Văn bản Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi - Nội dung, tác giả, tác phẩm

1.9 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) Ngữ văn lớp 10 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) lớp 10.

Tác giả tác phẩm: Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) - Ngữ văn 10

I. Tác giả Nguyễn Trãi

Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) - Tác giả tác phẩm Ngữ văn lớp 10 - Cánh diều (ảnh 1)1. Tiểu sử

- Nguyễn Trãi (1380 - 1442), hiệu Ức Trai. 

- Quê gốc: Chi Ngại, Chí Linh, Hải Dương; sau dời về Nhị Khê (Thường Tín - Hà Tây).

- Thân sinh: Nguyễn Ứng Long - một nhà Nho nghèo, học giỏi, đỗ tiến sĩ đời Trần.

- Mẹ: Trần Thị Thái, con gái của Trần Nguyên Hãn.

- Sinh ra trong một gia đình có truyền thống yêu nước, văn hóa, văn học.

- Nợ nước, thù nhà => theo Lê Lợi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn.

- 1427 - 1428: khởi nghĩa Lam Sơn toàn thắng => viết Bình Ngô đại cáo.

- Sau đó tham gia xây dựng đất nước, rồi bị oan.

- Năm 1439, ông ra ở ẩn tại Côn Sơn.

- Năm 1440, quay lại chốn quan trường.

- Năm 1442: ông và gia đình bị án oan Lệ Chi Viên => tru di tam tộc, đến hơn 20 năm sau mới được Lê Thánh Tông minh oan.

=> Tổng kết:

+ Nguyễn Trãi là bậc anh hùng dân tộc, một nhân vật toàn tài hiếm có, một danh nhân văn hóa thế giới.

+ Một con người phải chịu những oan khuất thảm khốc nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.

2. Sự nghiệp văn học

a. Tác phẩm chính

- Những tác phẩm chính viết bằng chữ Hán: Quân Trung từ mệnh tập, Bình Ngô Đại Cáo, Ức trai thi tập, Chí Linh sơn phú, Băng Hồ di sự lục, Lam Sơn thực lục,...

- Những tác phẩm bằng chữ Nôm: Quốc âm thi tập hiện còn 254 bài chia làm bốn môn loại: Vô đề, Thời lệnh môn, Hoa mộc môn, Cầm thú môn. Phần Vô đề chia thành nhiều mục: Thủ vĩ ngâm (1 bài), Ngôn chí (21 bài), Mạn thuật (14 bài), Thuật hứng (25 bài), Tự thán (41 bài), Tự thuật (11 bài), Tức sự (4 bài), Bảo kính cảnh giới (61 bài) v.v...

b. Giá trị văn chương

* Văn chính luận:

- Nội dung: Tư tưởng chủ đạo xuyên suốt là tư tưởng nhân nghĩa và yêu nước thương dân.

- Nghệ thuật: Đạt tới trình độ nghệ thuật mẫu mực, kết cấu chặt chẽ, lập luận sắc bén.

* Thơ trữ tình:

- Lý tưởng của người anh hùng: nhân nghĩa hòa hợp với yêu nước thương dân, lúc nào cũng tha thiết mãnh miệt.

- Phẩm chất ý chí của người anh hùng mạnh mẽ kiên trung, vì dân vì nước chiến đấu chống ngoại xâm và cường quyền bạo ngược.

=> Kết luận:

+ Nội dung: hội tụ hai nguồn cảm hứng lớn là yêu nước và nhân đạo.

+ Nghệ thuật: có đóng góp lớn ở cả hai phương diện thể loại và ngôn ngữ.

II. Tìm hiểu tác phẩm Đại cáo bình Ngô

1. Thể loạivăn biền ngẫu.

2. Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

- Mùa đông năm 1427, sau khi diệt viện, chém Liễu Thăng, đuổi Mộc Thạnh, tổng binh Vương Thông đang cố thủ trong thành Đông Quan phải xin hàng, cuộc kháng chiến chống giặc Minh hoàn toàn thắng lợi.

- Năm 1428: Lê Lợi lên ngôi hoàng đế, lập ra triều đình Hậu Lê, sai Nguyễn Trãi viết Bình Ngô đại cáo để bố cáo cho toàn dân được biết chiến thắng vĩ đại của quân dân trong 10 năm chiến đấu gian khổ, từ nay, nước Việt đã giành lại được nền độc lập, non sông trở lại thái bình.

3. Nhan đề:

- Chữ Hán: Bình Ngô đại cáo => dịch ra tiếng Việt: Đại cáo bình Ngô.

- Giải nghĩa:

Đại cáo: bài cáo lớn => dung lượng lớn.

                                 => tính chất trọng đại.

Bình: dẹp yên, bình định, ổn định.

Ngô: giặc Minh.

=> Nghĩa của nhan đề: Bài cáo lớn ban bố về việc dẹp yên giặc Ngô.

4. Tóm tắt tác phẩm Đại cáo bình NgôĐại cáo bình Ngô là bản tuyên ngôn độc lập, qua đó vạch tội ác của kẻ thù xâm lược, ca ngợi thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn

5. Bố cục tác phẩm Đại cáo bình Ngô: 4 phần

+ Phần 1 ("Từng nghe"… "chứng cớ còn ghi"): nêu luận đề chính nghĩa.

+ Phần 2 ("Vừa rồi"... "thần dân chịu được"): vạch rõ tội ác tày trời của giặc Minh.

+ Phần 3 ("Ta đây"... "cũng là chưa thấy xưa nay"): kể lại quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa.

+ Phần 4: (còn lại) tuyên bố chiến quả, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa.

6. Giá trị nội dung tác phẩm Đại cáo bình Ngô

Là bản tuyên ngôn độc lập lần thứ 2 của dân tộc ta ở thế kỉ XV:

- Nêu cao tư tưởng nhân nghĩa, chân lý độc lập dân tộc.

- Tố cáo tội ác của kẻ thù.

- Tái hiện quá trình kháng chiến hào hùng.

- Tuyên bố độc lập, rút ra bài học lịch sử.

7. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Đại cáo bình Ngô

- Kết hợp hài hòa 2 yếu tố: chính luận sắc bén và văn chương trữ tình.

- Mang đậm cảm hứng anh hùng ca.

=> Là áng “thiên cổ hùng văn”.  

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Đại cáo bình Ngô

a. Phần 1: Nêu cao luận đề chính nghĩa

* Tư tưởng nhân nghĩa:

- Theo quan niệm của đạo Nho: nhân nghĩa là mối quan hệ tốt đẹp giữa người với người trên cơ sở tình thương và đạo lý.

- Nguyễn Trãi:

+ Chắt lọc lấy hạt nhân cơ bản của tư tưởng nhân nghĩa: nhân nghĩa chủ yếu để yên dân.

+ Đem đến nội dung mới: nhân nghĩa là yên dân trừ bạo.

=> Đó là cơ sở để bóc trần luận điệu xảo trá của giặc Minh (phù Trần diệt Hồ giúp Đại Việt).

=> Khẳng định lập trường chính nghĩa của ta và tính chất phi nghĩa của kẻ thù xâm lược.

* Chân lý về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt:

- Cương vực lãnh thổ: "nước Đại Việt ta" - "núi sông bờ cõi đã chia".

- Nền văn hiến: "vốn xưng nền văn hiến đã lâu".

- Phong tục: "phong tục Bắc Nam cũng khác".

- Lịch sử riêng, chế độ riêng: "Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời gây nền độc lập/ Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương"

- Hào kiệt: "đời nào cũng có".

+ Các từ ngữ: “từ trước”, “đã lâu”, “vốn xưng”, “đã chia”, “cũng khác” cho thấy sự tồn tại hiển nhiên, vốn có, lâu đời của một nước Đại Việt độc lập, có chủ quyền và văn hiến.

+ Giọng điệu: trang trọng, hào hùng mang tính chất của một lời tuyên ngôn.

* So sánh với "Nam quốc sơn hà" của Lý Thường Kiệt: ý thức độc lập dân tộc của Đại cáo bình Ngô phát triển toàn diện và sâu sắc hơn.

- Toàn diện, vì:

+ Lý Thường Kiệt mới chỉ xác định dân tộc ở hai phương diện: lãnh thổ và chủ quyền.

+ Nguyễn Trãi đã xác định dân tộc ở nhiều phương diện: lãnh thổ, nền văn hiến, phong tục tập quán, lịch sử, chế độ, con người.

- Sâu sắc, vì:

+ Lý Thường Kiệt căn cứ vào “thiên thư” (sách trời) - yếu tố thần linh chứ ko phải thực tiễn lịch sử.

+ Nguyễn Trãi đã ý thức rõ về văn hiến, truyền thống lịch sử và con người - những yếu tố thực tiễn cơ bản nhất, các hạt nhân xác định dân tộc

b. Phần 2: Bản cáo trạng hùng hồn, đẫm máu và nước mắt

- Những âm mưu và tội ác của kẻ thù:

+ Âm mưu xâm lược quỷ quyệt của giặc Minh:

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà,

Để trong nước lòng dân oán hận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.

> Chữ “nhân”, “thừa cơ” => vạch rõ luận điệu giả nhân giả nghĩa, “mượn gió bẻ măng” của kẻ thù.

=> Nguyễn Trãi đứng trên lập trường dân tộc.

+ Tố cáo chủ trương, chính sách cai trị vô nhân đạo, vô cùng hà khắc của kẻ thù:

> Tàn sát người vô tội: “Nướng dân đen... tai vạ”.

> Bóc lột tàn tệ, dã man: “Nặng thuế... núi”.

> Huỷ diệt môi trường sống: “Người bị ép... cây cỏ”.

> Nguyễn Trãi đứng trên lập trường nhân bản.

- Hình ảnh nhân dân: tội nghiệp, đáng thương, khốn khổ, điêu linh, bị dồn đuổi đến con đường cùng. Cái chết đợi họ trên rừng, dưới biển“Nặng nề... canh cửi”,...

- Hình ảnh kẻ thù: tàn bạo, vô nhân tính như những tên ác quỷ: “Thằng há miệng... chưa chán”.

- Nghệ thuật viết cáo trạng:

+ Dùng hình tượng để diễn tả tội ác của kẻ thù: “Nướng dân đen... tai vạ”.

+ Đối lập:

Hình ảnh người dân vô tội      ><        Kẻ thù

bị bóc lột, tàn sát dã man              tàn bạo, vô nhân tính

+ Phóng đại:

> “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội/ Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi”

> Trúc Nam Sơn - tội ác của kẻ thù.

>  Nước Đông Hải - sự nhơ bẩn của kẻ thù.

+ Câu hỏi tu từ: “Lẽ nào... chịu được? => tội ác trời không dung đất không tha của quân thù.

+ Giọng điệu: uất hận trào sôi, cảm thương tha thiết, nghẹn ngào đến tấm tức.

c. Đoạn 3: Quá trình chinh phạt gian khổ và tất thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn (Bản hùng ca về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn)

* Hình tượng người chủ tướng Lê Lợi và những năm tháng gian khổ buổi đầu của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn:

- Hình tượng chủ tướng Lê Lợi - hình tượng tâm lý, được miêu tả bằng bút pháp chủ yếu: tự sự - trữ tình.

+ Cách xưng hô: “ta” => khiêm nhường.

+ Nguồn gốc xuất thân: "chốn hoang dã nương mình" => bình thường => người anh hùng áo vải.

+ Có một nội tâm vận động dữ dội (diễn tả qua hàng loạt các từ miêu tả tâm lý, sự biến động nội tâm con người: "ngẫm", "căm", "đau lòng nhức óc", "nếm mật nằm gai", "quên ăn vì giận", "đắn đo", "trằn trọc", "mộng mị", "băn khoăn", "đăm đăm", "cầu hiền", "chăm chăm").

+ Lòng căm thù giặc sâu sắc: “Ngẫm thù lớn... không cùng sống”, “Quên ăn vì giận...”

+ Ý chí, hoài bão cao cả: ngày đêm vượt gian khó, cầu được nhiều người hiền giúp để hoàn thành sự nghiệp cứu nước: “Đau lòng... đồ hồi”, “Tấm lòng cứu nước... phía tả”.

=> Hình tượng Lê Lợi và Trần Quốc Tuấn trong Hịch tướng sĩ đều có chung ý thức trách nhiệm cao với đất nước, có ý chí hoài bão cao cả và lòng căm thù giặc sâu sắc.

- Những khó khăn của nghĩa quân Lam Sơn qua lời bộc bạch của Lê Lợi:

+ Quân thù: đang mạnh, tàn bạo, xảo trá.

+ Quân ta: lực lượng mỏng (Khi Khôi Huyện quân không một đội), thiếu nhân tài (Tuấn kiệt như sao buổi sớm/ Nhân tài như lá mùa thu/ Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần/ Nơi duy ác hiếm người bàn bạc), lương thảo khan hiếm (Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần).

- Sức mạnh giúp ta chiến thắng:

+ Tấm lòng cứu nước.

+ Ý chí khắc phục gian nan.

+ Sức mạnh đoàn kết: “tướng sĩ một lòng phụ tử”, “nhân dân bốn cõi một nhà”.

+ Sử dụng các chiến lược, chiến thuật linh hoạt: “Thế trận xuất kì... địch nhiều”.

+ Tư tưởng chính nghĩa: “Đem đại nghĩa... thay cường bạo”.

=> Nguyễn Trãi đề cao tính chất nhân dân, tính chất toàn dân, đặc biệt đề cao vai trò của những người dân nghèo, địa vị thấp hèn (nguyên tác: “manh lệ”; “manh”- người dân cày lưu tán, “lệ”- người tôi tớ, đi ở) trong cuộc khởi nghĩa. Đó là tư tưởng lớn, nhân văn, tiến bộ trước ông chưa có và đến tận giữa thế kỉ XIX mới được Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục công khai ca ngợi.

* Quá trình phản công và chiến thắng:

- Khí thế của quân ta: hào hùng như sóng trào bão cuốn (“sấm vang chớp giật”, “trúc chẻ tro bay”, “sạch không kình ngạc”, “tan tác chim muông”, “quét sạch lá khô”, “đá núi phải mòn”, “nước sông phải cạn”... => các hình ảnh so sánh - phóng đại, thể hiện tính chất hào hùng).

- Khung cảnh chiến trường: ác liệt, dữ dội khiến trời đất như đảo lộn (“sắc phong vân phải đổi”, “ánh nhật nguyệt phải mờ”).

- Những chiến thắng của ta: dồn dập, liên tiếp (các câu văn điệp cấu trúc, mang tính chất liệt kê: “Ngày 18.../ Ngày 20.../ Ngày 25.../ Ngày 28...”)

- Hình ảnh kẻ thù:

+ Tham sống, sợ chết, hèn nhát, thảm hại:

Trần Trí, Sơn Thọ – mất vía.

Lí An, Phương Chính – nín thở cầu thoát thân.

Đô đốc Thôi  Tụ – lê gối dâng tờ tạ tội.

Thượng thư Hoàng Phúc – trói tay để tự xin hàng.

Quân Vân Nam – khiếp vía mà vỡ mật.

Quân Mộc Thạnh – xéo lên nhau chạy để thoát thân.

Mã Kì, Phương Chính – hồn bay phách lạc.

Vương Thông, Mã Anh –  tim đập chân run...

+ Thất bại của kẻ thù: thê thảm nhục nhã “trí cùng lực kiệt”, “máu chảy thành sông”, “thây chất đầy đường”, “máu chảy trôi chày”, “thây chất thành núi”,...

+ Cách gọi, cách miêu tả kẻ thù đầy khinh bỉ, mỉa mai: "thằng nhãi con Tuyên Đức"; "đồ nhút nhát Thạnh, Thăng"; "tướng giặc bị cầm tù - hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng"; "Mã Kì, Phương Chính... ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc"; "Vương Thông, Mã Anh... về đến nước mà vẫn tim đập chân run";...

- Tính chất hùng tráng của đoạn văn:

+ Ngôn ngữ:

> Sử dụng nhiều động từ mạnh liên kết với nhau tạo những chuyển rung dồn đập, dữ dội: "hồn bay phách lạc", "tim đập chân run", "trút sạch", "phá toang",...

> Các tính từ chỉ mức độ cực điểm: "thây chất đầy đường", "máu trôi đỏ nước", "đầm đìa máu đen", "khiếp vía vỡ mật", "sấm vang", "chớp giật", "trúc chẻ tro bay",...

> Khí thế chiến thắng của ta và sự thất bạo thảm hại của kẻ thù.

+ Hình ảnh: 

> Có tính chất phóng đại.

> Nhiều tên người, tên đất, tên chiến thắng được liệt kê liên tiếp nối nhau xuất hiện trong thế tương phản  thế thắng đang lên của ta đối lập với sự thất bại ngày càng nhiều, càng lớn của kẻ thù.

+ Nhịp điệu câu văn:

> Khi dài, khi ngắn biến hóa linh hoạt.

> Dồn dập, sảng khoái, bay bổng, hào hùng như sóng trào bão cuốn.

- Chủ trương hòa bình, nhân đạo:

+ Tha tội chết cho quân giặc đầu hàng.

+ Cấp ngựa, cấp thuyền, lương ăn cho quân bại trận.

> Đức hiếu sinh, lòng nhân đạo.

> Tình yêu hòa bình.

> Sách lược để tính kế lâu dài, bền vững cho non sông.

=> Tư tưởng nhân nghĩa - yên dân - trừ bạo.

d. Đoạn 4: Tuyên bố thắng trận, khẳng định sự nghiệp chính nghĩa và nêu lên bài học lịch sử

- Giọng văn: trang nghiêm, trịnh trọng.

=> Tuyên bố, khẳng định với toàn dân về nền độc lập dân tộc, chủ quyền đất nước đã được lập lại.

- Bài học lịch sử:

+ Sự thay đổi thực chất là sự phục hưng dân tộc là nguyên nhân, là điều kiện để thiết lập sự vững bền: “Xã tắc... sạch làu”.

+ Sự kết hợp giữa sức mạnh truyền thống và sức mạnh thời đại làm nên chiến thắng: “Âu... vậy”.

=> Ý nghĩa lâu dài với công cuộc dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

IV. Đọc tác phẩm: Đại cáo bình Ngô

Từng nghe:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau,

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Vậy nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại,

Triệu Tiếp thích lớn phải tiêu vong.

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô,

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã,

Việc xưa xem xét,

Chứng cớ còn ghi.

Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiên hà,

Để trong nước lòng dân oán hận.

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ,

Bọn gian tà bản nước cầu vinh.

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây kết oán trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lung mò ngọc, ngăn thay cá mập, thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu, nước độc.

Vét sản vật, bắt chim trả, chốn chốn lưới chăng

Nhiễu nhân dân, bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán;

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch cho vừa.

Nặng nề những nỗi phu phen,

Tan tác cả nghề canh củi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Lẽ nào trời đất dung tha,

Ai bảo thần nhân chịu được?

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Ngẫm thù lớn hả đội trời chung

Căm giặc nước thể không cùng sống.

Đau lòng nhúc ốc, chốc đã mười mấy năm trời;

Nếm mật nằm gai, hả phải một hai sớm tối.

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tỉnh;

Ngẫm trước đến nay, lẽ hung phê đắn đo càng kĩ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoản một nỗi đồ hồi.

Vừa khi cờ nghĩa dấy lên,

Chính lúc quân thủ đương mạnh.

Lại ngặt vì:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu.

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đầu,

Nơi duy ác hiếm người bàn bạc.

Tấm lòng cứu nước, vẫn đăm đăm muốn tiến về đông,

Cỗ xe cầu hiền, thường chăm chăm còn dành phía tả

Thế mà:

Trông người người càng vắng bóng, mịt mù như nhìn chốn bể khơi,

Tự ta, ta phải dốc lòng, vội vã hơn cứu người chết đuối.

Phần thì giận hung đồ ngang dọc,

Phần thì lo vận nước khó khăn.

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần,

Khi Khỏi Huyện quân không một đội.

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,

Ta gắng chỉ khắc phục gian nan.

Nhân dân bốn cõi một nhà, dụng cần trúc ngọn cờ phấp phới;

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào

Thế trận xuất kì, lấy yếu chống mạnh;

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều.

Trọn hay:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo.

Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật,

Miền Trà Lâm trúc chẻ tro bay,

Sĩ khí đã hăng

Quân thanh càng mạnh.

Trần Trí , Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía,

Lý An, Phương Chính nín thở cầu thoát thân.

Thừa thắng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại;

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về.

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm;

Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm.

Phúc tâm quân giặc, Trần Hiệp đã phải bêu đầu;

Một gian kẻ thù, Lý Lượng cũng đành bỏ mạng.

Vương Thông 12 gỡ thế nguy, mà đám lửa cháy lại càng cháy;

Mã Anh cứu trận đánh, mà quân ta hăng lại càng hăng.

Bó tay để đại bại vong giặc đã trí cùng lực kiệt;

Chẳng đánh mà người chịu khuất, ta đây mưu phạt, tâm công

Tưởng chúng biết lẽ ăn năn, nên đã thay lòng đổi dạ;

Ngờ đâu vẫn đương mưu tính, lại còn chuốc tội gây oan.

Giữ ý kiến một người, gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác;

Tham công danh một lúc, để cười cho tất cả thế gian.

Bởi thế:

Thằng nhãi con Tuyên Đức, động binh không ngừng

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng, đem dầu chữa cháy.

Đinh Mùi tháng Chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn tiến lại;

Năm ấy tháng Mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam

Ta trước đã điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong;

Ta sau lại sai tướng chọn đường, tuyệt nguồn lương thực.

Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế,

Ngày hai mươi, trận Mã An, Liễu Thăng cụt đầu,

Ngày hăm lăm, Bá tước Lương Minh bại trận tử vong,

Ngày hãm tám, Thượng thu Lý Khánh cùng kế tự vẫn.

Thuận đã ta đưa lưỡi dao tung phạt,

Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau,

Lại thêm quân bốn mặt vây thành,

Hẹn đến giữa tháng Mười diệt giặc.

Sĩ tốt kén người hùng hổ,

Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh,

Gươm mài đã, đã núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông.

Nổi gió to trút sạch lá khô,

Thông tổ kiến phá toang đế vỡ,

Đô đốc Thôi Tự là gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng.

Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường;

Xuơng Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước.

Ghê gớm thay sắc phong vân phải đổi,

Thảm đạm thay ánh nhật nguyệt phải mờ.

Bị ta chẹn ở Lê Hoa, quân Vân Nam nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật

Thua quân ta ở Cần Trạm, quân Mộc Thạnh xéo lên nhau chạy để thoát thân.

Suối Lãnh Câu máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc;

Thành Đan Xá thấy chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen.

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp;

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng.

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đôi vẫy đuôi xin cứu mạng;

Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.

Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc

Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Họ đã tham sống sợ chết, mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Chẳng những mưu kế kì diệu,

Cũng là chưa thấy xưa nay.

Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới.

Kiền khôn bĩ rồi lại thái,

Nhật nguyệt hối rồi lại minh

Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.

Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đỡ mới được như vậy.

Than ôi!

Một cỗ nhung y chiến thắng nên công oanh liệt ngàn năm

Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo

Ai nấy đều hay.

(Bản dịch của Bùi Kĩ, in trong Ngữ văn 10, tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, Hà Nội, 2021, tr. 17 – 22)

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 10 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Nguyễn Trãi – Cuộc đời và sự nghiệp

Tác giả - tác phẩm: Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) Slug

Tác giả - tác phẩm: Gương báu khuyên răn – Bài 43 (Nguyễn Trãi)

Tác giả - tác phẩm: Kiêu binh nổi loạn (Ngô gia văn phái)

Tác giả - tác phẩm: Người ở bến sông Châu (Sương Nguyệt Minh)

 

Đánh giá

0

0 đánh giá