TOP 10 bài Thuyết trình về Người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài

270

Tailieumoi.vn xin giới thiệu bài văn mẫu Thuyết trình về Người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài Ngữ văn 12 Chân trời sáng tạo, gồm dàn ý và các bài văn phân tích mẫu hay nhất giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo từ đó học cách viết văn hay hơn.

Thuyết trình về Người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài

Đề bài: Thuyết trình về một vấn đề liên quan đến cơ hội và thách thức của đất nước - Người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài.

TOP 10 bài Thuyết trình về Người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài (ảnh 1)

Thuyết trình về Người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài - Mẫu 1

Xin chào thầy cô và các bạn. Sau đây em xin trình bày về vấn đề người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài.

Trước sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin và sự toàn cầu hóa ngày càng gia tăng, người trẻ ngày nay đang đối mặt với một thử thách lớn: làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài. Những yếu tố văn hóa này, từ âm nhạc, phim ảnh, thời trang đến phong cách sống và giá trị, đang lan tràn vào cuộc sống hàng ngày của chúng ta. Dưới đây là những suy nghĩ và góc nhìn của tôi về vấn đề này.

I. Tính chất của làn sóng văn hóa du nhập

Làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài mang lại sự đa dạng và phong phú cho văn hóa của mỗi quốc gia. Những yếu tố này thường được phát triển và lan truyền từ các nền văn hóa mạnh mẽ, có ảnh hưởng to lớn đến toàn cầu như Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản, và nhiều nơi khác. Các sản phẩm văn hóa như phim truyền hình, âm nhạc pop, thời trang và phong cách sống từ các nước này nhanh chóng thu hút sự quan tâm và tiếp nhận của giới trẻ toàn cầu, bao gồm cả Việt Nam.

II. Thách thức mà người trẻ đang phải đối diện

1. Tiêu thụ một cách không cân nhắc: Người trẻ dễ dàng tiếp nhận và tiêu thụ các sản phẩm văn hóa nước ngoài mà không có sự lựa chọn hay suy nghĩ cân nhắc. Điều này có thể dẫn đến việc mất đi sự đa dạng và đặc trưng văn hóa của dân tộc mình.

2. Ảnh hưởng đến giá trị truyền thống: Sự lan truyền nhanh chóng của văn hóa ngoại nhập có thể đe dọa và làm suy yếu các giá trị truyền thống, đạo đức, và văn hóa cốt lõi mà từ lâu đã là kim chỉ nam cho sự phát triển của dân tộc.

3. Không đồng nhất trong giáo dục và giá trị: Việc tiếp nhận quá nhiều văn hóa từ bên ngoài có thể gây nên sự mất cân bằng giữa giáo dục và các giá trị truyền thống. Điều này có thể dẫn đến một sự rạn nứt về nhận thức và giá trị của thế hệ trẻ.

III. Giải pháp và hành động cần thiết

1. Giáo dục và nâng cao nhận thức: Giáo dục là chìa khóa để giải quyết vấn đề này. Chương trình giáo dục cần có sự cân bằng giữa việc giới thiệu và bảo tồn văn hóa dân tộc cùng với việc tiếp nhận văn hóa từ bên ngoài. Người trẻ cần được khuyến khích hiểu rõ giá trị của văn hóa dân tộc và ý nghĩa của việc bảo tồn nó.

2. Khuyến khích sáng tạo và đổi mới: Thay vì chỉ tiếp nhận, người trẻ cần được khuyến khích sáng tạo và đổi mới trên cơ sở các giá trị văn hóa cốt lõi của dân tộc. Họ có thể phát triển những sản phẩm văn hóa mới mẻ, phù hợp với xu hướng hiện đại nhưng vẫn mang dấu ấn riêng của văn hóa Việt Nam.

3. Hỗ trợ và khuyến khích các hoạt động văn hóa trong cộng đồng: Các tổ chức, cơ quan có thể tổ chức các hoạt động văn hóa như hội thảo, triển lãm, festival văn hóa để khuyến khích người trẻ tham gia và trải nghiệm những giá trị văn hóa truyền thống.

Kết luận, vấn đề người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài là một thử thách nhưng cũng là cơ hội để chúng ta phát triển một cách bền vững. Qua việc giáo dục, khuyến khích sáng tạo và hỗ trợ các hoạt động văn hóa, chúng ta có thể giữ gìn và phát huy được vẻ đẹp của văn hóa dân tộc Việt Nam trong bối cảnh hội nhập toàn cầu ngày nay.

Phần trình bày của em đến đây là kết thúc. Cảm ơn thầy cô và các bạn đã lắng nghe.

Thuyết trình về Người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài - Mẫu 2

Những yếu tố văn hóa nước ngoài đã làm phong phú, đa dạng thêm văn hóa nước nhà, đồng thời góp phần xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, hiện đại. Tuy nhiên, có rất nhiều thách thức đặt ra đối với nền văn hóa Việt Nam trong quá trình tiếp thu, chịu ảnh hưởng của văn hóa nước ngoài giai đoạn hiện nay.

Thách thức trong quá trình giao lưu văn hóa

Lịch sử văn hóa Việt Nam đã trải qua 3 lần tiếp biến. Lần thứ nhất là thời kỳ tiếp nhận văn hóa Ấn Độ, Trung Quốc... trong thời cổ, trung đại để làm giàu thêm văn hóa bản địa. Những yếu tố văn hóa nước ngoài thời kỳ này có ảnh hưởng khá sâu sắc, toàn diện theo 2 con đường: cưỡng bức và hòa bình. Dù theo con đường nào, chúng ta vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc và tiếp thu những tinh hoa văn hóa ngoại nhập làm giàu có và phong phú thêm văn hóa dân tộc. Lần thứ hai là từ nửa sau thế kỷ XIX đến năm 1945, chủ yếu là ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Đây là cuộc “ép duyên” văn hóa Đông - Tây, song cũng là một tất yếu lịch sử của quá trình giao lưu và tiếp biến văn hóa. Sau khi cơ bản bình định xong các phong trào yêu nước, chính quyền thực dân Pháp ồ ạt du nhập văn hóa chính quốc vào thuộc địa với những ý đồ có lợi cho chủ nghĩa thực dân. Sự du nhập này, lập tức bị nền văn hóa bản địa phản kháng mạnh mẽ như một lẽ tự nhiên. Song, cũng có không ít tinh hoa của văn hóa phương Tây đã được chúng ta tiếp thu. Lần thứ ba là từ sau chiến tranh thế giới thứ hai đến nay. Luồng văn hóa từ phương Tây vào Việt Nam góp phần làm thay đổi diện mạo văn hóa nước nhà. Những năm gần đây, văn hóa nước ngoài đã và đang xâm nhập một cách ồ ạt vào Việt Nam. Chủ thể đón nhận những làn sóng văn hóa ngoại nhập một cách hồ hởi nhất chủ yếu là tầng lớp trẻ - thế hệ tương lai của đất nước. Việc tiếp thu văn hóa nước ngoài một cách thụ động, thiếu chọn lọc, thiếu “gạn đục khơi trong” đang để lại những hậu quả khó lường. Bản chất của văn hóa là hướng tới chân - thiện - mỹ, ngày càng toàn diện và có tính quốc tế hơn. Song trong quá trình lịch sử của mình, văn hóa còn có những “bước lùi”, mà một trong những “bước lùi” đó chính là mặt trái của quá trình tiếp nhận văn hóa nước ngoài, là nhận thức và thái độ chưa đúng của giới trẻ đối với văn hóa truyền thống.

Trên mặt trận tư tưởng, điều tai hại nhất là những thế lực thù địch sử dụng các tác nhân văn hóa, văn nghệ có nội dung xấu với âm mưu, thủ đoạn bôi nhọ chế độ, phá hoại cách mạng… thông qua hệ thống in-tơ-nét và các phương tiện truyền thông đại chúng hiện đại, khiến một số người do thiếu bản lĩnh, thiếu trình độ nên chịu ảnh hưởng không nhỏ của những tư tưởng độc hại. An ninh chính trị, an ninh văn hóa đang đặt ra những vấn đề cấp bách. Nhiều quan điểm sai trái, phản động, trong đó có quan điểm sai trái trong văn học - nghệ thuật, trong đời sống chính trị sẽ dẫn đến những hậu quả vô cùng tai hại.

Trên lĩnh vực văn học nghệ thuật, xu hướng tách văn học nghệ thuật khỏi xã hội, xa rời cuộc sống, xa rời chính trị là biểu hiện biến thái mới của quan niệm “nghệ thuật vị nghệ thuật” lỗi thời. Xu hướng “tự cởi trói”, tự do trong lựa chọn khuynh hướng, trường phái sáng tác từ lâu đã trở nên quen thuộc ở phương Tây. Khi vào Việt Nam, một mặt, nó cho phép nhiều năng khiếu trở thành tài năng, thỏa mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của công chúng nghệ thuật; mặt khác lại hạ thấp những thành tựu văn nghệ cách mạng, làm rạn vỡ và thu hẹp đội ngũ công chúng, hình thành một thị hiếu, một lối sống, một hệ tư tưởng chối bỏ dân tộc, sùng ngoại, chạy theo những giá trị tiêu cực trong văn hóa ngoại lai. Chịu ảnh hưởng của những tư tưởng phản động nước ngoài, nhiều nhà văn đã nói và viết không đúng sự thật, không đúng bản chất của hiện thực, thậm chí xuyên tạc hình ảnh của Đảng, bản chất cuộc chiến tranh chính nghĩa của dân tộc ta hoặc ngợi ca, đề cao những tác phẩm đi ngược lại với những chuẩn mực, giá trị văn hóa chân chính của dân tộc...

Trong lối sống của nhiều bạn trẻ ngày nay thể hiện rất rõ những vấn đề tiêu cực trong quá trình tiếp thu văn hóa nước ngoài. Đối với hôn nhân, truyền thống tốt đẹp của dân tộc là đề cao trinh tiết của người phụ nữ, cái tình đi đôi với cái nghĩa, tình có thể hết nhưng nghĩa thì bền chặt... Còn bây giờ, giới trẻ đang dậy lên những trào lưu như “sống thử”, “sống gấp”... Bên cạnh đó, thói quen tiêu xài hoang phí và theo đuổi những lợi ích vật chất, lối sống thực dụng là nét không đặc trưng cho con người Việt Nam cần, kiệm. Nhiều bạn trẻ lười học tập, lười lao động lại muốn mau chóng nổi tiếng nên tự tạo “xì-căng-đan” cho mình. Tiêu chuẩn về vẻ đẹp của người phụ nữ phương Đông truyền thống là “công, dung, ngôn, hạnh” bị biến dạng, nhường chỗ cho sự táo bạo, phô trương, thậm chí thác loạn... Có ý kiến cho rằng, một số thanh, thiếu niên không nhận thức đầy đủ về văn hóa thẩm mỹ của dân tộc, dẫn đến thị hiếu sai lệch, lệch chuẩn về giá trị đạo đức.

Trong lĩnh vực giải trí, giới trẻ đang bị cuốn hút và mải mê chạy theo những trào lưu du nhập từ nước ngoài, thậm chí vấn đề đã lên đến mức báo động. Sức trẻ cộng với tâm lý thích khám phá những điều mới lạ, bắt kịp các trào lưu đang thịnh hành trên thế giới, như: manga (truyện tranh Nhật Bản), anime (phim hoạt hình Nhật Bản), thời trang Kawaii (Nhật Bản), thời trang Hàn Quốc... Nhiều bạn trẻ không ngại ngần chạy theo cả những trào lưu độc dị khiến chúng ta không khỏi giật mình, như hát cùng dao kéo, chụp ảnh quái đản, “hot boy” giả gái, nuôi thú độc...

Trong lĩnh vực thương mại, hàng hóa nước ngoài tràn ngập thị trường Việt Nam, từ bánh kẹo, sữa, rượu, thuốc lá, thuốc tây cho đến hàng gia dụng, điện tử, ô tô, xe máy,... lấn át thị trường hàng nội và lại được người dân ưa chuộng với tâm lý sùng ngoại. Nó góp phần trực tiếp hoặc gián tiếp làm thay đổi bộ mặt văn hóa trong mỗi gia đình Việt trên tất cả các phương diện. Tuy nhiên, không phải thứ hàng ngoại nào cũng tốt. Nhiều thứ chứa “độc tố” đang xâm hại sức khỏe nhân dân ta theo đúng nghĩa đen, đồng thời cũng làm tổn hại “sức khỏe tinh thần” của mọi người.

Một thực trạng nữa, đó là sự mai một các giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình hội nhập, mở cửa giao lưu với văn hóa nước ngoài. Nét đẹp ru con bằng những câu ca dao đã thưa vắng dần. Ca dao, tục ngữ... vốn là kho tàng quý báu của quần chúng nhân dân, là những bài học về đối nhân xử thế, bài học làm người nuôi dưỡng tâm hồn từ thơ bé, hướng con người tới chân - thiện - mỹ đã và đang mai một dần trong đời sống tinh thần. Nghề truyền thống dệt thổ cẩm ở một số nơi, một số dân tộc thiểu số đang mất dần.

Văn hóa trang phục hiện nay ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số cũng bị mai một, nhất là trong giới trẻ. Họ chỉ thích mặc âu phục, quần bò, áo phông hơn là mặc trang phục truyền thống tự dệt, tự may. Trong âm nhạc cũng vậy, ở Tây Nguyên, số người biết chơi, biết chỉnh cồng, chiêng chủ yếu là các cụ già. Nhiều dân tộc khác thì những câu hát then, hát xẩm, ca trù, cải lương, chèo, tuồng,... không được ưa chuộng bằng nhạc trẻ.

Góp phần hạn chế tiêu cực, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc

Thứ nhất, con người là chủ thể tiếp nhận các giá trị văn hóa. Muốn cho những “luồng gió độc” của văn hóa ngoại lai không xâm hại đến nền văn hóa dân tộc, chủ thể văn hóa đó phải có một bản lĩnh, một trình độ nhận thức nhất định. Đó là năng lực tự thân của mỗi cá nhân và quan trọng hơn là nó được vun trồng, nuôi dưỡng từ phía gia đình, nhà trường, xã hội. Muốn bảo tồn được các giá trị văn hóa dân tộc, đồng thời vẫn tiếp thu được các giá trị văn hóa nhân loại thì điều cốt yếu là phải tích cực tuyên truyền, giáo dục cho chủ thể văn hóa Việt Nam, đặc biệt là thế hệ trẻ, giúp họ hiểu được những giá trị của văn hóa truyền thống, có niềm tự hào, tự tôn dân tộc và nhận thức được các mặt tốt xấu, tích cực, tiêu cực của các luồng văn hóa ngoại lai.

Thứ hai, phải làm cho văn hóa nội sinh trở thành một “thành trì” vững chắc, trong đó quan trọng là quán triệt sâu sắc tư tưởng, đường lối văn hóa của Đảng và Nhà nước về văn hóa, tiêu biểu là Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và nhiều văn kiện, tài liệu khác. Đề cương văn hóa Việt Nam do đồng chí Trường Chinh khởi thảo và công bố năm 1943, đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Ba nguyên tắc đúng đắn được đưa ra là: Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập), Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng), Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ). Đề cương cũng chỉ rõ gốc rễ, nguồn cội của nền văn hóa mới - văn hóa xã hội chủ nghĩa - của đường lối văn hóa, văn nghệ của Đảng ta chính là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về văn hóa, là thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử - hạt nhân lý luận của hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.

Nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa VIII năm 1998 là “kim chỉ nam” cho việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa được chỉ rõ: phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thống đại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại… Nhiệm vụ cụ thể là: xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, xây dựng môi trường văn hóa, phát triển sự nghiệp văn hóa, nghệ thuật, bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa, phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo và khoa học - công nghệ...

Thứ ba, tích cực đấu tranh, bài trừ các sản phẩm văn hóa độc hại, phản động, đồi trụy, đồng thời hạn chế hoặc gạt bỏ những hủ tục, như: tục đốt vàng mã, rải đồ vàng mã, tiền giả, tiền thật trên đường trong đám tang, vừa gây tốn kém lãng phí, vừa làm mất mỹ quan đường phố,… để tạo đời sống tinh thần lành mạnh hơn.

Thứ tư, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn và phát triển văn hóa truyền thống Việt Nam với tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Việc tuyên truyền, vận động nhân dân xây dựng đời sống văn hóa mới phải đi đôi với khắc phục thái độ xem nhẹ vai trò văn hóa và các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Tiếp thu văn hóa nước ngoài là điều cần thiết, song chúng ta phải chủ động hội nhập, chắt lọc tinh hoa văn hóa bên ngoài để làm phong phú thêm nền văn hóa của dân tộc. Điều đáng lưu ý là trong quá trình toàn cầu hóa, nhiều nước phát triển có ý đồ áp đặt các giá trị văn hóa của mình cho toàn thế giới. Điều này sẽ đem lại nhiều thách thức hơn so với cơ hội, trong đó có nguy cơ đe dọa làm mất bản sắc văn hóa dân tộc. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi việc tiếp thu và hội nhập văn hóa, cần chú trọng nguyên tắc: tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của các nước khác, bình đẳng và cùng có lợi, tự chủ, tự quyết. Trong khi bảo tồn văn hóa nước nhà, tiếp thu văn hóa nước ngoài thì phải đồng thời chống cả hai xu hướng cực đoan là sùng ngoại lẫn sùng cổ.

Thứ năm, đẩy mạnh và thực hiện tốt chủ trương xã hội hóa hoạt động văn hóa, nghệ thuật với phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” là một giải pháp tích cực. Lực lượng chủ yếu trong công tác này là các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và nhân dân (đóng góp sức người, sức của), đội ngũ văn nghệ sĩ (lao động và sáng tạo để có nhiều tác phẩm, công trình có chất lượng tốt, có tiếng vang và tầm ảnh hưởng sâu rộng trong xã hội, có tầm vóc thời đại)...

Thứ sáu, tuyên truyền, giáo dục người Việt Nam, nhất là thế hệ trẻ biết yêu văn hóa dân tộc, tăng sức hấp dẫn của văn hóa truyền thống. Các cơ quan quản lý văn hóa, truyền thông cần tích cực hơn trong việc gìn giữ và quảng bá văn hóa truyền thống; Tổ chức các cuộc thi tìm hiểu về văn hóa truyền thống, tích cực giao lưu văn hóa để giới trẻ thêm tự hào và có lòng tự tôn dân tộc; Có tinh thần, thái độ phê phán, đấu tranh mạnh mẽ với lối sống chạy theo ngoại lai một cách mù quáng, chống lại những âm mưu đồng hóa văn hóa của các thế lực thù địch...

Văn hóa là vốn quý của quốc gia, là tài sản vô giá, là động lực của sự phát triển. Văn hóa - kinh tế - chính trị là “kiềng ba chân”, là rường cột của quốc gia, chỉ cần một trong ba yếu tố đó yếu kém thì cả “công trình” sụp đổ. Bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống và học hỏi, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại, đấu tranh mạnh mẽ với những ảnh hưởng tiêu cực từ nước ngoài chính là góp phần xây dựng đất nước Việt Nam giàu mạnh.

TOP 20 bài Nghị luận về tuổi trẻ với việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc (ảnh 1)

Thuyết trình về Người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài - Mẫu 3

Một trong những nguy cơ lớn nhất đối với các quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa, trong đó có Việt Nam, là nguy cơ mai một, mất bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong bối cảnh hiện nay, một bộ phận người dân, nhất là giới trẻ dễ bị choáng ngợp, thậm chí bị “mù màu” trước các làn sóng văn hóa ngoại lai xâm nhập, từ đó thiếu tỉnh táo suy xét, nhận biết, phân biệt đúng-sai, hay-dở, tốt-xấu, cao thượng-thấp hèn và bị hòa lẫn vào cái ma trận văn hóa mà người ta gọi là sùng ngoại, lai căng.

Sùng ngoại là thái độ sùng bái mù quáng vào yếu tố ngoại lai. Còn lai căng được hiểu là pha trộn nhiều thứ có tính chất lai tạp, lố lăng. Thông thường sùng ngoại đi liền với lai căng như hình với bóng, tác động tương hỗ cho nhau và là con đường ngắn nhất dẫn đến bào mòn bản sắc, phai nhạt giá trị truyền thống tốt đẹp và dần đánh mất mã gene văn hóa của ông cha chảy trong huyết quản của mỗi người.

Không ngẫu nhiên mà người lãnh đạo cao nhất Đảng ta từng cảnh báo trong đời sống văn hóa – nghệ thuật nước ta vẫn có tình trạng nhiều khi bắt chước nước ngoài một cách nhố nhăng, phản cảm, không có chọn lọc.

Sự sùng ngoại, lai căng xuất hiện ở khá nhiều lễ hội có nguồn gốc từ nước ngoài. Trong khoảng 30 lễ hội nước ngoài du nhập vào nước ta có nhiều yếu tố tích cực, nhân văn, làm phong phú đời sống văn hóa tinh thần của người dân, qua đó giúp người Việt hiểu hơn về phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo của nhiều dân tộc trên thế giới. Tuy nhiên, khi tiếp nhận lễ hội nước ngoài vào nước ta cũng có biểu hiện biến tướng, nhảm nhí, làm sai lệch ý nghĩa ban đầu của nó. Ví như: Ngày lễ tình yêu được cổ xúy đi nhà nghỉ, khách sạn với lối sống lệch lạc; lễ hội Halloween xuất hiện nhiều hình ảnh, hình tượng dị hợm, ma quỷ, chết chóc, gây ám ảnh người khác…

Không chỉ vậy, sự lai căng còn bộc lộ ở các loại hình nghệ thuật, nhưng tập trung nhiều và dễ thấy ở lĩnh vực văn học, âm nhạc, điện ảnh, thời trang.

Trong văn học thể hiện ở những tác phẩm chứa đựng nội dung tư tưởng tắc tị, ma mị, thần bí, đề cao dục tính, kích thích lối sống buông thả và bản năng thấp hèn của con người. Đã xuất hiện những truyện ngắn, bài thơ bề ngoài khoác vỏ bọc đề cao tự do cuộc sống con người, vì quyền sống tự do của con người, nhưng lại ẩn chứa những tình tiết khơi gợi phần thú tính, sinh học mang tính chất hoang dã của con người nguyên thủy.

Việc lạm dụng tính chất hư cấu văn chương để hạ thấp tính chất xã hội của con người thực chất là hạ thấp phẩm giá chân chính của con người, làm tha hóa tính cách người. Trong 5 năm gần đây, cơ quan chức năng đã xử lý vi phạm đối với 126 cuốn sách thể loại văn học, trong đó có hàng chục cuốn sách phải đình chỉ phát hành, thu hồi xuất bản phẩm vì có nội dung lệch lạc, dung tục, độc hại.

Biểu hiện sùng ngoại, lai căng trong âm nhạc là không ít tác phẩm có nhịp điệu giật đùng đùng, tiết tấu quá đà cộng với ca từ nhảm nhí, dung tục, chen từ ngoại lai. Trào lưu làm các sản phẩm âm nhạc “mì ăn liền” với nội dung thô thiển, phản cảm không chỉ xuất hiện tràn lan trên mạng xã hội do một số Youtuber, Tiktoker thực hiện mà nhiều video ca nhạc do một số nhạc sĩ, ca sĩ đầu tư cũng có ý tưởng nghèo nàn, dễ dãi chỉ nhằm mục đích câu view và đánh bóng tên tuổi là chính.

Nền âm nhạc và ngôn ngữ Việt sẽ đi về đâu khi chúng ta nghe thấy những ca từ phản văn hóa như thế này: “Ghệ iu dấu của em ơi/ Ghệ có biết em cần ghệ/ Ghệ có muốn mình cặp kè?/ Oki hăm?”; hay: “Tình iu các cụ non/ Mama ghệ nghe đâu đã muốn có nụ con dâu/ Tình iu ghệ ngày ngày cứ bự hơn/ Ghệ có muốn qua em quấn quýt tít mù ôm nhau?”.

Trong lĩnh vực điện ảnh, nhiều người làm phim để ra nước ngoài với mục đích thi thố, mang chuông đi đánh xứ người, nhưng có phim lại tràn ngập cảnh đánh đấm máu me, sặc mùi bạo lực hay khơi gợi tính dục, cổ vũ lối sống buông thả, không phù hợp với thuần phong mỹ tục Việt Nam. Những phim này hoặc đã bị thu hồi vĩnh viễn, bị xử phạt hành chính, hoặc phải chỉnh sửa trước khi ra rạp, như các phim: “Gái ngoan nổi loạn”, “Bụi đời Chợ Lớn”, “Vị”, “Ròm”, “Chơi vơi”, “Bi đừng sợ”…

Đời sống thời trang những năm gần đây diễn ra nhộn nhịp, sôi động, nhất là ở các thành phố lớn, nhưng đây cũng là mảnh đất khá màu mỡ cho những tư duy cấp tiến thái quá, tiếp thu thời trang nước ngoài một cách sống sượng, thậm chí có những biến tướng dung tục, thể nghiệm phản cảm, gây bất bình dư luận. Gần đây, một công ty giải trí ở TP Hồ Chí Minh bị phạt 85 triệu đồng và đình chỉ hoạt động 18 tháng vì tổ chức chương trình mang tên “Thời trang mới” với màn trình diễn áo dài cách tân rất lố lăng, làm tổn thương nghiêm trọng vẻ đẹp thuần Việt của trang phục truyền thống dân tộc.

Cách đây 14 năm, ngày 27-7-2010, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X ban hành Chỉ thị số 46-CT/TW “Về chống sự xâm nhập của các sản phẩm văn hóa độc hại gây hủy hoại đạo đức xã hội”.

Trong chỉ thị này, Đảng ta đưa ra cảnh báo về nguy cơ, tác hại của các sản phẩm văn hóa độc hại và sự sùng ngoại, lai căng đã “tác động rất xấu đến tư tưởng, đạo đức, lối sống, tâm lý, hành vi của một bộ phận nhân dân, nhất là thanh thiếu niên; làm hủy hoại, xói mòn nền tảng và những giá trị đạo đức tốt đẹp của dân tộc; có nguy cơ dẫn tới khủng hoảng tinh thần, mất phương hướng lựa chọn các giá trị, lối sống và niềm tin của một bộ phận công chúng; dẫn đến khuynh hướng “tự diễn biến” về chính trị, tư tưởng, tác hại lâu dài đến các thế hệ mai sau”.

Nhìn vào đời sống văn hóa, văn học nghệ thuật ở nước ta những năm qua cho thấy sự cảnh báo của Đảng hơn mười năm qua vẫn nguyên tính thời sự. Thật không khó để nhận ra tác hại của sự sùng ngoại, lai căng đang ngấm vào đời sống tinh thần một bộ phận người dân, nhất là giới trẻ khiến cho những ai nặng lòng với tương lai đất nước không khỏi trăn trở.

Nhiều thanh thiếu niên thời nay tự rời xa gốc gác truyền thống dân tộc; không mặn mà, thiết tha với lịch sử nước nhà; không hiểu thế nào là nghệ thuật chèo, tuồng, cải lương của ông cha để lại; không cảm thấy rung động trước những lời ca quan họ đằm thắm, câu hát ví, giặm nồng nàn da diết, giai điệu đờn ca tài tử chan chứa nghĩa tình nước non; không nhớ nổi dăm ba câu kiều hay những lời ca dao thấm đẫm lẽ đời của người xưa truyền lại… Nhưng họ lại rất say sưa bàn tán sôi nổi về những phim “bom tấn” phương Tây, đắm chìm với phim cổ trang của nước láng giềng; nhảy múa cuồng nhiệt thâu đêm dưới ánh sáng lòe loẹt và tiếng nhạc xập xình chát chúa ở những vũ trường, quán bar.

Từ đầu tóc, mang mặc đến lời ăn tiếng nói, cái tên của nhiều người trẻ (trong đó có không ít ca sĩ, diễn viên, người mẫu) không hẳn giống tây mà cũng chẳng giống ta vì pha tạp đủ thứ nhố nhăng. Họ đã cố gắng bắt chước làm bản sao của người khác cả về hình thức và nội dung là đang tự đánh mất mình và tổ tiên mình, quê hương, đất nước mình.

Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên, một mặt do sự bùng nổ của các phương tiện truyền thông xã hội mới, sự lên ngôi của nhiều hình thức giải trí mới lạ của nước ngoài cuốn theo làn sóng “xâm lăng văn hóa” vào nước ta; mặt khác, do nhiều cấp ủy, chính quyền và cơ quan chức năng các cấp chưa nhận thấy rõ tác hại của sản phẩm văn hóa ngoại lai và lối sống sùng ngoại, lai căng gây hủy hoại đạo đức xã hội như Đảng ta từng chỉ ra.

Trong khi đó, việc đầu tư ngân sách, nguồn lực cho các hoạt động văn hóa-nghệ thuật lành mạnh ở nhiều cấp, nhiều ngành, nhiều địa phương chưa trở thành dòng chủ lưu tích cực để đủ sức tác động, dẫn dắt, chi phối vào đời sống tinh thần của xã hội. Hơn thế, tâm lý tự ti, thiếu thiện cảm với hàng nội (trong đó có sản phẩm văn hóa-nghệ thuật nước nhà) cộng với tâm lý sính hàng ngoại (trong đó có sản phẩm văn hóa-nghệ thuật nước ngoài) đã ăn sâu vào máu thịt của một số người Việt (trong đó có văn nghệ sĩ) cũng khiến cho tình trạng sùng ngoại, lai căng trong xã hội có biểu hiện gia tăng rất đáng lo ngại.

Người Việt ta tự hào là một dân tộc có truyền thống hàng nghìn năm văn hiến. Niềm tự hào đó có cơ sở bởi trải qua bao biến thiên thăng trầm của lịch sử, phải đối đầu với hiểm họa xâm lăng của kẻ thù có thời kỳ kéo dài cả nghìn năm, trăm năm, nhưng chúng ta vẫn cơ bản giữ được gốc gác dân tộc, hồn cốt tổ tiên, bản sắc văn hóa mà lớp lớp thế hệ người Việt đã bền bỉ dày công vun đắp, giữ gìn, bảo vệ bằng bao máu xương, mồ hôi, nước mắt.

Tuy vậy, thời đại ngày nay đã khác xưa rất nhiều, đó là chỉ cần một chiếc điện thoại thông minh nhỏ bé cũng có thể biến một con người, một cộng đồng, thậm chí cả một dân tộc dần trở thành bản sao của người khác, cộng đồng khác, dân tộc khác bởi vô số các sản phẩm thông tin, văn hóa, nghệ thuật, giải trí của các nước phương Tây và một số cường quốc công nghiệp văn hóa đang “làm mưa làm gió” trên các nền tảng mạng xã hội. “Thế giới ngày càng thu gọn lại, trong khi văn hóa dân tộc ngày càng loãng ra”-lời cảnh báo của các chuyên gia văn hóa là không thể coi thường.

Câu tuyên ngôn bất hủ của đại văn hào Nga M.Gorki cách nay trăm năm: “Đối với tôi, lời kêu gọi Tổ quốc lâm nguy cũng không đáng sợ hơn lời kêu gọi: Hỡi các công dân! Văn hóa bị lâm nguy!” vẫn có ý nghĩa cảnh tỉnh, nhắc nhở sâu sắc đối với chúng ta trong “cuộc chiến” chống lại những làn sóng “xâm lăng văn hóa” từ bên ngoài.

Vì vậy, việc chủ động đấu tranh, ngăn chặn “cuộc chiến mềm” này sẽ giúp chúng ta phòng ngừa, hạn chế các hiện tượng sùng ngoại, lai căng trong các sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật và trong đời sống tinh thần của nhân dân, qua đó góp phần xây dựng nền tảng văn hóa, đạo đức xã hội lành mạnh. Ý nghĩa sâu xa hơn, đây chính là việc làm thiết thực để góp phần bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc-một trong những nhân tố cấu thành trong sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Thuyết trình về Người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài - Mẫu 4

Đang cập nhật ...

Thuyết trình về Người trẻ trước làn sóng văn hóa du nhập từ nước ngoài - Mẫu 5

Đang cập nhật ...

Đánh giá

0

0 đánh giá