9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12

Tải xuống 19 1.7 K 12

Tailieumoi.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu 9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 , tài liệu bao gồm 17 trang giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kỳ thi môn Ngữ văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

  1. Nhân vật Tràng ( Vợ nhặt )
    + Tràng là một trong ba nhân vật trung tâm trong truyện ngắn « Vợ nhặt » của Kim Lân.
    + Xuất hiện trong tác phẩm, Tràng là một người đàn ông nghèo khổ,bất hạnh nhưng giàu tình người và khát vọng hạnh phúc.Điều đó được thể hiện qua câu chuyện nhặt vợ của anh giữa ngày đói.
    1/Về lai lịch, ngoại hình, tính cách:
    - Tràng vốn là một gã trai nghèo, sống ở xóm ngụ cư, có mẹ già và làm nghề đẩy xe bò mướn.
    - Tràng lại có một ngoại hình xấu xí, thô kệch với “ cái đầu trọc nhẵn”;“cái lưng to rộng như lưng gấu”; “ hai con mắt gà gà, nhỏ tí” lúc nào cũng đắm vào bóng chiều của hoàng hôn.
    - Tính tình của Tràng lại có phần “dở hơi” nhưng tốt bụng, hay vui đùa với trẻ con trong xóm. Tràng có một cảnh ngộ thật bất hạnh và tội nghiệp.
    2/ Vẻ đẹp tình người và khát vọng hạnh phúc của Tràng qua câu chuyện nhặt vợ:
    a.Tình huống nhặt vợ của Tràng :
    Tràng có vợ bằng cách “nhặt” được chỉ qua hai lần gặp gỡ, vài câu nói đùa và bốn bát bánh đúc giữa ngày đói Tình huống độc đáo, đùa mà thật , thật mà cứ như đùa.
    b.Diễn biến tâm lý, tính cách ,hành Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không… đèo bòng”.
    + Nhưng rồi anh ta chặc lưỡi “Chậc,kệ!”.Tràng chấp nhận đánh liều với hoàn cảnh và số phận vì : Người đàn bà cần Tràng để có một chỗ dựa qua thì đói kém, còn Tràng cũng cần người phụ nữ nghèo ấy để có vợ và để biết đến hạnh phúc.
    - Trên đường đưa vợ về nhà, Tràng thật sự vui và hạnh phúc : mặt “phớn phở”, “mắt sáng lên lấp lánh”, “miệng cười tủm tỉm”; “ …Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hàng ngày, quên cả đói khát đang đe doạ…Trong lòng hắn, lúc này chỉ còn tình nghĩa với người đàn bà đi bên.Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông ấy…” …
    - Chỉ sau một ngày “nên vợ nên chồng”.
    + Tràng thấy mình đổi khác “ trong người êm ái , lửng lơ như người từ giấc mơ đi ra.Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ như không phải”.
    + Tràng thấy thương yêu và gắn bó với căn nhà; “Hắn đã có một gia đình.Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy.Cái nhà như tổ ấm che mưa che nắng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, thấy hắn có bổn phận phải lo cho vợ con sau này…”
    + Tràng muốn dự phần tu sửa căn nhà . “Hắn xăm xăm chạy ra giữa sân, hắn muốn làm một việc gì để dự phần tu sửa lại căn nhà”.
    Tràng đã thật sự thay đổi về số phận lẫn tính cách : từ đau khổ sang hạnh phúc, từ chán đời sang yêu đời, từ ngây dại sang ý thức.
    + Cuối tác phẩm, trong suy nghĩ của Tràng “ cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp.Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm”.Đoàn người đi phá kho thóc của Nhật và lá cờ Việt Minh.Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ về một tương lai hướng về Đảng về cách mạng của Tràng và những người như Tràng.
    3/ Đánh giá chung về nhân vật Tràng:
    - Kim Lân miêu tả tâm trạng nhân vật Tràng xoay quanh tình huống nhặt vợ hết sức đặc biệt.Cũng từ đó, hình tượng nhân vật Tràng có vai trò lớn trong việc thể hiện tư tưởng chủ đề của tác phẩm :Những người đói, họ không nghĩ đến cái chết mà luôn nghĩ đến sự sống.
    - Cũng qua Tràng và câu chuyện nhặt vợ của anh, nhà văn giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của những người dân lao động nghèo : đó là vẻ đẹp tình người và niềm tin tưởng vào tương lai. - Qua nhân vật Tràng, Kim Lân đã bộc lộ được khả năng miêu tả tâm lý nhân vật và ngòi bút nhân đạo sâu sắc của nhà văn
  2. Nhân vật người vợ nhặt ( Vợ nhặt )
    - Hiện lên trong tác phẩm, người phụ nữ được Tràng nhặt về làm vợ có cảnh ngộ nghèo đói, bất hạnh nhưng lại có một khát vọng sống mãnh liệt.
    - Điều đó được thể hiện qua việc chị chấp nhận theo không một người đàn ông về làm vợ giữa ngày đói.
    1/Về lai lịch, ngoại hình:
    - Xuất hiện trong tác phẩm, người vợ nhặt chỉ là một con số không tròn trĩnh : không tên tuổi, không quê hương, không gia đình, không nghề nghiệp…
    - Từ đầu đến cuối tác phẩm chị chỉ được gọi bằng “thị”- một cách gọi phiếm định giành cho chị và tất cả những người phụ nữ có cảnh ngộ và số phận đáng thương và tội nghiệp như chị.
    - Chân dung của người phụ nữ ấy hiện ra ngay từ đầu là những nét không mấy dễ nhìn : đó là hình ảnh của người đàn bà gầy vêu vao, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt, quần áo thì rách như tổ đỉa.
    2/ Về tính cách:
    a/ Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh
    + Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen ra đẩy xe bò cho Tràng và “liếc mắt cười tít” với Tràng.
    + Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Đã vậy, thị còn chủ động đòi ăn. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát bánh đúc. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon…
    Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người.--> nhà văn thật sự xót xa và cảm thôngcho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động.
    b/ Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình là một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang :
    - Trên đường theo Tràng về nhà: chị hiện lên với dáng vẻ bẽn lẽn đến tội nghiệp khi đi bên Tràng vào lúc trời chạng vạng ( thị đi sau Tràng ba bốn bước, cái nón rách che nghiêng, “rón rén, e thẹn” , ngượng nghịu,“chân nọ bước díu cả vào chân kia”...) thật tội nghiệp, đáng thương…
    - Sau một ngày làm vợ, chị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp cho căn nhà khang trang, sạch sẽ. hình ảnh của một người vợ hiền, một cô dâu thảo, biết thấu hiểu và cảm thông cho cảnh ngộ nhà chồng.
    - Trong bữa cơm cưới giữa ngày đói, chị tỏ ra am hiểu về thời sự khi kể cho mẹ và chồng về câu chuyện ở Bắc Giang người ta đi phá kho thóc của Nhật. Chính chị đã làm cho niềm hy vọng của mẹ và chồng thêm niềm hy vọng vào sự đổi đời trong tương lai.
    3/ Đánh giá chung :
    - Tóm lại, người phụ nữ không tên tuổi, không gia đình, không tên gọi, không người thân ấy đã thật sự đổi đời bằng chính tấm lòng giàu tình nhân ái của Tràng và mẹ Tràng.
    - Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn tố cáo xã hội đẩy con người đến cảnh ngộ rẻ rúng vì đói khát

III. Nhân vật bà cụ Tứ ( Vợ nhặt )
- Cũng như Tràng và người vợt nhặt, bà cụ Tứ là một trong ba nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân… Xuất hiện trong tác phẩm, bà cụ Tứ là một người mẹ già, nghèo khổ nhưng giàu tình thương con và giàu lòng nhân hậu. Điều đó được thể hiện qua diễn biến tâm trạng của bà cụ trước sự việc con trai bà nhặt được vợ giữa ngày đói:
1. Vài nét về cuộc đời của bà cụ:
Trong tác phẩm, bà cụ Tứ hiện lên là một người đàn bà nông dân, hồn hậu và có một cuộc đời thật nhiều thương cảm : nhà nghèo, goá bụa, sống gian khổ, thầm lặng.
2. Bối cảnh – tình huống và diễn biến tâm trạng của bà cụ:
- Bối cảnh xuất hiện của nhân vật: Bà cụ Tứ lần đầu tiên xuất hiện trong thiên truyện là lúc bóng hoàng hôn tê tái phủ xuống xóm Ngụ cư giữa ngày đói. Cùng lúc đó, người con trai đáng thương của bà làm nghề đẩy kéo xe trên huyện, đưa một người đàn bà lạ về nhà.
- Diễn biến tâm trạng của bà cụ trước việc Tràng nhặt vợ:
a. Khởi đầu , bà ngỡ ngàng - ngỡ ngàng trước việc có một người phụ nữ lạ xuất hiện trong nhà mình. Trạng thái ngỡ ngàng của bà cụ được nhà văn diễn tả bằng hàng loạt những câu nghi vấn : “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con trai mình thế kia? Sao lại chào mình mình bằng u?...”
Thái độ ngạc nhiên của người mẹ, phải chăng cũng là nỗi đau của nhà văn trước một sự thật : chính sự cùng quẫn của hoàn cảnh đã đánh mất ở người mẹ sự nhạy cảm vốn có trước hạnh phúc của con.
b. Sau khi hiểu ra là con trai đã có vợ, bà lão không nói gì mà chỉ “cúi đầu im lặng”- một sự im lặng chứa đầy nội tâm : đó là niềm xót xa, buồn vui, lo lắng, thương yêu lẫn lộn . Bà mẹ đã tiếp nhận hạnh phúc của con bằng kinh nghiệm sống, bằng sự trả giá của một chuỗi đời nặng nhọc, bằng ý thức sâu sắc trước hoàn cảnh.
- Bằng lòng nhân hậu thật bao dung của người mẹ, bà nghĩ :“Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau qua được cơn đói khát này không?”.Trong chữ “chúng nó” , người mẹ đã đi từ lòng thương con trai để ngầm chấp nhận người đàn bà lạ làm con dâu của mình.
- Rồi tình thương lại chìm vào nỗi lo , tạo thành một trạng thái tâm lý triền miên day dứt : bà nghĩ đến bổn phận chưa tròn , nghĩ đến ông lão, đến con gái út, nghĩ đến nỗi khổ của đời mình, nghĩ đến tương lai của con …để cuối cùng dồn tụ bao lo lắng – yêu thương trong một câu nói giản dị : “ Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá”
c. Đặc biệt là sau một ngày con trai có vợ, người mẹ giàu lòng thương con ấy thật sự vui và hạnh phúc trước hạnh phúc của con : bà cùng con dâu dọn dẹp, thu vén căn nhà ; trong bữa cơm ngày đói, bà toàn nói chuyện vui để xua đi thực tại hãi hùng, để nhen nhóm niềm tin vào cuộc sống cho con :“ Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà …”.
- Thật cảm động, khi Kim Lân để cái ánh sáng kỳ diệu của tình mẫu tử toả ra từ nồi cháo cám : “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”.Chữ ‘ngon”này không phải là xúc cảm về vật chất ( xúc cảm về vị cháo cám) mà là xúc cảm về tinh thần : ở người mẹ, niềm tin về hạnh phúc của con biến đắng chát của cháo cám thành ngọt ngào .
- Tuy nhiên niềm vui của bà cụ Tứ trong hoàn cảnh ấy vẫn là niềm vui tội nghiệp, bởi thực tại vẫn nghiệt ngã với nồi cháo cám “đắng chát và nghẹn bứ”.
3/ Đánh giá chung:
- Nhân vật bà cụ Tứ là một nhân vật tiêu biểu cho vẻ đẹp tình người và lòng nhân ái mà Kim Lân đã gửi gắm trong tác phẩm “ Vợ nhặt”.
- Thành công của nhà văn là đã thấu hiểu và phân tích được những trạng thái tâm lý khá tinh tế của con người trong một hoàn cảnh đặc biệt .Vượt lên hoàn cảnh vẫn là một vẻ đẹp tinh thần của những người nghèo khổ. =>“Vợ nhặt” là ca về tình người của những người nghèo khổ, đã biết sống cho ra người ngay giữa thời túng đói quay quắt.

  1. Nhân vật Mị ( Vợ chồng A Phủ )
    Truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” của Tô Hoài
    - Mỵ là một trong hai nhân vật trung tâm trong truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” của nhà văn Tô Hoài.
    - Xuất hiện trong tác phẩm , Mỵ là một cô gái trẻ trung , có cuộc sống khổ nhục và số phận nô lệ nhưng lại tiềm tàng một sức sống và khát vọng tự do mạnh liệt. Cụ thể:
    1/ Trước khi bị bắt về làm dâu trừ nợ cho thống lý Ptra,Mỵ là một cô gái:
    - Trẻ trung,yêu đời, có khát vọng hạnh phúc.Cần cù lao động,hiếu thảo với cha. Có tài thổi kèn lá, được nhiều trai bản yêu mến… Lẽ ra Mỵ phải được sống hạnh phúc.
    2/Từ khi Mỵ bị bắt về làm dâu trừ nợ:
    a. Cuộc sống cùng khổ, bế tắc của Mỵ:
    - Về thể xác :
    + Mị bị đối xử chẳng khác gì nô lệ : bị bóc lột tận cùng sức lao động (“Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặc đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi lúc bung ngô, lúc nào cũng gày một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế. Con ngựa con trâu làm có có lúc , đêm nó còn được đúng gãi chân nhai cỏ, đàn bà con gái trong nhà này thì vùi đầu vào công việc cả đêm cả ngày”)
    + Bị A Sử đánh đập hành hạ, trói đứng.
    Mị bị đẩy vào tình trạng câm lặng , “Mị tưởng mình là con trâu, con ngựa”, thậm chí còn không bằng con trâu, con ngựa.
    - Về tinh thần :
    + Cuộc sống tinh thần của Mị trong nhà thống lí Pá Tra bị định đoạt bởi thần quyền (bị cúng trình ma).
    + Hôn nhân không tình yêu (Mị phải sống với A Sử- một người mà Mị không hề có tình yêu thương)
    + Mị bị giam hãm trong một không gian chật hẹp : ở trong cái buồng “ kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào cũng trong ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng” – căn buồng gợi lên không khí tù túng, chập hẹp như một nhà tù giam hãm cuộc đời Mị .
    + Mị mất hết cảm giác, thậm chí mất hẳn đời sống ý thức, sống mà như chết(“ lúc nào cũng cúi mặt buồn rười rượi”; “ lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.)
    => Mị thật sự bị đẩy vào tình trạng cùng khổ về vật chất, bế tắc về tinh thần.
    c. Sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc của Mị ( qua 3 lần Mị phản kháng chống lại số phận):
    - Lần 1 : Mị định ăn lá ngón để tự tử -> ý thức về cuộc sống tủi nhục của mình> không chấp nhạn kiếp sống “ người-vật” -> Mị tìm đến cái chết như một phương tiện giải thoát chính là hành động để khẳng định lòng ham sống, khát vọng tự do của mình.
    - Lần 2 : Trong đêm tình xuân,Mị muốn đi chơi:
    + Tiếng sáo gọi bạn làm Mỵ nhớ lại những tháng ngày tươi đẹp trong quá khứ .
    + Mị lấy rượu ra uống“ ừng ực từng bát”- Phải chăng Mị đang uống khát khao, mơ ước, căm hận vào lòng.
    + Khát vọng sống bừng lên trong Mị “ Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ, Mị muốn đi chơi”.
    + Mị thấy phơi phới trở lại, đến góc nhà lấy ống mỡ xắn một miếng bỏ vào đĩa đèn cho sáng -> thắp sáng niền tin, từ giã tăm tối.
    + Mị lấy váy áo định đi chơi. Bị A Sử trói vào cột nhà, Mị vẫn thả hồn theo cuộc chơi, tâm hồn Mị cứ bồng bềnh bay theo tiếng sáo…
    - Lần 3 :Đêm mùa đông, Mị cởi trói cho APhủ :
    + Chứng kiến cảnh APhủ bị hành hạ có nguy cơ phải chết, lúc đầu Mị không quan tâm “ dù APhủ có là cái xác chết đứng đấy cũng vậy thôi” -> Phải chăng đó là chứng tích của việc Mị bị đày đoạ một cách đau đớn cả về thể xác và tinh thần làm cho Mị từ một phụ nữ nhân hậu trở thành vô cảm.
    + Khi thấy “ dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã đen xám lại” của APhủ, Mị đã xúc động.Thương mình, thương người -> Mị quyết định cởi trói cho APhủ.
    + Mị đứng lặng trong bóng tối rồi chạy theo APhủ trốn khỏi Hồng Ngài với một lí do “ Ở đây thì chết mất”-> hành động tự giải thoát khỏi số phận tăm tối của Mị hoàn toàn mang tính tự phát : Cởi trói cho APhủ cũng chính là Mị đã cởi trói cho cuộc đời mình.Chấp nhận cuộc sống trâu ngựa và khao khát được sống một cuộc sống của con người ; khát vọng hạnh phúc đã giúp Mị chiến thắng số phận tăm tối.
    3/ Đánh giá chung về nhân vật Mỵ:
    - Cuộc đời, số phận và phẩm chất của Mỵ trong tác phẩm, tiêu biểu cho số phận, phẩm chất của người dân lao động nghèo miền núi Tây Bắc dưới sự áp bức, bóc lột của bọn phong kiến chúa đất và thực dân góp phần làm nên tư tưởng chủ đề của tác phẩm “Vợ chồng Aphủ”.
    - Cũng qua nhân vật Mỵ, người đọc cảm nhận được bút pháp “biện chứng tâm hồn” hết sức tinh tế, độc đáo và điêu luyện của Tô Hoài trong việc khắc họa chân dung của những người lao động bị áp bức bằng một cái nhìn ấm áp, đầy tin yêu và trân trọng.
  2. Nhân vật người đàn bà hàng chài ( Chiếc thuyền ngoài xa )
    - Xuất hiện trong “Chiếc thuyền ngoài xa”, người đàn bà hàng chài hiện lên là một người phụ nữ có số phận bất hạnh nhưng lại giàu tình thương con và thấu hiểu lẽ đời.
    1/Về tên gọi : “Người đàn bà” được gọi một cách phiếm định . Ý nghĩa của cách gọi phiếm định : Người đàn bà khốn khổ ấy cũng như biết bao người phụ nữ khác, họ cũng đang rất khốn khổ , tồn tại thật trên cõi đời này.
    2/ Cảnh ngộ : Vốn sinh ra trong một gia đình khá giả nhưng người đàn bà làng chài lại là một người có ngoại hình xấu xí. Những nét thô kệch ấy, trong lam lũ vất vả bởi những lo toan và mưu sinh thường nhật, khi ngoài bốn mươi, lại càng trở nên đậm nét ““khuôn mặt mệt mỏi”…
    Tội nghiệp, bất hạnh.
    3/ Tính cách và tấm lòng của chị:
    a/ Là một người đàn bà biết nhẫn nhục, chịu đựng : bao lần bị chồng đánh vẫn “cam chịu đầy nhẫn nhục không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy”, và xem chuyện chịu đựng là một lẽ đương nhiên mà những người đàn bà vùng biển như bà phải chấp nhận.Với chị, muốn tồn tại thì phải chấp nhận.
    b/Là một người phụ nữ giàu tự trọng, thấu hiểu lẽ đời, có tình thương con vô bờ bến”:
    - Khi biết cảnh mình bị chồng đánh, cảnh đứa con trai phản ứng lại cha bị người khách lạ phát hiện , chị thấy “đau đớn- vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. .Chị không muốn bất cứ ai chứng kiến và thương xót ( kể cả thằng Phác- đứa con yêu của chị ) và chị “sống cho con chứ không thể sống cho mình”.
    - Thân thể bị chà đạp, nhân phẩm bị xúc phạm nhưng chị không hề để ý, không hề bận tâm bởi chị là một người mẹ giàu lòng vị tha, chấp nhận hy sinh, thua thiệt về mình chứ không óan trách người khác, nên bao nhiêu đau khổ ,chị đều gánh chịu “tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự âm thầm trong việc hiểu thấu cái lẽ đời, hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”.
    - Khi ở toà án huyện, chính chị đã đem đến cho Phùng và Đẩu những xúc cảm mới:
    + Lúc đầu, chị rụt rè, sợ hãi khi đến một không gian lạ. Chị tìm một góc tường ở chốn công đường để ngồi; chị thưa gửi, xưng “con”và van xin “ con xin lạy quí toà…”
    Trông chị thật nhỏ bé, tội nghiệp chốn công đường.
    + Khi đã lấy được tự tin, tâm thế thay đổi, chị đột ngột chuyển cách xưng hô : “ Chị cám ơn các chú!...” một sự hoán đổi thật ý nghĩa : ở đây, lẽ đời đã thắng. Người lao động lam lũ, nghèo khổ không có uy quyền nhưng cái tâm của một người mẹ giàu tình thương con, thấu hiểu lẽ đời là một thứ quyền uy có sức công phá lớn điều này đã làm chánh án Đẩu và nghê sĩ Phùng thức tỉnh và ngộ ra nhiều điều. Người phụ nữ sâu sắc , thấu hiểu lẽ đời , cảm thông chấp nhận san sẻ nỗi khổ với chồng . Với chị , hạnh phúc chính là vì con
    3/ Đánh giá chung về nhân vật :
    - Hình ảnh người đàn bà hàng chài trong “Chiếc thuyền ngoài xa”là hình ảnh điển hình cho số phận đau thương, bất hạnh của bao người phụ nữ trong xã hội đang bị cái đói, cái nghèo,cái lạc hậu vây bủa. Nhưng điều quan trọng là từ trong cuộc đời tăm tối đau thương ấy của họ, Nguyễn Minh Châu vẫn phát hiện ra vẻ đẹp trong tâm hồn – tính cách của những người vợ ,người mẹ giàu lòng vị tha, giàu tình thương con và rất thấu hiểu lẽ đời.
    - Qua số phận, tính cách tâm hồn của người đàn bà hàng chài,nhà văn thể hiện tấm lòng cảm thông chia sẻ với người con người, những cảnh đời bất hạnh do tàn dư xã hội cũ để lại.
    - Đồng thời, qua đó cũng thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn : văn học phài gắn bó với cuộc đời…; nhà văn phải có cái nhìn cuộc đời một cách đa diện, nhiều chiều, tránh đơn giản, chủ quan
  3. Nhân vật Phùng ( Chiếc thuyền ngoài xa )

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn thường đưa những câu chuyện, trải nghiệm thực tế của bản thân vào những tác phẩm văn học của mình. Vì thế, những tác phẩm của ông thường mang đến cho người đọc những cảm giác rất gần gũi, thân quen và chân thật. Trong cuộc sống mưu sinh, bộn bề kiếm tìm hạnh phúc thực sự, ông đã viết nên tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa”. Nổi bật trong câu chuyện là hình tượng nhân vật Phùng - một nghệ sĩ nhiếp ảnh luôn tôn thờ và tha thiết được sống cùng cái đẹp.
Trong thời chiến tranh, người lính luôn là đề tài truyền biết bao cảm hứng dành cho các thi sĩ, nhà văn. Đối với Nguyễn Minh Châu, ông lấy cảm hứng để xây dựng nhân vật Phùng đã từng là một người lính, giờ là một phóng viên ảnh luôn khao khát cái đẹp.
Mở đầu câu chuyện bằng một tình huống đầy bất ngờ. Theo chỉ thị của trưởng phòng, Phùng đã tới một vùng biển từng là chiến trường xưa của anh để chụp những bức ảnh cho tấm lịch nghệ thuật thuyền và biển. Tại nơi đây, đã có biết bao cảm xúc tràn về, những kỉ niệm cùng cảnh đẹp của đất trời đã khiến cho tâm hồn anh bị choáng ngợp. Sau biết bao ngày suy nghĩ, kiếm tìm ý tưởng, đề tài, anh đã chụp được một bức ảnh thật đẹp và hết sức vừa ý. Đôi mắt anh đã bắt gặp một khung cảnh tuyệt vời “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe vào bầu trời sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng do ánh mặt trời chiếu vào. … trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào”. Anh cảm thấy tâm hồn mình trở nên mộng mơ, trong trẻo biết bao. Đã biết bao lâu rồi, anh không tìm được cái đẹp đến nhường nào.
Thế nhưng, từ sau chiếc thuyền ngoài xa ấy, anh đã thấy một đôi vợ chồng hàng chài, lão đàn ông với dáng hình cộc cằn thẳng tay đánh vợ chỉ để giải tỏa nỗi thống khổ uất ức của mình. Một người đàn bà xấu xí, héo mòn được che chở bởi thằng con trai của bà - thằng Phác. Ngay lập tức, anh đã “vứt chiếc máy ảnh xuống đất và chạy nhào tới”. Cái đẹp của cảnh vật chẳng thể che mờ những mảng tối của cuộc sống. Vẻ đẹp của Phùng càng được tỏa sáng nhờ tấm lòng nhân hậu, đầy lòng trắc ẩn. Câu chuyện chưa dừng lại ở đó, ba ngày hôm sau Phùng lại chứng kiến cảnh lão đàn ông đánh vợ, cô chị gái tước đoạt con dao găm mà thằng em trai định dùng làm vũ khí để bảo vệ mẹ. Với tính cách của người lính, những người đã từng đổ biết bao công sức mồ hôi, máu và nước mắt để bảo vệ đất nước, mong cho nhân dân có được cuộc sống hạnh phúc ấm êm thì khung cảnh này thật đi ngược với những mong ước, mục tiêu của các anh. Chính vì thế, Phùng đã “nện cho hắn một trận ra trò”. Anh cũng bị thương và được đưa về trạm y tế của tòa án huyện. Tại đây, người đàn bà nghèo khổ kia đã một mực van xin cho người chồng kia rằng “quý tòa đừng bắt con phải bỏ nó”. Khi con người ta phải chịu tù đày áp bức, tưởng rằng tự do sẽ là điều họ khao khát nhất. Thế nhưng, sau khi nghe câu chuyện của bà, Phùng và độc giả mới có thể hiểu được những uẩn khúc, lý do của những mảnh đời ấy.
Người đàn bà ấy luôn sẵn sàng chịu đựng khó khăn, đói nghèo vì chồng vì con. Với trách nhiệm là một người vợ, người mẹ đã truyền cho bà biết bao sức mạnh để đối diện với cuộc sống. Có những ngày “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng chưa bao giờ bà tìm cách trốn chạy. Bà biết dù bà có rũ bỏ tất cả thì cũng không thể dứt bỏ được mối dây liện hệ với những đứa con của bà. Bạo lực gia đình luôn là một vấn đề nhức nhối trong xã hội, con người ta cứ phải luẩn quẩn trong vòng vây của những mối quan hệ gia đình mà chẳng có cách nào thoát khỏi nó. Những tổn thương mà người phụ nữ và những đứa trẻ vô tội phải chịu đựng, được che lấp ẩn chứa sau cái đẹp mà Phùng đã nhìn thấy. Bỗng nhiên, anh ý thức được rằng: hạnh phúc vẫn luôn gắn liền với khổ đau, cái đẹp luôn tiềm ẩn cái ác, cái xấu.
Sống trong hoàn cảnh khó khăn, cơm áo gạo tiền, con người ta vẫn luôn mưu cầu hạnh phúc. Biết bao dự định, giá như người ta muốn thực hiện. Giá như “tôi đẻ ít và chúng tôi sắm được cái thuyền rộng hơn” của người phụ nữ ấy, giá như người đàn ông ấy có đầy đủ điều kiện để nuôi vợ chăm con của lão, có khi nào lão không trở thành một người như vậy. Có hàng vạn hàng nghìn lý lẽ mà người ta đưa ra để lý do giải thích cho cuộc đời họ, khi pháp luật nghiêm minh bảo vệ họ thì vẫn chẳng đủ để thay đổi được cuộc đời mà họ đã lựa chọn. Tác giả đã cho nhân vật Phùng được can thiệp, giúp đỡ những con người ấy nhưng họ từ chối. Phải chăng, con đường đấu tranh cho nhân quyền và thoát khỏi cuộc sống nghèo khổ còn trở ngại, gian nan hơn cả cuộc đấu tranh giải phóng đất nước.
Những trăn trở, suy nghĩ trong lòng Phùng chắc hẳn cũng chính là những dòng cảm nghĩ chung cho cả dân tộc. Li hôn liệu có thể giải quyết được những hậu quả của một cuộc hôn nhân không hạnh phúc. Biết bao khó khăn, bão tố ngoài biển khơi cũng chẳng thể nào so sánh được với những chơi vơi, sóng gió của cuộc đời.
Chiếc thuyền ngoài xa qua lăng kính nghệ thuật của nhân vật Phùng, đã tô điểm nên cảnh đẹp của đất trời Việt Nam. Sâu xa trong những bức hình ảnh, những bi kịch, đắng cay vẫn đang ngày đêm diễn ra ở cuộc sống đời thường của những người lao động nghèo. Bằng tâm hồn của người lính, bằng lòng nhân hậu yêu trọng cái đẹp, hòa bình của người làm nghệ thuật, Phùng đã gắn kết những câu truyện, mảnh đời trong văn chương tới cuộc sống đời thực trở nên gần gũi, chân thật biết bao.

VII. Nhân vật “Thống Lý Pá Tra ( Vợ chồng A Phủ )

Nhà văn Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng trước Cách Mạng Tháng Tám. Ông là người có vốn hiểu biết phong phú vê phong tục tập quán của nhiều vùng khác nhau trên đất nước ta, trong đó Tây Bắc là một điển hình sâu sắc nhất. Trong tác phẩm Vợ Chồng A Phủ, Tô Hoài đã làm nên bức tranh hai màu sáng tối, mà đứng đầu hai thái cực ấy chính là cha con thống lí Pá Tra và vợ chồng A Phủ.
Thân bài:
Dựa trên hình ảnh của một nhân vật có thật trong Mùa Chống Lâu, một tên độc ác, chuyên chống phá cách mạng, Tô Hoài đã xây dựng nên hình tượng thống lí Pá tra thật đặc sắc.
Điểm đầu tiên mà Tô Hoài Khắc họa thống lí Pá Tra chính là một thống lí giàu có: “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng”. “Cả nhà thống lí Pá Tra vừa ăn xong bữa cơm Tết cúng ma, xung quanh chiêng đánh ầm ĩ, người ốp đồng vẫn còn nhảy lên nhảy xuống, run bần bật. Vừa hết bữa cơm lại tiếp ngay đến bữa rượu bên bếp lửa”.

Cách mở đầu giới thiệu câu chuyện mờ nhòe như cách mào đầu của cổ tích, sơ lược giới thiệu chân dung thống lí qua lời đồn. Tuy vậy phần nào khái quát được bản chất gian hùng của hắn: “ăn của dân nhiều” – một mặt hà hiếp, bóc lột người dân, “Tây lại cho muối về bán, giàu lắm”. Mặt khác lại làm tay sai cho thực dân, bán đứng dân tộc. Cho thấy Pá Tra là một kẻ độc ác, tàn nhẫn, tham lam. Việc khắc họa thống lí qua cảnh giàu sang của hắn càng góp phần bộc lỗ rõ bản chất xấu xa của hắn. Bởi một lẽ: của cải công sức đó làm ra toàn bằng xương máu, nước mắt nhân dân. Đã bao nhiêu người phải chết, đã bao nhiêu cuộc đời bị hủy hoại để làm nên đống gia sản ấy.
Điểm nổi bậc thứ hai: Thống lí Pá Tra chính là một thống lí chìm đắm trong nghiện ngập, sa đọa. Tô Hoài miêu tả “Trong nhà ông thống lí bày ra năm cái bàn đèn. Khối thuốc phiện tuôn ra các lỗ cửa sổ tun hút xanh như khói bếp”, “trên nhất là thống lí Pá Tra, thống lí Pá Tra hút xong một lượt năm điếu, đến người khác hút, lại người khác hút, cứ thế lần lượt xuống tới bọn đi gọi người về kiện”. Cho thấy lối sống truỵ lạc của một gia đình giàu có quyền lực nhất Hồng Ngài, được Tô Hoài Khắc hoạ trong sự tương phản với cuộc sống cực khổ lam lũ của người dân Hồng Ngài. Sau khi “phiên xử” A Phủ kết thúc, trong nhà “thuốc phiện vẫn hút rào rào”.
Thống lí Pá Tra là một thống lí độc ác, tàn nhẫn, bạo ngược. Cha con Pá Tra đã bắt Mị về trả nợ thay cha, hành hạ đày đọa Mị. Lời A Sử nói với bố Mị: “Tôi đã cướp con gái bố làm vợ, tôi đem về cúng trình ma nhà tôi rồi, bây giờ đến trình cho bố biết.Tiền bạc để cưới thì bố tôi bảo đã đưa cho bố cả rồi”. A Sử dùng Mị để gán nợ, và việc A Sử dùng từ “cướp” một cách ngang nhiên cho thấy quyền lực, và vị trí của hắn ở Hồng Ngài này như thế nào. Để từ đó hắn cho mình cái quyền chà đạp nhân phẩm con người, xem họ như một món hàng không hơn không kém, muốn bắt là bắt, muốn hành hạ thì hành hạ.
Suốt quá trình Mị ở nhà thống lí đã chịu sự giày vò cả về thể xác lẫn tâm hồn, trên danh nghĩa là con dâu nhà Pá Tra- Vợ của A sử nhưng Mị cũng như bao người phụ nữ trong ngôi nhà này, không hơn một kẻ nô lệ hạng bét, bị cha con Pá tra đánh đập, sỉ vả, tước đi mọi quyền sống mà đáng ra nếu không vì món nợ của cha thì cô không vào cảnh này. Chính món nợ ấy đã khiến cô sống cũng không được mà chết cũng không xong, đã bao lần tính sử dụng lá ngón để tự vẫn nhưng vì cha “thế là Mị không đành lòng chết”. Tất cả chính là do bàn tay độc ác, bạo ngược của thống lí.

Thống lí Pá Tra đã dùng thủ đoạn dùng thần quyền và cường quyền để giam hãm thể xác và tâm hồn con người. Bản chất lưu manh, nham hiểm của Pá Tra thể hiện rõ nhất rong cách bắt Mị làm con dâu gạt nợ. Cha con Pá tra ngang nhiên bắt Mị về nhà, không những thế hắn còn dùng cả thần quyền để giam Mị, giam giữ cái thể xác luôn gắn liền với một đức tin bao lâu nay của những người ở đây. Ngay sau khi Mị bị bắt về nhà thống lí thì “ngoài vách kia, tiếng nhạc sinh tiền cúng ma đương rập rờn nhảy múa”.
Giống như Mị, A Phủ cũng bị cái gọi là thần quyền “ghi nợ” với A Phủ: “A Phủ cúi sờ lên đồng bạc trên tráp, trong khi Pá Tra đốt hương, lầm rầm khấn gọi ma về nhận mặt người vay nợ”.
Đức tin về thần quyền là một nét đặc trưng về tín ngượng của người miền núi, có phần mê tín dị đoan, và chính đức tin này đã trở thành thứ công cụ để bọn địa chủ miền núi dùng để đàn áp tinh thần người dân và giam hãm họ như một thứ vũ khí ghê rợn, không tốn sức, thứ thủ đoạn tinh vi, độc ác, giày vò tinh thần con người.
Với những chi tiết miêu tả phong tục không khỏi khiến người đọc rùng mình: tiến nhạc sinh tiền, mùi hương khói, những buổi lễ âm u, những nghi thức cầu ma… đã thể hiện sự am hiểu về phong tục của tác giả, đồng thời cũng phác vào bức tranh thiên nhiên phong tục Tây Bắc nhiều màu sắc, một gam màu u ám, ma mị, đậm chất hiện thực.
Thống lí Pá tra lộ rõ sự tàn nhẫn, độc ác thể hiện trong “phiên tòa” xử A Phủ. Đó là một “Phiên tòa” tàn nhẫn, vô nhân tính khi người bị xử chưa được tuyên án đã phải chịu tra tấn, đòn roi dã man. “Cứ mỗi đợt bọn chức việc hút thuốc phiện xong, A Phủ lại phải ra quỳ giữa nhà, lại bị người xô đến đánh.” “Xong một lượt đánh, chửi, kể, lại hút”. “Càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. A Phủ bị đánh tới mức “hai đầu gối bạnh lên như hai mặt hổ phù”, “chân đau bước tập tễnh”. Cái quyền lực trong tay cha con hắn, khiến hắn có thể làm mọi thứ mà hắn muốn.
Ở Hồng Ngài cha con Pá Tra là vua, hắn muốn ai chết, thì người đó khó sống, bằng quyền lực hắn cũng biến A Phủ thành kẻ nô lệ không công của mình, mặc hắn sai khiến, trách phạt. Cụm từ “Chửi, đánh, hút” lặp đi lặp lại trong mối quan hệ tăng tiếng làm nổi bậc lên sự nghiện ngập sa đọa của bọn thống trị miền núi và sự tàn nhẫn dã man của chúng. Bên cạnh đó là giọng văn gọn, ngắn, câu văn khuyết chủ ngữ, nhịp cắt nhỏ; giọng điệu khách quan, lạnh lùng của ngòi bút hiện thực nhưng lại phảng phất đâu đó cái khinh thường, nhạo báng của nhà văn.


 

Xem thêm
9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 (trang 1)
Trang 1
9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 (trang 2)
Trang 2
9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 (trang 3)
Trang 3
9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 (trang 4)
Trang 4
9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 (trang 5)
Trang 5
9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 (trang 6)
Trang 6
9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 (trang 7)
Trang 7
9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 (trang 8)
Trang 8
9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 (trang 9)
Trang 9
9 bài phân tích sâu nhân vật văn học môn Ngữ văn lớp 12 (trang 10)
Trang 10
Tài liệu có 19 trang. Để xem toàn bộ tài liệu, vui lòng tải xuống
Đánh giá

0

0 đánh giá

Tải xuống