Bài thơ Vội vàng - Xuân Diệu - Nội dung, tác giả, tác phẩm

520

Tài liệu tác giả tác phẩm Vội vàng Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Vội vàng lớp 12.

Tác giả tác phẩm: Vội vàng - Ngữ văn 12

I. Tác giả Xuân Diệu

Văn bản Vội vàng - Xuân Diệu - Nội dung, tác giả, tác phẩm (ảnh 1)

*Tiểu sử

- Xuân Diệu (1916- 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu.

- Quê: Can Lộc – Hà Tĩnh nhưng sống với mẹ ở Quy Nhơn.

- Năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn.

- Cuối năm 1940, ông vào Mĩ Tho (nay là Tiền Giang) làm viên chức tham tá thương chánh.

-  Năm 1942, ông quay lại Hà Nội sống bằng nghề viết văn.

-  Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh.

- Trong kháng chiến, Xuân Diệu di tản lên chiến khu Việt Bắc, hoạt động văn nghệ cách mạng.

- Hòa bình lập lại, Xuân Diệu về sống và làm việc tại Hà Nội đến khi mất.

*Sự nghiệp văn học

- Phong cách sáng tác:

+ Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca đương đại một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo.

+ Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết.

- Tác phẩm tiêu biểu: Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960)... Ngoài ra ông còn viết văn xuôi và tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học.

*Vị trí và tầm ảnh hưởng

- Là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới.

 - Xuân Diệu là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.

- Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn.

- Ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996). 

II. Tìm hiểu văn bản Vội vàng

1. Thể loại

- Tác phẩm Vội vàng thuộc thể loại: thơ tự do.

2. Xuất xứ

- Trích trong tập Thơ thơ, NXB Đời nay, Hà Nội, 1938, tr55-57.

3. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: biểu cảm.

4. Bố cục đoạn trích

Bố cục văn bản Vội vàng

– Phần 1 (13 câu thơ đầu): bộc lộ tình yêu cuộc sống trần thế tha thiết.

– Phần 2 ( từ câu 14 đến câu 29): thể hiện nỗi băn khoăn về sự ngắn ngủi của kiếp người, trước sự trôi qua nhanh chóng của thời gian.

– Phần 3 (đoạn còn lại): lời giục giã cuống quýt, vội vàng để tận hưởng những giây phút tuổi xuân của mình giữa mùa xuân của cuộc đời, của vũ trụ.

5. Giá trị nội dung

- Bài thơ là lời giục giã hãy sống mãnh liệt, sống hết mình, hãy quý trọng từng phút, từng giây của cuộc đời mình nhất là những năm tháng tuổi trẻ của một hồn thơ yêu đời ham sống đến cuồng nhiệt.

6. Giá trị nghệ thuật

- Hình thức nghệ thuật điêu luyện: sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa mạch cảm xúc và mạch lí luận, gọng điệu say mê, sôi nổi, những sáng tạo độc đáo về ngôn từ và hình ảnh thơ.

III. Tìm hiểu chi tiết văn bản Vội vàng

1. Tình yêu trần thế tha thiết

a. Ước muốn kì lạ

- Tắt nắng, buộc gió đó đều là những ước muốn không thể thực hiện được ⇒ tác giả muốn níu giữ thời gian,níu giữ những gì đẹp đẽ nhất của cuộc sống, muốn bất tử hóa hương sắc mùa xuân trần thế

- Thể thơ ngũ ngôn cùng điệp từ Tôi muốn được sử dụng hiệu quả

b. Mùa xuân thiên đường trên mặt đất

- Câu thơ bất ngờ kéo dài mở rộng tám chữ để dễ dàng vẽ bức tranh cuộc sống, nhịp thơ nhanh hơn, đồn dập hơn, gợi niềm háo hức say mê

- Điệp từ này đây chỉ sự phong phú, giàu có, đầy đủ, gần gũi muôn màu muôn vẻ của thiên nhiên

- Hình ảnh đẹp đẽ, tươi non tràn đầy xuân sắc, gắn với tình yêu tuổi trẻ: những thảm cỏ xanh non, lá non cành tơ phơ phất, hoa đua nhau khoe sắc dâng mật ngọt, ong bướm đắm say, ái ân tuần tự,....

- Ẩn dụ chuyển đổi cảm giác: Tháng riêng ngon như một cặp môi gần đầy sáng tạo mới mẻ, thú vị

- Tất cả hài hòa cộng hưởng cùng vẽ nên mùa xuân – thiên đường trên mặt đất

⇒ Nhà thơ muốn nhắn nhủ đến mọi người: sự đẹp đẽ, tinh túy nhất không phải tìm đâu xa mà nó là cuộc sống xung quanh chúng ta, hãy yêu mến gắn bó hết mình với cuộc sống

- Hai câu cuối đoạn thơ 1 là niềm tiếc nuối mùa xuân ngay khi nó còn tồn tại:

Tôi sung sướng nhưng vội vàng một nửa

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân.

Vội vàng - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

2. Quan niệm thời gian, tuổi trẻ, tình yêu

a. Đẹp nhất là con người giữa tình yêu và tuổi trẻ

- Thi nhân xưa luôn coi thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp

- Xuân Diệu lấy con người giữa tuổi trẻ, tình yêu làm chuẩn mực cho mọi vẻ đẹp ở đời

b. Quan niệm sống mới

- Xuân Diệu đã nồng nhiệt khẳng định thiên đường ở ngay trên mặt đất trong cuộc sống này

- Vậy nên hãy sống cao độ, quý trọng từng phút, từng giây của cuộc đời này nhất là những khoảnh khắc của tuổi trẻ, tình yêu

3. Lí do tiếc nuối mùa xuân, tuổi trẻ

- Với Xuân Diệu mùa xuân, tuổi trẻ là một đi không trở lại thế nên thi sĩ tiếc nuối, lo âu

- Hàng loạt các câu thơ định nghĩa, điệp ngữ nghĩa là đã giúp thi nhân khẳng định chắc nịch mùa xuân, tuổi trẻ sẽ qua sẽ hết sẽ già, sẽ mất

- Giữa cái mênh mông vô cùng, vô tận của vũ trụ, thời gian, sự hiện diện của con người, tuổi trẻ là quá ngắn ngủi mong manh

- Lời thơ chứa đựng nỗi ngậm ngùi mới mẻ mà thấm thía

- Và tác giả đã cảm nhận rõ mồn một sự phoi pha phai tàn đang âm thầm diễn ra: thời gian rớm vị chia phôi, sông núi than thầm tiễn biệt, từ cơn gió xinh đến ngọn lá biếc đến bày chim non đều ngậm ngùi vì sự tàn úa, phôi phai

4. Lời đề nghị và biểu hiện của cách sống vội vàng

- Xuân Diệu giục giã hối thúc mọi người hãy sống chạy đua với thời gian, sống vội vàng: Mau đi thôi mùa chưa ngả chiều hôm

- Câu thơ 3 chữ Tôi muốn ôm rất đặc biệt gợi hình ảnh cái tôi ham hố đang ôm trọn tất cả sự sống mơn mởn

- Thi sĩ muốn tận hưởng tât cả những gì non nhất, ngon nhất của sự sống: đó là mây đưa và gió lượn, cánh bướm với tình yêu, là non nước và cây và cỏ rạng

⇒ Với Xuân Diệu nàng xuân phải thanh tân và quyến rũ

- Đâu chỉ có thế thi sĩ còn muốn tận hưởng thiên nhiên như tận hưởng ái tình và phải đạt đến độ ngây ngất no nê:

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

- Và thậm chí là tận hưởng bằng tất cả các giác quan để rồi lịm đi trong niềm mê đắm ngây ngất: Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào ngươi.

IV. Đọc tác phẩm: Vội vàng

Vội vàng

Xuân Diệu

Tặng Vũ Đình Liên

Tôi muốn tắt nắng đi

Cho màu đừng nhạt mất;

Tôi muốn buộc gió lại

Cho hương đừng bay đi.

 

Của ong bướm này đây tuần tháng mật;

Này đây hoa của đồng nội xanh rì;

Này đây lá của cành tơ phơ phất;

Của yến anh này đây khúc tình si;

Và này đây ánh sáng chóp hàng mi,

Mỗi buổi sớm, thần Vui hằng gõ cửa;

Tháng giêng ngon như một cặp môi gần;

Tôi sung sướng. Nhưng vội vàng một nửa:

Tôi không chờ nắng hạ mới hoài xuân,

 

Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua,

Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già,

Mà xuân hết, nghĩa là tôi cũng mất.

Lòng tôi rộng, nhưng lượng trời cứ chật,

Không cho dài thời trẻ của nhân gian,

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn,

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất, nhưng chẳng còn tôi mãi,

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời;

Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi,

Khắp sông núi vẫn than thầm tiễn biệt...

Con gió xinh thì thào trong lá biếc,

Phải chăng hòn vì nỗi phải bay đi?

Chim rộn ràng bỗng đút tiếng reo thi,

Phải chăng sợ độ phai tàn sắp sửa?

 

Chẳng bao giờ, ôi! Chẳng bao giờ nữa...

Mau đi thôi! Mùa chưa ngả chiều hôm,

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng,

Cho no nê thanh sắc của thời tươi;

– Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào người!

(Theo Thơ thơ, NXB Đời nay, Hà Nội, 1938)

V. Văn mẫu

Đề: Bài thơ Vội vàng của Xuân Diệu đã tác động như thế nào tới bạn về nhận thức và tuổi trẻ? Viết đoạn văn (khoảng 150 chữ) để trả lời câu hỏi này.

"Vội Vàng" là một trong những bài thơ tiêu biểu nhất của Xuân Diệu, được in trong tập "Thơ thơ" (1938). Bài thơ thể hiện quan niệm sống mới mẻ, độc đáo của nhà thơ về cuộc sống, tình yêu và tuổi trẻ, đồng thời khơi gợi trong lòng người đọc những cảm xúc mãnh liệt, nồng nàn. Xuân Diệu mở đầu bài thơ bằng một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, rực rỡ, tràn đầy sức sống: "Của ong bướm này đây tuần tháng mật / này đây hoa của đồng nội xanh rì / này đây lá của cành tơ phơ phất / của yến anh này đây khúc tình si / và này đây ánh sáng chớp hàng mi". Bức tranh thiên nhiên này không chỉ đẹp ở hình ảnh, mà còn đẹp ở âm thanh, nhịp điệu. Nhịp thơ nhanh, gấp, dồn dập tạo cảm giác vội vã, hối hả. Nhận thức rõ nét về sự trôi chảy nhanh chóng của thời gian, Xuân Diệu cảm thấy lo lắng, trăn trở: "Xuân đương tới, nghĩa là xuân đương qua / Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già". Nỗi lo lắng này được thể hiện qua những câu thơ như "Mỗi năm một tuổi như đuổi xuân đi / Hết tuần trăng mật, chẳng còn nguyên vẹn", "Còn trời đất, chẳng còn tôi mãi / Nên vội vàng làm tất cả những gì phải làm".  Từ đó, nhà thơ bộc lộ quan niệm sống tích cực, lạc quan: "Hãy vội vàng yêu hết sức yêu / Hãy vội vàng sống hết sức sống". Quan niệm này thể hiện qua những câu thơ như "Mùa xuân - cành tơ - lá rậm / Rồi thoảng một cơn gió nhẹ / Thổi về nơi chốn vô vi", "Chết vì yêu trong cõi người tan biến / Chỉ còn là hương, là sắc, là thơ". "Vội Vàng" là một bài thơ giàu cảm xúc, lay động lòng người. Bài thơ thể hiện quan niệm sống mới mẻ, độc đáo của Xuân Diệu về cuộc sống, tình yêu và tuổi trẻ, đồng thời khơi gợi trong lòng người đọc những cảm xúc mãnh liệt, nồng nàn. Bài thơ đã có tác động to lớn đến những người trẻ, khơi gợi trong họ niềm ham sống, yêu đời, trân trọng thời gian và sống hết mình cho tuổi trẻ.

Đề bài: Phân tích bài thơ Vội vàng

Tuổi trẻ là gì mà cứ khiến ta phải nuối tiếc? Phải chăng vì tuổi trẻ quá đẹp, quá rực rỡ khiến ta chỉ mong nó ngưng đọng mãi không thôi. Có lẽ chính vì vậy mà Xuân Diệu như bâng khuâng tiếc cả đất trời khi tuổi trẻ chẳng đôi lần thắm lại. Với những tứ thơ đầy cảm xúc mãnh liệt, có thể nói Vội vàng của Xuân Diệu đã thể hiện một cái tôi rất riêng cùng những suy ngẫm tinh tế về thời gian, tuổi trẻ, tình yêu và sức sống mãnh liệt.

Nếu như thơ xưa ưa cái đẹp thanh trong vị, đạm trong sắc, cái đẹp thiên về sự hài hòa, cân đối, giản dị, rất mực cổ điển thì đến Xuân Diệu, cái đẹp phải thật thắm sắc đượm hương, vậy nên hồn thơ ấy mới khát vọng táo bạo muốn “tắt nắng, buộc gió”. Âu đó cũng là khát vọng giữ lại sắc hương cho dương gian này. Bức tranh thiên nhiên tiếp theo được bày ra trong thơ Xuân Diệu là một bữa tiệc trần gian lộng lẫy, rực rỡ, đầy thanh âm và màu sắc:

“Của ong bướm này đây tuần tháng mật

Này đây hoa của đồng nội xanh rì

Của yến anh này đây khúc tình si

Và này đây ánh sáng chớp hàng mi

Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần..”

Rõ ràng, nếu như trước Xuân Diệu, Nguyễn Du từng quan niệm, cuộc đời như một cuộc bể dâu, bà huyện Thanh Quan thì ví nó là cuộc hí trường, các nhà thơ như Thế Lư trong phong trào thơ Mới cũng chán bởi mĩ lệ trần gian, mà đưa mắt tìm nguồn thơ trong chốn bồng lai tiên cảnh xa xôi diệu vợi. Nhưng đến Xuân Diệu, ông thấy cuộc sống vẫn đẹp, vẫn rực rỡ như một bức tranh xuân đầy gọi mời quyến rũ với đủ màu sắc “xanh rì”, rộn rã những âm thanh..Bằng cách đó, “Xuân Diệu đã đốt cảnh bồng lai và xua ai nấy về hạ giới”, để trân trọng hơn vẻ đẹp của bức tranh trần thế, để cùng hòa mình đắm say và khúc tình si của chính dương gian này. Đặc biệt để ý so sánh của Xuân Diệu “tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, so sánh kết hợp với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác đã khiến câu thơ trở nên táo bạo hơn, tháng Giêng non tơ mơn mởn đầy sức sống kia sao mà thật quyến rũ gọi mới. So sánh ấy cũng phần nào như hé mở cho ta thấy hồn thơ Xuân Diệu, đôi mắt của Xuân Diệu nhìn trần thế như đôi mắt của một vị khách tình si, “cặp mắt xanh non và rờn biếc”, như muốn bao luyến cả nhân gian này. Đồng thời cũng thấy cái mới của Xuân Diệu ở đây đó là ông không dùng thiên nhiên làm điểm tựa để so sánh với con người như trong thơ trung đại, mà ngược lại thiên nhiên lại được so sánh với con người, con người là chuẩn mực để so sánh với thiên nhiên. Vậy nên đoạn thơ tuy ngắn gọn, nhưng lại phác lên những nét vẽ để ta thấy nét mới mẻ, cách tân của hồn thơ Xuân Diệu.

Chảy tràn theo dòng cảm xúc ấy, vì cuộc sống này đẹp như một vườn xuân, đầy gọi mời, hấp dẫn, nên nhà thơ cũng tiếc nuối phần nào khi chứng kiến sự chảy trôi của thời gian, đặc biệt là sự chảy trôi của đời người, của tuổi trẻ:

“Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

..Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại!

Còn trời đất nhưng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời”.

Trong thơ trung đại, các cụ ta quan niệm thời gian tuần hoàn, do đó không cảm thấy hối hả, hay lo lắng trước sự chảy trôi của thiên nhiên, đất trời và đời người. Nhưng đến thơ Mới, mà cụ thể là trong Vội Vàng ta thấy rõ, Xuân Diệu nhìn thấy sự chảy trôi của thời gian và sự ra đi của tuổi xanh trên con người, trong khi tuổi trẻ là tuổi đẹp nhất, quý giá nhất nên thành ra tiếc nuối bâng khuâng. Sự chia ly được diễn ra trên hầu khắp vạn vật, sự ra đi của thời gian với con người, của thời gian với cả chính thời gian, sự chia ly nhuốm trong cảnh vật “tháng năm rớm vị chia phôi, sông núi than thầm tiễn biệt, chim rộn ràng bỗng đứt tiếng reo thi..”. Nhưng cũng chính từ cái nhìn mới mẻ trong quan niệm về thời gian ở đoạn thơ này, ta thấy một Xuân Diệu đậm chất “vội vàng”, ông nhìn thấy rõ “tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại”, nên vội vàng lao vào cuộc đua với thời gian, sống đã đầy đến từng khoảnh khắc để được tận hưởng, tận hiến một cách trọn vẹn, bồng bột, vô tư:

“Mau đi thôi! mùa chưa ngả chiều hôm

Ta muốn ôm

Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn

Ta muốn riết mây đưa và gió lượn

Ta muốn say cánh bướm với tình yêu

Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều

Và non nước, và cây, và cỏ rạng

Cho chếnh choáng mùi thơm cho đã đầy ánh sáng

Cho no nê thanh sắc của thời tươi

Hỡi xuân hồng ta muốn cắn vào người”

Cụm từ “ta muốn ôm” đứng giữa dòng thơ đầy ham hố, như thể hiện khát khao muốn ôm cho trọn, cho hết, cho đủ đầy cuộc sống ngập tràn thanh sắc trần gian ngoài kia. Các động từ mạnh “ôm, riết, say, thâu, cắn” đã lột tả một cách mãnh liệt hồn thơ cuống quýt, vồ vập vội vàng của Xuân Diệu. Những làn sóng ngôn từ đan chéo nhau, giao thoa, song song thành những đợt sóng vỗ mãi vào tâm hồn người đọc. Ta như cảm nhận được nguồn sống, sức sống phập phồng trong trái tim thơ của ông, “Sức sống như máu căng lên trong lộc loài nai, như những mầm non háo hức bước ra khỏi thân cây, ngoạm sự sống để là êm nỗi khát thèm”. Đúng như Hoài Thanh từng nhận định: Thơ Xuân Diệu là một nguồn sống dào dạt chưa từng thấy ở chốn nước non lãnh lẹo này. Trong những câu thơ cuối, ta thấy Xuân Diệu như con ong hút nhụy đang phơi phới hương say của mật ngọt,, lại thấy thi sĩ như người tình trong cuộc tình chếnh choáng men say.

Vội vàng là một bài thơ rất Xuân Diệu, Xuân Diệu ở sự vồ vập, sôi nổi, cuống quýt đầy giục giã của nhà thơ hãy sống và tận hưởng cuộc sống. Xuân Diệu ở cặp mắt xanh non rờn biếc âu yếm nhìn nhân gian, và Xuân Diệu ở những ngôn từ như đằm cả đời thơ, trái tim thơ, nhịp thơ vào trong đó.

Đánh giá

0

0 đánh giá