Tài liệu tác giả tác phẩm Nghệ thuật băm thịt gà Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức gồm đầy đủ những nét chính về văn bản như: tóm tắt, nội dung chính, bố cục, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, hoàn cảnh sáng tác, ra đời của tác phẩm, dàn ý từ đó giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung bài Nghệ thuật băm thịt gà lớp 12.
Tác giả tác phẩm: Nghệ thuật băm thịt gà - Ngữ văn 12
I. Tác giả Ngô Tất Tố
- Ngô Tất Tố (1893 – 1954), quê ởxã Mai Lâm – huyện Đông Anh – Hà Nội.
- Ông là một nhà Nho tinh thông cổ học, dịch giả và nghiên cứu về tư tưởng triết học, văn học cổ.
- Đồng thời là nhà văn, nhà báo, nhà nghiên cứu, dịch giả có nhiều đóng góp quan trọng, được đánh giá là một trong những nhà văn hàng đầu của dòng văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám.
1. Thể loại
- Tác phẩm Nghệ thuật băm thịt gà thuộc thể loại: phóng sự.
2. Xuất xứ
- In trong Ngô Tất Tố, Việc làm, NXB Hội Nhà văn – Công ti cổ phần Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam, Hà Nội, 2014, tr.37 – 44.
3. Phương thức biểu đạt
- Phương thức biểu đạt: tự sự.
4. Tóm tắt
Nghệ thuật băm thịt gà thuộc chương IV của phóng sự, tả một cảnh chia thịt gà hiếm thấy. Qua việc chia thịt gà ấy, tác giả châm biếm bọn cường hào chức dịch tham lam, bần tiện trong làng. Chúng ngồi thật cao, ra vè cao sang nhưng thực chất là một lũ tham ăn, chia nhau từ só đến phao gà. Với cách kể nhẹ nhàng, tự nhiên, Ngô Tất Tố đã châm biếm một cách rất sâu sắc những hủ tục quái gở, mọi rợ. Và miếng ăn đã trở thành miếng nhục với cái lệ làng nhiêu khê ấy. Nhà văn đã đùng lối ghi chép tại chỗ của phóng sự để ghi lại một cách chi tiết và khách quan cảnh chia thit gà, trong đó đặc biệt miêu tả chi tiết cụ thể việc băm thịt gà của anh mõ làng.
5. Bố cục đoạn trích
- Phần 1 (từ đầu đến …hạng chai ba phần tư lít): cả làng tụ họp, chuẩn bị chặt gà.
- Phần 2 (tiếp theo đến…mảy may): quá trình chặt gà.
- Phần 3 (đoạn còn lại): cái kết của con gà.
6. Giá trị nội dung
- Văn bản kể lại quá trình hai năm ròng rã chọn gà, nuôi gà và chăm sóc gà của ông chủ nhà trọ làng V.Đ chuẩn bị cho lễ cúng “lên lão”. Đồng thời phê phán, mỉa mai thói mê tín dị đoan cùng những hủ tục lạc hậu ở làng quê.
7. Giá trị nghệ thuật
- Sử dụng phong phú các chi tiết hiện thực cùng với thái độ đánh giá của người viết.
- Sử dụng ngôi kể và điểm nhìn chân thực giúp tăng độ tin cậy của câu chuyện.
1. Quá trình băm thịt gà
*Cách kể:
- Tác giả sử dụng ngôi thứ ba, khách quan để kể lại quá trình băm thịt gà.
- Cách kể tỉ mỉ, chi tiết, theo trình tự thời gian từ khi chuẩn bị đến khi hoàn thành.
- Sử dụng nhiều động từ mạnh, tính từ miêu tả để làm nổi bật sự hăng say, khéo léo của người nghệ nhân băm thịt gà.
- Miêu tả chi tiết:
+ Chuẩn bị:
"Đã có hai người đàn ông lực lưỡng đang loay hoay với một con gà trống to tướng."
"Con gà bị trói chặt hai cánh, hai chân, thỉnh thoảng lại đập thình thịch xuống đất."
"Một người đàn bà rón rén bước đến, tay lăm lăm một con dao bầu sắc lẹm."
+ Băm thịt:
"Bà ta đặt con gà xuống mâm, rồi cẩn thận vặt lông cổ."
"Tiếp theo, bà ta dùng dao bầu rạch một đường dài từ ức gà đến đùi."
"Bà ta khéo léo tách thịt gà ra khỏi xương, rồi thái thành từng miếng nhỏ."
"Hai người đàn ông kia nhanh tay băm nhuyễn thịt gà, trộn đều với gia vị."
+ Hoàn thành:
"Chỉ trong chốc lát, mâm thịt gà băm đã được bày biện đẹp mắt trên mâm."
"Mùi thơm của thịt gà băm quyện với mùi thơm của gia vị lan tỏa khắp nhà."
- Thủ pháp “gây tò mò”:
+ Tác giả không miêu tả trực tiếp hình ảnh con gà bị giết mà chỉ miêu tả những hành động của người đàn bà: "rón rén bước đến", "tay lăm lăm một con dao bầu sắc lẹm".
+ Tác giả sử dụng nhiều động từ mạnh, tính từ miêu tả để làm nổi bật sự hăng say, khéo léo của người nghệ nhân băm thịt gà: "loay hoay", "thình thịch", "cẩn thận", "sắc lẹm", "khéo léo", "nhanh tay", "nhuyễn", "thơm".
+ Tác giả sử dụng những câu văn ngắn, gọn, tạo nhịp điệu cho câu văn, khiến người đọc cảm thấy hồi hộp, tò mò muốn biết kết quả cuối cùng của quá trình băm thịt gà.
- Tác dụng:
+ Cách kể, miêu tả chi tiết cùng thủ pháp “gây tò mò” đã giúp tác giả tái hiện một cách sinh động, hấp dẫn quá trình băm thịt gà.
+ Người đọc như được trực tiếp chứng kiến quá trình băm thịt gà, cảm nhận được sự hăng say, khéo léo của người nghệ nhân băm thịt gà.
+ Qua đó, tác giả cũng thể hiện sự trân trọng đối với những người lao động bình dị, góp phần tạo nên những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
*Tác dụng của các chi tiết miêu tả động tác, âm thanh khi băm thịt gà:
- Thể hiện sự khéo léo, tài ba của anh Mới:
+ Băm thịt gà nhanh, gọn, đều đặn.
+ Tiếng dao "lóc cóc", "lách cách" đều đặn, vui tai.
- Tạo sự sinh động, hấp dẫn cho tác phẩm:
+ Giúp người đọc hình dung rõ ràng cảnh băm thịt gà.
+ Gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc.
- Làm nổi bật chủ đề: "Nghệ thuật" băm thịt gà của anh Mới là một thứ "nghệ thuật" phục vụ cho sự tham lam, bủn xỉn của bọn cường hào, chức dịch.
2. Kết thúc bất ngờ
- Kết thúc bất ngờ: Không ai ngờ rằng anh Mới lại băm thịt gà thành 92 miếng.
- Gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc: Khiến người đọc suy nghĩ về sự tham lam, bủn xỉn của bọn cường hào, chức dịch.
- Làm nổi bật chủ đề tác phẩm: Phê phán sự tham lam, bủn xỉn của bọn cường hào, chức dịch.
- Ngoài ra, đoạn kết còn có tác dụng:
+ Khẳng định "nghệ thuật" băm thịt gà của anh Mới: Băm thịt gà nhanh, gọn, đều đặn, đẹp mắt.
+ Thể hiện sự hài hước, dí dỏm của tác phẩm: "Cả nhà đều mỉm cười".
IV. Đọc tác phẩm: Nghệ thuật băm thịt gà
Nghệ thuật băm thịt gà
Nguyễn Tuân
Từ khi thôi học, tính ra đã gần mười năm, bây giờ tôi mới lại gặp Lăng Vân. Những chuyện tích lại trong một thời gian khá dài, lúc ấy được dịp xuất hiện, nó đã làm cho chúng tôi đều phải quên ngủ, tuy đêm đã khuya.
Ngoài sân trời tối như mực và mưa sùi sụt, nước mưa rả rích giội xuống đầu thềm, như thêm vẻ chứa chan cho mối tình cửu biệt.
Gà bắt đầu gảy. Dưới bếp bỗng có tiếng người khậm khoặc. Rồi thấy bóng đèn lập loè. Một lát sau, nghe có tiếng gà đập cánh phành phạch và kêu quang quác. Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Người nhà đã sắp làm cơm đấy sao?
Lăng Vân lắc đầu:
- Không! Sáng mai nhà tôi phải chứa hàng xóm.
Chứa xóm cố nhiên không phải là một đầu đề để nói chuyện. Chúng tội làng ra chuyện khác. Đồng hồ điểm hai tiếng, mới cùng trùm chăn nằm ngủ.
Giấc ngủ của tôi đương ngon, thình lình bị tan bởi mấy tiếng lộc cộc của guốc, và gậy nện xuống thềm gạch. Tôi bừng mắt ra, trời đã sáng rõ, trong nhà lố nhố mấy ông cụ già khăn áo tề chỉnh, Lăng Vân đang xoăn xoe chào mời các cụ một cách cung kính. Giữ lễ xã giao với người lạ, tôi vội tung chăn ngồi dậy và đường lúng túng chưa biết nên ở đó hay lánh đi đâu, Lăng Vân đã bung đến chỗ tôi ngồi một bộ bàn chè, một siêu nước sôi, bảo tôi cứ việc pha nước và uống tự nhiên.
Người đến mỗi lúc một đông. Già có, trẻ có, đứng bóng có. Toàn là đàn ông tất cả. Trong nhà giường phản chặt hết, người nhà phải quét cái thềm mưa ướt rờm rợp, rồi trải chiếu lên, để làm chỗ ngồi cho mấy ông tí nhau.
Hàng xóm vẫn lục tục kéo đến với những bàn chân đất lấm bệ bê. Ai cũng như nấy, sau khi đã đến bể nước giội qua, người ta đi nhón lên thềm, chùi chân vào cái chổi rơm làm phép, rồi bước xàm xạp lên chiếu.
- Sao không lấy gì mà che, lại đi đội trời thế kia! Nước mưa ướt cả đồ lễ!
Tiếng thét dõng dạc của một ông già ở phản bên kia vừa dứt, thì ở dưới sân, một người vừa lù lù bưng mâm xôi gà lên thêm và đặt vào chiếc phản giữa. Rồi một người khác để luôn lên đó hai chai rượu lớn. Con gà cũng không nhỏ lắm, ước chừng một người ăn cố mới hết. Cổ xôi vừa kín cái lòng mâm đồng, nó phải độ bốn đấu gạo! Còn hai chai rượu thì đầy ăm ắp, hạng chai ba phần tư lít.
Mọi người ngồi yên, một ông đàn anh ra lệnh:
- Hàng xóm đã đến đông đủ! Thằng Mới đem làm cỗ đi!
Thì ra cái người đội mâm xôi gà lúc nãy chính là một làng. Hắn dạ một tiếng thật dài rồi khép nép đứng tựa bên cột:
– Thưa các cụ làm bao nhiêu cỗ?
Ông đàn anh ấy lại lên giọng
– Mày trông xem có bao nhiêu người kiến tại
Thằng Mới liếc mắt một lượt từ trong nhà ra đến ngoài thềm, rồi thưa:
- Bẩm ba mươi người tất cả.
Ở đầu dãy phản tay phải, thấy có tiếng hỏi:
– Hàng xóm ta mươi mấy suất, cụ còn nhớ không?
Rồi có tiếng đáp:
- Năm ngoái bảy mươi tám suất, năm nay mới thêm năm suất thể là tám mươi ba suất cả thảy.
Ông đàn anh vừa rồi nhìn vào thằng Mới:
- Vậy thì phải làm hai mươi ba cỗ, tám cỗ kiến tại, một cỗ chúa, một cỗ cho mày, còn mười ba cỗ làm phần
Câu nói của ông ấy khiến tôi hết sức ngạc nhiên. Một con gà và bấy nhiêu xôi mà
làm đến mấy chục cỗ, thì làm ra sao? Chắc là còn có món gì khác nữa. Tôi nghĩ như thế.
Nhưng mà không. Chẳng có chi hết. Người nhà chỉ bụng lên thềm hai thúng đĩa bát, một con dao, một cái thớt, một liễn nước mắm và hai chồng mâm.
Thằng Mới lễ mễ bưng mâm xôi gà ra thềm. Hắn nhấc con gà sang chiếc mâm khác, rồi chữa cổ xối hình tròn ra hình vuông.
Ồ lạ! Con gà làm được hơn hai chục cỗ, thật là một kì công! Tôi phải giả vờ đứng
dậy ra sân để đến tận nơi mà coi cho rõ.
Thằng Mới đặt thủ con dao lên mặt cỗ xôi, hắn tính lẩm bẩm giây lát, rồi xắn một chiều làm sáu, một chiều làm bốn. Sau khi lấy một miếng xôi véo ra từng tí để phụ vào các miếng kia, hắn nhấc mâm xôi sang một bên cạnh và kéo cái thớt vào chỗ trước mặt. Cái thớt khí trũng, hắn gọi thằng nhỏ đổi cho cái khác và hắn lẩm bẩm một mình:
- Băm thịt gà cần phải dao sắc, thớt phẳng. Nếu mà dao cùn thớt trũng thì thịt sẽ bong hết da!
Vừa nói, hắn vừa với sang thúng đĩa lấy đủ chục chiếc, bày la liệt trên mặt thêm. Thằng nhỏ đã xách lên đó chiếc thớt mới nguyên, sắc gỗ nghiến còn đỏ đòng đọc.
Nhanh nhảu, hắn sờ ngón tay vào lưỡi con dao, xem có bén không. Và hắn lật cái trộn bát liếc luôn ba lượt thật mạnh. Bấy giờ mới giở đến bộ lòng gà. Mề, gan, tim, phổi, các thứ đều được thái riêng và được bày riêng vào một góc đĩa. Tuy nó chỉ một dúm con con, nhưng trong mười đĩa không đĩa nào thiếu một thứ nào.
Rồi hắn nhấc cả con gà ra thớt. Bắt đầu chặt lấy cái so", sau mới chặt đến miếng phao câu. Thình lình thấy hắn đứng lên ngoảnh mặt vào phía mấy ông đàn anh:
– Thưa trình các cụ, hôm nay sỏ gà pha mấy? Phao gà pha mấy?
Một ông trong bọn nhìn qua vào đám nhiều tuổi, hình như để đếm đầu người, rồi đáp:
– Ở đây chỉ có năm cụ và bốn ông đàn anh. Vậy thì sỏ gà pha năm, phao gà pha bốn.
Hắn lại ngồi xuống chỗ cũ. Trước hết ghè dao vào giữa hai miếng mỏ gà, để cắt cái sỏ ra làm hai mảnh. Rồi hắn úp cả đôi mảnh xuống thớt, chặt mảnh mỏ dưới làm đội và mảnh mỏ trên làm ba.
Tôi không biết những miếng thịt này có đều nhau không, chỉ thấy tất cả năm miếng, miếng nào cũng có dính một tí mỏ.
Tiếp đến cuộc pha phao câu. Công việc tuy không lấy gì làm khó, nhưng hắn làm cũng vẫn có vẻ khác người. Bốn miếng phao gà, miếng nào cũng có đầu bầu, đầu nhọn, chẳng khác một cái chũm cau chẻ tư.
Sỏ gà bày vào một đĩa, phao gà bày vào một đĩa. Hắn lại cắt lấy hai chiếc cánh gà, chặt luôn làm hơn mười miếng và bày với đôi chân gà làm một đĩa nữa.
Bây giờ thì đến mình gà. Hắn lách lưỡi dao vào sườn con gà, cắt riêng hai cái tỏi gà bỏ ra góc mâm. Rồi, lật ngửa con gà lên thớt, hắn ướm dao vào giữa xương sống và giơ dao chém luôn hai nhát theo chiều dài cái xương ấy. Con gà bị tách ra làm hai mảnh. Mỗi mảnh đều có một nửa xương sống. Một tay giữ thỏi thịt gà, một tay cầm con dao phay, hắn băm lia lịa như không chú ý gì hết. Nhưng mà hình như tay hắn đã có cỡ sẵn, cho nên con dao của hắn giơ lên, không nhát nào cao, không nhất nào thấp. Mười nhát như một, nó chỉ lên khỏi mặt thớt độ một gang, và cách cái ngón tay hắn độ vài ba phân. Tiếng dao công cốc đụng vào mặt tác, âm thanh khi băm thớt, nhịp nhàng như tiếng mõ của phường chèo, không Các chi tiết miêu tả động lúc nào mau, cũng không có lúc nào thưa. Mỗi tiếng cốc là một miếng thịt gà băng ra. Miếng nào như miếng ấy, đứt suốt từ xương đến da, không còn dính nhau mảy may.
Trông những miếng thịt gà của hắn bốc ra góc mâm, mới đẹp làm sao! Không giập, không nát, không bong da, nó giống như tập cánh con bươm bướm. Nếu để trước môi mà thổi, có thể bay được mười thước.
Băm xong con gà, hắn móc túi lấy một nắm tăm. Mỗi miếng thịt gà, hắn xâu cho một cái tăm vào giữa. Rồi hắn cắm vào mâm xôi. Cứ mỗi tảng xôi là bốn xâu thịt. Thịt vừa hết, xôi cũng vừa kháp. Té ra cái mình con gà, hắn đã băm được chín mươi hai miếng.
Lăng Vân cười và hỏi tôi:
- Anh đã chịu nghề băm thịt gà của ông Mới làng tôi chưa? Nhà hắn ba đời làm cái nghề ấy, thì mới thạo được như thế. Người khác dễ ai làm nổi!
Tôi chịu lắm. Và tôi muốn dâng cho ông Mới ấy cái chức nghệ sĩ.
(Ngô Tất Tố, Việc làng, NXB Hội Nhà văn Công ti cổ phần Văn hoá và Truyền thông Nhã Nam, Hà Nội, 2014, tr. 37 – 44)
V. Văn mẫu
Đề: Viết đoạn văn (khoảng 150 câu) trình bày cảm nhận về một khía cạnh nội dung hoặc nghệ thuật của văn bản Nghệ thuật băm thịt gà mà bạn tâm đắc.
"Nghệ thuật băm thịt gà" của nhà văn Ngô Tất Tố là một tác phẩm phóng sự xuất sắc, ghi dấu ấn bởi không chỉ nội dung phản ánh hiện thực xã hội sâu sắc mà còn bởi nghệ thuật miêu tả tài hoa của tác giả. Trong số các yếu tố nghệ thuật, tôi đặc biệt tâm đắc với nghệ thuật miêu tả của Ngô Tất Tố, được thể hiện qua những chi tiết miêu tả tinh tế, sinh động, cùng giọng điệu châm biếm, mỉa mai sắc bén. Tác giả đã sử dụng những chi tiết miêu tả tỉ mỉ, cụ thể để khắc họa rõ nét khung cảnh "chứa hàng xóm", từ cảnh sân đình rộng thênh thang, bày biện la liệt mâm cỗ thịnh soạn, đến hình ảnh những người "nghệ nhân" băm thịt gà thoăn thoắt, mồ hôi nhễ nhại. Những chi tiết miêu tả này không chỉ giúp người đọc hình dung được khung cảnh một cách sống động mà còn thể hiện sự xa hoa, phung phí của tầng lớp thống trị trong xã hội cũ. Bên cạnh đó, tác giả còn sử dụng nghệ thuật miêu tả đối lập để làm nổi bật sự bất công, thối nát của xã hội phong kiến. Hình ảnh những mâm cỗ thịnh soạn, sang trọng được bày biện cạnh những người nông dân lam lũ, đói khổ tạo nên sự đối lập gay gắt, khiến người đọc cảm thấy xót xa, chua xót. Đặc biệt ấn tượng trong văn bản là giọng điệu châm biếm, mỉa mai sắc bén của tác giả. Ngô Tất Tố đã sử dụng những từ ngữ, hình ảnh châm biếm để mỉa mai lối sống xa hoa, phung phí của tầng lớp thống trị. Ví dụ như, tác giả gọi việc băm thịt gà là "nghệ thuật", gọi những người băm thịt gà là "nghệ nhân",... Qua đó, tác giả thể hiện thái độ căm phẫn, khinh bỉ đối với tầng lớp thống trị và lòng thương cảm sâu sắc cho người nông dân. Nhờ có nghệ thuật miêu tả tài hoa, "Nghệ thuật băm thịt gà" đã trở thành một tác phẩm phóng sự xuất sắc, có giá trị hiện thực và giá trị nghệ thuật cao. Văn bản không chỉ giúp người đọc hình dung được một cách sống động khung cảnh "chứa hàng xóm" mà còn thể hiện sự phẫn nộ của tác giả trước hiện thực xã hội bất công, thối nát và khơi gợi lòng trân trọng, cảm thông đối với người nông dân.