Tài liệu tác giả tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia Ngữ văn lớp 12 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Hạnh phúc của một tang gia lớp 12.
Tác giả tác phẩm: Hạnh phúc của một tang gia - Ngữ văn 12
I. Tác giả Vũ Trọng Phụng
- Vũ Trọng Phụng (1912 - 1939), sinh ra ở Mỹ Hào, Hưng Yên nhưng lớn lên và sinh sống tại Hà Nội.
- Ông sinh ra trong một gia đình nghèo khó và sớm mồ côi cha nên phải thôi học sớm.
- Sau khi tốt nghiệp tiểu học, ông phải đi làm kiếm sống, nhưng chẳng bao lâu thì mất việc.
- Từ đó, ông sống chật vật, bấp bênh bằng nghề viết báo, viết văn, chuyên nghiệp.
- Khoảng năm 1937 – 1938, Vũ Trọng Phụng mắc bệnh lao, nhưng không có điều kiện để chạy chữa. Ông mất tại Hà Nội.
1. Thể loại
- Tác phẩm Hạnh phúc của một tang gia thuộc thể loại: tiểu thuyết.
2. Xuất xứ
- In trong Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1987.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: tự sự.
4. Tóm tắt
Hạnh phúc của một tang gia xoay quanh câu chuyện của một người chết là cụ Cố Hồng, từ khi cụ ngấp ngoái chết đến khi chết thật. Chuyện nhặng xị bắt đầu cũng xảy ra từ khi ông cụ mất và câu chuyện cũng chỉ có ý nghĩa từ giây phút này. Cụ chết để lại cho con cháu cơ hội để khoe mẽ với thiên hạ những nghịch lý của “thế hệ con cháu” hiếu thảo bằng những bộ trang phục âu hóa nửa tây nửa ta lẫn những trò “Mèo mả gà đồng” của dâu con lẫn người xung quanh. Cái đám ma to tát cụ cố Hồng là một cuộc diễu hành của buổi lễ hội di động bằng mọi trò hề của tầng lớp trung thượng lưu. Qua đoạn trích, tác giả đã phơi bày những trò nhố nhăng, phi đạo đức lẫn truyền thống của những kẻ sống núp dưới gót giầy thực dân xâm lược, là bức tranh toàn cảnh của xã hội đương thời đầy thối nát lúc ấy.
5. Bố cục đoạn trích
- Phần 1 (từ đầu đến "cho Tuyết vậy"): Niềm vui và hanh phúc của các thành viên khi cụ tổ qua đời
- Phần 2 (tiếp đến "đám cứ đi"): Cảnh đám ma gương mẫu
- Phần 3 (còn lại): Cảnh hạ huyệt.
6. Giá trị nội dung
- Tố cáo xã hội nhố nhăng, suy tàn, thối nát. Miêu tả cái "đám cứ đi", nhà văn muốn phơi bày tất cả sự giả dối, bịp bợm, vô đạo đức của xã hội thượng lưu. Từ đó nhà văn đả kích châm biếm sâu cay, thâm thuý những thói xấu xa của xã hội đương thời.
7. Giá trị nghệ thuật
- Xây dựng những chi tiết mâu thuẫn trào phúng ấn tượng.
- Nghệ thuật xây dựng và phát triển các tình huống.
- Giọng văn mỉa mai, thủ pháp cường điệu, nói quá được sử dụng một cách linh hoạt.
- Ngòi bút miêu tả sắc sảo.
1. Ý nghĩa nhan đề
- Nhan đề xuất hiện như một sự châm biếm, mỉa mai: tang gia mà lại hạnh phúc
- Nhan đề thể hiện sự đối lập, mâu thuẫn tạo nên tiếng cười bi hài: Một bên là sự tang thương, mất mát đáng lẽ phải đau buồn lại song hành với hạnh phúc, niềm vui.
→ Nhan đề đã dự báo một màn hài kịch sắp diễn ra với nhiều nghịch lý và những pha “cười ra nước mắt”.
2. Niềm vui và hạnh phúc của các thành viên khi cụ Tổ qua đời
* Nguyên nhân của tấn bi hài
- Cụ Tổ mất đi, di chúc được thực thi.
- Ước nguyện của mọi người trong gia đình được thực hiện.
* Những niềm hạnh phúc khác nhau trong gia đình
- Cụ cố Hồng
+ Mới chỉ 50 tuổi nhưng luôn ước mơ được gọi là cụ cố.
+ Nhắm mắt, tượng tưởng lúc “mặc áo xô gai trắng lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu máo.”
→ Đây là nhân vật điển hình cho sự ngu dốt và háo danh.
- Ông Văn Minh được dịp quảng cáo, kiếm tiền.
- Bà Văn Minh có dịp mặc những bộ xô gai tân thời và lăng xê những bộ y phục táo bạo.
- Cô Tuyết thì được mặc bộ y phục ngây thơ.
- Ông Phán mọc sừng tin rằng “đôi sừng” có giá trị của mình sẽ được trả công.
- Cậu Tú Tân thì có dịp khoe tài chụp ảnh.
* Hạnh phúc lan ra cả những người bên ngoài
- Xuân tóc đỏ có uy tín ngày càng cao.
- Bạn bè cụ cố Hồng có dịp khoe huân chương, râu ria
- Cảnh binh sung sướng vì có việc làm
- Đám trai thanh gái lịch có dịp hẹn hò tình tứ, “chim chuột nhau”.
- Sư cụ Tăng Phú thì “sung sướng vênh váo”
3. Cảnh đám ma “gương mẫu”
* Không khí: Hỗn loạn
- Như một đám hội, đám rước.
- Tổ chức linh đình theo cả lối Tây, Tầu, Ta: “có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng….”
* Các nhân vật trong đám tang
- Trong đám ma cụ Tổ, cô Tuyết mặc bộ trang phục "ngây thơ" để cả thiên hạ biết cô chưa đánh mất chữ trinh.
- Xuân tóc đỏ khiến cụ Tổ chết lại được chào đón trịnh trọng.
- Cậu Tú Tân thể hiện trình độ chụp ảnh bằng cách nhảy lên những ngôi mộ khác.
- Sư cụ Tăng Phú vênh váo vì sẽ có người nghĩ cụ có chiến công hiển hách “lật đổ Phật giáo”.
- Đám con cháu là ê kíp đạo diễn, diễn viên, nhiếp ảnh tài ba.
- “Đám cứ đi” và nam nữ cứ “chim nhau, cười tình với nhau”
* Cảnh hạ huyệt:
- Cụ cố Hồng mếu máo khóc ngất đi “Hứt, hứt, hứt”.
- Ông Phán mọc sừng dúi tiền vào tay Xuân tóc đỏ.
→ Đám tang trở thành trò diễn bịp bợm, lố bịch và lố lăng, đồi bại.
IV. Đọc tác phẩm: Hạnh phúc của một tang gia
Hạnh phúc của một tang gia
(trích Số đỏ)
Vũ Trọng Phụng
Ba hôm sau, ông cụ già chết thật.
Cả gia đình ấy đã nhao lên mỗi người một cách, đi gọi từ ông lang băm Tây cho đến ông lang băm Đông, già và trẻ, để thực hành đúng cái lí thuyết “nhiều thầy thối ma”. Ông cụ già chết, danh dự của Xuân lại càng to thêm, vì cái lẽ rất chính đáng là luôn ba hôm nó đã trốn một chỗ nào không ai biết, đến nỗi cụ bà cho người đi tìm đâu cũng không thấy. Thiếu ông đốc tờ Xuân là thiếu tất cả, những ông thầy thuốc chính hiệu đã thất bại hoàn toàn. Về phần ông đốc tờ Trực Ngôn, thấy bạn đồng nghiệp Xuân của ông không chữa, cho đó là một bệnh nặng, nên cũng không dám nhận. Đó là một bài học cho những kẻ nào dám bảo một người như Xuân là con nhà hạ lưu, ma cà bông, vô học, vô lại, nhặt ban quần, vân vân...
Người ta lại đi mời cả cụ lang Tì lẫn cụ lang Phế, nhưng vì quá giận, hai cụ đã từ chối chạy chữa cũng như những vị danh y biết tự trọng. Người ta đã nghĩ đến cả thuốc thánh đền Bia vừa mới chữa một người họ lao và một người cảm thương hàn bằng bùn đen và cứt trâu, công hiệu đến nỗi họ mất mạng, và quan trên lại điều tra ra rằng có một tụi cường hào tổ chức ra thánh, mà tụi cường hào ấy lại ăn cắp tiền quỹ nữa, nên tự nhiên cũng hết thiêng liêng... Những việc trắc trở như thế đã làm cho ông già hơn tám mươi tuổi phải chết một cách bình tĩnh. Trong lúc gia đình nhốn nháo, thằng bồi tiêm đã đếm được đúng một nghìn tám trăm bảy mươi hai câu gắt : “Biết rồi, khổ lắm, nói mãi !” của cụ cố Hồng. Cái chết kia đã làm cho nhiều người sung sướng lắm. Ông Phán mọc sừng) đã được cụ Hồng nói nhỏ vào tai rằng sẽ chia cho con gái và rể thêm một số tiền là vài nghìn đồng. Chính ông ta cũng không ngờ rằng giá trị đôi sừng hươu vô hình trên đầu ông ta mà lại to đến như thế. Ông cho rằng Xuân có tài quảng cáo lắm, nói một lời là có vài nghìn bạc, nên sau khi được lời hứa quý hoá của ông bố vợ, ông trù tính ngay với Xuân một công cuộc doanh thương... “Thưa ngài, ngài là một người chồng mọc sừng !”. Ông Xuân chỉ nói có thế mà làm cho ông thêm được vài ba nghìn bạc thì khi ông Xuân nói đại khái : “Thưa ngài, thứ hàng này tốt nhất, buôn ở Tây phương” chắc phải có giá trị hơn nữa. Ông muốn gặp ngay Xuân để trả nốt năm đồng, trước khi buôn bán cũng phải giữ chữ tín làm đầu.
Cụ cố Hồng đã nhắm nghiền mắt lại để mơ màng đến cái lúc cụ mặc đồ xô gai,
lụ khụ chống gậy, vừa ho khạc vừa khóc mếu, để cho thiên hạ phải chỉ trỏ : “Úi kìa, con giai nhớn đã già đến thế kia kìa !”. Cụ chắc cả mười phần rằng ai cũng phải ngợi khen một cái đám ma như thế, một cái gậy như thế,...
Điều băn khoăn của con cụ, ông Văn Minh, chỉ là mời luật sư đến chứng kiến
cái chết của ông nội mà thôi. Thế là từ nay mà đi, cái chúc thư kia sẽ vào thời kì
thực hành chứ không còn là lí thuyết viển vông nữa. Ông chỉ phiền một nỗi không biết xử trí với Xuân Tóc Đỏ ra sao cho phải,... Xuân tuy phạm tội quyến rũ một em gái ông, tố cáo cái tội trạng hoang dâm của một em gái khác nữa của ông, nhưng tình cờ đã gây ra cái chết của ông cụ già đáng chết. Hai cái tội nhỏ, một cái ơn to...
Làm thế nào ? Ông phân vân, vò đầu rứt tóc, lúc nào mặt cũng đăm đăm chiêu
chiêu, thành thử lại thành ra hợp thời trang, vì mặt ông thật đúng cái mặt một
người lúc gia đình đương là tang gia bối rối. Mà bối rối thật. Người chết, sau khi được quan trên khám qua loa, đã được khâm liệm đến gần một ngày rồi, vậy mà chưa thấy cụ Hồng ra lệnh phát phục, mặc dầu mọi công việc cử hành tang lễ đã quyết định xong xuôi. Phái trẻ, nghĩa là bọn dâu con, đã bắt đầu la ó lên rằng phái già chậm chạp. Cậu tú Tân thì cứ điên người lên vì cậu đã sẵn sàng mấy cái máy ảnh mà mãi cậu không được dùng đến. Bà Văn Minh thì sốt cả ruột vì mãi không được mặc những đồ xô gai tân thời, cái mũ mấn trắng viền đen – dernières créations! Những cái rất ăn với nhau mà tiệm Âu hoá một khi đã lăng-xê ra thì có thể ban cho những ai có tang đương đau đớn vì kẻ chết cũng được hưởng chút ít hạnh phúc ở đời. Ông Typn rất bực mình vì mãi không được thấy những sự chế tạo của mình ra mắt công chúng để xem các báo chí phê bình ra sao. Người ta đổ lỗi cho ông Văn Minh không khéo can thiệp để mọi việc phải trì hoãn, cụ Hồng cứ nhắm mắt lại kêu khổ lắm, cụ bà hay lề lối, vẽ chuyện lôi thôi. Kì thuỷ sở dĩ chưa phát phục chỉ vì chuyện Tuyết, hay việc Xuân Tóc Đỏ đã gây ra cho Tuyết vậy.
Sáng hôm sau, đúng 7 giờ thì cất đám. Hai viên cảnh sát thuộc bộ thứ 18 là Min Đơ và Min Toa đã được thuê giữ trật tự cho đám ma. Giữa lúc không có ai đáng phạt mà phạt, đương buồn rầu như những nhà buôn sắp vỡ nợ, mấy ông cảnh binh này được có đám thuê thì sung sướng cực điểm, đã trông nom rất hết lòng. Thành thử tang gia ai cũng vui vẻ cả, trừ một Tuyết. Tại sao Xuân lại không đến phúng viếng gì cả ? Tại sao Xuân lại không đi đưa ? Hay là Xuân khinh mình ?
Những câu hỏi ấy đã khiến Tuyết đau khổ một cách rất chính đáng, có thể muốn
tự tử được. Tìm kiếm khắp mặt trong bọn người đi đưa đám ma cũng không thấy “bạn giai” đâu cả, Tuyết như bị kim châm vào lòng.
Hôm nay Tuyết mặc bộ y phục Ngây thơ – cái áo dài voan mỏng, trong có coóc-sê, trông như hở cả nách và nửa vú – nhưng mà viền đen, và đội một cái mũ
mấn xinh xinh. Thấy rằng thiên hạ đồn mình hư hỏng nhiều quá, Tuyết bèn mặc bộ Ngây thơ để cho thiên hạ phải biết rằng mình chưa đánh mất cả chữ trinh Với cái tráp trầu cau và thuốc lá, Tuyết mời các quan khách rất nhanh nhẹn, trên mặt lại hơi có một vẻ buồn lãng mạn rất đúng mốt một nhà có đám. Những ông bạn thân của cụ cố Hồng, ngực đầy những huy chương như : Bắc Đẩu bội tinh, Long bội tinh, Cao Mên bội tinh, Vạn Tượng bội tinh, vân vân... trên mép và cằm đều đủ râu ria, hoặc dài hoặc ngắn, hoặc đen hoặc hung hung, hoặc lún phún hay rầm rậm, loăn quăn, những ông tai to mặt lớn thì sát ngay với linh cữu, khi trông thấy làn da trắng thập thò trong làn áo voan trên cánh tay và ngực Tuyết, ai nấy đều cảm động hơn những khi nghe tiếng kèn Xuân nữ ai oán, não nùng. Với một đám ma theo cả lối Ta, Tàu, Tây, có kiệu bát cống, lợn quay đi lọng, cho đến lốc bốc xoảng và bú-dích, và vòng hoa, có đến ba trăm câu đối, vài ba trăm người đi đưa, lại có cậu tú Tân chỉ huy, những nhà tài tử chụp ảnh đã thi nhau như ở hội chợ. Thật là một đám ma to tát có thể làm cho người chết nằm trong quan tài cũng phải mỉm cười sung sướng, nếu không gật gù cái đầu...!
Khi đi được bốn phố, giữa lúc Typn và bà vợ, bà phó Đoan và ông Joseph
(Giô-dép) Thiết, và mấy người nữa đương lào xào phê bình thái độ của Xuân thì
thấy cả đám phải đứng dừng lại như hàng đầu gặp phải một nạn xe cộ vậy. Giữa
lúc ấy, sáu chiếc xe, trên có sư chùa Bà Banh, xe nào cũng che hai lọng, từ một ngả len vào chiếm chỗ sau năm lá cờ đen. Hai vòng hoa đồ sộ, một của báo Gõ mõ, một của Xuân, cũng len vào hàng đầu. Cậu tú Tân vội chạy lên bấm máy ảnh lách tách rồi xuống thưa với mẹ. Cụ bà hớt hải chạy lên, rồi cảm động hết sức, vì nó là phần của ông Xuân, ông Xuân đốc tờ, và ông Xuân, cố vấn báo Gõ mõ, nên mới có sự long trọng như thế thêm cho đám ma. Cụ sung sướng kêu : “Ấy giá không có món ấy thì là thiếu chưa được to, may mà ông Xuân đã nghĩ hộ tôi !”. Sư cụ Tăng Phú thì sung sướng mà vênh váo ngồi trên một chiếc xe, vì sư cụ chắc rằng trong số thiên hạ đứng xem ở các phố, thế nào cũng có người nhận ra rằng sư cụ đã đánh đổ được Hội Phật giáo, và như thế thì là một cuộc đắc thắng đầu tiên của báo Gõ mõ vậy.
Xuân Tóc Đỏ cắt đặt đâu vào đấy rồi mới xuống chỗ những người đi đưa. Tuyết đã liếc mắt đưa tình cho nó để tỏ ý cảm ơn. Mọi người đã ngợi khen nó hoặc ghen ghét nó...
Đám ma đưa đến đâu làm huyện náo đến đấy. Cả một thành phố đã nhốn nháo lên khen đám ma to, đúng với ý muốn của cụ cố Hồng. Thiên hạ chú ý đặc biệt vào những kiểu quần áo tang của tiệm may Âu hoá như ý ông Typn và bà Văn Minh. Cụ bà sung sướng vì ông đốc Xuân đã không giận mà lại giúp đáp,
phúng viếng đến thế, và đám ma như kể đã là danh giá nhất tất cả.
Đám cứ đi...
Kèn Ta, kèn Tây, kèn Tàu lần lượt thay nhau mà rộn lên. Ai cũng làm ra bộ mặt
nghiêm chỉnh, song le sự thật thì vẫn thì thầm với nhau chuyện trò về vợ con, về
nhà cửa, về một cái tủ mới sắm, một cái áo mới may. Trong mấy trăm người đi đưa thì một nửa là phụ nữ, phần nhiều tân thời, bạn của cô Tuyết, bà Văn Minh, cô Hoàng Hôn, bà phó Đoan, vân vân... Thật là đủ giai thanh gái lịch, nên họ chim nhau, cười tình với nhau, bình phẩm nhau, chê bai nhau, ghen tuông nhau, hẹn hò nhau, bằng những vẻ mặt buồn rầu của những người đi đưa ma.
Chen lẫn vào những tiếng khóc lóc, mỉa mai nhau của những người trong tang gia, người ta thấy những câu thì thào như sau này :
– Con bé nhà ai kháu thế? – Con bé bên cạnh đẹp hơn nữa! – Ừ, ừ, cái thằng
ấy bạc tình bỏ mẹ! – Xưa kia vợ nó bỏ nó chớ? – Hai đời chồng rồi! — Còn xuân chán! – Gớm cái ngực, đầm quá đi mất ! – Làm mối cho tớ nhé? – Mỏ vàng hay mỏ chì? – Không, không hẹn hò gì cả. – Vợ béo thế, chồng gầy thế thì mọc sùng mất! Vân vân...
Và còn nhiều câu nói vui vẻ, ý nhị khác nữa, rất xứng đáng với những người đi
đưa đám ma.
Đám cứ đi....
Đến huyệt, lúc hạ quan tài, cậu tú Tân luộm thuộm trong chiếc áo thụng trắng đã bắt bẻ từng người một, hoặc chống gậy, hoặc gục đầu, hoặc cong lưng, hoặc lau mắt như thế này, như thế nọ... để cậu chụp ảnh kỉ niệm lúc hạ huyệt.
Bạn hữu của cậu rầm rộ nhảy lên những ngôi mả khác mà chụp để cho ảnh
khỏi giống nhau. Xuân Tóc Đỏ đứng cầm mũ nghiêm trang một chỗ, bên cạnh ông Phán mọc sừng. Lúc cụ Hồng ho khạc mếu máo và ngất đi, thì ông này cũng khóc to “Hứt !... Hứt !... Hứt !...”.
Ai cũng để ý đến ông cháu rể quý hoá ấy.
Ông ta khóc quá, muốn lặng đi thì may có Xuân đỡ khỏi ngã. Nó chật vật mãi
cũng không làm cho ông đứng hẳn lên được. Dưới cái khăn trắng to tướng, cái áo
thụng trắng loè xoè, ông Phán cứ oặt người đi, khóc mãi không thôi.
− Hứt !... Hứt !... Hứt ....
Xuân Tóc Đỏ muốn bỏ quách ra thì chợt thấy ông Phán dúi vào tay nó một cái
giấy bạc năm đồng gấp tư... Nó nắm tay cho khỏi có người nom thấy, rồi đi tìm sư cụ Tăng Phú lạc trong đám ba trăm người đương buồn rầu và đau đớn về những điều sơ suất của khổ chủ.
(Tuyển tập Vũ Trọng Phụng, tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1987)
V. Văn mẫu
Đề bài: Em thích nhất chi tiết nghệ thuật nào trong văn bản Hạnh phúc của một tang gia? Vì sao?
Mẫu 1:
Đối với em, nghệ thuật đặc sắc nhất trong Hạnh phúc của một tang gia chính là nghệ thuật trào phúng. Bởi chất trào phúng đã tạo nên tiếng cười cho tác phẩm, tạo nên sức hút, làm người đọc không khỏi bất ngờ và tò mò trước diễn biến của câu chuyện. Thông qua đó, nhằm đả kích, châm biếm những hiện tượng xấu xa trong đời sống xã hội, giúp tác giả vạch trần bộ mặt xấu xa của giới thượng lưu. Có thể nói, trong Hạnh phúc của một tang gia chất trào phúng đã đạt đến độ đỉnh cao, từ nghệ thuật ấy đã trở thành công cụ đưa đến những cái nhìn hiện thực sâu sắc.
Mẫu 2:
Đặc sắc nhất trong văn bản “Hạnh phúc của một tang gia” đó là nghệ thuật trào phúng bởi thông qua đó tác giả đã vạch trần bộ mặt xã hội giả dối, bất nhân. Tiếng cười bật lên vừa hóm hỉnh vừa sắc sảo, qua đó thể hiện thái độ coi thường, khinh bỉ cái xã hội âu hóa lố lăng, tầng lớp thị dân lố bịch đương thời. Hơn nữa, nghệ thuật trào phúng đã làm cho các tình huống trong truyện trở nên đặc sắc và thu hút hơn, mang lại nhiều cảm xúc cho người đọc.