Văn bản Khúc tráng ca nhà giàn - Xuân Ba - Nội dung, tác giả, tác phẩm

1 K

Tài liệu tác giả tác phẩm Khúc tráng ca nhà giàn Ngữ văn lớp 12 Cánh diều gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Khúc tráng ca nhà giàn lớp 12.

Tác giả tác phẩm: Khúc tráng ca nhà giàn - Ngữ văn 12

I. Tác giả Xuân Ba

Văn bản Khúc tráng ca nhà giàn - Xuân Ba - Nội dung, tác giả, tác phẩm (ảnh 1)

- Tên khai sinh: Trịnh Huyên.

- Năm sinh: 1954.

- Quê quán: tại Làng Lon Biện Thượng, Thanh Hóa (nay là thôn Việt Yên, xã Vĩnh Hùng, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa).

- Cuộc đời:

+ Xuân Ba sinh ra và lớn lên trong một gia đình có truyền thống âm nhạc.

+ Ông theo học khoa văn Đại học tổng hợp Hà Nội 1976.

+ Năm 1988, ông trở thành Hội viên hội Hội nhà văn Việt Nam.

- Các sáng tác của Xuân Ba đều mang hơi hướng độc diễn, mỗi một thể loại đều hằn chứa màu sắc, phong cách độc đáo của ông.

II. Tìm hiểu văn bản Khúc tráng ca nhà giàn

1. Thể loại

- Tác phẩm Khúc tráng ca nhà giàn thuộc thể loại: phóng sự.

2. Xuất xứ

- In trong Tuyển tập phóng sự: Những cự li thương miến, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2013.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: tự sự, miêu tả, biểu cảm.

4. Tóm tắt Khúc tráng ca nhà giàn

Văn bản viết về câu chuyện của tác giả, là một nhà báo có dịp đến thăm nhà giàn ở khu vực Ba Kè. Qua văn bản ta nhận ra những vẻ đẹp và giá trị ẩn náu đằng sau những hòn đảo chìm và sự khắc nghiệt của thiên nhiên dữ dội đã đưa đến bao hi sinh, mất mát của các chiến sĩ nhà giàn. Qua đó, ngợi ca sự kiên cường, bền bỉ và không ngừng sáng tạo, phát triển để thiết kế nên những công trình vững chãi hơn của các chiến sĩ nhà giàn.

5. Bố cục Khúc tráng ca nhà giàn

- Phần 1 (từ đầu đến “Những Đại Hùng”): Những cái nhìn của tác giá về khu vực Ba Kè.

- Phần 2 (tiếp theo đến “dập dềnh theo tàu hồi lâu”): Những cán bộ chiến sĩ phải hi sinh bởi sự dữ dội của biển cá.

- Phần 3 (tiếp theo đến “thứ năm nữa không thì chịu!”): Điểm khác nhau của ba thế hệ nhà giàn.

- Phần 4 (Phần còn lại): Niềm vui mừng, sự tự hào của tác giả về quân của tướng Nam.

6. Giá trị nội dung

- Cho thấy sự thay đổi của ba thế hệ nhà giàn theo thời gian.

- Ca ngợi sự hi sinh, cống hiến của những cán bộ chiến sĩ trước những khó khăn dữ dội của biển cả.

- Những đóng góp của con người, người lính thời bấy giờ với vai trò phát triển, nâng cao cuộc sống của con người trong thời điểm hiện tại.

7. Giá trị nghệ thuật

- Hư cấu hình ảnh gắn với hiện thực, sự thực.

- Kết cấu, nghệ thuật xây dựng cốt truyện, ngôn ngữ, giọng điệu lôi cuốn, giàu tính nhân văn.

- Khắc họa hình ảnh chân thực, giàu tính gợi hình, gợi cảm.

III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Khúc tráng ca nhà giàn

1. Nhan đề tác phẩm

- Tráng: hùng tráng.

- Ca: ca hát.

=> Khúc tráng ca là khúc ca hùng tráng, nhằm ca ngợi một chiến công, một kì tích, có tác dụng cổ vũ con người vì nghĩa cả mà dấn thân làm những việc cao thượng, không nề hà hiểm nguy trong khung cảnh tráng lệ và kì vĩ của thiên nhiên.

=> Phóng sự "Khúc tráng ca nhà giàn" viết về sự thay đồi của ba thế hệ nhà giàn theo thời gian. Đồng thời, thể hiện cuộc sống gian khổ, nhiều mất mát, hy sinh của các cán bộ ở quần đảo Trường Sa qua đó ca ngợi sự hi sinh, cống hiến của những cán bộ chiến sĩ trước những khó khăn dữ dội của biển cả.

Khúc tráng ca nhà giàn - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Cánh diều

2. Vẻ đẹp và giá trị của đảo chìm vùng bãi đá ngầm Ba Kè

- Điểm đến cho chuyến đi lần này được tác giả giới thiệu ngay đầu đoạn trích "Con tàu xé sóng lách màn đêm vào khu vực Ba Kè".

- Biện pháp nhân hóa cùng với việc sử dụng liên tiếp hai động từ gợi cảm giác mạnh "xé sóng lách màn đêm" đã khiến con tàu hiện lên thật mạnh mẽ, dũng cảm.

=> Trong không gian trên tàu giữa biển khơi, thời gian bốn giờ sáng khi bầu trời còn là màn đêm, tác giả cùng các chiến sĩ hái quan tiến vào Ba Kè. Chỉ qua câu văn mở đầu, người đọc đã thấy độ chân thực, chính xác trong cách khắc họa về thời gian, địa điểm của thể loại phóng sự.

- Khu vực Ba Kè mặc dù không có đảo chìm nhưng có độ sâu vừa đủ để xây dựng các nhà giàn vây bọc lấy nhau tạo thành thế trận giữ chủ quyền đất nước: "Bao nhiêu nhà giàn, tôi có con số nhưng chả thể tiện tay biên ra đây mà chỉ biết rằng từ vị trí nọ đến vị trí kia trên khoảng biển bao la của thêm lục địa, các vị trí nhà giàn đủ sức xây lưng lại với nhau vây bọc nhau tạo thành thế trận để giữ cho chủ quyền đất nước những khoáng san hô quý giá mà tiêm ẩn quanh đó những mỏ dầu túi khí. Không xa nhà giàn phía trong kia là lênh khênh những giàn khoan của những Bạch Hổ những Đại Hùng.".

=> Dưới sự quan sát tỉ mỉ và cách miêu tả chân thực, tinh tế, tác giả Xuân Ba đã khắc họa vẻ đẹp cũng như giá trị to lớn của vùng biển đất nước nói chung và vùng biển khu vực Ba Kè nói riêng.

3. Vẻ đẹp của những chiến sĩ nhà giàn

- Vẻ đẹp của những chiến sĩ biển khơi cũng khiến người đọc phải khâm phục, kính trọng. Mặc dù công việc có nhiều khó khăn vất vả, nguy hiểm nhưng ai cũng nhiệt huyết, am hiểu sâu sắc về công việc và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình.

- Các đồng chí là tấm gương sáng ngời cho vẻ đẹp của những người lính cụ Hồ: tình cảm đồng đội keo sơn, gắn bó, tinh thần trách nhiệm cao với công việc, luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ và sẵn sàng cống hiến, hy sinh.

4. Ba thế hệ nhà giàn

- Phóng sự viết về sự thay đổi của ba thế hệ nhà giàn theo thời gian.

+ Thời kì đầu: những cái cọc bê tông cắm xuống nền san hô, trên bắc hoặc thưng ván hoặc bạt.

+ Thế hệ thứ hai: sự xuất hiện của công binh, dựng những công trình như lô cốt chỉ hở ra khung cửa, na ná như lỗ châu mai.

+ Thế hệ thứ ba: phát triển thành tổ hợp kiến trúc nói chung.

=> Việc miêu tả nhà giàn, ta thấy được tài năng, sức mạnh của những chiến sĩ nahf giàn cũng như cảm xúc tự hào, ngưỡng mộ, yêu mến của các chiến sĩ ấy.

5. Cảm xúc của tác giả

- Tác giả thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc của ông khi chứng kiến, lắng nghe, trải nghiệm chuyến đi.

- Tác giả trầm trồ, khâm phục, ngưỡng mộ trước tài năng, sức mạnh của những người chiến sĩ nhà giàn khi có thể xây dựng được hệ thống nhà giàn, cắm được hệ thống cọc vững vàng, kiên cố xuống biển sâu đến vậy.

IV. Đọc văn bản Khúc tráng ca nhà giàn

Khúc tráng ca nhà giàn

Xuân Ba

Con tàu xé sóng lách màn đêm vào khu vực Ba Kè. Đồng hồ chỉ 4 giờ sáng. Đại tá Chấn khoát một vòng tay về phía mông lung đen ngòm nói rằng nếu ban ngày sẽ thấy sắc nước đại dương không thẫm đen mà là màu nước hến. Dần dà chút nữa sẽ chuyển sang màu lam. Những sắc độ mà đại tá Chấn vừa nói ấy là chỉ dấu của độ sâu thềm lục địa. Độ thẫm đậm xanh đen là khoảng sâu hun hút từ ngàn thước nước trở lên. Sắc lờ đờ nước hến kia cỡ vài chục mét. Còn sắc lam bằng mắt thường có thể thấy những rặng san hô trĩu trịt với nhiều sắc độ bắt mắt. Những bãi san hô mênh mông ít cũng là chục cây số vuông, nhiều thì hàng chục, cá biệt có tới cỡ trăm ki-lô-mét vuông và không đầu thì cuối hoặc ở giữa thể nào cũng nhô lên, tuỳ theo món thuỷ triều một khoảng đá san hô cỡ vài chục mét mà bây giờ ta vẫn quen gọi là đảo chìm.

Thi sĩ Trần Đăng Khoa thực và ảo khi viết về hiện trạng ấy bằng những câu rất gợi: “Đảo tự giấu mình trong màu nước lam xanh/ Cái giọt máu thiêng dưới ngầu ngầu bọt sóng/ Tổ quốc ơi! Tiếng chúng tôi kêu lên mà mắt chúng

tôi nhìn xuống.”("). Đảo chìm chỉ là phần nhỏ nhoi của tảng băng san hô khổng lồ. Những nước phát triển như Nhật Bản chẳng hạn vớ được những dạng đảo chìm như thế quá bằng vớ được kim cương. Một hệ thống dài cọc hàng chục, hàng trăm mét sẽ xuyên sâu xuống lớp san hô. Rồi giằng rịt với hệ thống đài cọc ấy là liên kết những loại vật liệu hiện đại chịu mặn lẫn chịu nhiệt, chịu được cả động đất. Đó chính là hệ thống móng để đỡ những thành phố nổi, những sân bay trên biển thênh thang như cỡ Kan-sai (Kansai) ở Nhật. Xung quanh những thành phố, những sân bay trên biển ấy chỉ là biển suông thôi chứ chưa nói quanh những đảo chìm, những bãi san hô của Trường Sa có vô vàn chỉ dấu của dầu khí thì còn quý giá, còn đắc địa đến dường nào! Viết đến đây trong tôi lại ập về cảm giác kính phục trước tầm biệt nhỡn của tướng Giáp Văn Cương. Nếu không mưu trí chủ động trong việc giữ đảo giữ biển thì thời điểm cam go nhạy cảm 21 năm trước rất nhiều đảo chìm của Việt Nam sẽ rơi vào tay của những thế lực thù địch. Vậy nên bao năm nay, trên hàng chục đảo chìm ấy, đội hình của lính thuỷ quân vùng IV đã lần lượt thay phiên nhau mà trấn giữ. [...] Cái nơi mà những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI này, những người lính đảo chài chãi ngày đêm từng giữ gìn nâng niu “Cái giọt máu thiêng dưới ngầu ngầu bọt sóng” ấy! Không chỉ có mồ hôi và sức trẻ hoà cùng biển mặn. Còn là máu! Máu của nhiều lính thuỷ Việt đã tưới xuống những rặng san hô Ba Kè này.

Khu vực Ba Kè không cồn, không nhô lên những mỏm để tạo nên thứ đảo chìm nhưng đã tạo ra một độ sâu vừa phải cho phép dựng những chòi canh lênh khênh trên đó mà bây giờ ta quen gọi là nhà giàn. Bao nhiêu nhà giàn, tôi có con số nhưng chả biên ra đây mà chỉ biết rằng từ vị trí nọ đến vị trí kia trên khoảng biển bao la của thềm lục địa, các vị trí nhà giàn xây lưng lại với nhau, vây bọc nhau, đủ sức tạo thành thế trận để giữ cho chủ quyền đất nước những khoảng san hô quý giá mà tiềm ẩn quanh đó là những mỏ dầu, túi khí. Không xa nhà giàn phía trong kia là lênh khênh những giàn khoan của những Bạch Hổ, những Đại Hùng,

Biển đã tờ mờ. Tôi cứ dõi mãi cặp mắt đã nhập nhèm vào cái đốm sáng chiếu ra từ chỗ lênh khênh kia. Khoảng biển giữa con tàu chúng tôi tới cái chòi tít mù kia sáng nay tự dưng sóng dồi lắc một cách dữ dằn. Bây giờ là xi măng cốt sắt, là sàn tường bê tông nhưng hơn mươi, mười lăm năm trước, những căn chòi canh biển ấy kém kiên cố và xây cất không được hiện đại như bây giờ.

Thử tưởng tượng một tiểu đội loanh quanh trên cái sàn diện tích hơn 50 mét vuông quanh năm suốt tháng ngó lên là trời, trông ngang là nước. Định kì tiếp tế, có thời điểm tàu ra sóng lớn xuồng không cặp vào chòi được. Bên tàu ngó sang bên chòi mà rưng rưng nước mắt. Liệu tình cảnh ấy lần này có lặp lại không?

Danh sách vào chòi đã được xướng lên qua loa phát thanh. Không thấy tên tôi.

Đúng hơn là không có một nhà báo nào được vào nhà giàn cả! Chủ nhiệm Chính trị đại tá Chấn xua như xua tà những anh mè nheo) đòi vào nhà giàn rằng sóng lớn quá rất nguy hiểm!

“Tại sao anh đi được?”. Đại tá Chấn thoăn thoắt mặc áo phao, đang cáu nhưng phì cười “các nhà báo khác, chúng tôi khác...”. Cái khác ấy là con xuống thả xuống hệt như chiếc lá dềnh lên trụt xuống khủng khiếp, khác hẳn những lần chúng tôi cập xuống vào đảo. Dường như biển không chấp nhận thứ để đua cùng sóng lớn là chiếc xuồng bé tẻo teo này.

Bộ phận công tác trên tàu hội ý hay đợi để bớt sóng hẵng vào? Nhưng số đông gay gắt rằng theo kinh nghiệm cơ mầu này sóng còn duềnh cả ngày chứ chả thể bớt, vậy nên chỉ có hai tình huống: một là không vào nhà giàn nữa, số quà tặng cùng chỉ thị thì sau này chuyển và truyền đạt cho anh em cũng được; hai là phải khéo léo mưu trí mà vào! Phương án hai được nhanh chóng thông qua.

Biển vẫn làm trò tung hứng chiếc xuống như một thứ đồ chơi mỏng manh. Trầy trật mãi mới có một người nhảy xuống được vào lòng xuống. Rồi một người, một người nữa. Kia rồi, Đại tá Chấn bằng cú nhảy khéo léo nhưng đã đổ ập được vào lòng xuồng...

Bây giờ tôi mới thấy quyết định của chỉ huy con tàu không cho cánh báo chí tham gia là sáng suốt. Chỉ sơ sảy một tẹo là lăn tòm xuống biển gây phiền hà cho anh em không biết ngần nào mà kể. Con xuống có ca nô dẫn có lúc tưởng như mất hút trong núi sóng nhưng tài tình một chốc lại hiện ra. Một tình huống nữa là xuồng cập vào được chân nhà giàn, đoạn trần ai nữa là làm sao leo lên? Nhưng bằng kinh nghiệm, tốp chiến sĩ hải quân trầy trật hồi lâu rồi cũng líu ríu đỡ nhau leo lên được. Khoảng non trưa, may mắn sóng có bớt nên toàn bộ số hàng quà tặng đất liền chuyển cho nhà giàn Ba Kè đã được chuyển sang trót lọt!

Tôi đang nói đến cái nhà giàn không mấy kiên cố những năm xa chứ không phải loại nhà giàn thế hệ mới bây giờ có thể chịu được bão cấp 12, trên cả cấp 12! Những cơn bão năm 1990, 1996, 1999, và sau chót là năm 2000 đã lần lượt thụi và thốc những cú ác liệt vào nhà giàn. Đại tá Chấn kể lại Sở Chỉ huy Quân chủng ở Hải Phòng có lúc lặng hẳn đi khi anh em một số nhà giàn điện về là chòi khó mà trụ được nếu cứ đà bão không thay đổi sức gió như thế này. Không thay đổi tức là đang cấp 11, 12. Trời ơi, thiên nhiên đang cuồng nộ mà sức người thì có hạn. Tàu đặc chủng lẫn máy bay trực thăng nào mà vượt hàng trăm cây số để cứu anh em trong lúc trời biển cùng hiệp đồng tạo trận cuồng phong? “Vĩnh biệt các thủ trưởng. Vĩnh biệt đất liền...”. Đó là những bức điện cuối cùng mà Sở Chỉ huy Quân chủng nhận được...

Mười bốn cán bộ chiến sĩ nhà giàn đã hi sinh trong một số trận bão. Nhà đổ, liệt sĩ Thượng uý Nguyễn Hữu Quảng, Chủ nhiệm Chính trị nhà giàn 1: 3 Phúc Tần đã niệm có những câu đại loại như thế. Một vòng hoa và đồ lễ đạm bạc được từ từ thả xuống biển. Tôi để ý thấy vòng hoa không xoáy chồm lên cuốn ra xa mà dập dềnh theo tàu hồi lâu. […]

Đất có tuần nhân có vận ( nữa là biển cả mênh mông... Những căn nhà giàn, những cái chòi canh chủ quyền ấy không thể kém an toàn và tạm bợ được. Có một buổi sóng lặng, tôi ngồi với thiếu tướng Nguyễn Nam, Chính uỷ Bộ Tư lệnh Công binh, thành viên Đoàn công tác. Có nhiều người từng tấm tắc lẫn phàn nàn rằng công binh là một nghề bí hiểm và lãng mạn?! [...] Chuyện với tướng Nam thú vị bởi cứ chấp chới giữa lằn ranh cái nói được và không nói được như thế...

Từ năm 1946, cụ thể là ngày 25-3, Bác Hồ đã kí Sắc lệnh thành lập Giao thông Công chính Cục, gọi là Cục Công binh. Tôi cố mường tượng ra trong các cuộc kháng chiến, ngành công binh với hàng trăm công trình phục vụ cho quốc phòng lẫn dân sinh, những công trình A, B, C,... này khác giăng suốt từ Bắc đến Nam. Công việc chỉ đơn thuần là đào với đắp, tinh những là thứ thổ mộc, ấy vậy mà bí hiểm lẫn lãng mạn sao? Có lẽ sẽ hằn rất lâu trong tâm trí những người đã từng được một lần may mắn đặt chân đến những khu nhà xây trên phần nổi của những đảo chìm của quần đảo Trường Sa. Có lẽ vì nó ấn tượng? Vị trí những nơi quần cư cho những người lính giữ đảo chìm có lẽ hiện nay là đời thứ ba, thứ tư gì đó. Thời kì đầu tiên chỉ là những cái cọc bê tông (có nơi dùng cọc gỗ) cắm xuống nền san hô, trên bắc hoặc thưng ván hoặc bạt.

“Lều bạt chung chiêng giữa nước, giữa trời Đến một cái gai cũng không sống được”. Thơ của Trần Đăng Khoa như một thứ lí lịch trích ngang hệ thống lẫn lịch sử nhà cửa của đảo chìm Trường Sa. Bây giờ qua một số đảo chìm, có đảo vẫn để nguyên cái nhà gỗ hoặc bê tông lều bạt ấy dáng chừng lưu lại làm kỉ niệm; có đảo đã dỡ phá chỉ còn sót lại mấy cái cọc lênh khênh, có đảo thì phá trụi để lấy nền cho thế hệ nhà thứ ba bây giờ. Thế hệ thứ hai đã có sự can dự của công binh, chủ yếu là công binh của hải quân đảm trách. Đó là những công trình nói là lô cốt cũng được vì nó bít bùng bê tông chỉ hở ra những khung cửa na ná như lỗ châu mai). Trong đó chia ra những ô bê tông dùng cho việc sinh hoạt lẫn phòng thủ tạm gọi là một tổ hợp kiến trúc nói chung cũng bắt mắt giữa dân sinh lẫn quốc phòng.

Từ xa ngó như cái nhà, không, một biệt thự màu trắng ba, bốn tầng đột ngột nhô giữa đại dương. Đặt chân lên đảo có cửa giả, có các phòng làm việc sinh hoạt hội họp. Có những ô cửa trổ ra các hướng hình như tiện cho cả việc bố phòng lẫn phong thuỷ. Tôi biết ngó bắt mắt là thế nhưng gì thì gì cũng phải chịu được bão gió cấp cao nhất lại cả động đất nữa. Rồi bên dưới tầng san hô kia, móng tất nhiên rồi nhưng cũng có thể là bể chứa nước ngọt hay công sự phục vụ cho việc phòng thủ này khác. Nhiều tiện ích lẫn phải kiên cố như thế nên cần có sự can dự kha khá của ngành công binh quốc gia vào việc thiết kế xây cất những nhà giàn thế hệ thứ ba ở các đảo chìm Trường Sa.

Không biết mai kia có thế hệ nhà thứ tư, thứ năm nữa không thì chịu!

Câu chuyện của chúng tôi trở lại với cái nhà giàn. Tôi chỉ biết láng máng rằng cái nhà giàn hiện nay là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa kết cấu khung thép của giàn khoan dầu khí với hệ thống móng cọc thép chịu được bão gió cấp 12 hoặc hơn. Tôi cũng láng máng thêm, phải là một kết cấu thế nào đó của nhiều nhà giàn mà máy bay trực thăng có thể đậu được để tiện cho việc tiếp tế phòng mỗi khi biển động.

Ngạc nhiên khi được biết, cái nhà giàn chót vùng biển đất Mũi Cà Mau cũng do quân của tướng Nam đây thiết kế thi công.

Độc đáo là hệ thống nhà giàn ấy được mọc lên, được trụ vững trên nền đất yếu mà trong nghề xây cất, quân xây dựng kị nhất bởi phải xử lí nền móng, rất nhiêu khê! Tôi ngó xuống làn nước thăm thẳm kia để rùng mình, không biết anh em công binh làm cách nào mà thương lượng được với Hà Bá hay vua Thuỷ Tề để cắm được hệ thống dài cọc vững vàng kiên cố như thế? [...]

Từ “Lều bạt chung chiêng giữa nước, giữa trời” đến nhà ba tầng (xin nói lại là một tổ hợp kiến trúc giữa dân sinh và phòng thủ). Từ cái chòi canh biển chênh vênh từng gây tổn thất cho người lính canh đảo đến nhà giàn vững chãi kiên cố hiện nay, quân của tướng Nam đã góp phần làm nên cái neo vững chãi bền chặt của chủ quyền biển đảo ở Trường Sa.

Mà nếu tôi không lầm, có lẽ họ sẽ là ông tổ của những hậu duệ) mai kia sẽ cắm hệ thống đài cọc hiện đại – bà đỡ cho nền móng những thành phố, sân bay trên biển của nước Việt Nam mới.

(In trong Tuyển tập phóng sự: Những cự li thương mến, NXB Thanh niên, Hà Nội, 2013)

V. Văn mẫu

Đề: Theo em, vấn đề được nêu trong bài phóng sự có ý nghĩa như thế nào đối với xã hội hiện nay?

- Đoạn trích “Khúc tráng ca nhà giàn” đã để lại ấn tượng cho người đọc về con người và thiên nhiên vùng đá ngầm Ba Kè. Nhà văn đã ghi chép rất chân thực, cảm động về cuộc sống khó khăn gian khổ, nhiều mất mát và hi sinh của những cán bộ, chiến sĩ trên các nhà giàn ở quần đảo Hoàng Sa. Qua đó, thể hiện sự trân trọng, ca ngợi, tự hào về  những đóng góp của những người lính, chiến sĩ biển khơi- những người phải đối mặt trước khó khăn dữ dội của biển cả để đem lại sự phát triển, nâng cao đời sống của người dân đất nước.

- Ý nghĩa với xã hội hiện nay: Đất nước ngày càng phát triển, đời sống nhân dân ngày càng ấm no là kết quả của rất nhiều con người làm việc thầm lặng mỗi ngày như các các bộ, chiến sĩ ở quần đảo Hoàng Sa. Từ đó cần phải ca ngợi, biết ơn, trân trọng với những con người ấy. Đồng thời, mỗi người chúng ta- đặc biệt là thế hệ trẻ hiện nay cần phải có một lý tưởng sống để đóng góp, cống hiến cho sự phát triển của đất nước

Đánh giá

0

0 đánh giá