Văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam - Bùi Văn Hồng - Nội dung, tác giả, tác phẩm

9.9 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam Ngữ văn lớp 7 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam lớp 7.

Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam - Ngữ văn lớp 7

I. Tác giả Bùi Văn Hồng

 (ảnh 1)

1. Tiểu sử

- Bùi Văn Hồng (1931-2012)

- Quê quán: Phù Việt, Thạch Hà, Hà Tĩnh

2. Sự nghiệp

- Tham gia công tác Đoàn từ tháng 8/1945

- Công tác tuyên huấn, tổ chức Đảng ở quê từ 1948

- Bắt đầu viết và in các truyện ký, phê bình sách từ 1951

- Sau khi tốt nghiệp Đại học Tổng hợp Văn, năm 1962 đến 1992 làm biên tập rồi Trưởng ban và Tổng biên tập NXB Kim Đồng

- Tác phẩm chính: Trên đất Cẩm Bình (truyện ký, 1968); Cá rô ron không vâng lời mẹ (truyện đồng thoại, 1969); Hoa trái đầu mùa (phê bình tiểu luận, 1987). Mười năm ghi nhận (phê bình tiểu luận,1997); Cô gái bướng bỉnh (truyện ký, 2001); Hương cây – mối tình đầu của tôi (truyện ngắn – 2002); Từ mục đồng đến Kim Đồng (tức Mười năm ghi nhận, có bổ sung, 2002); Mai đây đi hết con đường… (chân dung và hồi ức, 2007)

- Giải thưởng văn học: Tặng thưởng của Ủy ban Thiếu niên nhi đồng và Hội Nhà văn Việt Nam cho tập Trên đất Cẩm Bình (truyện ký, 1968).

II. Tìm hiểu tác phẩm Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam

1. Tìm hiểu chung

a. Xuất xứ

- Nguồn: theo sachhay.org

b. Bố cục Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam

Văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam được chia thành 3 phần:

- Phần 1 (từ đầu đến “phù hợp với đại chúng trẻ em”): Giới thiệu về truyện Đất rừng phương Nam

- Phần 2 (tiếp theo đến “dãy trường thành vô tận…”): Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên trong truyện Đất rừng phương Nam

- Phần 3 (còn lại): Nghệ thuật miêu tả con người trong truyện Đất rừng phương Nam

c. Thể loại

Văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam thuộc thể loại văn bản nghị luận

d. Phương thức biểu đạt

Phương thức biểu đạt của văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam là nghị luận

2. Giá trị nội dung, nghệ thuật

a. Giá trị nội dung của văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam

Văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam" đã giúp em hiểu văn học góp phần mở rộng kiến thức về con người và thế giới xung quanh. Thông qua việc phân tích và làm rõ nghệ thuật kể chuyện, xây dựng nhân vật của Đoàn Giỏi, tác giả Bùi Hồng đã cho người đọc thấy được vốn sống phong phú và hiểu biết sâu sắc của Đoàn Giỏi về thiên nhiên, các loài vật và con người ở vùng Cửu Long sông nước. Đọc tác phẩm của Đoàn Giỏi, người đọc đồng thời được mở mang hiểu biết về thiên nhiên con người nơi đây

b. Giá trị nghệ thuật của văn bản Thiên nhiên và con người trong truyện Đất rừng phương Nam

- Cách triển khai ý kiến, lí lẽ rõ ràng, mạch lạc

- Lối viết hấp dẫn, thuyết phục

III. Tìm hiểu chi tiết tác phẩm Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam”

1. Khung cảnh thiên nhiên trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam.

- Với vốn sống phong phú tác giả đã đưa người đọc hết từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác trong Đất rừng phương Nam.

+ Ba ba to bằng cái nìa.

+ Kì đà lớn hơn chiếc thuyền tam bản.

+ Cá sấu phải 12 trai tráng lực lưỡng mới khiêng nổi

- Ngây ngất trước vẻ đẹp rừng U Minh dưới ánh mặt trời vàng óng

Những thân cây tràm vỏ trắng vươn thẳng lên trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rủ phất phơ như những đầu lá liễu bạt ngàn. Từ trong biển lá xanh rờn đã bắt đầu ngã sang màu úa, ngát dậy một mùi hương lá tràm bị hun nóng dưới mặt trời, tiếng chim không ngớt vang ra, vọng mãi lên trời xanh cao thẳm không cùng

- Nỗi rợn ngợp trước dòng sông Năm Căn

“Nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như tháccá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng… con sông rộng ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dãy trường thành vô tận…”

2. Tính cách, phẩm chất của những con người Nam Bộ trong tiểu thuyết Đất rừng phương Nam.

a. Nhân vật Võ Tòng và ông Hai bán rắn

- Giống nhau

+ Đều không có đất, quanh năm ở đợ làm thuê cho địa chủ, bị chúng cướp công, cướp người yêu, cướp vợ, đánh trả và đi tù

+ Cả hai đều có phẩm chất gan dạ, dũng cảm, mạnh mẽ.

+ Đều có tinh thần yêu nước, căm thù giặc sâu sắc

- Khác nhau:

+ Chú Võ Tòng: Chú Võ Tòng gây án , tự đến nhà việc nộp mình, mãn hạn tù trở về con chết, vợ đi làm lẽ cho chủ đất. Chú vào rừng làm nghề sẵn bẫy thú

+ Ông Hai bán rắn: Ông Hai bán rắn trốn tù, đón vợ và bỏ vào rừng U Minh, cả gia đình trên con thuyền nhỏ lang thang kiếm sống bằng đủ thứ nghề.

→ Cả hai nhân vật là đại diện cho những con người ở Nam Bộ, mạnh mẽ, gan dạ, phóng khoáng sống hòa mình với thiên nhiên, sông nước.

b. Các nhân vật khác

- Dì Tư Béo: Lời nói ngọt nhạt, cái túi tiền thâm đen, căng phồng.

- Lão Ba Ngù: Cái áo vắt vai, những câu đối thoại ngật ngưỡng, hài hước, dở tỉnh, dở say.

IV. Đọc tác phẩm: Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam”

(1) […] Nhân vật trong Đất rừng phương Nam có nhiều tầng lớp, nhiều ngành nghề như một xã hội thu nhỏ, hoạt động suốt hai triền sông (Tiền Giang và Hậu Giang) vào rừng U Minh, xuống tận mũi Cà Mau. Truyện Đất rừng phương Nam có kết cấu chương hồi kiểu truyền thống: không gian, thời gian rạch ròi, nhân vật thiện ác, trắng đen tách bạch và bộc lộ qua hành động, hình dáng, ngôn ngữ. Một văn cách dễ đọc, dễ hiểu, hợp với đại chúng trẻ em. […]

(2) Đoàn Giỏi đã từng viết một loạt sách về các con vật trên rừng, dưới biển, trong đó mỗi con (hổ, cá sấu, voi,…), ông đều kể đến trên dưới 50 trang sách. Không phải chỉ có kiến thức về loài, họ, thói quen sinh thái,… mà phần nhiều là những mẩu chuyện có thật, sinh động xen lẫn những huyền thoại có xuất xứ hẳn hoi. Trong Đất rừng phương Nam, ông chỉ sử dụng một phần rất nhỏ vốn sống phong phú đó mà đã làm người đọc đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: ba ba to bằng cái nia, kì đà lớn hơn chiếc xuồng tam bản, cá sấu phải 12 trai tráng lực lưỡng mới khiêng nổi. Người đọc không chỉ ngạc nhiên mà còn thấm đẫm cảm xúc, bởi Đoàn Giỏi là một nhà thơ, một “thi sĩ của đất rừng phương Nam” (ý của Trần Đình Nam). Đó là cảm giác ngây ngất trước vẻ đẹp rừng U Minh dưới ánh Mặt Trời vàng óng: Những thân cây  tràm vỏ trắng vươn thẳng lên trời, chẳng khác gì những cây nến khổng lồ, đầu lá rủ phất phơ như những đầu lá liễu bạt ngàn. Từ trong biển lá xanh rờn đã bắt đầu ngả sáng màu úa, ngát dậy một mùi hương lá tràm bị hun nóng… tiếng chim không ngớt vang ra, vọng mãi lên trời cao xanh thẳm không cùng…. Và nỗi rợn ngợp trước dòng sông Năm Căn: nước ầm ầm đổ ra biển ngày đêm như thác, cá nước bơi hàng đàn đen trũi nhô lên hụp xuống như người bơi ếch giữa những đầu sóng trắng… con sông rộng hơn ngàn thước, trông hai bên bờ, rừng đước dựng lên cao ngất như hai dẫy trường thành vô tận…

(3) Cùng với thiên nhiên được Đoàn Giỏi vẽ với những màu sắc lộng lẫy, cuồn cuộn, tràn về sức sống là những con người Nam Bộ với những nét sắc sảo lạ lùng. Ông không nhiều lời, đôi khi chỉ vài ba nét: những lời nói ngọt nhạt, cái túi thâm đen, căng phồng, bóng mỡ của dì Tư Béo; cái áo vắt vai và những câu đối thoại ngật ngưỡng, hài hước, dở tỉnh, dở say của lão Ba Ngù. Tôi muốn nói kĩ hơn hai nhân vật được ông khắc họa kĩ lưỡng nhất: ông Hai bán rắn và chú Võ Tòng. Hai người đều không có đất, quanh năm ở đợ làm thuê cho địa chủ. Bị chúng cướp công, cướp người yêu, cướp vợ. Họ đánh trả và bị tù. Chỗ khác nhau là ông Hai bán rắn – tía nuôi An- trốn tù, đón vợ rồi bỏ vòa rùng U Minh. Một con thuyền nhỏ, hai vợ chồng, thằng con trai và con chó Luốc đi lang thang kiếm sống bằng đủ thứ nghề: câu rắn, lấy mật, săn cá sấu,… Gương mặt ông khoáng đạt, rất dễ mến. Làn da mặt như người trẻ, chỉ ở đôi khóe mắt và trên vầng trán cao là có xếp mấy đường nhăn… Đôi mắt to, sáng quắc, núp dưới cặp chân mày rậm đen… Mấy nét thôi, nhưng hiện ra có vẻ phóng khoáng, tự tin của một đời sống tự do và từng trải. Còn chú Võ Tòng gây án, chú tự đến nhà việc nộp mình. Mãn hạn tù trở về, con chết, vợ trở thành vợ nhỏ chủ đất. Mọi người chờ đợi một cuộc trả thù đẫm máu, nhưng không, Võ Tòng ngửa mặt cười lớn rồi vào rừng làm nghề săn bẫy thú. Đấy là những chuyện người đời truyền tụng, thật ra, chú tên là gì, quê ở đâu cũng không rõ. Võ Tòng là tên mọi người gọi chú từ một sự tích trong truyện Tàu. Tuy nhiên “danh bất hư truyền”, bởi nó còn đâu đó trên gương mặt: Hai hố mắt ông ta sâu hoắm, và từ trong đáy hố sâu thâm đó, một cặp tròng mắt trắng dã, long qua, long lại, sắc như dao. Mái tóc hung hung như bờm ngựa phủ dài xuống gáy… Chỗ gò má bên phải, năm cái sẹo dài sả xuống từ thái dương vắt đến cổ, như đầu móng cọp nào…

Chuyện bác Hai và chú bạn rồi cùng nhau đánh giặc phảng phất màu huyền thoại. Võ Tòng tẩm hàng chục tên thuốc độc và chia bác Hai một nửa. Đã nhiều kẻ thù bị giết vì tên của Võ Tòng. Lần đó, Võ Tòng ngồi trên một cành gừa gie ra sông đón ca nô địch, với hai lần bật cung liên tiếp, chú đã bắn gục hai tên địch. Tiếp đến, một ca nô nữa xuất hiện, khi chú sửa soạn nhô lên ngắm bắn thì bất ngờ lọt vào ống nhòm cuẩ con Việt gain (vợ Tư Mắm). Võ Tòng hi sinh, bác Hai đổi hẳn tính nết, suốt ngày lầm lì không nói một tiếng. Bác Hai bắt rắn là chuyện thực, Võ Tòng là chuyện vừa thực vừa ảo. Chỗ này, tôi nghĩ Đoàn Giỏi lại làm một ngón trộn nữa: trộn cổ điển phương Tây và cổ điển phương Đông – loại tiểu thuyết Tàu vốn rất được phổ cập ở Nam Bộ. Hình thức mà cũng là nội dung. Bởi phương Nam mới khai phá, đất hoang, rừng rậm, chim trời cá nước mênh mông, làm sao người nông dân lại chịu cảnh như anh Pha, chị Dậu,… Họ có nhiều tự do hơn, trước kẻ thù (hai chân và bốn chân), họ chống trả quyết liệt. Với bạn bè giai cấp, họ gắn bó thủy chung. Họ hào hiệp, phóng khoáng kiểu Lương Sơn Bạc. Có thể nói, Đất rừng phương Nam đã nói được cái tinh túy của hồn đất, hồn người một vùng châu thỏ Cửu Long Giang.

Xem thêm các bài tóm tắt tác giả, tác phẩm Ngữ văn lớp 7 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Tác giả - tác phẩm: Nhật trình Sol 6

Tác giả - tác phẩm: Thiên nhiên và con người trong truyện “Đất rừng phương Nam”

Tác giả - tác phẩm: Vẻ đẹp của bài thơ “Tiếng gà trưa”

Tác giả - tác phẩm: Sức hấp dẫn của tác phẩm “Hai vạn dặm dưới đáy biển”

Tác giả - tác phẩm: Ca Huế

Đánh giá

0

0 đánh giá