng mà Kim Lân cố tình để lại ấy là nỗi lòng, là nước mắt của người mẹ già tội nghiệp. Rồi bà xót thương cho “số kiếp đứa con mình” vì bà hiểu rằng con trai bà không được bình thường, không được may mắn như con nhà người. Hơn nữa, Tràng lại lấy vợ trong hoàn cảnh đáng thương bởi bà hiểu trong hoàn cảnh nà nuôi mình còn chẳng nổi lại còn phải đèo bòng thêm một đứa. Điều này đã chứng tỏ bà cụ Tứ là một người mẹ nghèo thương con. Tuy nhiên, thương thì ai cũng thương nhưng tình thương của bà còn chất chứa cả nỗi đau, tủi hờn, ai oán.
Video bài văn mẫu Phân tích chi tiết "Giọt nước mắt của bà cụ Tứ"
Chi tiết miêu tả bà cụ Tứ khóc lần thứ hai “nước mắt cứ chảy ròng ròng xuống” vẫn xuất hiện trong cuộc gặp gỡ người con dâu. Nếu như lần miêu tả thứ nhất giọt nước mắt của bà Tứ, Kim Lân dùng từ “rỉ” thì lần này, nhà văn lại sử dụng từ láy “ròng ròng”. Cách khóc “ròng ròng” giống như một sự giải tỏa, gột rửa những nỗi đau, tủi hận. Tiếng khóc lúc này không còn là sự kìm nén mà còn là sự giãi bày. Bà khóc để sẻ chia lòng mình, để tìm được sự thông cảm từ các con. Nhưng thật đặc biệt là lúc này anh Tràng đã đi ra ngoài, chỉ còn lại không gian riêng giữa bà Tứ và nàng dâu. Điều này đã cho thấy bà Tứ không chỉ thương con trai, thương bản thân mình mà còn thương người đàn bà xa lạ. Dường như hai người đàn bà đã tìm thấy điểm chung. Đó chính là sự sẻ chia, nương tựa vào nhau của những mảnh đời khốn khó. Khi miêu tả giọt nước mắt lần hai, Kim Lân đã sử dụng từ láy “ròng ròng”.
Tuy nhiên, giọt nước mắt lần thứ hai đã cho thấy một diễn biến tâm lý hoàn toàn khác của bà Tứ. Nếu như lần thứ nhất, bà chua xót cho số phận của mình, thương con trai thì lần thứ hai “mừng”cho hạnh phúc của các con. Bao nhiêu nỗi niềm được nén lại của người mẹ trong mấy chữ:“Ừ! thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng”. Mẹ chỉ “mừng lòng” chứ không phải là “vui lòng”. Vì một lẽ giản đơn, đặt trong hoàn cảnh đói kém như thế nỗi mừng chưa đủ để gọi là vui. Nhưng chính câu nói ấy đã xua tan nỗi phấp phỏng lo âu cho Tràng, xóa đi nỗi bẽ bàng, lo sợ cho người con dâu, thổi vào tâm hồn đôi trẻ một luồng gió mới và mở ra một hạnh phúc trong tầm tay. Bà cụ khuyên nhủ, động viên con những điều chí tình, đôn hậu, tràn đầy niềm lạc quan. Là người từng trải, kinh qua bao nỗi nhọc nhằn nên người mẹ ấy hiểu lắm, cảm thông lắm. Khổ đau, đói rét không quật ngã được người mẹ ấy vì mẹ tin rằng: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Đó cũng là triết lý sống dân gian đã dưỡng nuôi bao tâm hồn con người Việt. Mẹ động viên “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá…”. Lời động viên ấy là lời chí tình là cả niềm tin mãnh liệt của bà. Bà dặn dò, bảo ban hai con “Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi”. Lời khuyên ấy của người mẹ là món quà vô giá, gói trọn bao tình yêu thương vô bờ của bà dành cho các con. Tấm lòng người mẹ ấy cao đẹp biết nhường nào!
Hơn nữa, bà còn lo lắng cho tương lai của các con. Kim Lân hai lần tả bà cụ Tứ khóc và bốn lần trực tiếp tả nỗi lo lắng của bà: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không ?”. Nghĩ về cuộc đời mình bà lại càng lo cho con: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau, cuộc đời nó liệu có hơn bố mẹ trước kia không ?”. Lần thứ hai, người mẹ nghèo khổ ấy để những giọt nước mắt lo lắng, tủi buồn của mình chảy ròng ròng trên khuôn mặt già nua khắc khổ:“Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”. Đến lúc nghe tiếng trống thúc thuế đầu làng, bà cụ lại một lần nữa xót xa: “Giời đất này không biết có sống qua được không các con ạ?”. Nỗi lo lắng ấy và nước mắt bao lần chảy xuôi chính là lòng yêu thương con vô bờ bến của người mẹ Việt Nam. Thật đáng tự hào và quý trọng biết bao.
Gạt đi nước mắt để sống lạc quan, bà là điểm tựa cho hạnh phúc của đôi vợ chồng son. Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Khuôn mặt bà cụ Tứ có sự thay đổi từ “bủng beo u ám” nay đã “rạng rỡ hẳn lên”. Kim Lân đã làm thay đổi mạch cảm xúc của toàn bộ câu truyện. Cái khuôn mặt ấy ngày hôm qua “bủng beo u ám” bao nhiêu thì hôm nay “rạng rỡ” bấy nhiêu đã làm cho sức sống của câu truyện bỗng bừng sáng ở những dòng cuối. Bà cụ Tứ quả thật đã như được hồi sinh lần thứ hai. Bà đã nhóm lên bếp lửa niềm tin cho các con bằng chính ngọn lửa lạc quan đang thắp sáng cõi lòng bà. Bữa ăn đầu đón nàng dâu thật thảm hại nhưng tất cả đều ăn rất ngon, vui vẻ. Dù ăn cả “chè khoán” bằng cám nhưng bà cụ vẫn tươi cười, chuyện trò rôm rả, thân mật với hai con. Bà lão nói “toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này: Tràng ạ. Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. Hình ảnh đàn gà trong câu chuyện của bà cụ Tứ như một liều thuốc tinh thần mở ra bao điều tốt đẹp. “Đôi gà – đàn gà” là sự sinh sôi – sự sinh sôi lấn át sự huỷ diệt, sự sống lấn át cái chết. Chính câu chuyện ấy đã thổi hồn vào bữa ăn, vào khát vọng hạnh phúc của Tràng và người đàn bà. Về điều này, Kim Lân khẳng định “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”. Đó cũng là tinh thần của nhân dân ta từ bao đời nay “Còn da lông mọc còn chồi nảy cây”. (Ths Phan Danh Hiếu)
Có thể nói, chi tiết “dòng nước mắt” đã thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhan đạo sâu sắc. Chỉ “dòng nước mắt” của bà cụ Tứ nhưng ta có thể thấy được tình cảnh xã hội những năm trước cách mạng, trong nạn đói 1945. Đặc biệt, đó còn là sự cảm thông thương xót những người nông dân khốn khổ, là sự tố cáo xã hội, tố cáo giai cấp thống trị đã đè nén áp bức người dân. Nhưng đặc biệt nhân đạo ở đây là sự ngợi ca vẻ đẹp tâm hồn người mẹ mà Kim Lân dành nhiều tâm huyết vào ngòi bút của mình. Chi tiết “dòng nước mắt” còn mang giá trị nghệ thuật đặc sắc. Dù chỉ là chi tiết nhỏ nhưng nội dung ý nghĩa truyền tải lại rất lớn, diễn tả chân thực, sinh động nội tâm nhân vật.
“Cái đẹp cứu vớt con người” (Đôxtôiepki). Vâng Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân thể hiện rõ sức mạnh kì diệu ấy. Ánh sáng của tình người, lòng tin yêu vào cuộc sống là con nguồn mạch giúp Kim Lân hoàn thành tác phẩm. Ông đã có đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài nạn đsoi nói riêng một quan niệm mới về lòng người và tình người. Đọc xong thiên truyện, dấu nhấn mạnh mẽ nhất trong tâm hồn người đọc chính là điểm sáng tuyệt vời nhất.
Đôi nét về tác giả, tác phẩm
1. Tác giả
- Kim Lân (1920 - 2007), tên khai sinh là Nguyễn Văn Tài.
- Quê ở huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
- Ông là nhà văn chuyên viết truyện ngắn và đã có tác phẩm đăng báo trước cách mạng.
- Vốn gắn bó với nông thôn, các tác phẩm của ông chủ yếu chỉ viết về sinh hoạt làng quê và cảnh ngộ của người nông dân.
- Ngoài sự nghiệp sáng tác, Kim Lân còn được biết đến với vai trò là một diễn viên (vai Lão Hạc trong Làng Vũ Đại ngày ấy, Lý Cựu trong Chị Dậu…)
- Năm 2001, ông được trao tặng Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật.
- Một số tác phẩm tiêu biểu: Nên vợ nên chồng (tập truyện ngắn, 1955), Con chó xấu xí (tập truyện ngắn, 1962)...
- “Vợ nhặt” là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân in trong tập “Con chó xấu xí” (1962).
- Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” - được viết ngay sau ngày Cách mạng tháng 8 thành công nhưng còn dang dở và thất lạc bản thảo.
- Sau khi hòa bình lập lại (1954), ông dựa vào một phần cốt truyện cũ để viết lại truyện ngắn này.
2. Bố cục
- Phần 1 (từ đầu đến “hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”): cảnh Tràng dẫn vợ về nhà
- Phần 2 (tiếp đó đến “cùng đẩy xe bò về”): Lí giải việc Tràng nhặt đưuọc vợ
- Phần 3 (tiếp đó đến “nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”): Cuộc ganwpj gỡ giữa bà cụ Tứ và nàng dâu mới
- Phần 4 (còn lại): Cảnh buổi sáng hôm sau ở nhà Tràng
3. Tóm tắt
Trong không khí tù đọng, u ám của nạn đói, Tràng dắt người vợ nhặt về. Người dân xóm Ngụ cư ai nấy đều bất ngờ, trước những lời trêu chọc của mọi người, Thị e thẹn đi theo sau Tràng, từ một người đàn bà kém duyên, đanh đá, nay thị đã biết ngại ngùng khi đi theo Tràng về nhà. Thị theo Tràng về nhà chỉ sau hai lần gặp gỡ, hoàn cảnh của truyện thật éo le cho thấy cái đói đã khiến số phận con người trở nên rẻ rúm hơn bao giờ hết. Khi theo Tràng về nhà, Thị gặp bà cụ Tứ và cùng mẹ dọn dẹp, quét tước sân vườn. Chính nhờ tình yêu thương con người trong lúc khó khăn của hai mẹ con Tràng đã cưu mạng Thị, khiến cho thị vừa được yêu thương, vừa có một mái ấm hạnh phúc.
4. Phương thức biểu đạt: Tự sự
5. Thể loại: Truyện ngắn
6. Ngôi kể: Ngôi thứ 3
7. Giá trị nội dung
- Giá trị hiện thực:
+ Tình cảnh thê thảm của người nông dân VIệt Nam trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Nạn đói năm ấy đã trở thành một thời kì đen tối trong lịch sử của dân tộc ta bởi hơn 2 triệu đồng bào đã bị cướp đi sinh mạng.
+ Đó là hệ quả của những chính sách hà khắc, vô nhân tính của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật: Đằng thì bắt đóng thuế, đằng thì bắt nhổ lúa trồng đay. Dân ta lâm vào cảnh một cổ hai tròng áp bức do sự đê hèn, đốn mạt của thực dân Pháp
- Giá trị nhân đạo
+ Tố cáo tội ác của bọn thực dân, phát xít và khẳng định tội ác mà chúng đã gây ra cho mảnh đất, con người Việt Nam
+ Niềm cảm thương, chia sẻ của tác giả trước những đau đớn, mất mát mà người nông dân nghèo đang phải đối mặt.
+ Ca ngợi sức sống mãnh liệt, khao khát được yêu thương, được sống hạnh phúc với gia đình nhỏ và niềm tin tưởng vào một tương lai tươi sáng đang chờ đợi họ mặc cho cái chết đang đeo đuổi và có thể đến với họ bất cứ lúc nào.
+ Cách mạng chính là con đường đưa họ thoát khỏi cuộc sống khốn cùng này mà đến gần hơn với hi vọng, cuộc sống tốt đẹp với hình ảnh lá cờ đỏ phấp phới trong suy nghĩ của Tràng ở cuối truyện.
8. Giá trị nghệ thuật
- Cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, đầy éo le nhưng nhờ thế mà các nhân vật của Kim Lân xuất hiện mà bộc lộ hết những phẩm chất tốt đẹp của mình.
- Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn, không kịch tính nhưng sự sắp xếp các chi tiết gây được sự hứng thú, tò mò cho người đọc.
- Bút pháp miêu tả tâm lí, thế giới nội tâm nhân vật tinh tế
- Ngôn ngữ gần gũi, giản dị, mộc mạc mang đậm dấu ấn của vùng nông thôn Bắc Bộ - một trong những đặc trưng trong phong cách sáng tác của Kim Lân
Bài giảng: Vợ nhặt (Tiết 2)