TOP 20 bài Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê 2024 SIÊU HAY

4.6 K

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê Ngữ văn 10 Cánh diều, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê

TOP 20 bài Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê 2024 SIÊU HAY (ảnh 2)

Đề bài: Hãy thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê (Ninh Thuận).

Dàn ý Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê

1. Mở bài: 

Giới thiệu khái quát về lễ hội Ka-tế của người Chăm ở Ninh Thuận và mục đích của bài thuyết trình. Ví dụ: Thông qua việc giới thiệu những nét đặc sắc của lễ hội Ka-tô, mọi người hiểu rõ về văn hoá, tín ngưỡng, đời sống tinh thần của người Chăm ở Ninh Thuận, từ đó, cũng góp phần gin giữ và phát huy những giá trị văn hoả tốt đẹp của dân tộc (mục đích).

2. Thân bài: 

+ Trình bày cụ thể các đặc điểm của lễ hội Ka-tệ, chẳng hạn: Tên gọi: thời gian, không gian tổ chức; phần lễ phân hội, ... Có thể đan cài các cảm nhận, đánh giá riêng của bản thân theo từng phần,

+ Trình bày ý nghĩa của lễ hội Ka-tế đối với cuộc sống, con người. Ví dụ: Qua lễ hội Ka-tê, người Chăm thể hiện sự tri ân đối với tổ tiên, các bậc tiền bối đã có công tạo dựng và bảo vệ cuộc sống cho họ. Đây cũng là khoảng thời gian những thành viên trong gia đình vui Tết đoàn viên, đến thăm họ hàng, bè bạn và cùng nhau tận hưởng những giây phút bình an, hạnh phúc.

3. Kết bài: 

Khẳng định lại giá trị văn hoá chủ yếu của lễ hội Katê (giá trị về vật chất, tinh thần) đối với người Chăm nói riêng và với cộng đồng các dân tộc Việt Nam nói chung.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 1

Lễ hội Katê là lễ hội lớn nhất của đồng bào dân tộc Chăm theo đạo Bà La Môn được tổ chức mỗi năm một lần vào tháng 7 lịch Chăm nhằm khoảng 25/9 đến 5/10 dương lịch (tháng 9 âm lịch) để tưởng nhớ các vị Nam thần như Pô Klong Garai, Pô Pôme... Lễ hội diễn ra trên một không gian rộng lớn, lần lượt từ đền tháp đến làng rồi về từng gia đình tạo thành một dòng chảy phong phú, đa dạng.

Lễ hội Katê của người Chăm hàng năm được tổ chức vào 1/7 lịch Chăm (khoảng cuối tháng 9 hoặc đầu tháng 10 dương lịch), diễn ra trong 3 ngày trên một không gian rộng lớn tại các đền tháp Chăm thuộc xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận.

Lễ hội Katê, Ninh Thuận được đánh giá là lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hoá của cộng đồng người Chăm theo đạo Bàlamôn. Về bản chất, Lễ hội Katê tựa như Tết Nguyên đán của người Kinh. Trong dịp này, người Chăm sửa soạn nhà cửa, diện những bộ trang phục mới, tham gia lễ hội theo tín ngưỡng nhằm tưởng nhớ các vị thần, ông bà, tổ tiên; thăm hỏi trong gia đình, cộng đồng, chúc nhau những lời tốt lành.

Lễ hội Katê của người Chăm tỉnh Ninh Thuận chính thức được ghi tên trong danh mục Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia, ban hành kèm theo quyết định số 2459/QĐ-BVHTTDL, ngày 20/6/2017 của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, thể thao và du lịch. Lễ hội không chỉ gắn với đền tháp cổ kính ngàn năm tuổi, nơi lưu giữ những giá trị kỹ thuật và mỹ thuật cao nhất của nền văn hoá Chăm, mà còn gắn với nhiều lĩnh vực khác của văn hoá: đồ cúng tế, y phục, nhạc cụ; những bài thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với nước với dân. Lễ hội còn là dịp để cộng đồng người nhân dân địa phương và những người tham dự được thưởng thức một nền nghệ thuật ca - múa - nhạc dân gian với phong cách độc đáo.

Một ngày, trước khi lễ hội chính thức diễn ra tại các đền tháp thì tại thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận có tổ chức lễ đón rước y trang từ người Raglai tại đền Pô Nưgar. Theo truyền thuyết, người Raglai là em út của người Chăm có nhiệm vụ giữ gìn y trang để mỗi năm trao lại cho người Chăm. Các lễ hội Katê đều có sự tham dự của người Raglai với các điệu múa đặc sắc dâng lên thánh thần.

Vào ngày thứ hai, lễ diễn ra tại Tháp Pô klong Garai nằm trên ngọn đồi Trầu thuộc phường Đô Vinh và tháp Pô Rôme trên đồi " Bôn acho" tại thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu. Trong buổi lễ này người Chăm sẽ thực hiện nghi thức tắm và mặc y trang cho vua. Đây là nghi thức kỳ bí nhất diễn ra bên trong tháp. Mở đầu là vị cả sư và ông từ giữ tháp làm lễ mở cửa tháp sau đó đoàn người gồm cả sư, bà bóng, thầy kéo đàn Kanhi và các giáo đồ trung tín tiến vào tháp. Vị cả sư cầm lọ nước thánh có pha trầm hương tưới lên tượng thần ( tượng thần bằng đá dưới hình thể Mukhalinga - linga hình mặt người).

Lễ mặc y trang cho vua diễn ra ngay sau đó nhịp nhàng theo các câu hát của thầy kéo đàn Kanhi. Thầy kéo đàn Kanhi kết thúc bài hát đầu tiên thì cả sư, bà bóng... đã mặc trong váy cho vua. Cứ như thế y trang lộng lẫy được khoác lên tượng ngài theo các lời hát. Nghi lễ tắm và mặc y trang cho nhà vua diễn ra thành kính đầy tính tâm linh. Những người được tắm cho vua còn thấm nước trên tượng ngài bôi lên đầu mình để cầu may mắn, sức khỏe. Thầy kéo đàn Kanhi là người giữ nhịp cho buổi lễ, mỗi bài thầy hát đều mang một ý nghĩa tín ngưỡng và tưởng nhớ tổ tiên.

Vào ngày thứ ba, lễ hội diễn ra tại làng Mỹ Nghiệp thuộc thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước. Làng Mỹ nghiệp có tên Chăm là Caklaing, theo truyền thuyết đây là nơi sinh ra vị vua Chăm Pô Klong Garai. Làng còn có một nghề dệt thủ công truyền thống nổi tiếng có lịch sử phát triển lâu đời. Trong ngày Hội Katê, làng Chăm Mỹ Nghiệp tổ chức Lễ dâng cúng thần làng, tổ sư nghề dệt và tổ tiên. Trong ngày hội họ còn tổ chức nhiều trò chơi như thi dệt vải, đội nước, đá bóng, văn nghệ...

Lễ hội Katê cũng bao gồm hai phần: phần lễ và phần hội. Phần lễ: các nghi lễ cơ bản giống nhau về nội dung, nghi thức hành lễ như lễ đón rước y phục, lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần, lễ mặc y phục cho tượng thần, và đại lễ. Khi điệu múa thiêng trong tháp vừa kết thúc thì ở ngoài tháp bắt đầu mở hội. Những điệu trống Gi Năng và kèn Saranai cùng vang lên hoà với các điệu múa và làn điệu dân ca Chăm làm náo nức lòng người.

Chiều tối ngày thứ 2 lễ hội ở các tháp Chăm kết thúc và sau đó là lễ hội Katê ở làng và từng gia đình. Tại các làng Chăm không khí lễ hội lại bừng lên tuy nhiên qui mô nhỏ hơn và phần lễ cũng đơn giản hơn. Trong thời gian này gia đình nào có điều kiện thì mới tổ chức, nếu gặp lúc kinh tế khó khăn thì có thể mỗi dòng họ cử một gia đình để tổ chức, chứ không nhất thiết gia đình nào cũng cúng lễ Katê.

Chủ lễ cúng Katê là người trong gia đình hoặc là người lớn tuổi trong tộc họ. Vào ngày lễ này mọi thành viên trong gia đình đều có mặt đông đủ cầu mong tổ tiên thần linh phù hộ cho con cháu làm ăn phát đạt, tránh rủi ro, gặp nhiều điều may mắn trong cuộc sống. Đây cũng là dịp ông bà, cha mẹ giáo dục cho các thế hệ con cháu nhớ ơn, kính trọng tổ tiên. Trong dịp lễ này, mỗi gia đình cũng chuẩn bị bánh trái mời họ hàng, bạn bè đến thăm viếng, chúc tụng nhau.

Katê được tổ chức trong 3 ngày nhưng thực tế nó thường được kéo dài cả tuần lễ để bà con người Chăm vui chơi giải trí và cầu cho một năm mùa màng tốt tươi. Sau khi làm lễ ở đền tháp, Katê được đưa về gia đình để các gia đình, dòng tộc tổ chức lễ cúng. Mọi thành viên viên trong gia đình sum họp, ngồi quay quần bên hương hồn tổ tiên và chúc nhau những điều tốt lành.

Qua một chặng dài lịch sử, Katê là tấm gương phản chiếu những sinh hoạt của một cộng đồng, là nơi hội tụ di sản văn hóa Chăm đồ sộ mà người Chăm tích lũy được trên dặm đường lịch sử của mình.

Lễ hội Katê mang nhiều yếu tố đối lập của cấu trúc lưỡng hợp: màu sắc, nghi lễ, hội hè... từ đực-cái, ngày – đêm, sáng – tối. Tất cả đều thể hiện ước vọng phồn thực trong sự liên kết lứa đôi, hầu mong cho sự sinh sôi nảy nở của con người, vật nuôi và mùa màng tươi tốt của cư dân nông nghiệp.

Có thể nói lễ hội Katê chính là dịp cho người Chăm phô bày sắc thái văn hóa của dân tộc mình. Chính vì vậy lễ hội Katê không chỉ đem đến cho người dự hội những vẻ đẹp của Tháp Chăm cổ kính, những sản phẩm của nghề trồng lúa và đi biển thông qua lễ vật dâng cúng mà nó còn trình diễn trước công chúng một nền ca- múa - nhạc dân gian giàu bản sắc riêng.

* Các hoạt động của Lễ hội Katê 2017

Lễ hội Katê năm 2017 của đồng bào Chăm ở Ninh Thuận sẽ diễn ra từ ngày 18/10 - 21/10/2017 (Từ ngày 30/6 - 03/7 Chăm lịch), với nhiều hoạt động đặc sắc và ý nghĩa.

Ngày 18/10/2017 (Ngày 30/6 Chăm lịch): Từ 13h00’ - 15h00’: tại thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu, Đền Pô Inư Nưgar, người Chăm trong làng sẽ làm nghi lễ rước xiêm y Thánh Mẫu do người Raglai cất giữ mang đến. Nghi lễ xong xuôi, bộ xiêm y được rước quanh làng trong sự cung kính của mọi người rồi tiến vào đền để cúng tế trong những ngày Katê. Sau phần lễ là những màn múa quạt, khăn truyền thống của các thiếu nữ Chăm duyên dáng. Mọi người chúc tụng và mời nhau ly rượu, tưởng nhớ công ơn các vị thần đã nâng niu che chở và cho mùa màng bội thu.

Ngày 19/10/2017 (Ngày 01/7 Chăm lịch): 06h 00’: Tại thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu, Tháp Po Rome: lễ rước xiêm y từ thôn Hậu Sanh, xã Phước Hữu lên Tháp Po Rome. Ngôi tháp tọa lạc trong một làng Chăm cổ với nhiều nét huyền bí, linh thiêng. Đến đây, du khách sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đồ sộ với kiến trúc độc đáo, mang dáng vẻ uy nghiêm khác lạ so với những ngôi tháp Chăm khác dọc dải miền trung. Song song với lễ tục là những điệu múa duyên dáng, đầy uyển chuyển của thiếu nữ Chăm với trang phục truyền thống cùng gam màu rực rỡ.

06h 00’: Tại thôn Phước Đồng, xã Phước Hậu, Tháp Pô Klông Garai: lễ rước xiêm y thần Pô Klông Garai từ thôn Phước Đồng lên Tháp Pô Klông Garai, phường Đô Vinh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm. Du khách sẽ ngỡ ngàng trước khối kiến trúc hùng vĩ tại tháp Chăm cổ. Đây là nơi hành hương đông đúc của người Chăm. Hầu hết các làng Chăm đều đến cúng lễ và cầu nguyện, giúp gia đình một mùa Katê tràn đầy sức khỏe và bình an.

07h 30’: Diễn ra Lễ Công bố và đón nhận Bằng chứng nhận “ Lễ hội Katê của người Chăm tỉnh Ninh Thuận” được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Tháp Pô Klông Garai, Tháp Po Rome và Đền Pô Inư Nưgar.

Ngày 20/10/2017 (02/7 Chăm lịch): 07h 30’ Diễn ra Lễ Công bố và đón nhận “ Nghệ thuật làm gốm truyền thống của người Chăm làng Bàu Trúc” được đưa vào danh mục Di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia tại Sân vận động làng nghề Bàu Trúc, thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước.

Ngày 21/10/2016 (03/7 Chăm lịch): là Katê tại gia đình. Ngoài ra trong suốt lễ hội còn liên tục diễn ra các hoạt động truyền thống của người Chăm như: Hội thi tay nghề dệt thổ cẩm, Hội thi tay nghề gốm, biểu diễn văn nghệ,…

Bên cạnh tìm hiểu Lễ hội Katê, tham quan di tích các Đền và các Tháp, du khách còn tự mình khám phá nghệ thuật kiến trúc Chăm hay lựa chọn và mua sắm những món quà thủ công mỹ nghệ dân gian Chăm độc đáo, xem biểu diễn nghệ thuật Chăm đầy trải nghiệm thú vị.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 2

Lễ hội Ka-tê, tình cảm và sự kiện quan trọng nhất của cộng đồng người Chăm theo đạo Bà La Môn, đánh dấu khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 10 (tương đương tháng 9 và 10 dương lịch), là một ngày lễ linh thiêng và trọng đại. Được tổ chức rộng lớn từ các đền tháp đến làng xóm, cuộc diễu hành hội tụ từng gia đình, tạo ra một dòng chảy phong phú và đa dạng, kể lên câu chuyện của một cộng đồng đong đầy lịch sử và truyền thống.

Lễ hội Ka-tê năm nay diễn ra tại xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận từ ngày 14-10 đến ngày 17-10, trải qua một chuỗi sự kiện đa dạng và phong phú. Được đánh giá là lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong văn hóa Chăm theo đạo Bà La Môn, Ka-tê không chỉ là dịp để tưởng nhớ các vị thần mà còn là lễ hội truyền thống đong đầy ý nghĩa.

Tính chất của lễ hội Ka-tê giống như Tết Nguyên đán của người Kinh, nơi người Chăm chuẩn bị nhà cửa, mặc những bộ trang phục mới, tham gia lễ hội theo tín ngưỡng để tưởng nhớ các vị thần, ông bà, tổ tiên, đồng thời thăm hỏi trong gia đình và cộng đồng, chúc nhau những lời tốt lành.

Lễ hội Ka-tê không chỉ nổi tiếng với những tháp cổ kính lưu giữ giá trị kỹ thuật và mỹ thuật cao nhất của nền văn hóa Chăm, mà còn là nơi hội tụ nhiều lĩnh vực văn hoá khác nhau. Bước vào lễ hội, du khách sẽ được trải nghiệm không khí của nghệ thuật ca-múa-nhạc dân gian độc đáo.

Lễ rước y trang từ người Raglai, người em út của người Chăm, là một sự kiện đặc biệt trước ngày hội chính, làm nổi bật tính đa văn hóa và đa dạng của cộng đồng. Điều này không chỉ thể hiện trong các nghi lễ tôn giáo mà còn trong các bước lễ như rước y trang, mở cửa tháp, tắm tượng thần, và mặc y phục cho tượng thần.

Lễ mặc y trang cho vua, diễn ra với sự nhịp nhàng của các bài hát của thầy kéo đàn Ka-nhi, tạo nên không khí trang nghiêm và tôn trọng. Nghi lễ tắm và mặc y trang không chỉ là những hành động tôn kính, mà còn chứa đựng những ý nghĩa tâm linh sâu sắc, khi người tham dự cầu mong sự may mắn và sức khỏe.

Lễ hội lan tỏa từ các tháp đến các làng và gia đình, kèm theo nhiều hoạt động như thi đấu thể thao, thi dệt thổ cẩm và các trò chơi dân gian. Lễ hội Ka-tê không chỉ là sự kiện tôn vinh các vị thần mà còn là dịp để cộng đồng thể hiện sự đoàn kết, lòng biết ơn và vui mừng.

Mỗi gia đình sau lễ hội tại các tháp tự chuẩn bị cho lễ hội tại gia đình mình. Buổi cúng lễ là dịp để người Chăm cầu mong sự bình an, may mắn và thành công cho gia đình. Trong lúc cúng lễ, mọi người không chỉ thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên mà còn biểu đạt lòng biết ơn đối với ông bà, cha mẹ và người thân.

Tổng hợp lại, lễ hội Ka-tê không chỉ là dịp để tưởng nhớ và tôn vinh các vị thần mà còn là cơ hội để người Chăm thể hiện và duy trì văn hóa, nghệ thuật và truyền thống của mình. Nó không chỉ là một sự kiện tín ngưỡng mà còn là sự kết hợp tuyệt vời giữa truyền thống và hiện đại. Mỗi năm, lễ hội Ka-tê là dịp để cộng đồng người Chăm gặp gỡ, kết nối và tận hưởng không khí phấn khích của sự kiện truyền thống này.

Bên cạnh những nghi lễ tín ngưỡng, lễ hội Ka-tê còn là một bảo tàng sống về di sản văn hóa Chăm, nơi lịch sử, truyền thống và đa dạng văn hóa của cộng đồng được tái hiện một cách rực rỡ và sống động.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 3

Ka-tê là lễ hội hằng năm của đồng bào Chăm vào tháng 7 theo lịch Chăm (khoảng tháng 10 dương lịch) để tưởng nhớ các vị thần mà cũng là những anh hùng dân tộc như Pô-Klông Ga-rai, Pô Rô-mê,... được tổ chức trên một không gian rộng lớn (đền tháp, làng, gia đình), trong khoảng thời gian chừng một tháng.

Lễ hội Ka-tê năm nay được tổ chức từ ngày 14-10 đến ngày 17-10 tại thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Đây là lễ hội đặc sắc trong hàng chục lễ hội hằng năm của đồng bào Chăm. Là nơi hội tụ những tỉnh hoa văn hoá, sinh hoạt, tập tục, tín ngưỡng, kĩ thuật, mĩ thuật, tập quán thông qua các đồ cúng tế, y phục, nhạc cụ, những bản thánh ca, ca ngợi các vị vua hiền có công với dân với nước, ca ngợi công việc đồng áng, mùa màng, những vần thơ ca ngợi sự hưng thịnh, sản vật trăm hoa, trăm quả, trăm nghề,... Lễ hội Ka-tê là dịp để các chàng trai tài, cô gái sắc, phô diễn trước công chúng những điệu nhảy, bài ca, điệu kèn mang một phong cách độc đáo, riêng có của dân tộc Chăm, làm lay động lòng người. Âm thanh dìu dặt của kèn Sa-ra-nai, trong nhịp giật thôi thúc của trống Ghi-năng đưa những người dự lễ lên đỉnh cao của sự thăng hoa, hoà vào điệu múa của các thiếu nữ Chăm bay khắp cõi trời mơ. Lễ hội Ka-tê chính là giây phút thiêng liêng của người trần thế đánh thức các tháp Chăm cổ kính yên ngủ dưới lớp bụi thời gian bừng dậy, sáng loà, toả ra trăm sắc, ngàn hương, góp phần làm phong phú cho vườn hoa văn hoá đa sắc, đa màu của các dân tộc Việt Nam.

Lễ hội Ka-tê diễn ra theo trình tự các bước đã có truyền thống từ xa xưa, bao gồm lễ rước y trang, lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần, lễ mặc y phục cho tượng thần và sau cùng là đại lễ. Lễ hội tại đền tháp do Ban tế lễ là các chức sắc đạo Bà La Môn gồm: Thầy cả sư làm chủ lễ, thầy kéo đàn Ka-nhi - hay còn gọi là thầy cò ke, bà bóng dâng lễ và ông từ. Lễ vật dâng cúng gồm: 1 con dê, 3 con gà làm lễ tẩy uế đất tháp, 5 mâm cơm cúng có thịt dê, l mâm cơm với muối vừng, 3 ô bánh gạo và hoa quả.

Lễ rước y trang của nữ thần Pô-na-ga (thần Mẹ xứ sở) diễn ra một ngày trước ngày hội chính. Y phục của nữ thần Pô-na-ga do người Ra-glai (một bộ tộc miền thượng) cất giữ. Lí do vì sao mà y trang của nữ thần Mẹ xứ sở của người Chăm lại do người Ra-glai giữ hộ thì hiện còn nằm trong các màn sương dày của các truyền thuyết. Đến ngày hội lễ Ka-tê thì người Chăm làm lễ đón y trang do người Ra-glai chuyển lại và để y trang của nữ thần Mẹ xứ sở vào một ngôi đền gần tháp. Trước khi rước y trang lên tháp, đoàn người Ra-glai tập trung đông đủ, ông từ giữ đền dâng cúng lễ vật, gồm: trứng, rượu, trầu cau và xin phép thần được rước y trang về tháp để làm lễ.

Tiếp theo là lễ mở cửa tháp do một vị cả sư và ông từ trông coi tháp điều hành. Lễ vật gồm có rượu, trứng, trầu cau, nước tắm thần có pha trầm hương... Trong không khí trang nghiêm, vị cả sư đọc mấy câu thơ (trong kinh hành lễ): “Chúng con lấy nước từ sông lớn / Chúng con đội về tháp tắm thần / Thần là thần của trời đất / Chúng con lấy những tấm khăn đẹp nhất / Lau mồ hôi trên mình, tay chân của thần,...”.

Sau đó, ông từ cầm lọ nước tắm thần tạt lên tượng phù điêu thần Si-va trên vòm cửa chính của tháp. Tiếp đó, thầy kéo đàn Ka-nhi (tương tự đàn nhị của người Việt) và bà bóng tiến đến trước cửa tháp chính, ngồi bên tượng bò thần Na-đin để hát lễ xin mở cửa tháp: “Hãy xông hương trầm bằng lửa thiêng / Hương trầm của người trần dâng lễ / Hương trầm bay toả ngát không gian / Chúng con xin mở cửa tháp cúng thần”. Bà bóng và ông từ bắt đầu mở cửa tháp trong khói hương trầm nghi ngút và sự chăm chú của mọi người.

Tiếp theo là lễ tắm tượng thần, lễ này được diễn ra bên trong tháp. Lễ tắm tượng thần là một thủ tục linh thiêng, do ông cả sư, thầy cò ke, bà bóng, ông từ và một số tín đồ nhiệt thành thực hiện. Sau khi đọc các đoạn trong kinh hành lễ, ông từ cầm lọ nước tắm vẩy lên pho tượng đá, mọi người có mặt cùng tắm cho thần. Trong khi tắm, những tín đồ nhiệt thành lấy nước trên thân tượng thần bôi lên đầu, lên thân thể mình để cầu tài lộc, sức khoẻ, may mắn....

Sau khi tắm cho tượng thần xong là bắt đầu lễ mặc y phục. Thầy cò ke hát một bài thánh ca, hát đến đâu thì ông từ, bà bóng mặc y phục đến đó. Đầu tiên là mặc váy, rồi đến áo cho tượng thần.

Đại lễ được tiếp tục khi tượng thần đã mặc trên mình bộ xiêm bào lộng lẫy, các lễ vật dâng cúng được bày ra trước bệ thờ. Chủ trì buổi lễ là vị cả sư, bà bóng bày lễ vật, thầy kéo đàn Ka-nhi mời các vị thần cùng về dự lễ. Lần lượt thầy cò ke hát mời 30 vị thần, mỗi vị thần, thầy hát một bài thánh ca để mời. Thầy cả sư làm phép đọc kinh cầu nguyện xin thần về hưởng lễ và phù hộ độ trì cho muôn dân. Kết thúc đại lễ là màn vũ điệu múa thiêng của bà bóng.

Trong lúc bà bóng đang xuất thần điệu múa thiêng bên trong tháp để kết thúc đại lễ thì bên ngoài bắt đầu mở hội. Những điệu trống Ghi-năng, kèn Sa-ra-nai đồng loạt vang lên, cầm nhịp cho các cô gái Chăm trong vũ điệu cuồng nhiệt, say sưa, hấp dẫn, thôi thúc mọi người. Không khí vui nhộn liên tục cho đến khi Mặt Trời khuất sau các dãy núi,...

Lễ hội Ka-tê ở các làng Chăm diễn ra trong một hoặc có khi là vài ngày sau khi kết thúc lễ hội ở các tháp. Ở đây, mấy hôm trước ngày hành lễ Ka-tê làng, dân làng đã quét dọn đền miếu (mỗi làng Chăm thường thờ riêng một vị thần), chuẩn bị sân khấu, bãi chơi để thi dệt thổ cẩm Chăm, thi đội nước, kéo co,... Những năm gần đây còn tổ chức cho thanh niên chơi bóng đá, bóng chuyền, mọi nhà đều sắp xếp, trang hoàng nhà cửa, mua sắm đồ ăn, thức uống,... Nếu như lễ hội Ka-tê ở tháp nặng về phần lễ thì lễ hội Ka-tê làng lại nghiêng về phần hội.

Trong ngày hội Ka-tê làng, sau khi chuẩn bị xong lễ vật, buổi sáng, mọi người làm lễ cúng Ka-tê ở Nhà Làng đệ cầu mong thần phù hộ cho dân làng bình an, khoẻ mạnh và làm ăn phát đạt. Chủ lễ không phải là chức sắc tôn giáo mà chủ làng hoặc già làng có uy tín và tinh thông phong tục tập quán. Khi kết thúc buổi lễ là lúc bắt đầu các trò chơi. Tại làng Mỹ Nghiệp, nơi tập trung hơn 500 thợ dệt thổ cẩm Chăm lành nghề (thị trấn Phước Dân, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận) trong lễ hội Ka-tê hằng năm, ngoài các trò chơi như múa quạt, kéo co,... còn diễn ra hội thi dệt thổ cẩm rất sôi nổi.

Khi lễ Ka-tê làng kết thúc thì lễ Ka-tê gia đình mới được bắt đầu. Mỗi gia đình, tuỳ theo điều kiện của mình mà mua sắm các thứ cho ăn mặc như tết Nguyên đán của người Kinh vậy. Khi cúng lễ ở mỗi nhà, mọi người trong gia đình phải có mặt đầy đủ để cầu mong tổ tiên thần linh phù hộ cho con cháu làm ăn phát đạt, tránh được rủi ro, gặp nhiều may mắn,... Đây cũng là dịp ông bà, cha mẹ giáo dục con cháu nhớ ơn công lao sinh thành, giáo dưỡng của ông bà, tổ tiên,... Mọi người sau khi cúng lễ xong thì hưởng lễ hay đi thăm viếng người thân, bạn bè, chúc tụng nhau, Trong lúc đến viếng thăm nhau, ngoài những lời chúc tụng về sức khoẻ, hạnh phúc và công việc, người Chăm hay mời nhau uống rượu, ăn các loại bánh, trái cây,...

Lễ hội Ka-tê là hình thức sinh hoạt lễ hội đặc sắc nhất của đồng bào Chăm, cuốn hút tất cả mọi thành viên trong thôn làng ở tất cả mọi cấp độ, lứa tuổi, không một người nào bị lãng quên, mọi người tham gia với khả năng của mình vào các hoạt động của cộng đồng. Các thiếu nữ Chăm thuộc làu từng động tác, từng phách, từng nhịp, cách trở, gập quạt, cách uốn, nhún, lượn, xoay, đảo,... từ các nghệ nhân, những người cao tuổi trong làng để tạo nên sự uyển chuyển, duyên dáng, nhuần nhuyễn, nhịp nhàng đến khó tin qua các màn múa quạt tập thể làm say lòng người. Khâm phục hơn nữa khi biết họ là những thiếu nữ Chăm bình thường, trước ngày hội Ka-tê chỉ tập hợp, ôn luyện cùng nhau vài buổi để ra trình diễn. Nếu không phải là cái truyền thống, cái máu thịt thì không thể có được sự nhịp nhàng, chính xác đến vậy.

Mặc dù cộng đồng người Chăm chịu nhiều ảnh hưởng nền văn hoá Ấn Độ, song lễ hội Ka-tê lại biểu hiện một lối đi riêng, một thái độ tiếp thu văn hoá gắn với truyền thống văn hoá bản địa. Những người chủ của lễ hội này, của nền văn hoá Chăm, mặc dù trong tâm thức, người ta vẫn thờ cúng thần Si-va nhưng cộng đồng người Chăm trên lãnh thổ Việt Nam còn coi trọng, tôn thờ những vị anh hùng dân tộc, kết hợp hài hoà giữa cái xưa và nay, cái quá khứ và hiện tại. Vì vậy mà các tháp Chăm, nơi hành lễ Ka-tê đều gắn liền tên của một ông vua có nhiều công với thần dân, được mọi người phong thành Thần và tên tháp thờ mang tên ông, như tháp Pô-klông Ga-rai, Pô Rô-mê.,... Đấy chính là một điểm mấu chốt để nền văn hoá Chăm mãi mãi vững bền trước các biến cố lịch sử, biểu hiện sức sống mãnh liệt của văn minh cội nguồn hội nhập với văn hoá Đông Nam Á, làm cho diện mạo của lễ hội Ka-tê thêm phong phú, đa dạng, hợp lòng người, mãi mãi trường tồn.”.

TOP 20 bài Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê 2024 SIÊU HAY (ảnh 1)

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 4

Là người Việt Nam, không ai là không biết đến câu ca:

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng mười tháng ba
Khắp miền truyền mãi câu ca
Nước non vẫn nước non nhà ngàn năm.”

Lễ hội đền Hùng giỗ tổ Hùng Vương (được tổ chức ngày mồng mười tháng ba hàng năm) từ lâu đã trở thành một tục lệ trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, một điểm tựa của tinh thần văn hoá. Giỗ Tổ Hùng Vương từ rất lâu đã trở thành ngày lễ hội trọng đại của cả dân tộc. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ mà hướng về vùng đất Phú Thọ. Từ các triều đại phong kiến Việt Nam, Đinh Lý Trần Lê, Đền Hùng đã là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc ta.

Ngày này hàng năm, lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên cội nguồn, lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", ghi nhớ mười tám vị Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.

Lễ hội đền Hùng được diễn ra vào ngày mồng mười tháng ba:

“Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba”

Từ thuở xưa lễ hội đền Hùng đã có một đặc thù riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Người về dự hội là hướng về tổ tiên với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). Phần hội chỉ là phần phụ để không khí thêm vui tươi, náo nhiệt trong ngày này.

Phần lễ gồm tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. 41 làng thuộc tỉnh Phú Thọ được rước kiệu từ đình làng mình đến Đền Hùng. Các kiểu đều được sơn son thếp vàng, chạm trổ đẹp mắt, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ… và đặc biệt nhất là các đêm hát xoan, hát ghẹo – hai làn điệu dân ca độc đáo riêng ở Châu Phong.

Vào những năm chẵn (5 năm một lần), giỗ Tổ được tổ chức theo đúng nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Dù năm chẵn hay lẻ lễ hội Giỗ Tổ vẫn rất chặt chẽ, bao gồm hai phần lễ và hội. Ngày 2-9-1945, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa được khai sinh đánh dấu bước ngoặt lịch sử mới của dân tộc ta. Giỗ Tổ Hùng Vương năm 1946 là một sự kiện hết sức đặc biệt, đáng ghi nhớ.Cụ Huỳnh Thúc Kháng, Phó Chủ tịch nước bấy giờ, đã thay mặt Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hoà lên làm lễ dâng hương tại Đền Hùng.

Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn cán bộ "Các vua Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước". Lời căn dặn như lời hứa quyết tâm của vị lãnh tụ đứng đầu đất nước.

Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại Âu Cơ và Lạc Long Quân đẻ ra trăm trứng, nửa theo Cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Vì thế mà hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.

Phần lễ được tổ chức trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương, dâng hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ chức trang nghiêm và long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mùng 9, làng được Ban tổ chức lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung đông đủ tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở thành phố Việt Trì, xe tiêu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành đến chân núi Hùng.

Tới trước thềm của "Điện Kính Thiên”, đoàn đại biểu kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá, thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được báo chí, truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước theo dõi lễ hội. Người đi lễ dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu.

Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức diễn ra văn hoá hoá xưa. Các hình thức văn hoá được đan xen giữa truyền thống và hiện đại. Trong khu vực diễn ra hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn hóa, thể thao,… được duy trì trong nhiều năm nay.

Các trò chơi văn hoá dân gian được duy trì đến ngày nay như: đu quay, đấu vật, chọi gà, kéo lửa, nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)… Bên cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ dân chuyên nghiệp: chèo, hát quan họ, kịch nói,… Đây chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng. Những làn điệu hát Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế mượt mà đã đem tới cho lễ hội một nét đặc trưng, thấm đượm văn hoá vùng đất Phú Thọ.

Tổ tiên người Việt Nam luôn muốn nhắc nhở con cháu: nên làm tròn bổn phận nhiệm vụ của mình, giữ kỷ cương, gia đình sẽ yên ổn, xã hội được an cư lạc nghiệp phồn vinh, phát triển. Lời dạy bảo này không chỉ được nhắc nhở hằng năm thông qua ngày hội giỗ mà còn được khắc ghi trên trống đồng Đông Sơn, biểu tượng thiêng của dân tộc, gửi gắm trong hình tượng mặt trời nằm rạng rỡ giữa trống đồng.

Thông qua lễ hội đền Hùng, tổ tiên ta còn muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước, yên dân. Suốt mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, lễ hội đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần, là cội nguồn của sức mạnh, chói sáng của một nền văn hóa.

Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ, mà nhìn vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển cũng đã từng đến thăm viếng Đền Hùng. Chúng ta thật sự tự hào khi được biết Đến Hùng và các di tích trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Trong những dòng lưu bút thừa nhận. "Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam…".

Lịch sử là một dòng chảy liên tục. Qua mấy nghìn năm, bao biến động thăng trầm, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ mùng mười tháng ba âm lịch vẫn là điểm sáng của bốn phương tụ hội, nơi con cháu lưu công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc và văn hóa Việt Nam – một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 5

Lễ hội Ka-tê, một trong những sự kiện quan trọng hàng năm của người Chăm, được tổ chức vào tháng 7 theo lịch Chăm (tương đương tháng 10 dương lịch), nhằm tưởng nhớ các vị thần và anh hùng dân tộc như Pô-Klông Ga-rai, Pô Rô-mê,... diễn ra trên một không gian rộng lớn, bao gồm các đền tháp, làng, và gia đình, kéo dài trong khoảng một tháng.

Lễ hội Ka-tê năm nay được tổ chức từ ngày 14-10 đến ngày 17-10 tại thôn Hữu Đức, xã Phước Hữu, huyện Ninh Phước, tỉnh Ninh Thuận. Đây không chỉ là một trong những sự kiện quan trọng hàng chục lễ hội của người Chăm mà còn là nơi hội tụ những di sản văn hóa, sinh hoạt, và tập tục truyền thống độc đáo của đồng bào Chăm. Lễ hội không chỉ là dịp để tưởng nhớ các vị thần mà còn là nền tảng để thể hiện văn hóa, nghệ thuật, và truyền thống của cộng đồng.

Âm thanh đặc trưng của kèn Sa-ra-nai và nhịp trống Ghi-năng kết hợp với vũ điệu của các thiếu nữ Chăm tạo nên không khí linh thiêng và phấn khích. Lễ hội Ka-tê là cơ hội để các nghệ nhân trẻ Chăm thể hiện tài năng của mình thông qua những điệu nhảy, bài hát, và âm nhạc có phong cách riêng của dân tộc Chăm. Âm thanh dìu dặt của kèn Sa-ra-nai, trong nhịp giật thôi thúc của trống Ghi-năng, đưa người tham dự lễ hội lên đỉnh cao của sự thăng hoa, hoà mình vào điệu múa của các thiếu nữ Chăm, tạo nên một hình ảnh đẹp huyền bí và quyến rũ.

Lễ hội Ka-tê không chỉ là dịp để tôn vinh các vị thần mà còn là lễ hội truyền thống độc đáo với các bước lễ như rước y trang, mở cửa tháp, tắm tượng thần, mặc y phục cho tượng thần, và cuối cùng là đại lễ. Các nghi lễ này được thực hiện dưới sự chủ trì của Ban tế lễ đạo Bà La Môn, với sự đóng góp của Thầy cả sư, thầy kéo đàn Ka-nhi, bà bóng dâng lễ, và ông từ. Những lễ vật cúng tế bao gồm đủ loại như con dê, gà, cơm, muối vừng, bánh gạo, và hoa quả.

Rước y trang của nữ thần Pô-na-ga, do người Ra-glai giữ và chuyển giao, là một sự kiện đặc biệt trước ngày hội chính. Lễ rước y trang được diễn ra một ngày trước lễ hội chính, và sau khi được chuyển giao, y trang của nữ thần Mẹ xứ sở được đặt tại một ngôi đền gần tháp. Trước khi rước y trang lên tháp, đoàn người Ra-glai tập trung để thực hiện lễ vật cúng và xin phép thần.

Tiếp theo là lễ mở cửa tháp, lễ tắm tượng thần, và lễ mặc y phục cho tượng thần. Những bước lễ này được thực hiện với sự nghiêm túc và tôn trọng, đồng thời được kết hợp với những bài thánh ca và câu chuyện trong kinh hành lễ. Lễ mặc y phục được thực hiện bởi thầy cò ke và bà bóng, tạo nên một không khí trang nghiêm và tôn trọng.

Đại lễ được chủ trì bởi vị cả sư, với sự tham gia của bà bóng, thầy kéo đàn Ka-nhi, và các vị thần. Lễ vật được cúng tế đặt trước bệ thờ, và mọi người tham gia vào lễ cúng và khen ngợi các vị thần. Cuối cùng, buổi lễ kết thúc với màn vũ điệu múa thiêng của bà bóng, mang đến sự hứng khởi và phấn khích cho người tham dự.

Sau khi lễ hội tại các tháp kết thúc, lễ hội lan tỏa đến các làng và gia đình, kéo theo nhiều hoạt động như thi đấu thể thao, thi dệt thổ cẩm, và các trò chơi dân gian. Lễ hội Ka-tê làng là dịp để cộng đồng thể hiện sự đoàn kết, vui mừng, và lòng biết ơn đối với tổ tiên và thần linh.

Mỗi gia đình sau khi kết thúc lễ hội tại tháp tự chuẩn bị cho lễ hội tại gia đình mình. Các buổi cúng lễ tại gia đình là dịp để người Chăm cầu mong sự bình an, may mắn, và thành công cho gia đình. Trong lúc cúng lễ, mọi người không chỉ thể hiện lòng tôn kính đối với tổ tiên mà còn thể hiện lòng biết ơn đối với ông bà, cha mẹ, và người thân.

Tổng hợp lại, lễ hội Ka-tê không chỉ là sự kiện tôn vinh các vị thần mà còn là dịp để cộng đồng Chăm thể hiện và duy trì văn hóa, nghệ thuật, và truyền thống của mình. Lễ hội này không chỉ độc đáo trong các nghi lễ tín ngưỡng mà còn trong sự kết hợp hài hòa giữa truyền thống và hiện đại. Mỗi năm, lễ hội Ka-tê là cơ hội để người Chăm gặp gỡ, kết nối, và tận hưởng không khí phấn khích của sự kiện truyền thống này.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 6

Truyền thống "uống nước nhớ nguồn" của con người Việt Nam có từ nghìn xưa trở thành đạo lý và lẽ sống của các dân tộc. Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc nhưng ở đời nào, triều đại nào nhân dân ta đều không hề quên tổ chức lễ hội Đền Hùng. Đây là một lễ hội lớn mang tính quốc gia để tưởng nhớ các vua Hùng đã có công dựng nước. Như vậy phong tục giỗ tổ Hùng Vương đã trở thành truyền thống văn hoá lâu đời ở nước ta. Đó là ngày hội toàn quốc, toàn dân và trong tâm thức dân gian Việt Nam nó mang tính thiêng liêng cao cả nhất. Vì thế mà lễ hội được tổ chức long trọng hàng năm với nghi thức đại lễ quốc gia, với sự hành hương "trở về cội nguồn dân tộc" của hàng chục vạn người từ khắp các nơi trong nước và kiều bào sống ở nước ngoài.

Khu di tích đền Hùng là một quần thể kiến trúc đẹp trên núi Nghĩa Lĩnh, tức núi Hùng, thuộc xã Huy Cương, huyện Phong Châu, tỉnh Phú Thọ. Khởi thủy các ngôi đền này đều được làm bằng đá để thờ các vị thần núi và các vị vua Hùng. Và từ đó đến nay, trải qua mấy nghìn năm lịch sử, qua các triều đại, các ngôi đền đều được nhân dân địa phương trông coi, sửa chữa, tôn tạo hoặc xây dựng để chống lại sự phong hoá của thời gian và do các cuộc chiến tranh tàn phá. Để có được những ngôi đền với diện mạo bề thế khang trang như ngày nay là kỳ tích và công sức của bao thế hệ con cháu duy tu bảo dưỡng. Các di tích này từ lâu đã trở thành một di sản văn hóa quý giá và là bảo tàng lịch sử của dân tộc ta.

Mỗi công trình kiến trúc của di tích đền Hùng đều hàm chứa nội dung huyền thoại hòa lẫn hiện thực, theo dòng lịch sử chảy trôi, làm cho người đi hội hôm nay như thấy quá khứ và hiện tại quyện vào nhau. Khí thiêng sông núi như tôn thêm cho ngày hội non sông thêm rạng rỡ. Từ cổng tiền lớn (Đai môn) dưới chân núi, bức đại tự phía trên mang dòng chữ "Cao sơn cảnh hàng" (Núi cao đường lớn) vui vẻ chào đón mọi người. Vượt 225 mác xi măng, khách tới đền Hạ, nơi bà Âu Cơ sinh bọc trăm trứng, nở thành trăm con trai. Có lẽ đây là sự tích về nguồn gốc của người Việt Nam được cùng sinh ra một bọc. Vì vậy mà trong ngôn ngữ của ta, dân gian vẫn dùng hai tiếng "đồng bào" (cùng một bọc) cho đến tận ngày nay. Khi Âu Cơ sinh bọc trăm trứng thì Lạc Long Quân dẫn 50 người về xuôi còn Âu Cơ dẫn 49 con lên ngược, để lại người con trưởng làm vua, xưng là Hùng Vương, định đô ở Phong Châu. Vượt 168 bậc nữa là tới đền Trung. Tương truyền nơi đền Trung là chỗ xưa kia các vua Hùng thường họp bàn việc nước với các quan đại thần trong triều. Đây cũng là nơi nghỉ ngơi thoải mái của các vua Hùng cùng các tướng lĩnh sau những cuộc viễn du săn bắn dài ngày. Nơi đền Trung còn liên quan đến sự tích "bánh chưng, bánh dày" và cuộc thi cổ do vua Hùng Vương thứ 6 tổ chức nhằm mục đích tìm người nối ngôi. Lang Liêu là con trai út vì lòng hiếu thảo đã chế ra được hai loại bánh từ gạo nếp thơm là bánh chưng và bánh dày. Lại vượt 102 bậc nữa là tới đền Thượng. Tục truyền rằng ở thời Hùng Vương, các vua Hùng thường cùng các vị tướng soái hay tổ chức tế trời trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh, để cầu khấn trời phù hộ cho mưa thuận gió hòa, mùa màng bội thu, dân chúng được ấm no hạnh phúc. Cũng tại khu vực đền Thượng, vua Hùng Vương thứ 6 đã lập bàn thờ Thánh Gióng để tưởng niệm người anh hùng làng Phù Đổng. Và sự tích Thục Phán dựng hai cột đá thề, khi được vua Hùng Vương thứ 18 nhường ngôi cho và hứa tiếp tục sự nghiệp của các vua Hùng. Cạnh đền có ngôi mộ nhỏ, cổ kính được gọi là mộ Tổ. Đây chính là phần mộ của Hùng Vương thứ 6, dân gian dựa vào lời dặn của nhà vua lúc băng hà rằng: "Hãy chôn ta trên núi Cả, để đứng trên núi cao ta còn trông nom bờ cõi cho con cháu muôn đời về sau". Từ đền Thượng, phóng tầm mắt về phía trước, khách chiêm ngưỡng 99 ngọn núi lớn nhỏ, hình bầy voi quỳ hướng về núi Mẹ – Nghĩa Lĩnh – uy nghiêm – riêng một con quay lưng lại, "ăn ở ra lòng riêng tư", đã bị mất đầu mãi mãi phải xa lìa bầy đàn, nguồn cội. Bài học bằng đá cho tới nay vẫn có giá trị nhắc nhở hậu thế về lòng hiếu nghĩa ở đời.

Trở xuống đền Hạ, chếch về phía Đông Nam là đền Giếng. Tục truyền rằng ở thời Hùng Vương thứ 18, có hai nàng công chúa tên là Tiên Dung và Ngọc Hoa, theo vua cha đi kinh lý qua đây thường hay đến giếng nước trong vắt chốn này để soi gương chải tóc. Cả hai nàng công chúa đều đẹp người, đẹp nết đã có công dạy dân trồng lúa, trồng dâu nuôi tằm, phát triển buôn bán trao đổi, đem lại cuộc sống ấm no hạnh phúc cho muôn dân trăm họ. Nên để tưởng nhớ ơn hai vị công chúa, nhân dân đã xây dựng ngôi đền Giếng để thờ tự cúng lễ.

Lễ hội đền Hùng là dịp giỗ tổ thiêng liêng. Bởi vì trong tâm thức của mỗi người dân đất Việt đều tự hào là dòng giống Lạc Hồng, con Rồng cháu Tiên. Để rồi cứ mỗi độ xuân về người Việt lại nô nức hành hương về đất Tổ để tưởng nhớ công lao to lớn trong sự nghiệp mở nước và dựng nước, khai sáng nền văn minh Lạc Việt và lập nên nước Văn Lang cổ đại.

Hội đền Hùng kéo dài từ mùng 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch, mà mùng 10 là chính hội. Cũng như mọi lễ hội khác ở đồng bằng Bắc Bộ, ở lễ hội đền Hùng gồm có 2 phần: Phần lễ và phần hội. Phần tế lễ được cử hành rất trọng thể mang tính quốc lễ. Lễ vật dâng cúng là "lễ tam sinh" (1 lợn, 1 dê và 1 bò), bánh chưng, bánh dày và xôi nhiều màu, nhạc khí là trống đồng cổ. Sau khi một hồi trống đồng vang lên, các vị chức sắc vào tế lễ dưới sự điều khiển của chủ lễ. Tiếp theo đến các cụ bô lão của làng xã sở tại quanh đền Hùng vào tế lễ. Sau cùng là nhân dân và du khách hành hương vào tế lễ trong các đền thờ, tưởng niệm các vua Hùng. Sau phần lễ là đến phần hội. Ở lễ hội đền Hùng năm nào cũng tổ chức cuộc thi kiệu của các làng xung quanh. Với sự xuất hiện của các đám rước linh đình mà không khí lễ hội trở nên tưng bừng náo nhiệt hơn. Các cỗ kiệu của các làng phải tập trung trước vài ngày thì mới kịp cuộc thi. Nếu như cỗ kiệu nào đoạt giải nhất của kỳ thi năm nay, thì đến kỳ hội sang năm được thay mặt các cỗ kiệu còn lại, rước lên đền Thượng để triều đình cử hành quốc lễ. Vì vậy, cỗ kiệu nào đoạt giải nhất thì đó là niềm tự hào và vinh dự lớn lao của dân làng ấy. Bởi họ cho rằng, đã được các vua Hùng cùng các vị thần linh phù hộ cho nhiều may mắn, nhân khang, vật thịnh… Tuy nhiên, để có được đám rước các cỗ kiệu đẹp lộng lẫy phải chuẩn bị rất công phu và chu đáo từ trước. Những khó khăn vất vả của dân làng đã thôi thúc họ vượt qua được để đến với cái linh thiêng cao thượng và hướng về Tổ tiên giống nòi. Đó là đời sống tâm linh của dân chúng, được biểu hiện rõ nét qua một hình thức sinh hoạt văn hóa, tín ngưỡng dân gian cổ truyền mang tính cộng cảm với cộng mệnh sâu sắc. Sinh hoạt văn hóa dân gian này đã thành nhu cầu không thể thiếu được đối với các cộng đồng làng xã cư trú quanh đền Hùng.

Mỗi một đám rước kiệu có 3 cỗ kiệu đi liền nhau. Được sơn son thiếp vàng, chạm trổ rất tinh xảo. Sự bày biện trang trí trên cỗ kiệu cũng rất khéo léo và đẹp mắt. Cỗ kiệu đi đầu bày hương hoa, đèn nhang, trầu cau, chén nước và bầu rượu. Cỗ kiệu thứ 2 có đặt hương án, bài vị của Thánh, có lọng và quạt với nhiều sắc màu trang hoàng tôn nghiêm. Cỗ thứ 3 rước bánh chưng và bánh dày, 1 cái thủ lợn luộc để nguyên, đi sau 3 cỗ kiệu này là các vị quan chức và bô lão trong làng. Các vị chức sắc thì mặc áo thụng theo kiểu các bá quan triều đình, còn các cụ bô lão cũng mặc áo thụng đỏ, hoặc mặc quần trắng, áo the, đầu đội khăn xếp. Trong hội đền Hùng, nhân ngày giỗ Tổ có tiến hành nghi lễ hát thờ (tục gọi là hát Xoan). Đây là một lễ thức rất quan trọng và độc đáo. Dân gian truyền rằng hát Xoan xưa kia gọi là hát Xuân và điệu múa hát Xoan có từ thời Hùng Vương và được lưu truyền rộng rãi trong dân cư của các làng xã quanh vùng. Điệu múa hát Xoan này được nhiều người ưa thích, đặc biệt là bà Lan Xuân, vợ của vua Lý Thần Tông. Bà đã cảm nhận được âm hưởng dân ca đặc biệt và độc đáo của nó, nên bà đã cho sưu tầm và cải biên thành điệu hát thờ tại một số đền, đình làng thờ các vua Hùng.

Ở đền Hạ có hát ca trù (gọi là hát nhà tơ, hát ả đào). Đây cũng là loại hát thờ trước cửa đình trong dịp hội làng, do phường hát Do Nghĩa trình diễn. Ngoài sân đền Hạ, ở nơi thoáng đãng có đu tiên. Mỗi bàn đều có hai cô tiên (cô gái Mường trẻ mặc đẹp) ngồi. Đu quay được là do các cô luân phiên lấy chân đạp đất. Đu tiên là trò chơi đẹp mắt, nhịp nhàng của phụ nữ. Xung quanh khu vực dưới chân núi Hùng là các trò diễn và trò chơi dân gian cổ truyền, diễn ra rất sôi động, được nhiều người tham dự như trò chơi ném côn, chơi đu, đấu vật, chọi gà,… Những trò đánh cờ người và tổ tôm điếm được các cụ cao niên tâm đắc. Còn các đám trai gái tụm năm, tụm ba trên các đồi đó trổ tài hát ví, hát trống quân hoặc hát đối đáp giao duyên…Tối đến có tổ chức hát chèo, hát tuồng ở các bãi rộng ngay cửa đền Hạ hoặc đền Giếng… Không khí ngày hội vừa trang nghiêm phấn khởi, vừa hào hứng sôi nổi đã làm rung động tâm khảm trái tim bao người đến dự hội.

Lễ hội Đền Hùng là phong tục đẹp trong truyền thống của người dân đất Việt. Và từ rất lâu đời trong tâm thức dân gian, vùng đất Tổ đã trở thành "Thánh địa linh thiêng" của cả nước, nơi phát nguyên nguồn gốc dân tộc. Trải qua bao thời đại lịch sử tuy có lúc thịnh, lúc suy nhưng lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức. Điều này đã thể hiện rõ bản lĩnh phi thường và nền văn hiến rực rỡ, đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Người dân hành hương về đất Tổ không hề có sự phân biệt tôn giáo, chỉ cần là người Việt Nam thì trong tâm khảm họ đều có quyền tự hào là con cháu muôn đời của vua Hùng. Bởi vậy, hễ ai là người Việt Nam nếu có sẵn tâm thành và lòng ham muốn hành hương về đất Tổ thì tự mình có thể thực hiện ước nguyện chính đáng đó một cách dễ dàng và thuận tiện.

Hội đền Hùng hay giỗ tổ Hùng Vương là ngày hội quần tụ, ca ngợi sự hưng thịnh của nòi giống, là biểu tượng của tinh thần cộng đồng. Người đến hội mang theo lòng ngưỡng mộ sâu đậm về quê cha đất tổ, một tín ngưỡng đã ăn sâu vào tâm thức người Việt Nam cho dù họ sống ở bất cứ phương trời nào.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 7

Katê là một trong những lễ hội quan trọng và mang đậm tính dân gian lớn nhất của người Chăm hiện nay. Thông thường Lễ hội Kate của người Chăm sẽ được tổ chức trong thời gian 3 ngày, thường sẽ được bắt đầu vào ngày 1/7 theo lịch Chăm (khoảng 25/9 đến 5/10 dương lịch) tại đền tháp Po Nagar, Tháp Po Klong Garai và tháp Po Rome.

Lễ hội Katê, Ninh Thuận được đánh giá là lễ hội dân gian đặc sắc nhất trong kho tàng văn hoá của cộng đồng người Chăm theo đạo Bàlamôn. Về bản chất, Lễ hội Katê tựa như Tết Nguyên đán của người Kinh. Trong dịp này, người Chăm sửa soạn nhà cửa, diện những bộ trang phục mới, tham gia lễ hội theo tín ngưỡng nhằm tưởng nhớ các vị thần, ông bà, tổ tiên; thăm hỏi trong gia đình, cộng đồng, chúc nhau những lời tốt lành.

Lễ hội Kate của người Chăm ở khu vực Ninh Thuận hằng năm được khai diễn vào ngày 1.7 Chăm lịch, thường vào cuối tháng 9 đầu tháng 10 dương lịch. Đây là lễ hội lớn kéo dài trong 3 ngày, với nhiều hoạt động văn hóa văn nghệ truyền thống đặc sắc của đồng bào Chăm Ninh Thuận.

Theo truyền thuyết, trong “gia đình Champa xưa” thì người Chăm là chị cả, người Raglai là em út. Em gái út trong gia đình mẫu hệ Chăm sẽ là người cất giữ đồ gia bảo của tổ tiên, vì vậy y phục của các vị thần của người Chăm do người Raglai cất giữ.

Ngày đầu tiên của lễ Kate là ngày mà người Raglai rước y phục của các vị thần trở về làng của người Chăm ở khu vực có đền thờ của vị thần đó. Buổi lễ rước và lễ đón y phục của người Chăm diễn ra rất trang trọng, với những hoạt động văn nghệ truyền thống Chăm đặc sắc tại làng Hữu Đức.

Ngày thứ hai là ngày đặc sắc nhất của lễ hội diễn ra tại Tháp Po Klong Garai. Với nghi thức: rước y phục của vị thần lên tháp, lễ mở cửa tháp, tiến hành tắm rửa cho tượng thần, khoác y phục cho tượng thần, cùng các đại lễ truyền thống khác.

Ngày này, những người Chăm địa phương và các vùng lân cận (không có đền tháp) đều tìm về đền tháp, trong những bộ trang phục lễ hội truyền thống đẹp nhất của mình, sắm sửa lễ vật cúng dâng các thần để cầu mong những điều tốt đẹp.

Ngày thứ ba là phần lễ hội ở các làng, các gia đình. Mọi thành viên trong gia đình quây quần bên nhau, cùng cầu mong cho tổ tiên, thần linh phù hộ để con cháu làm ăn phát đạt, gặp nhiều may mắn.

Với các hoạt động lễ hội diễn ra trên các đền tháp cổ kính, lễ Kate đã thu hút rất đông du khách khắp nơi về dự, và ngày nay đã trở thành một lễ hội lớn nhất trong năm của người Chăm.

Tồn tại cùng với thời gian, ngày nay lễ hội Ka Tê không chỉ là Di sản văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia mà còn là ngày hội văn hóa ý nghĩa đối với bà con dân tộc Chăm và các dân tộc anh em Kinh, Chăm, Raglai ở Ninh Thuận.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 8

Thưa cô và các bạn, tôi là Nguyễn Hải Ninh. Trong buổi thực hành nói và nghe hôm nay, tôi xin được trình bày về lễ hội Đền Hùng. Mong cô và các bạn lắng nghe!

Chắc hẳn mỗi người chúng ta đều quen thuộc với câu tục ngữ: 'Dù ai đi ngược về xuôi/ Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng Ba'. Tục ngữ này đã gợi nhớ về nguồn gốc của dân tộc. Như mọi người đã biết, ngày giỗ Tổ Hùng Vương là dịp lễ trọng đại của dân tộc. Đây không chỉ là thời điểm để người Việt nhớ về gốc rễ mình mà còn là cơ hội để mỗi người bày tỏ lòng biết ơn đối với các thế hệ tiền bối đã cống hiến xây dựng và bảo vệ tổ quốc.

Lễ hội Đền Hùng diễn ra từ ngày mồng 1 đến mồng 10 tháng ba hàng năm tại núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Lễ hội được chia thành hai phần chính gồm: phần lễ và phần hội.

Trước hết, lễ giỗ vua Hùng và lễ dâng hương tưởng niệm Tổ Mẫu u Cơ sẽ được tổ chức vào ngày mồng 6 tháng ba âm lịch. Đến ngày mồng 10, ngày chính của lễ hội, người dân sẽ tiến hành lễ rước kiệu và dâng hương trên đền Thượng. Rước kiệu vua xuất phát từ dưới chân núi, đi qua lần lượt các đền rồi kết thúc tại đền Thượng, nơi diễn ra lễ dâng hương. Trong lễ dâng hương, người dân sẽ dâng lễ vật lên ban thờ các vị vua để thể hiện lòng thành của mình.

Sau các nghi lễ, có rất nhiều hoạt động sôi nổi, thú vị diễn ra như đánh trống đồng, đâm đuống tại khu vực nhà Công Quán, trình diễn Hát Xoan làng cổ, trình diễn múa rối nước. Một số hội thi và trò chơi dân gian được tổ chức càng làm cho bầu không khí của buổi lễ thêm phần náo nhiệt, tươi vui hơn, có thể kể đến như hội thi gói, nấu bánh chưng và giã bánh giầy, giải bơi chải trên hồ công viên Văn Lang,... Đây đều là những hoạt động được người dân và du khách mong chờ, tham gia, hưởng ứng.

Vì thế, lễ hội Đền Hùng đã trở thành biểu tượng văn hóa của dân tộc Việt Nam, mang giá trị văn hóa tâm linh sâu sắc, thể hiện triết lí 'uống nước nhớ nguồn' và tinh thần đoàn kết, gắn bó của toàn thể dân tộc Việt Nam.

Phần thuyết trình của tôi kết thúc ở đây. Tôi cảm ơn quý thầy cô và các bạn đã dành thời gian lắng nghe! Tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp từ quý thầy cô và các bạn để bài thuyết trình của tôi ngày càng hoàn thiện hơn!

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 9

Lễ hội Katê, một trong những lễ hội truyền thống lớn nhất của người Chăm hiện nay, không chỉ là dịp quan trọng mà còn là di sản văn hóa đặc sắc, được tổ chức tại các đền tháp Po Nagar, Po Klong Garai và Po Rome trong thời gian kéo dài 3 ngày, bắt đầu từ ngày 1/7 theo lịch Chăm (tương đương khoảng từ ngày 25/9 đến 5/10 dương lịch).

Lễ hội Katê tại Ninh Thuận được coi là ngôi sao sáng nhất trong kho tàng văn hóa của cộng đồng Chăm theo đạo Bàlamôn. Tương tự như Tết Nguyên đán của người Kinh, Katê là dịp mà người Chăm tập trung sửa soạn nhà cửa, mặc những bộ trang phục mới, và tham gia các nghi lễ tín ngưỡng nhằm tưởng nhớ các vị thần, tổ tiên, ông bà. Họ còn dành thời gian thăm hỏi trong gia đình và cộng đồng, chia sẻ những lời chúc tốt lành.

Lễ hội Kate ở Ninh Thuận, diễn ra hàng năm vào ngày 1.7 theo lịch Chăm, thường từ cuối tháng 9 đến đầu tháng 10 dương lịch, kéo dài trong 3 ngày với nhiều hoạt động văn hóa và nghệ thuật truyền thống của người Chăm Ninh Thuận. Trong bối cảnh "gia đình Champa xưa", người Chăm được coi là chị cả, còn người Raglai là em út, với trách nhiệm cất giữ đồ gia bảo của tổ tiên của mình.

Ngày đầu tiên của lễ hội là dịp người Raglai rước y phục của các vị thần về làng của người Chăm, diễn ra tại các đền thờ của vị thần đó. Lễ rước và lễ đón y phục diễn ra trang trọng tại làng Hữu Đức, với những hoạt động văn nghệ truyền thống.

Ngày thứ hai là ngày đặc sắc nhất tại Tháp Po Klong Garai, với nghi thức rước y phục lên tháp, lễ mở cửa tháp, tắm rửa và khoác y cho tượng thần, cùng các đại lễ truyền thống khác. Ngày này, người Chăm và từ các vùng lân cận hội tụ tại đền tháp, mỗi người trong bộ trang phục lễ hội, mang theo lễ vật cúng dâng để cầu mong điều tốt lành.

Ngày thứ ba, lễ hội lan tỏa đến các làng và gia đình, khi mọi thành viên trong gia đình cùng nhau quây quần, cầu nguyện cho sự phát đạt, may mắn dưới sự phù hộ của tổ tiên và thần linh.

Với những hoạt động trên các đền tháp cổ kính, lễ hội Kate thu hút đông đảo du khách và đã trở thành một sự kiện lớn nhất trong năm của người Chăm. Không chỉ là di sản văn hóa cấp Quốc gia, lễ hội này còn mang ý nghĩa lớn trong việc duy trì và phát triển văn hóa của bà con dân tộc Chăm và các dân tộc anh em Kinh, Raglai ở Ninh Thuận.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 10

Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba

Từ xưa đến nay câu ca dao đã nhắc nhở biết bao đời con cháu Vua Hùng giữ vững truyền thống uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây. Chính vì vậy cứ đến ngày 10/3 âm lịch hàng năm người dân trên cẩ nước lại một lòng hướng về ngày lễ hội đền Hùng cũng như tưởng nhớ công ơn dựng nước của các vua Hùng.

Giỗ Tổ Hùng Vương hay còn được gọi là lễ hội đền Hùng là một trong những dịp lễ hội truyền thống quan trọng nhất trong năm của người Việt để bày tỏ sự tri ân, tưởng nhớ công lao dựng nước và bảo vệ đất nước của các vị Hùng Vương – Văn Lang ngày xưa. Lễ hội được tổ chức vào ngày mùng mười tháng ba âm lịch, với các nghi thức truyền thống được tổ chức tại đền Hùng, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ.

Từ nhiều đời nay, trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, đã luôn hướng tới một điểm tựa của tinh thần văn hoá – đó là lễ hội Đền Hùng và Giỗ Tổ Hùng Vương, được tổ chức vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Giỗ Tổ Hùng Vương – từ rất lâu đã trở thành ngày Giỗ trọng đại của cả dân tộc, đã in đậm trong cõi tâm linh của mỗi người dân đất Việt. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ, đều hướng về vùng đít Cội nguồn – xã Hy Cương – Lâm Thao – Phú Thọ. Nơi đây chính là điểm hội tụ văn hóa tâm linh của dân tộc Việt Nam.

Đền Hùng là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam may mắn khi có chung một Tổ để hướng về, có chung một miền Đất Tổ để nhớ, có chung một đền thờ Tổ để tri ân. Ngày nay hàng năm, lễ hội Giỗ Tổ vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên, Giỗ Tổ Hùng Vương – Lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống yêu nước “Uống nước nhớ nguồn”, biết ơn sâu sắc các Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.

Tiếp nối truyền thống vốn có, phần lễ trước tiên bao gồm các nghi thức cúng Tổ, dâng hương và hoa của các đoàn đại biểu sẽ được tổ chức bên trong đền Thượng. Khác với thời xưa khi mỗi làng đều phải rước kiệu của mình để về giỗ Tổ, ngày nay, kiệu của Giỗ Tổ chỉ có một và được ban tổ chức lễ hội rước ra từ chiều ngày mùng chín đặt ở dưới chân núi. Sau đó, các đoàn đại biểu cùng vòng hoa kính viếng sẽ theo sau đội khiêng kiệu lần lượt vào đền trong tiếng nhạc bát âm. Như truyền thống vào những năm chẵn khoảng năm năm, lễ Giỗ Tổ sẽ được tổ chức theo nghi thức quốc gia, còn những năm khác đều do tỉnh ủy tỉnh Phú Thọ chỉ đạo tổ chức. Khi kiệu được rước đến trước thềm của điện Kính Tiêu, một vị đại biểu lãnh đạo sẽ thay mặt cho nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Những nghi lễ trang nghiêm này sẽ được ghi hình và phát trực tiếp cho đồng bào trên khắp thế giới có thể theo dõi cùng. Sau lễ đọc chúc văn và làm lễ của đoàn đại biểu, các đồng bào cũng tham gia dâng lễ tế tổ tiên, các vị vua Hùng để cầu xin về một năm mới may mắn và làm ăn phát đạt.

Tiếp theo sau khi những nghi thức truyền thống đã kết thúc, ban tổ chức lễ hội cũng tổ chức thêm phần hội bao gồm các trò chơi dân gian và văn nghệ ở phía dưới chân đền. Cùng với đó là các hoạt động thể thao, văn hóa cũng diễn ra vô cùng sôi nổi và phong phú. Thêm vào đó, mỗi năm, ban tổ chức sẽ mở ra các trò chơi mới như thi gói bánh chưng, thi nấu cơm, để dâng lên vua Hùng cùng với lòng thành kính, bày tỏ sự biết ơn đối các vị vua đã tạo nên một phong tục đẹp. Bên cạnh các trò chơi dân gian là các đoàn hát nghệ thuật cũng góp vui, mang đến nhiều không khí lễ hội tưng bừng đầy phấn khởi.

Thông qua ngày giỗ Tổ, Tổ tiên ta còn có hoài bão muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước an dân. Mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, Đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần dân tộc, là cội nguồn của sức mạnh, niềm tin, chói sáng của một nền văn hóa.

Không chỉ người Việt chúng ta tự hào về Đền Hùng và ngày giỗ Tổ , mà tìm vào những dòng lưu bút của các đoàn đại biểu quốc tế và bạn bè khắp năm châu bốn biển từng đến thăm viếng Đền Hùng, chúng ta thật sự xúc động khi được biết Đền Hùng và các di tích trên Nghĩa Lĩnh đã làm cho cả thế giới phải cúi đầu vị nể ý thức cội nguồn dân tộc của chúng ta. Nhiều dòng lưu bút thừa nhận. “Đền Hùng là nơi đặt nền móng cho lịch sử Việt Nam.

Dòng sông lịch sử vẫn luôn cuồn cuộn chảy suốt bốn ngàn năm qua cùng dân tộc Việt Nam. Thế nhưng, trải qua bao thăng trầm, biến động ấy, lễ hội Đền Hùng – Giỗ Tổ Hùng Vương vẫn là một lễ hội tâm linh, tín ngưỡng quan trọng bậc nhất của người Việt. Từ truyền thống tốt đẹp đã được giữ gìn hàng trăm năm ấy, chúng ta những con người của thế hệ sau phải biết cố gắng kế thừa và phát huy hơn những truyền thống tốt đẹp như thế này của dân tộc. Con cháu dân tộc ta, dù có ở bất cứ đâu, cứ tới ngày mùng mười tháng ba âm lịch sẽ nhắc cho nhau về ngày giỗ Tổ của một dân tộc ngàn năm văn hiến với truyền thống dựng nước và giữ nước vững bền.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 11

Lễ hội đền Hùng giỗ tổ Hùng Vương (được tổ chức ngày mồng mười tháng ba hàng năm) từ lâu đã trở thành một tục lệ trong đời sống tinh thần của người Việt Nam, một điểm tựa của tinh thần văn hoá. Giỗ Tổ Hùng Vương từ rất lâu đã trở thành ngày lễ hội trọng đại của cả dân tộc. Dù ở phương trời nào, người Việt Nam đều nhớ ngày giỗ Tổ mà hướng về vùng đất Phú Thọ. Từ các triều đại phong kiến Việt Nam, Đinh Lý Trần Lê, Đền Hùng đã là nơi tưởng nhớ, tôn vinh công lao các Vua Hùng, là biểu tượng của khối đại đoàn kết dân tộc ta.

Ngày 10/3 hàng năm, lễ hội đền Hùng vẫn được tổ chức theo truyền thống văn hoá của dân tộc. Không chỉ để tưởng nhớ tổ tiên cội nguồn, lễ hội Đền Hùng còn nhằm giáo dục truyền thống "Uống nước nhớ nguồn", ghi nhớ mười tám vị Vua Hùng đã có công dựng nước và lớp lớp các bậc tiền nhân kiên cường chống giặc ngoại xâm giữ nước.

Lễ hội đền Hùng được diễn ra vào ngày mồng mười tháng ba:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba”

Từ thuở xưa lễ hội đền Hùng đã có một đặc thù riêng là phần lễ nặng hơn phần hội. Người về dự hội là hướng về tổ tiên với sự tôn kính và lòng biết ơn sâu sắc (Uống nước nhớ nguồn). Phần hội chỉ là phần phụ để không khí thêm vui tươi, náo nhiệt trong ngày này.

Phần lễ gồm tế lễ của triều đình sau đó là phần lễ của dân. 41 làng thuộc tỉnh Phú Thọ được rước kiệu từ đình làng mình đến Đền Hùng. Các kiệu đều được sơn son thếp vàng, chạm trổ đẹp mắt, được rước đi trong không khí vừa trang nghiêm vừa vui vẻ với tiếng chiêng, trống, nhạc bát âm rộn rã một vùng. Phần hội gồm các trò chơi dân gian như đánh vật, ném còn, cờ người, bắn cung nỏ… và đặc biệt nhất là các đêm hát xoan, hát ghẹo – hai làn điệu dân ca độc đáo riêng ở Châu Phong.

Vào những năm chẵn (5 năm một lần), giỗ Tổ được tổ chức theo đúng nghi lễ quốc gia, năm lẻ do tỉnh Phú Thọ tổ chức. Dù năm chẵn hay lẻ lễ hội Giỗ Tổ vẫn rất chặt chẽ, bao gồm hai phần lễ và hội.

Có lẽ không một dân tộc nào trên thế giới có chung một ngày giỗ Tổ như dân tộc ta. Từ huyền thoại Âu Cơ và Lạc Long Quân đẻ ra trăm trứng, nửa theo Cha xuống biển, nửa theo mẹ lên rừng đã khơi dậy ý thức về dân tộc và gắn kết chúng ta thành một khối đại đoàn kết. Vì thế mà hai chữ đồng bào là khởi nguồn của yêu thương, đùm bọc, của sức mạnh Việt Nam.

Phần lễ được tổ chức trang nghiêm trong các đền, chùa trên núi Hùng. Nghi thức dâng hương, dâng hoa của các đoàn đại biểu của Đảng, Chính phủ, các địa phương trong toàn quốc,… được tổ chức trang nghiêm và long trọng tại đền Thượng. Từ chiều ngày mồng 9, làng được Ban tổ chức lễ hội cho phép rước kiệu dâng lễ đã tập trung đông đủ tại nhà bảo tàng dưới chân núi, trên kiệu đặt lễ vật. Sáng mồng 10, các đoàn đại biểu tập trung ở thành phố Việt Trì, xe tiểu binh rước vòng hoa dẫn đầu, diễu hành đến chân núi Hùng.

Tới trước thềm của "Điện Kính Thiên”, đoàn đại biểu kính cẩn dâng lễ vào thượng cung đền Thượng. Nguyên thủ quốc gia hoặc đại biểu đại diện Bộ Văn hoá, thay mặt cho tỉnh và nhân dân cả nước đọc chúc văn lễ Tổ. Toàn bộ nghi thức hành lễ được báo chí, truyền hình đưa tin hoặc tường thuật trực tiếp để đồng bào cả nước theo dõi lễ hội. Người đi lễ dâng lễ trong các đền, chùa trên núi, ai cũng có tâm nguyện cầu mong tổ tiên phù hộ độ trì cho con cháu.

Lễ hội ngày nay có nhiều hình thức diễn ra văn hoá hoá xưa. Các hình thức văn hoá được đan xen giữa truyền thống và hiện đại. Trong khu vực diễn ra hội, nhiều cửa hàng bán đồ lưu niệm, văn hoá phẩm, các cửa hàng dịch vụ ăn uống, các khu văn hóa, thể thao,… được duy trì trong nhiều năm nay.

Các trò chơi văn hoá dân gian được duy trì đến ngày nay như: đu quay, đấu vật, chọi gà, kéo lửa, nấu cơm thi, đánh cờ tướng (cờ người)… Bên cạnh đó là sân khấu của các đoàn nghệ dân chuyên nghiệp: chèo, hát quan họ, kịch nói,… Đây chính là nơi để thi tuyển và giao lưu văn hoá giữa các vùng. Những làn điệu hát Xoan – Ghẹo với lời ca tinh tế mượt mà đã đem tới cho lễ hội một nét đặc trưng, thấm đượm văn hoá vùng đất Phú Thọ.

Thông qua lễ hội đền Hùng, tổ tiên ta còn muốn nhắc nhở hậu thế những kế sách giữ nước, yên dân. Suốt mấy nghìn năm trông coi và gìn giữ, đánh giặc và dựng xây, lễ hội đền Hùng đã trở thành biểu tượng của tinh thần, là cội nguồn của sức mạnh, chói sáng của một nền văn hóa.

Trải qua hàng nghìn năm, bao biến động thăng trầm, Đền Hùng và ngày giỗ Tổ mồng mười tháng ba âm lịch vẫn là điểm sáng của bốn phương tụ hội, nơi con cháu lưu công đức Tổ tiên, là biểu tượng của dân tộc và văn hóa Việt Nam – một dân tộc đã có truyền thống dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm.

Thuyết trình về lễ hội Đền Hùng hoặc lễ hội Ka-tê - Mẫu 12

Đền Hùng biểu tượng lịch sử của dân tộc Việt Nam, khu di tích lịch sử Đền Hùng là nơi thờ phụng các Vua Hùng những người có công dựng nước từ xa xưa. Giỗ Tổ mồng 10 tháng 3 trở thành ngày lễ trọng đại của dân tộc.

Đền Hùng xây dựng trên núi Nghĩa Lĩnh, hiện nay thuộc Hy Cương, Việt Trì, Phú Thọ. Nơi đây là tập hợp lăng tẩm, miếu, thờ các vua Hùng. Nếu du khách đi từ chân núi sẽ bắt đầu khám phá nơi thấp nhất đó là đền Hạ – nơi đây theo dân gian tương truyền mẹ Âu Cơ đẻ ra bọc trứng, nửa còn lại theo cha số còn lại theo mẹ. Tiếp đến du khách sẽ được khám phá đền Trung địa điểm thường tổ chức các cuộc hội họp bàn các vấn đề quốc gia của vua Hùng thử xưa, qua đền Trung sẽ đến đền Thượng nơi thờ vua Hùng thứ 6 đây chính là vị trí cao nhất.

Mỗi năm ngày giỗ tổ Hùng Vương được tổ chức rất linh đình theo nghi thức quốc gia, Giỗ Tổ bao gồm có 2 phần riêng biệt đó là phần lễ và phần hội. Lễ Rước Kiệu với các đền, chùa trên núi, các vị lãnh đạo của đất nước dâng hương lên vua Hùng tổ chức tại đền Thượng. Các nghi thức tổ chức, dâng hương sẽ được tổ chức long trọng, thành kính và sẽ được báo chí, phát thanh truyền hình đưa tin. Đồng bào trong cả nước được dâng lễ trong các đền, chùa, với sự thành kính và cầu mong yên bình, làm ăn thành công.

Bên cạnh đó phải nhắc đến lễ Dâng Hương các đền, chùa trên núi. Lễ hội còn giúp người dân tham gia sinh hoạt văn hoá cổ xưa. Người dân sẽ được xem các trò chơi như đấu vật, chọi gà, rước kiệu, đánh cờ người…. Còn có sân khấu riêng của các đoàn nghệ thuật: chèo, kịch nói, hát quan họ,… Các nghệ sĩ, nghệ nhân từ nhiều nơi về đây để trình diễn những làn điệu hát xoan mượt mà, đặc sắc mang đến cho cho lễ hội đền Hùng đặc trưng riêng của Đất Tổ.

Những người đến đây không chỉ là xem lễ hội mà còn thể hiện sự tâm linh, thành kính với quê hương đất Tổ, ai cũng biết đây là nơi gốc gác linh thiêng,cội nguồn của dân tộc. Hàng năm, cứ đến mùng 10 tháng 3, người dân và du khách tham gia trẩy hội đền Hùng, đây là nét đẹp truyền thống của dân tộc Việt Nam. Lễ hội rất linh thiêng và thể hiện sự biết ơn công lao dựng nước và giữ nước của các vua Hùng.

Xem thêm lời giải soạn văn lớp 10 Cánh diều hay, chi tiết khác:

Đánh giá

0

0 đánh giá