Tailieumoi sưu tầm và biên soạn giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 6 Bài 4: Quê hương yêu dấu sách Kết nối tri thức hay, chi tiết giúp học sinh dễ dàng làm bài tập trong SBT Ngữ Văn 6. Mời các bạn đón xem:
Giải sách bài tập Ngữ Văn lớp 6 Bài 4: Quê hương yêu dấu
Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt trang 25, 26, 27, 28
Bài tập 1. trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 1: Đọc lại Chùm ca dao Về quê hương đất nước trong SGK (tr. 90 - 91) và trả lời các câu hỏi:
Trả lời:
Những đặc điểm của thơ lục bát về cách phối thanh, ngắt nhịp được thể hiện trong hai dòng đầu của bài ca dao số 1 như sau:
- Thanh điệu: Trong dòng sáu và dòng tám, các tiếng thứ sáu và thứ tám là thanh bằng (đà, gà, Xương) còn tiếng thứ tư là thanh trắc (trúc, Võ). Trong dòng tám, mặc dù tiếng thứ sáu và thứ tám đều là thanh bằng nhưng vì tiếng thứ sáu là thanh huyền (gà) nên tiếng thứ tám là thanh ngang (Xương).
- Nhịp: Cả 2 dòng thơ đều ngắt nhịp chẵn 2/2/2.
Gió đưa/ cành trúc/la đà
Tiếng chuông/ Trấn Võ/ canh gà/ Thọ Xương.
Trả lời:
Bài ca dao số 1 nhắc đến những địa danh: Trấn Võ, Thọ Xương, Yên Thái, Tây Hồ. Việc liệt kê hàng loạt các địa danh nổi tiếng đó nhằm thể hiện niềm yêu mến, tự hào về quê hương đất nước - tự hào vì Hồ Tây đẹp không chỉ bởi cảnh sắc thiên nhiên mà còn bởi truyền thống văn hoá lâu đời; tự hào về con người nơi đây đã góp sức để xây dựng, gìn giữ vẻ đẹp của vùng đất Thăng Long. Hầu hết những địa danh đó đều in dấu ấn lịch sử - văn hoá nổi bật.
Câu 3 trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 1: Bài ca dao số 1 còn có một dị bản như sau:
Gió đưa cành trúc la đà
Tiếng chuông Thiên Mụ, canh gà Thọ Xương
Thuyền về xuôi mái dòng Hương
Biết đâu tâm sự đôi đường đắng cay?
Hiện tượng này tồn tại khá phổ biến trong ca dao. Hãy nêu một trường hợp tương tự.
Trả lời:
Hiện tượng dị bản xuất hiện khá phổ biến trong ca dao nói riêng và văn học dân gian nói chung. Nguyên nhân chính của hiện tượng này là bởi văn học dân gian là sản phẩm sáng tác mang tính tập thể; tồn tại, lưu hành theo phương thức truyền miệng:
- Đường vô xứ Nghệ quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
Có dị bản:
Đường vô xứ Huế quanh quanh,
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ.
- Râu tôm nấu với ruột bầu
Chồng chan vợ húp gật đầu khen ngon.
Có dị bản:
Râu tôm nấu với ruột bù
Chồng chan vợ húp gật gù khen ngon.
Trả lời:
Trong bài ca dao số 2, nếu thay từ ai bằng từ em hoặc từ anh thì giá trị biểu đạt sẽ thay đổi. Ai là đại từ phiếm chỉ làm tăng tính khái quát cho đối tượng được nói đến, bài ca dao do vậy là một lời mời gọi mọi người cùng đến chiêm ngưỡng vẻ đẹp của xứ Lạng.
Câu 5 trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 1: Em hãy kể tên một bài ca dao khác cũng viết về xứ Lạng.
Trả lời:
Có một bài ca dao nổi tiếng khác cũng viết về xứ Lạng, vùng đất được nói đến trong bài ca dao số 2:
Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh
Ai lên xứ Lạng cùng anh
Bõ công bác mẹ sinh thành ra em.
Trả lời:
Bài ca dao số 3 ca ngợi vẻ đẹp của xứ Huế. Ta có thể biết được điều đó dựa vào các địa danh mà tác giả dân gian nhắc đến: Đông Ba, Đập Đá, Vĩ Dạ, ngã ba Sình,...
Trả lời:
Các từ láy được sử dụng trong Chùm ca dao về quê hương đất nước: la đà, mịt mù (bài ca dao số 1), lờ đờ (bài ca dao số 3). Các từ láy đó đã góp phần làm cho các bài ca dao sinh động, hấp dẫn, gợi hình, gợi cảm.
Bài tập 2. trang 25 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 1: Đọc lại bài thơ Hành trình của bầy ong trong SGK (tr. 106 - 107) và trả lời các câu hỏi:
Trả lời:
Bài thơ được viết theo thể thơ lục bát. Dựa vào cách sắp xếp các dòng thơ, số tiếng trong các dòng, ta có thể biết được điều đó.
Trả lời:
Những chi tiết cho thấy bầy ong đã không quản gian khó để đem lại hương sắc, mật ngọt cho đời: bay đến trọn đời tìm hoa, không gian là nẻo đường xa, thời gian vô tận, tìm nơi thăm thẳm rừng sâu, tìm nơi bờ biển sóng tràn, tìm nơi quần đảo khơi xa, bầy ong rong ruổi trăm miền,...
Trả lời:
Tác giả khẳng định "Đất nơi đâu cũng tìm ra ngọt ngào" vì đến nơi nào, bầy ong chăm chỉ, cần mẫn cũng tìm được hoa để làm mật, đem lại hương vị ngọt ngào cho đời.
Trả lời:
Qua bài thơ, em cảm nhận được những phẩm chất đáng quý của bầy ong như: chăm chỉ, cần cù, vượt mọi gian khó để làm việc có ích cho đời.
Trả lời:
Từ hành trình của bầy ong, nhà thơ muốn gửi đến người đọc thông điệp: hãy tạo dựng cho mình một cuộc sống có ý nghĩa, có ích; sống là để cống hiến, mang đến "hương thơm mật ngọt" cho đời.
Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu
Bập bùng hoa chuối, trắng màu hoa ban.
Tìm nơi bờ biển sóng tràn
Hàng cây chắn bão dịu dàng mùa hoa.
Tìm nơi quần đảo khơi xa
Có loài hoa nở như là không tên...
Trả lời:
Trong đoạn thơ, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ điệp ngữ: Tìm nơi thăm thẳm rừng sâu, Tìm nơi bờ biển sóng tràn, Tìm nơi quần đảo khơi xa.
Với biện pháp tu từ này, nhà thơ đã nhấn mạnh được phẩm chất cần cù, không quản khó khăn, mệt nhọc để tìm ra mật ngọt dâng đời của bầy ong.
Bài tập 3. trang 26 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 1: Đọc lại bài thơ Chuyện cổ nước mình (từ Tôi yêu truyện cổ nước tôi đến Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì) trong SGK (tr. 93 - 94) và trả lời các câu hỏi:
Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trong cuộc sống thầm thì tiếng xưa
Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
Con sông chảy có rặng dừa nghiêng soi.
Trả lời:
Trong đoạn thơ, các tiếng đi - thì; xưa - mưa - dừa vần với nhau.
Câu 2 trang 26 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 1: Nhà thơ yêu những câu chuyện cổ nước mình vì những lí do gì?
Trả lời:
Nhà thơ yêu truyện cổ nước mình vì những câu chuyện cổ ẩn chứa vẻ đẹp tình người thiết tha, nhân hậu. Chuyện cổ giúp ta nhận ra những phẩm chất đẹp đẽ và những bài học quý giá mà ông cha ta muốn truyền lại cho con cháu.
Trả lời:
Những câu chuyện cổ Việt Nam thể hiện triết lý nhân sinh Ở hiền thì lại gặp Hiền/ Người ngay thì gặp người tiên độ trì: Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Sọ Dừa, Thạch Sanh,...
Trả lời:
Bài thơ khẳng định giá trị nhân văn cao cả của các câu chuyện cổ, ca ngợi ý nghĩa của các câu chuyện cổ trong việc phản ánh những nét đẹp tình người và những bài học cuộc sống. Trong đoạn thơ, có thể thấy rõ điều đó qua những dòng thơ:
Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng tìm
Ở hiền thì lại gặp hiền
Người ngay thì gặp người tiên độ trì
[...] Thị thơm thì giấu người thơm
Chăm làm thì được áo cơm cửa nhà
Đẽo cày theo ý người ta
Sẽ thành khúc gỗ chẳng ra việc gì...
Trả lời:
Tác giả có thể "nhận mặt ông cha" của mình qua những câu chuyện cổ vì chính những câu chuyện cổ đã giúp người đọc thời nay nói chung và nhà thơ nói riêng hình dung được "gương mặt" của cha ông ngày xưa - hiểu được đời sống vật chất và tinh thần, tâm hồn và tính cách, phong tục tập quán và các quan niệm đạo đức, triết lý nhân sinh,... của cha ông.
a. Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa
b. Cô ấy đeo rất nhiều vàng.
Trả lời:
Từ vàng trong "Vàng cơn nắng, trắng cơn mưa" chỉ màu sắc, còn vàng trong "Cô ấy đeo rất nhiều vàng" chỉ một thứ kim loại quý. Như vậy, đây là hai từ đồng âm vì chúng có âm giống nhau nhưng nghĩa khác nhau, không liên quan gì với nhau.
Bài tập 4. trang 26, 27 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 1: Đọc đoạn thơ sau và trả lời các câu hỏi:
Ai xui ta nhớ Hàm Rồng
Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây.
Từ ta trở lại Sơn Tây
Con đường Nam, Bắc ít ngày vãng lai.
Sơn cầu còn đỏ chưa phai?
Non xanh còn đối sông dài còn sâu?
Còn thuyền đánh cá buông câu?
Còn xe lửa chạy trên cầu như xưa?
Lấy ai viếng cảnh bây giờ
Mà hay cảnh có đợi chờ cùng nhau!
Ước sao sông cứ còn sâu
Non cao còn cứ giữ màu xanh xanh.
(Tản Đà, trích Nhớ cảnh cầu Hàm Rồng, trong Tuyển tập Tản Đà,
NXB Văn học, Hà Nội, 1986, tr. 231 - 232)
Trả lời:
Bài thơ viết về cảnh cầu Hàm Rồng. Những hình ảnh tác giả sử dụng để miêu tả cảnh đẹp đó: màu sơn "đỏ" của cầu, màu "xanh" của núi Ngọc Sơn, độ "sâu" của dòng sông Mã hùng vĩ, cảnh nhộn nhịp "buông câu" của những con thuyền đánh cá, hình bóng xe lửa Bắc - Nam chạy qua chạy lại trên cầu.
Trả lời:
Tình cảm của nhà thơ đối với cầu Hàm Rồng được thể hiện rất sâu đậm qua hai dòng thơ: Ai xui ta nhớ Hàm Rồng/ Muốn trông chẳng thấy cho lòng khôn khuây. Tác giả muốn được trông thấy cầu Hàm Rồng cho vơi phần nào nỗi nhớ thường trực trong lòng.
Trả lời:
Bốn câu hỏi nối tiếp kết hợp với biện pháp tu từ điệp ngữ: còn đỏ, còn đối, còn sâu, còn thuyền đánh cá, còn xe lửa chạy,... đã gợi tả nỗi day dứt, băn khoăn của tác giả về cảnh sắc Hàm Rồng. Cảnh Hàm Rồng đã in sâu trong tâm hồn nhà thơ với tất cả màu sắc, hoạt động,... Giờ đây, phải xa Hàm Rồng, tác giả băn khoăn không biết Hàm Rồng có còn giữ nguyên được những vẻ đẹp đó hay không.
Trả lời:
Hai dòng thơ: Ước sao sông cứ còn sâu/ Non cao còn cứ giữ màu xanh xanh đã thể hiện nỗi ước mong, khắc khoải của tác giả - mong sao cảnh Hàm Rồng không biến đổi theo dòng chảy thời gian, trong bể dâu cuộc đời. Sông Mã "cứ còn sâu". Núi Ngọc Sơn "còn cứ giữ màu xanh xanh'',...
Câu 5 trang 27 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 1: Qua đoạn thơ, em cảm nhận được tình cảm gì của tác giả?
Trả lời:
Đoạn thơ cho ta thấy tình cảm yêu mến tha thiết của nhà thơ Tản Đà đối với cầu Hàm Rồng nói riêng và đối với quê hương đất nước nói chung.
Lấy ai viếng cảnh bây giờ
Mà hay cảnh có đợi chờ cùng nhau!
Trả lời:
Trong hai dòng thơ: Lấy ai viếng cảnh bây giờ/ Mà hay cảnh có đợi chờ cùng nhau!, nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá. Cầu Hàm Rồng được tác giả nhắc đến như một con người, một người bạn tri âm tri kỷ, một cố nhân. Nhà thơ băn khoăn tự hỏi, trong bao năm tháng xa cách, không biết cảnh Hàm Rồng "có đợi chờ" mình để "cùng nhau" tâm sự, giãi bày.
Bài tập 5. trang 27, 28 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 1: Đọc đoạn thơ sau trong bài thơ Gần lắm Trường Sa của Lê Thị Kim và trả lời các câu hỏi:
Biết rằng xa lắm Trường Sa
Trùng dương ấy tôi chưa ra lần nào
Viết làm sao, viết làm sao
Câu thơ nào phải con tàu ra khơi
Thế mà đã có lòng tôi
Ở nơi cuối bến ở nơi cùng bờ
Phai đâu chùm đảo san hô
Cũng không giống một chùm thơ ngọt lành
Hỡi quần đảo cuối trời xanh
Như trăm hạt thóc vãi thành đảo con
Sóng bào mãi vẫn không mòn
Vẫn còn biển cả vẫn còn Trường Sa
[...] Ở nơi sừng sững niềm tin
Hỡi quần đảo của bốn nghìn năm qua
Tấm lòng theo mũi tàu ra
Với tôi quần đảo Trường Sa rất gần.
(Lê Thị Kim - Nguyễn Nhật Ánh, Thành phố tháng Tư,
NXB Tác phẩm mới, Hà Nội, 1984, tr. 15 - 17)
Trả lời:
Những đặc điểm của thơ lục bát được thể hiện qua bốn dòng cuối của đoạn thơ:
- Thể thơ: Các dòng thơ được sắp xếp thành từng cặp - một dòng sáu tiếng và một dòng tám tiếng.
- Vần: Tiếng cuối của dòng sáu vần với tiếng thứ sáu của dòng tám (tin - nghìn); tiếng cuối của dòng tám lại vần với tiếng cuối của dòng sáu tiếp theo (qua - ra).
- Thanh điệu: Trong dòng sáu và dòng tám, các tiếng thứ sáu và thứ tám là thanh bằng (tin, nghìn, qua, ra, Sa, gần) còn tiếng thứ tư là thanh trắc (sững, của, mũi, đảo). Trong dòng tám, mặc dù tiếng thứ sáu và tám đều là thanh bằng nhưng nếu tiếng thứ sáu là thanh huyền (nghìn) thì tiếng thứ tám là thanh ngang (qua) và ngược lại, tiếng thứ sáu là thanh ngang (Sa) thì tiếng thứ tám lại là thanh huyền (gần).
- Nhịp: Trong bốn dòng thơ thì có đến ba dòng ngắt theo nhịp chẵn.
Trả lời:
Bài thơ viết về quần đảo Trường Sa của Tổ quốc. Những hình ảnh tác giả sử dụng để miêu tả địa danh này: quần đảo cuối trời xanh, trăm hạt thóc vãi thành đảo con, sóng bào mãi vẫn không mòn,...
Trả lời:
Nhà thơ khẳng định "Với tôi quần đảo Trường Sa rất gần" vì về mặt địa lý thì Trường Sa rất xa xôi và nhà thơ cũng chưa trực tiếp ra thăm Trường Sa lần nào nhưng quần đảo này luôn ở trong trái tim nhà thơ với niềm yêu mến, tự hào.
Trả lời:
Bài thơ đã khơi gợi trong em tình cảm yêu mến, tự hào đối với vùng đất xa xôi của Tổ quốc, đối với những con người đang ngày đêm canh giữ, bảo vệ Trường Sa. Đọc bài thơ, em cảm thấy mình cần phải có trách nhiệm với Tổ quốc, phải có ý thức gìn giữ và bảo vệ biển đảo quê hương.
a. Tấm lòng theo mũi tàu ra
Với tôi quần đảo Trường Sa rất gần.
b. Bạn Lan có chiếc mũi dọc dừa rất đẹp.
Trả lời:
Từ mũi trong mũi tàu chỉ phần trước, nhô ra của tàu thuyền còn mũi trong mũi dọc dừa chỉ một bộ phận nhô ra trên khuôn mặt, dùng để hô hấp của con người. Có thể thấy rõ hai nghĩa này liên quan với nhau nên đây là trường hợp từ đa nghĩa.
Hỡi quần đảo cuối trời xanh
Như trăm hạt thóc vãi thành đảo con
Trả lời:
Trong hai dòng thơ Hỡi quần đảo cuối trời xanh/ Như trăm hạt thóc vãi thành đảo con, tác giả đã sử dụng biện pháp tu từ so sánh, ví quần đảo Trường Sa gồm nhiều đảo nhỏ với hàng trăm hạt thóc. Việc so sánh một đảo nhỏ của quần đảo Trường Sa như hạt thóc - thứ thân thuộc, gần gũi với mỗi người Việt Nam giúp người đọc cảm thấy quần đảo xa xôi của Tổ quốc trở nên rất gần gũi, thân thương.
Bài tập 6. trang 28 SBT Ngữ Văn lớp 6 Tập 1: Đọc bài ca dao sau và trả lời các câu hỏi:
Chiều chiều trước bến Văn Lâu(1)
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông
Đưa câu mái đẩy, chạnh lòng nước non.
(Nguyễn Xuân Kính - Phan Đăng Nhật - Phan Đăng Tài - Nguyễn Thuý Loan - Đặng Diệu Trang, Kho tàng ca dao người Việt, tập 1,
NXB Văn hoá - Thông tin, Hà Nội, 2001, tr. 515)
(1) ' Đây vốn là bài thơ của Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877 - 1961), một nhà thơ nổi tiếng thời Tự Đức, sau đó đã đi vào dân gian, trở thành bài hát dân gian.
Trả lời:
So với đặc điểm của thơ lục bát đã được nêu ở phần Tri thức ngữ văn (SGK, tr. 89), số tiếng trong dòng thứ ba không phải sáu tiếng như thông thường mà kéo dài thành tám tiếng. Bài ca dao này là hiện tượng lục bát biến thể.
Trả lời:
Tính chất biến thể trong việc phối thanh của bài ca dao: tiếng thứ tám của dòng bát đầu tiên (Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm) và tiếng thứ sáu của dòng bát thứ hai (Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông) không phải là thanh bằng như thông thường mà là thanh trắc.
Trả lời:
Ngoài sự biến thể về thanh điệu, so với một bài thơ lục bát thông thường, ta cũng nhận thấy có sự khác biệt về vị trí gieo vần ở bài ca dao. Về vần, tiếng thứ tám của dòng bát (Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm) vần với tiếng thứ tư của dòng bát tiếp theo (Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông).
Trả lời:
Việc sử dụng liên tiếp hai dòng tám tiếng (Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm/ Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông) đã góp phần làm nổi bật tâm trạng buồn bã, sầu muộn, nhớ nhung, trông ngóng của nhân vật trữ tình.
Trả lời:
Thời gian và không gian được khắc hoạ trong bài ca dao để lại cho em nhiều ấn tượng. Chính thời gian buổi chiều, không gian mênh mông, xa vắng, trầm mặc của bến Văn Lâu với hình ảnh con thuyền trôi lững lờ trên dòng sông Hương, với điệu hò mái đẩy dìu dặt càng làm tăng thêm nỗi buồn thảm, sầu nhớ trong lòng người.
Viết trang 29
(1) Ngày nay dù ở nơi...
Nhưng khi về đến cây đa đầu làng
Thì bao nhiêu cảnh mơ...,
Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre.
(Theo Bàng Bá Lân, Cổng làng)
(2) Đêm mưa làm nhớ không ....,
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la.
Tai nương nước giọt mái...
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn.
(Theo Huy Cận, Buồn đêm mưa)
Trả lời:
(1) Ngày nay dù ở nơi xa,
Nhưng khi về đến cây đa đầu làng;
Thì bao nhiêu cảnh mơ màng,
Hiện ra khi thoáng cổng làng trong tre.
(Bàng Bá Lân, Cổng làng)
(2) Đêm mưa làm nhớ không gian,
Lòng run thêm lạnh nỗi hàn bao la.
Tai nương nước giọt mái nhà
Nghe trời nằng nặng, nghe ta buồn buồn.
(Huy Cận, Buồn đêm mưa)
Đồng chiêm phả nắng lên không
Cánh cò dẫn gió qua thung lúa vàng
Gió nâng tiếng hát chói chang
Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời.
(Nguyễn Duy, Tiếng hát mùa gặt)
Trả lời:
Đoạn thơ được trích trong bài thơ “Tiếng hát mùa gặt” của nhà thơ Nguyễn Duy. Mở đầu đoạn thơ bức tranh mùa gặt đã hiện lên bao la, rộng lớn. Đoạn thơ sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa: đồng chiêm phả nắng cánh cò dẫn gió, gió nâng tiếng hát, lưỡi hái liếm ngang khiến cảnh vật thêm vui tươi, sinh động. Bên cạnh đó, biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tiếng hát chói chang kết hợp cùng cách đảo trật tự từ: long lanh lưỡi hái đã mang đến cho người đọc những xúc cảm đặc biệt. Các biện pháp tu từ trên kết hợp với cách sử dụng nhiều hình ảnh đẹp với màu sắc tươi tắn rực rỡ, với cách sử dụng nhiều động từ độc đáo, bức tranh về mùa vàng bội thu được hiện lên rõ nét. Trong bức tranh đó có thiên nhiên rộng lớn, khoáng đạt hiện lên rõ rệt niềm vui, sự lạc quan, hăng say của người lao động trước vụ mùa bội thu. Thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau, tầm vóc con người lao động lớn lao ngang tầm vũ trụ. Đọc đoạn thơ em lại càng thấy thêm yêu quê hương, đất nước tươi đẹp của mình.
Nói và Nghe trang 29
Trả lời:
Học sinh tự tập đọc diễn cảm những đoạn thơ lục bát.
Trả lời:
Đoạn thơ được trích trong bài thơ “Tiếng hát mùa gặt” của nhà thơ Nguyễn Duy. Mở đầu đoạn thơ bức tranh mùa gặt đã hiện lên bao la, rộng lớn. Đoạn thơ sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa: đồng chiêm phả nắng cánh cò dẫn gió, gió nâng tiếng hát, lưỡi hái liếm ngang khiến cảnh vật thêm vui tươi, sinh động. Bên cạnh đó, biện pháp ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: tiếng hát chói chang kết hợp cùng cách đảo trật tự từ: long lanh lưỡi hái đã mang đến cho người đọc những xúc cảm đặc biệt. Các biện pháp tu từ trên kết hợp với cách sử dụng nhiều hình ảnh đẹp với màu sắc tươi tắn rực rỡ, với cách sử dụng nhiều động từ độc đáo, bức tranh về mùa vàng bội thu được hiện lên rõ nét. Trong bức tranh đó có thiên nhiên rộng lớn, khoáng đạt hiện lên rõ rệt niềm vui, sự lạc quan, hăng say của người lao động trước vụ mùa bội thu. Thiên nhiên và con người hòa quyện với nhau, tầm vóc con người lao động lớn lao ngang tầm vũ trụ. Đọc đoạn thơ em lại càng thấy thêm yêu quê hương, đất nước tươi đẹp của mình.